woaini1982
10-16-2012, 10:04
Chiều 15/10, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng đă bế mạc sau 15 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc. Phát biểu bế mạc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rơ: Thành công của Hội nghị có phần đóng góp rất quan trọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân cả nước. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu:
<table style="MARGIN: 5px" align="center" border="0" cellpadding="3" cellspacing="0" width="1"> <tbody> <tr> <td class="cms_img">http://media12.baodatviet.v n:/2012/10/15/C144077_trung-uong-dang-011012-2.jpg</td></tr> <tr> <td class="cms_imgCaption">Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng</td></tr></tbody></table>
“Thưa các đồng chí Trung ương,
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,
Sau 15 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương đă hoàn thành toàn bộ nội dung chương tŕnh đề ra theo đúng kế hoạch. Các đồng chí Uỷ viên Trung ương và các đồng chí tham dự Hội nghị đă thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, phát huy dân chủ, trí tuệ, thẳng thắn thảo luận, đóng góp nhiều ư kiến tâm huyết, sâu sắc vào các tờ tŕnh, báo cáo, đề án. Bộ Chính trị đă tiếp thu tối đa và giải tŕnh những vấn đề c̣n có ư kiến khác nhau; Ban Chấp hành Trung ương đă thống nhất thông qua một số Nghị quyết và Kết luận của Hội nghị. Trước khi bế mạc Hội nghị, thay mặt Bộ Chính trị, tôi xin phát biểu, làm rơ thêm một số vấn đề và khái quát lại những kết quả quan trọng đă đạt được.
1- Về t́nh h́nh kinh tế - xă hội năm 2012 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2013
Hội nghị đă thống nhất nhận định: Trong bối cảnh t́nh h́nh có nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế - xă hội 9 tháng đầu năm có những chuyển biến nhất định. Kinh tế vĩ mô ổn định hơn; lạm phát được kiềm chế, chỉ số giá tiêu dùng giảm; thanh khoản của hệ thống ngân hàng được cải thiện; tỉ giá cơ bản ổn định, niềm tin vào giá trị tiền đồng Việt Nam được củng cố. Sản xuất công nghiệp có dấu hiệu phục hồi; sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển ổn định; du lịch, dịch vụ tăng khá. Các đề án tái cấu trúc nền kinh tế, thực hiện 3 đột phá chiến lược được chú trọng xây dựng và bước đầu triển khai thực hiện. An sinh xă hội và phúc lợi xă hội cơ bản được bảo đảm. Lĩnh vực y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ có bước tiến bộ. Quốc pḥng, an ninh được tăng cường; chính trị - xă hội ổn định.
Tuy nhiên, áp lực lạm phát và bất ổn vĩ mô vẫn c̣n lớn. Thị trường tiền tệ diễn biến phức tạp; nợ xấu ngân hàng ở mức cao; tăng trưởng tín dụng thấp; hoạt động của một số ngân hàng thương mại cổ phần thiếu minh bạch, c̣n tiềm ẩn nhiều rủi ro; lăi suất ngân hàng vẫn c̣n quá cao so với hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán vẫn chưa được cải thiện; thị trường vàng c̣n nhiều biến động. Các đề án tái cấu trúc đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng thương mại c̣n có nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện. Tăng trưởng GDP và tổng vốn đầu tư xă hội không đạt được kế hoạch đề ra; số doanh nghiệp phải giải thể, ngừng hoặc thu hẹp hoạt động vẫn ở mức cao; việc làm và thu nhập của người lao động khó khăn. Trật tự, an toàn xă hội và các tệ nạn xă hội, tội phạm, tham nhũng, tiêu cực c̣n nhiều phức tạp,…
Dự báo thời gian tới, kinh tế thế giới nói riêng và t́nh h́nh quốc tế nói chung c̣n nhiều diễn biến khó lường. V́ vậy, trong những tháng c̣n lại của năm 2012 và năm 2013, đ̣i hỏi phải tiếp tục tăng cường lành mạnh hoá, ổn định kinh tế vĩ mô; đặc biệt chú trọng ổn định, lành mạnh hoá, bảo đảm an toàn của hệ thống tài chính - ngân hàng; thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lăng phí trong đầu tư và chi tiêu công. Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; tập trung giải quyết t́nh trạng nợ xấu, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; khuyến khích đầu tư trong nước và đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài; ưu tiên đầu tư phát triển nông nghiệp và du lịch. Đồng thời đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô h́nh tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; bảo đảm ổn định chính trị - xă hội; tạo nền tảng phát triển vững chắc hơn cho những năm tiếp theo. Quá tŕnh tái cấu trúc đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và đặc biệt là hệ thống ngân hàng thương mại cần phải được đặt trong tổng thể và gắn kết chặt chẽ với quá tŕnh cơ cấu lại nền kinh tế, tái cấu trúc đầu tư và tái cấu trúc thị trường tài chính nói chung.
2- Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước
Trung ương tiếp tục khẳng định vai tṛ ṇng cốt và những kết quả quan trọng đă đạt được của doanh nghiệp nhà nước, đồng thời chỉ ra những hạn chế, yếu kém c̣n tồn tại; trên cơ sở đó đề ra chủ trương, chính sách, biện pháp khắc phục.
Trung ương yêu cầu phải tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XI và các nghị quyết, kết luận của Trung ương về vấn đề này phù hợp với bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xă hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng đi vào chiều sâu. Kiên quyết điều chỉnh để doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lư, đi đầu trong đổi mới, ứng dụng khoa học - công nghệ, giữ vững định hướng xă hội chủ nghĩa của nền kinh tế, tập trung vào những khâu, công đoạn then chốt của bốn lĩnh vực chính, bao gồm: Công nghiệp quốc pḥng; công nghiệp độc quyền tự nhiên; lĩnh vực cung cấp hàng hóa dịch vụ công thiết yếu; và một số ngành công nghiệp nền tảng, công nghệ cao có sức lan tỏa lớn. Sớm chấm dứt t́nh trạng đầu tư dàn trải ngoài ngành và hoàn thành việc thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có dưới 50% vốn nhà nước.
Khẩn trương bổ sung, hoàn thiện thể chế quản lư doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước phải được tổ chức lại theo mô h́nh công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn phù hợp với Luật Doanh nghiệp; áp dụng chế độ quản trị tiên tiến phù hợp với kinh tế thị trường và thực hiện chế độ kiểm toán, kiểm tra, giám sát chặt chẽ, công khai, minh bạch trên cơ sở mở rộng diện niêm yết trên thị trường chứng khoán. Chức năng điều tiết vĩ mô và bảo đảm an sinh xă hội của doanh nghiệp phải được đổi mới và thay thế bằng cơ chế đặt hàng của Nhà nước, được hạch toán theo cơ chế thị trường. Các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước lớn phải được cấu trúc lại theo mô h́nh công ty mẹ - công ty con; được kiểm toán hằng năm. Kết thúc giai đoạn thí điểm h́nh thành tập đoàn kinh tế nhà nước; xem xét chuyển một số tập đoàn kinh tế nhà nước thành tổng công ty. Đồng thời với việc mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp, phải tăng cường vai tṛ và sự giám sát, kiểm tra của đại diện chủ sở hữu nhà nước, nhất là trong việc phê duyệt điều lệ, quyết định chiến lược phát triển sản xuất, kinh doanh, quản lư vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp.
Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực quản lư của đội ngũ lănh đạo, đặc biệt là lănh đạo chủ chốt của doanh nghiệp. Đổi mới quy tŕnh, xác định rơ quyền và trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân có liên quan đến việc xem xét, quyết định nhân sự lănh đạo chủ chốt của doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là nhân sự chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc. Nêu cao vai tṛ và trách nhiệm của hội đồng quản trị, hội đồng thành viên và ban thường vụ đảng ủy; thực hiện việc chủ tịch hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng thành viên kiêm bí thư đảng uỷ doanh nghiệp. Mở rộng diện áp dụng chế độ thi tuyển, hợp đồng có thời hạn tùy thuộc vào kết quả sản xuất, kinh doanh đối với giám đốc, tổng giám đốc. Nghiên cứu h́nh thành cơ quan cấp bộ thực hiện thống nhất chức năng đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Trước mắt, tập trung soát xét, điều chỉnh sự phân cấp, phân công giữa Chính phủ và các bộ, ngành, chính quyền các địa phương trong việc thực hiện chức năng của cơ quan đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước cấp trên của hội đồng quản trị, hội đồng thành viên mà không trực tiếp chỉ đạo hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
3- Về vấn đề đất đai
Thực hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 5 khóa XI, tại Hội nghị này, Trung ương tiếp tục thảo luận và đă nhất trí cao ban hành Nghị quyết của Trung ương để lănh đạo, chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2003, đáp ứng yêu cầu của t́nh h́nh mới, góp phần huy động và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế - xă hội . Khắc phục những hạn chế, yếu kém, tiêu cực trong lĩnh vực đất đai; đặc biệt là t́nh trạng đầu cơ , lăng phí, tham nhũng, tranh chấp, khiếu kiện kéo dài; bảo đảm hài ḥa lợi ích của Nhà nước, của người sử dụng đất và của nhà đầu tư , góp phần ổn định chính trị - xă hội.
Trung ương tiếp tục khẳng định: Quyền sử dụng đất là một loại tài sản và hàng hóa đặc biệt, nhưng không phải là quyền sở hữu, cần được xác định cụ thể, phù hợp với từng loại đất, đối tượng sử dụng đất và các trường hợp giao đất, cho thuê đất. Q uy hoạch sử dụng đất phải đồng bộ, liên thông với quy hoạch ngành, lĩnh vực khác có sử dụng đất ; phải tổng hợp, cân đối, phân bổ hợp lư, hiệu quả đất đai cho phát triển các ngành, lĩnh vực, vùng lănh thổ và các đơn vị hành chính trong cả nước; bảo đảm đất cho mục đích quốc pḥng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, các dự án có mục đích xă hội, tín ngưỡng, tôn giáo, đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số. Xử lư nghiêm các trường hợp đă được Nhà nước giao đất, cho thuê đất nhưng sử dụng không đúng mục đích hoặc chậm đưa đất vào sử dụng. Quản lư chặt chẽ việc chuyển mục đích sử dụng đất lúa, đất có rừng pḥng hộ, rừng đặc dụng. Thu hẹp đối tượng được giao đất không thu tiền sử dụng đất; mở rộng việc giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất để thực hiện các dự án sản xuất, kinh doanh thông qua h́nh thức đấu thầu dự án hoặc đấu giá quyền sử dụng đất. Nhà nước chủ động thu hồi đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng để tạo quỹ đất; trực tiếp thực hiện việc thu hồi đất, giao đất, giải toả, đền bù, hỗ trợ tái định cư theo đúng nguyên tắc, tŕnh tự, thủ tục, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch và công bằng. Thực hiện giá đất do Nhà nước quy định phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lư của Nhà nước và với mục đích sử dụng đất, t́nh h́nh kinh tế - xă hội của cả nước, các vùng, miền và địa phương trong từng thời kỳ. Không để các nhà đầu tư trực tiếp thoả thuận với người sử dụng đất về giá đền bù, chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Chính phủ quy định phương pháp xác định giá đất và khung giá đất làm căn cứ để Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng, ban hành bảng giá đất; bổ sung quy định về điều chỉnh khung giá đất, bảng giá đất sao cho linh hoạt, phù hợp hơn với từng loại đất, các đối tượng sử dụng đất và các trường hợp giao đất.
