Log in

View Full Version : Những ǵ c̣n mất tại Biển Đông (II)?


saigon75
07-30-2012, 13:51
Theo Tiến sĩ Michael Wesley thuộc Học viện Chính sách Quốc tế Lowy, các giải pháp hiện nay như đàm phán đa phương và luật quốc tế lại vô h́nh trở thành một phần của rắc rối xung quanh tranh căi tại Biển Đông.

<table style="width: 400px" class="wysiwyg_dashes" align="center"><tbody><tr class="wysiwyg_dashes_tr" valign="top"><td class="wysiwyg_dashes_td">http://imgs.vietnamnet.vn/Images/2012/07/30/11/20120730111952_us-philippines-military-exercises.jpg</td></tr><tr class="wysiwyg_dashes_tr" valign="top"><td class="wysiwyg_dashes_td">Mỹ và Philippines tập trận tại biển Đông</td></tr></tbody></table>Biển Đông trở thành điểm bùng phát tại Thái B́nh Dương nơi mà xung đột hầu như có thể nổ ra chỉ với một tính toán sai lầm. Đây là khu vực hàng hải tấp nập nhưng lại xảy ra tranh căi giữa các lực lượng hàng hải thiếu kinh nghiệm và học thuyết hải quân chưa phát triển, các nguyên tắc quản lư xung đột hàng hải chưa được thiết lập cũng chưa được thông qua.

Có bốn lư do giải thích việc tại sao t́m giải pháp cho tranh căi tại Biển Đông lại trở thành ưu tiên hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách chiến lược. Trong phần trước, Tiến sĩ Wesley đă phân tích về những ǵ c̣n mất tại Biển Đông (http://vietnamnet.vn/vn/quoc-te/82389/nhung-gi-con-mat-tai-bien-dong-.html) xét từ phía Trung Quốc, và nội bộ các quốc gia ASEAN. Dưới đây là các phân tích tiếp theo của ông xét từ phía Mỹ và từ chính các vướng mắc trong các giải pháp hiện nay đang được áp dụng.

3. Đối với Mỹ, đó là về uy tín

Biển Đông là nơi mà các lo ngại của các quốc gia Đông Nam Á về Trung Quốc chồng lên lo ngại của Mỹ về việc Trung Quốc xây dựng lực lượng hải quân. Trong ṿng hai năm qua, Mỹ đă thể hiện mối quan tâm và quan điểm về những ǵ từng là tranh căi căi giữa Trung Quốc và các quốc gia tuyên bố chủ quyền khác. Điều này cũng đồng nghĩa là hai lớp chồng lấn này đều đang có hiệu lực: một thế giằng co về cơ bản giữa các bên tuyên bố chủ quyền, và một cuộc giao tranh chiến lược giữa Bắc Kinh và Washington.

Đối với Mỹ th́ điều đang bị đe dọa ở Biển Đông chính là sự hiện diện mang tính chất sống c̣n của họ tại tây Thái B́nh Dương. Bắc Kinh phản đối việc Hải quân Mỹ ra vào khu vực Biển Đông. Trung Quốc tuyên bố rằng họ sẽ tôn trọng quyền tự do qua lại của các tàu và máy bay ở khu vực này, với điều kiện là họ đang trên đường tới một nơi khác, và không tiến hành tập trận quân sự hoặc thu thập thông tin t́nh báo hoặc dữ liệu quân sự quan trọng.

Washington rất cứng rắn cho rằng tuyến đường thủy tại Biển Đông thuộc về vùng biển quốc tế, và do đó phải là nơi tự do đi lại, và trong luật quốc tế cho phép tiến hành tập trận quân sự và thu thập thông tin t́nh báo và dữ liệu quân sự hữu ích. Nếu như Washington không thể đi lại ở Biển Đông được nữa, họ sẽ mất đi vị thế chắc chắn quan trọng tại tây Thái B́nh Dương.

Trên thực tế th́ Biển Đông đă buộc tuyên bố chủ quyền bành trướng của Trung Quốc đối chọi với tuyên bố có tính bao quát của Mỹ rằng tự do hàng hải cho phép thu thập thông tin và dữ liệu quân sự. Tuyên bố của Mỹ lại bị Malaysia, Indonesia, và Ấn Độ phản đối ở các vùng biển khác, dù cho các quốc gia khác trong khu vực ủng hộ. Trung Quốc đă cáo buộc Mỹ sử dụng ‘chiêu bài’ tự do hàng hải, và cho rằng trong đó ẩn chứa âm mưu sử dụng vấn đề này để xây dựng một liên minh nhằm chống lại Trung Quốc.

