Hanna
10-07-2012, 05:32
TS Nguyễn Quang A-Giải pháp cho các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước là chúng phải thuộc quyền quản lư của một Công ty quản lư tài sản quốc gia, thực hiện quản lư DNNN như một ông chủ tư nhân, Công ty này hoạt động theo một luật riêng do QH đưa ra, có trách nhiệm giải tŕnh trước CP, trước QH và quan trọng nhất là trước công chúng. TS Nguyễn Quang A trao đổi với Lao động xung quanh việc 2 Tập đoàn VNIC và HUD kết thúc mô h́nh tập đoàn.
PV: Tập đoàn Công nghiệp xây dựng Việt Nam (VNIC) và Tập đoàn Phát triển nhà và đô thị Việt Nam (HUD)đă kết thúc hoạt động theo mô h́nh tập đoàn kinh tế. Thưa TS, đây là một biểu hiện cho thấy sự thất bại của mô h́nh tập đoàn kinh tế? Hay đây là vấn đề quản lư tập đoàn?
TS Nguyễn Quang A: Đây là thất bại của mô h́nh tập đoàn (TĐKT), nói trắng ra là sự thất bại mô h́nh Thủ tướng chủ quản, để trở lại mô h́nh Bộ chủ quản dù cả 2 cơ chế đều dở cả. Từ năm 2006, tôi đă có ư kiến đặt vấn đề sự hợp pháp hay không của mô h́nh, và dự đoán thế nào mô h́nh này cũng thất bại. Tất nhiên, sự thất bại của HUD và VNIC có nguyên nhân từ việc quản lư, nguyên nhân này cũng lớn nhưng không phải là nguyên nhân chính.
PV: Thiếu sự cạnh tranh phải chăng là nguyên nhân chính cho sự thất bại của VNIC, của HUD nói riêng và mô h́nh DNNN nói chung, thưa TS?
TS Nguyễn Quang A: Tập đoàn là việc học tập theo kiểu sao chép các mô h́nh TĐKT từ những năm 60 thế kỷ trước của Nhật Bản và Hàn Quốc. Tuy nhiên, điều khác biệt cơ bản là TĐKT Nhật, Hàn đều là những công ty tư nhân phải cạnh tranh. Yếu tố tư nhân khiến các TĐKT Nhật, Hàn có động lực về lợi nhuận, động lực phát triển rất lành mạnh. Và điều quan trọng là chúng phải cạnh tranh, cả trong và ngoài nước. TĐKT Việt Nam th́ không những không phải cạnh tranh mà c̣n “được” ràng buộc bởi ngân sách mềm. Thiếu vốn th́ được cấp vốn. Nợ nần th́ được khoanh, giăn nợ. Thua lỗ th́ được “tái cơ cấu”. Sai th́ được sửa. Điều này tạo cho TĐKT tư tưởng, suy nghĩ luôn có thể nhờ vả. Nói h́nh tượng, nó giống với đứa con hư của một nhà trọc phú.
Về lư thuyết, DN sẽ không hiệu quả khi không phải cạnh tranh và có ràng buộc ngân sách mềm. Lư thuyết này người ta đă viết thành sách từ 50 năm nay và cũng được kiểm chứng cả nửa thế kỷ rồi.
Tất nhiên, ngay cả khi có cạnh tranh lành lạnh, bị ràng buộc ngân sách cứng th́ cũng chưa đủ cho đảm bảo cho DNNN hoạt động hiệu quả. Chúng vẫn có thể thất bại v́ nếu vấn đề quản lư kém. Nếu DN không những ít bị áp lực cạnh tranh, có ràng buộc ngân sách mềm và cùng với quản lư kém th́ thất bại là dễ hiểu (có DNNN phải cạnh tranh và có ràng buộc ngân sách cứng có thể hoạt động hiệu quả, thí dụ điện thoại di động).
Về mặt thực tế, từ 10-15 năm trước người ta phản đối mạnh cơ chế bộ chủ quản, Bộ vừa là chủ sở hữu, vừa quản lư ngành dọc. Đây là cơ chế không hay v́ tất cả quan chức đi làm kinh tế trong khi động lực của họ là động lực chính trị chứ không phải động lực kinh tế. Bộ chủ quản tức cơ quan hành pháp lại đi làm kinh tế, nên hỏng từ gốc. Nhưng thà để TĐKT chuyển về mô h́nh bộ chủ quản, v́ dẫu sao chúng c̣n chịu sự quản lư của Bộ, hơn là mô h́nh TĐKT khi chức năng giám sát kiểm tra quản lư của các Bộ khác bị vô hiệu hóa.