Ban Chấp hành Trung ương giao cho Bộ Chính trị chỉ đạo khẩn trương tổng kết, đánh giá t́nh h́nh sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh theo Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá IX, trong đó có đánh giá việc quản lư, sử dụng đất nông, lâm trường để có chính sách, biện pháp quản lư phù hợp. Có cơ chế, chính sách đặc thù về việc giao đất, chuyển quyền sử dụng đất ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
4- Về giáo dục và đào tạo
Ban Chấp hành Trung ương đă thảo luận sôi nổi và cho nhiều ư kiến về Đề án "Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xă hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế". Trung ương nhận thấy, sau 16 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, trong điều kiện đất nước c̣n nhiều khó khăn, nguồn lực có hạn, với sự cố gắng, nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là của đội ngũ nhà giáo, sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nước ta đă thu được những kết quả, thành tựu rất có ư nghĩa trong việc thực hiện sứ mệnh nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Tuy nhiên, đến nay giáo dục và đào tạo nước ta vẫn chưa thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, động lực quan trọng nhất cho phát triển; thậm chí c̣n không ít hạn chế, yếu kém, nhất là về chất lượng giáo dục - đào tạo; công tác quản lư và cơ chế tạo nguồn lực và động lực cho phát triển. Để có thể cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, nước ta đang đứng trước yêu cầu đổi mới mô h́nh tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh dựa nhiều hơn vào yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) và kinh tế tri thức. Sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời đại toàn cầu hoá, phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ đ̣i hỏi và cũng tạo điều kiện để nước ta đẩy mạnh toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Những kết quả, thành tựu đă đạt được về quy mô, nguồn nhân lực và cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có cũng cho phép chúng ta chuyển sang giai đoạn phát triển mới, cao hơn về chất. Đó chính là lư do giải thích v́ sao Đại hội XI của Đảng đề ra chủ trương phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo.
Trung ương yêu cầu phải đổi mới từ nhận thức tư duy, mục tiêu đào tạo, hệ thống tổ chức, loại h́nh giáo dục và đào tạo, nội dung và phương pháp dạy và học đến cơ chế vận hành, cơ chế quản lư, xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lư, cơ sở vật chất, nguồn lực, điều kiện bảo đảm thực hiện đổi mới toàn bộ hệ thống giáo dục, bao gồm giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục đại học, đào tạo nghề . Đây là những vấn đề hết sức lớn lao, hệ trọng và phức tạp, c̣n nhiều ư kiến khác nhau, cần phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết, bàn bạc một cách thấu đáo, cẩn trọng, tạo sự thống nhất cao để ban hành Nghị quyết vào thời gian thích hợp. Trước mắt, cần tiếp tục quán triệt các quan điểm, chủ trương của Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, Kết luận Hội nghị Trung ương 6 khoá IX và các kết luận, quyết định của Bộ Chính trị, chỉ đạo triển khai thực hiện thật tốt Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo từ nay đến năm 2020 theo Kết luận của Hội nghị lần này.
5- Về phát triển khoa học và công nghệ
Ban Chấp hành Trung ương tiếp tục khẳng định, phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một động lực quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhân lực khoa học và công nghệ là tài nguyên vô giá của đất nước; trí thức khoa học và công nghệ là nguồn lực đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế tri thức. Đầu tư cho nhân lực khoa học và công nghệ, đăi ngộ người tài là đầu tư cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc. Đảng và Nhà nước có trách nhiệm và chính sách đặc biệt phát triển, trọng dụng và phát huy tiềm năng sáng tạo của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ để khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt, là lực lượng sản xuất trực tiếp, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 và là nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xă hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ 21.
Sự lănh đạo của Đảng, năng lực quản lư của Nhà nước, sự tham gia chủ động, tích cực của mọi lực lượng xă hội và tài năng, tâm huyết của các nhà khoa học đóng vai tṛ quyết định thành công của sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ nước nhà. Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực cho phát triển khoa học và công nghệ. Nhà nước có trách nhiệm đầu tư, khuyến khích, tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia phát triển hạ tầng, nâng cao đồng bộ tiềm lực khoa học xă hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ. Chú trọng nghiên cứu ứng dụng và triển khai; coi doanh nghiệp và các đơn vị dịch vụ công là trung tâm của đổi mới, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, là nguồn cầu quan trọng nhất của thị trường khoa học và công nghệ.