Đối với các quốc gia Đông Nam Á tranh căi với tuyên bố của Trung Quốc ở Biển Đông, sự hiện diện và mối quan tâm của Mỹ đối với vấn đề này chính là một điều kiện tiên quyết cho lập trường của họ. Washington hiểu rơ rằng họ cần được coi là một đồng minh đáng tin cậy và đối tác trong khu vực Thái B́nh Dương. Họ nhận ra rằng phản ứng hời hợt của Washington đối với cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (năm 1997) đă làm xói ṃn vị thế của họ tại châu Á và đặt Trung Quốc vào hướng xây dựng và củng cố sức mạnh mềm trong khu vực.

Đối với nỗi lo ngại của các quốc gia Đông Nam Á rằng dự định hoặc ư chí của Mỹ ở lại trong khu vực này sẽ dần mai một, th́ việc đặt Biển Đông vào bàn nghị sự vẫn có tác dụng. Nhưng Washington không thể đưa cho các đồng minh và đối tác của ḿnh một tấm séc bảo đảm để rồi họ đối đầu, và thậm chí khiêu khích Trung Quốc rồi hài ḷng với giả định rằng Mỹ sẽ sẵn sàng hậu thuẫn họ. Và một số quốc gia Đông Nam Á đang quan sát động thái của Mỹ rất cẩn trọng và đầy mẫn cảm, rằng bất kỳ sự nhượng bộ nào cũng có thể là dấu hiệu cho thấy Mỹ chấp thuận các tuyên bố của Trung Quốc tại Biển Đông.

4. Giải pháp là một phần của rắc rối

Dàn xếp đa phương hoặc luật quốc tế luôn là phương tiện được sử dụng nhiều nhất để giải quyết các tranh chấp kiểu này – nhưng riêng tại Biển Đông th́ các biện pháp này lại làm cho t́nh h́nh trầm trọng thêm. Bắc Kinh từ chối thảo luận về tranh căi này trong bất kỳ bối cảnh đa phương nào, v́ lo sợ rằng điều đó sẽ khiến h́nh thành nên một mặt trận chống lại Trung Quốc.

Tuy nhiên, các quốc gia tuyên bố chủ quyền ở Đông Nam Á lại kiên quyết rằng họ phải đương đầu với Trung Quốc khi là một liên minh với nhau, và Manila đặc biệt quả quyết rằng ASEAN phải đàm phán với một lập trường chung trước khi thảo luận với Trung Quốc. Kết quả là một t́nh thế giằng co: Philippines kiên quyết rằng ASEAN phải có một quan điểm chung trước khi đàm phán với Trung Quốc, c̣n Trung Quốc sẽ chỉ đàm phán nếu ASEAN từ bỏ việc t́m kiếm một quan điểm chung.

Luật quốc tế cũng khiến cho tranh căi dữ dội thêm. Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc không thừa nhận các tuyên bố của Trung Quốc dựa vào cái gọi là lịch sử, và do đó không thể coi là một cơ sở cho việc đưa ra quyết định cuối cùng cho tranh căi này. Tệ hơn nữa là v́ luật quốc tế dựa trên các tuyên bố lâu dài và toàn vẹn làm nền tảng cho quyết định phân xử, trong khi không có bất kỳ bên nào trong tranh căi tại Biển Đông lại để cho các tuyên bố của bên khác được thông qua một cách êm xuôi, trong trường hợp điều này sẽ được coi như một bằng chứng cho việc họ từ bỏ tuyên bố chủ quyền của ḿnh. Kết quả sẽ là màn gơ trống liên hồi trong các cuộc đụng độ về triển vọng tài nguyên, đánh cá, việc chiếm đóng các đảo nhỏ và hàng hải.

Những ǵ đang lâm nguy tại Biển Đông thật sự nghiêm trọng. Các động lực trong vấn đề này sẽ ảnh hưởng lên nhân cách quốc tế đang phát triển của Trung Quốc, phản ứng của các quốc gia láng giềng đối với quyền lực ngày càng gia tăng của Bắc Kinh, và vị thế lâu dài của Mỹ tại tây Thái B́nh Dương. Với tăng trưởng thương mại và đầu tư quanh duyên hải Indo- Thái B́nh Dương tại châu Á, Biển Đông sẽ trở thành một khu vực thương mại và hàng hải sầm uất hơn bao giờ hết. Lúc này không có bất kỳ phương án kiểm soát và giải quyết cho cuộc ganh đua này có cơ hội phát huy tác dụng, và do đó phải t́m ra các sáng kiến mới.



Lê Thu (theo LIFIP)