PV: Thưa TS, vấn đề tái cơ cấu DNNN đang được bàn thảo tại Hội nghị TƯ 6, DNNN cần quản lư thế nào để chúng thực sự mang lại hiệu quả?
TS Nguyễn Quang A: Muốn giải quyết cần có một Công ty quản lư tài sản quốc gia, thực hiện quản lư DNNN như một ông chủ tư nhân, hoạt động theo một luật riêng do QH đưa ra, có trách nhiệm giải tŕnh trước CP, trước QH và quan trọng nhất là trước công chúng. Tại sao nhà nước phải nắm các DN xây dựng, xi măng, dệt may? Theo tôi, những ǵ Nhà nước không cần phải nắm th́ cần tư nhân hóa một cách triệt để. Bởi tư nhân hóa không có nghĩa là giao, mà là bán một cách ṣng phẳng cho tư nhân, đưa tiền vào kho bạc để NN trả nợ, đầu tư hạ tầng, phát triển giáo dục, y tế. Những ǵ Nhà nước nắm th́ cũng phải buộc các DNNN thực hiện như DN tư nhân. Ông chủ làm đúng chức năng ông chủ. Cơ bản nhất là cơ chế để DNNN phải cạnh tranh, thậm chí thôn tính nhau, bởi chỉ có cạnh tranh mới có thể tạo ra động lực và phải buộc chúng đối mặt với ràng buộc ngân sách cứng.
PV: Phó chủ nhiệm Văn pḥng Chính phủ Phạm Viết Muôn hôm qua đă đánh giá: Việc thí điểm h́nh thành 2 tập đoàn này “khi thực tiễn chưa đặt ra yêu cầu, đ̣i hỏi một mô h́nh tổ chức như vậy”. Trong bối cảnh “Quan hệ sản xuất đi trước một bước nên việc thí điểm 2 tập đoàn này không thành công? Vấn đề là tính thời điểm, thưa ông?
TS Nguyễn Quang A: Đây là một cách nh́n khó có thể thấy rơ được nguyên nhân thất bại của mô h́nh nói chung, chứ không phải chỉ 2 TĐKT này. Việc phát triển thành TĐKT là quá tŕnh phát triển tự nhiên của DN, quá tŕnh này phải gắn kèm với phát triển quy mô và đào tạo nhân lực, chứ không thể Nhà nước muốn ép thế nào cũng được. Muốn gọi là ǵ th́ gọi, nhưng đó là việc của DN chứ không phải của Chính phủ.
PV: Phát biểu trước QH, ĐBQH Lê Thị Nga đánh giá: Ngay từ đầu chúng ta đă thí điểm mô h́nh TĐKT trên phạm vi rất rộng, tập trung vào những lĩnh vực trọng yếu, xương sống của nền kinh tế. Ngay cả khi Vinashin bắt đầu đổ vỡ, ngay cả khi chưa có tổng kết thí điểm, lại có thêm 4 tập đoàn mới được thành lập. Phải chăng Chính phủ đă quá nóng vội, thưa TS?
TS Nguyễn Quang A: Nếu xét thêm quan điểm kinh tế- chính trị học điều này không khó lư giải. Chính phủ muốn tạo ra các quả đấm, muốn nắm được nhiều quyền lực kinh tế càng tốt. Về phía DN, họ cũng muốn thuộc quyền Thủ tướng để có tiếng nói, có nguồn lực…Vấn đề đáng lẽ phải có sự kiềm chế, giám sát, kiểm soát và cân bằng chứ không thể để quyền lực kinh tế tập trung như vậy. 13 TĐKT hiện nay chiếm bao nhiêu nguồn lực quốc gia, bao nhiêu tín dụng, bao nhiêu đất đai. Chắc ½ của DNNN rồi.
PV: Thưa TS, mô h́nh Ban KT TƯ đang được xúc tiến tài lập, liệu đây có phải là một kênh kiểm soát hữu hiệu?
TS Nguyễn Quang A: Đây là một mô h́nh “đặc thù Việt Nam” dù trên thế giới, đảng nào cũng có bộ phận nghiên cứu kinh tế. Theo tôi, nếu lập lại mô h́nh này và nó hoạt động tốt sẽ tạo ra được một kênh kiểm tra, giám sát, và như thế sẽ tốt hơn là không có nó. Nhưng nếu chỉ dừng ở mức độ là một Ban của Đảng, không có quyền kiểm tra, giám sát, đề xuất th́ việc thành lập cũng vô nghĩa.