Trung ương yêu cầu phải đổi mới, nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng và chính quyền về vai tṛ của khoa học và công nghệ, coi phát huy ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ là một bộ phận không thể thiếu của quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành và địa phương. Nhà nước có chính sách, cơ chế đặc biệt trọng dụng và đăi ngộ đối với cán bộ khoa học đầu ngành; cán bộ được giao chủ tŕ nhiệm vụ quốc gia; cán bộ trẻ tài năng. Khuyến khích, tạo điều kiện để sinh viên, nghiên cứu sinh sau khi được đào tạo ở nước ngoài về nước làm việc. Đồng thời, phải vận dụng đúng đắn cơ chế thị trường để đổi mới, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lư nhà nước; cơ chế, chính sách; xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ lớn của Nhà nước. Tăng cường và phát huy tiềm lực khoa học quốc gia; phát triển thị trường khoa học và công nghệ; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, thu hút nguồn lực và chuyên gia người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia các dự án khoa học - công nghệ của Việt Nam… Trong đó, đổi mới công tác quản lư nhà nước, đổi mới tổ chức, hoạt động và cơ chế, chính sách là khâu đột phá. Tập trung ưu tiên tháo gỡ các vướng mắc trong công tác kế hoạch, đầu tư, tài chính, đặc biệt là cơ chế cấp phát, thanh quyết toán kinh phí cho các hoạt động khoa học và công nghệ.
<table style="MARGIN: 5px" align="center" border="0" cellpadding="3" cellspacing="0" width="1"> <tbody> <tr> <td class="cms_img">http://media12.baodatviet.v n:/2012/10/15/C144077_trung-uong-dang-011012-2.jpg</td></tr> <tr> <td class="cms_imgCaption">Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng</td></tr></tbody></table>
“Thưa các đồng chí Trung ương,
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,
Sau 15 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương đă hoàn thành toàn bộ nội dung chương tŕnh đề ra theo đúng kế hoạch. Các đồng chí Uỷ viên Trung ương và các đồng chí tham dự Hội nghị đă thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, phát huy dân chủ, trí tuệ, thẳng thắn thảo luận, đóng góp nhiều ư kiến tâm huyết, sâu sắc vào các tờ tŕnh, báo cáo, đề án. Bộ Chính trị đă tiếp thu tối đa và giải tŕnh những vấn đề c̣n có ư kiến khác nhau; Ban Chấp hành Trung ương đă thống nhất thông qua một số Nghị quyết và Kết luận của Hội nghị. Trước khi bế mạc Hội nghị, thay mặt Bộ Chính trị, tôi xin phát biểu, làm rơ thêm một số vấn đề và khái quát lại những kết quả quan trọng đă đạt được.
1- Về t́nh h́nh kinh tế - xă hội năm 2012 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2013
Hội nghị đă thống nhất nhận định: Trong bối cảnh t́nh h́nh có nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế - xă hội 9 tháng đầu năm có những chuyển biến nhất định. Kinh tế vĩ mô ổn định hơn; lạm phát được kiềm chế, chỉ số giá tiêu dùng giảm; thanh khoản của hệ thống ngân hàng được cải thiện; tỉ giá cơ bản ổn định, niềm tin vào giá trị tiền đồng Việt Nam được củng cố. Sản xuất công nghiệp có dấu hiệu phục hồi; sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển ổn định; du lịch, dịch vụ tăng khá. Các đề án tái cấu trúc nền kinh tế, thực hiện 3 đột phá chiến lược được chú trọng xây dựng và bước đầu triển khai thực hiện. An sinh xă hội và phúc lợi xă hội cơ bản được bảo đảm. Lĩnh vực y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ có bước tiến bộ. Quốc pḥng, an ninh được tăng cường; chính trị - xă hội ổn định.