Xin trân trọng cảm ơn TS Nguyễn Quang A
Đào Tuấn (thực hiện)
Anhbasam
PV: Tập đoàn Công nghiệp xây dựng Việt Nam (VNIC) và Tập đoàn Phát triển nhà và đô thị Việt Nam (HUD)đă kết thúc hoạt động theo mô h́nh tập đoàn kinh tế. Thưa TS, đây là một biểu hiện cho thấy sự thất bại của mô h́nh tập đoàn kinh tế? Hay đây là vấn đề quản lư tập đoàn?
TS Nguyễn Quang A: Đây là thất bại của mô h́nh tập đoàn (TĐKT), nói trắng ra là sự thất bại mô h́nh Thủ tướng chủ quản, để trở lại mô h́nh Bộ chủ quản dù cả 2 cơ chế đều dở cả. Từ năm 2006, tôi đă có ư kiến đặt vấn đề sự hợp pháp hay không của mô h́nh, và dự đoán thế nào mô h́nh này cũng thất bại. Tất nhiên, sự thất bại của HUD và VNIC có nguyên nhân từ việc quản lư, nguyên nhân này cũng lớn nhưng không phải là nguyên nhân chính.
PV: Thiếu sự cạnh tranh phải chăng là nguyên nhân chính cho sự thất bại của VNIC, của HUD nói riêng và mô h́nh DNNN nói chung, thưa TS?
TS Nguyễn Quang A: Tập đoàn là việc học tập theo kiểu sao chép các mô h́nh TĐKT từ những năm 60 thế kỷ trước của Nhật Bản và Hàn Quốc. Tuy nhiên, điều khác biệt cơ bản là TĐKT Nhật, Hàn đều là những công ty tư nhân phải cạnh tranh. Yếu tố tư nhân khiến các TĐKT Nhật, Hàn có động lực về lợi nhuận, động lực phát triển rất lành mạnh. Và điều quan trọng là chúng phải cạnh tranh, cả trong và ngoài nước. TĐKT Việt Nam th́ không những không phải cạnh tranh mà c̣n “được” ràng buộc bởi ngân sách mềm. Thiếu vốn th́ được cấp vốn. Nợ nần th́ được khoanh, giăn nợ. Thua lỗ th́ được “tái cơ cấu”. Sai th́ được sửa. Điều này tạo cho TĐKT tư tưởng, suy nghĩ luôn có thể nhờ vả. Nói h́nh tượng, nó giống với đứa con hư của một nhà trọc phú.
Về lư thuyết, DN sẽ không hiệu quả khi không phải cạnh tranh và có ràng buộc ngân sách mềm. Lư thuyết này người ta đă viết thành sách từ 50 năm nay và cũng được kiểm chứng cả nửa thế kỷ rồi.
Tất nhiên, ngay cả khi có cạnh tranh lành lạnh, bị ràng buộc ngân sách cứng th́ cũng chưa đủ cho đảm bảo cho DNNN hoạt động hiệu quả. Chúng vẫn có thể thất bại v́ nếu vấn đề quản lư kém. Nếu DN không những ít bị áp lực cạnh tranh, có ràng buộc ngân sách mềm và cùng với quản lư kém th́ thất bại là dễ hiểu (có DNNN phải cạnh tranh và có ràng buộc ngân sách cứng có thể hoạt động hiệu quả, thí dụ điện thoại di động).
Về mặt thực tế, từ 10-15 năm trước người ta phản đối mạnh cơ chế bộ chủ quản, Bộ vừa là chủ sở hữu, vừa quản lư ngành dọc. Đây là cơ chế không hay v́ tất cả quan chức đi làm kinh tế trong khi động lực của họ là động lực chính trị chứ không phải động lực kinh tế. Bộ chủ quản tức cơ quan hành pháp lại đi làm kinh tế, nên hỏng từ gốc. Nhưng thà để TĐKT chuyển về mô h́nh bộ chủ quản, v́ dẫu sao chúng c̣n chịu sự quản lư của Bộ, hơn là mô h́nh TĐKT khi chức năng giám sát kiểm tra quản lư của các Bộ khác bị vô hiệu hóa.
PV: Thưa TS, vấn đề tái cơ cấu DNNN đang được bàn thảo tại Hội nghị TƯ 6, DNNN cần quản lư thế nào để chúng thực sự mang lại hiệu quả?
TS Nguyễn Quang A: Muốn giải quyết cần có một Công ty quản lư tài sản quốc gia, thực hiện quản lư DNNN như một ông chủ tư nhân, hoạt động theo một luật riêng do QH đưa ra, có trách nhiệm giải tŕnh trước CP, trước QH và quan trọng nhất là trước công chúng. Tại sao nhà nước phải nắm các DN xây dựng, xi măng, dệt may? Theo tôi, những ǵ Nhà nước không cần phải nắm th́ cần tư nhân hóa một cách triệt để. Bởi tư nhân hóa không có nghĩa là giao, mà là bán một cách ṣng phẳng cho tư nhân, đưa tiền vào kho bạc để NN trả nợ, đầu tư hạ tầng, phát triển giáo dục, y tế. Những ǵ Nhà nước nắm th́ cũng phải buộc các DNNN thực hiện như DN tư nhân. Ông chủ làm đúng chức năng ông chủ. Cơ bản nhất là cơ chế để DNNN phải cạnh tranh, thậm chí thôn tính nhau, bởi chỉ có cạnh tranh mới có thể tạo ra động lực và phải buộc chúng đối mặt với ràng buộc ngân sách cứng.
PV: Phó chủ nhiệm Văn pḥng Chính phủ Phạm Viết Muôn hôm qua đă đánh giá: Việc thí điểm h́nh thành 2 tập đoàn này “khi thực tiễn chưa đặt ra yêu cầu, đ̣i hỏi một mô h́nh tổ chức như vậy”. Trong bối cảnh “Quan hệ sản xuất đi trước một bước nên việc thí điểm 2 tập đoàn này không thành công? Vấn đề là tính thời điểm, thưa ông?
TS Nguyễn Quang A: Đây là một cách nh́n khó có thể thấy rơ được nguyên nhân thất bại của mô h́nh nói chung, chứ không phải chỉ 2 TĐKT này. Việc phát triển thành TĐKT là quá tŕnh phát triển tự nhiên của DN, quá tŕnh này phải gắn kèm với phát triển quy mô và đào tạo nhân lực, chứ không thể Nhà nước muốn ép thế nào cũng được. Muốn gọi là ǵ th́ gọi, nhưng đó là việc của DN chứ không phải của Chính phủ.
PV: Phát biểu trước QH, ĐBQH Lê Thị Nga đánh giá: Ngay từ đầu chúng ta đă thí điểm mô h́nh TĐKT trên phạm vi rất rộng, tập trung vào những lĩnh vực trọng yếu, xương sống của nền kinh tế. Ngay cả khi Vinashin bắt đầu đổ vỡ, ngay cả khi chưa có tổng kết thí điểm, lại có thêm 4 tập đoàn mới được thành lập. Phải chăng Chính phủ đă quá nóng vội, thưa TS?
TS Nguyễn Quang A: Nếu xét thêm quan điểm kinh tế- chính trị học điều này không khó lư giải. Chính phủ muốn tạo ra các quả đấm, muốn nắm được nhiều quyền lực kinh tế càng tốt. Về phía DN, họ cũng muốn thuộc quyền Thủ tướng để có tiếng nói, có nguồn lực…Vấn đề đáng lẽ phải có sự kiềm chế, giám sát, kiểm soát và cân bằng chứ không thể để quyền lực kinh tế tập trung như vậy. 13 TĐKT hiện nay chiếm bao nhiêu nguồn lực quốc gia, bao nhiêu tín dụng, bao nhiêu đất đai. Chắc ½ của DNNN rồi.
PV: Thưa TS, mô h́nh Ban KT TƯ đang được xúc tiến tài lập, liệu đây có phải là một kênh kiểm soát hữu hiệu?
TS Nguyễn Quang A: Đây là một mô h́nh “đặc thù Việt Nam” dù trên thế giới, đảng nào cũng có bộ phận nghiên cứu kinh tế. Theo tôi, nếu lập lại mô h́nh này và nó hoạt động tốt sẽ tạo ra được một kênh kiểm tra, giám sát, và như thế sẽ tốt hơn là không có nó. Nhưng nếu chỉ dừng ở mức độ là một Ban của Đảng, không có quyền kiểm tra, giám sát, đề xuất th́ việc thành lập cũng vô nghĩa.
Xin trân trọng cảm ơn TS Nguyễn Quang A
Đào Tuấn (thực hiện)
Anhbasam