Tuy nhiên, áp lực lạm phát và bất ổn vĩ mô vẫn c̣n lớn. Thị trường tiền tệ diễn biến phức tạp; nợ xấu ngân hàng ở mức cao; tăng trưởng tín dụng thấp; hoạt động của một số ngân hàng thương mại cổ phần thiếu minh bạch, c̣n tiềm ẩn nhiều rủi ro; lăi suất ngân hàng vẫn c̣n quá cao so với hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán vẫn chưa được cải thiện; thị trường vàng c̣n nhiều biến động. Các đề án tái cấu trúc đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng thương mại c̣n có nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện. Tăng trưởng GDP và tổng vốn đầu tư xă hội không đạt được kế hoạch đề ra; số doanh nghiệp phải giải thể, ngừng hoặc thu hẹp hoạt động vẫn ở mức cao; việc làm và thu nhập của người lao động khó khăn. Trật tự, an toàn xă hội và các tệ nạn xă hội, tội phạm, tham nhũng, tiêu cực c̣n nhiều phức tạp,…
Dự báo thời gian tới, kinh tế thế giới nói riêng và t́nh h́nh quốc tế nói chung c̣n nhiều diễn biến khó lường. V́ vậy, trong những tháng c̣n lại của năm 2012 và năm 2013, đ̣i hỏi phải tiếp tục tăng cường lành mạnh hoá, ổn định kinh tế vĩ mô; đặc biệt chú trọng ổn định, lành mạnh hoá, bảo đảm an toàn của hệ thống tài chính - ngân hàng; thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lăng phí trong đầu tư và chi tiêu công. Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; tập trung giải quyết t́nh trạng nợ xấu, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; khuyến khích đầu tư trong nước và đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài; ưu tiên đầu tư phát triển nông nghiệp và du lịch. Đồng thời đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô h́nh tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; bảo đảm ổn định chính trị - xă hội; tạo nền tảng phát triển vững chắc hơn cho những năm tiếp theo. Quá tŕnh tái cấu trúc đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và đặc biệt là hệ thống ngân hàng thương mại cần phải được đặt trong tổng thể và gắn kết chặt chẽ với quá tŕnh cơ cấu lại nền kinh tế, tái cấu trúc đầu tư và tái cấu trúc thị trường tài chính nói chung.
2- Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước
Trung ương tiếp tục khẳng định vai tṛ ṇng cốt và những kết quả quan trọng đă đạt được của doanh nghiệp nhà nước, đồng thời chỉ ra những hạn chế, yếu kém c̣n tồn tại; trên cơ sở đó đề ra chủ trương, chính sách, biện pháp khắc phục.
Trung ương yêu cầu phải tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XI và các nghị quyết, kết luận của Trung ương về vấn đề này phù hợp với bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xă hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng đi vào chiều sâu. Kiên quyết điều chỉnh để doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lư, đi đầu trong đổi mới, ứng dụng khoa học - công nghệ, giữ vững định hướng xă hội chủ nghĩa của nền kinh tế, tập trung vào những khâu, công đoạn then chốt của bốn lĩnh vực chính, bao gồm: Công nghiệp quốc pḥng; công nghiệp độc quyền tự nhiên; lĩnh vực cung cấp hàng hóa dịch vụ công thiết yếu; và một số ngành công nghiệp nền tảng, công nghệ cao có sức lan tỏa lớn. Sớm chấm dứt t́nh trạng đầu tư dàn trải ngoài ngành và hoàn thành việc thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có dưới 50% vốn nhà nước.
Khẩn trương bổ sung, hoàn thiện thể chế quản lư doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước phải được tổ chức lại theo mô h́nh công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn phù hợp với Luật Doanh nghiệp; áp dụng chế độ quản trị tiên tiến phù hợp với kinh tế thị trường và thực hiện chế độ kiểm toán, kiểm tra, giám sát chặt chẽ, công khai, minh bạch trên cơ sở mở rộng diện niêm yết trên thị trường chứng khoán. Chức năng điều tiết vĩ mô và bảo đảm an sinh xă hội của doanh nghiệp phải được đổi mới và thay thế bằng cơ chế đặt hàng của Nhà nước, được hạch toán theo cơ chế thị trường. Các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước lớn phải được cấu trúc lại theo mô h́nh công ty mẹ - công ty con; được kiểm toán hằng năm. Kết thúc giai đoạn thí điểm h́nh thành tập đoàn kinh tế nhà nước; xem xét chuyển một số tập đoàn kinh tế nhà nước thành tổng công ty. Đồng thời với việc mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp, phải tăng cường vai tṛ và sự giám sát, kiểm tra của đại diện chủ sở hữu nhà nước, nhất là trong việc phê duyệt điều lệ, quyết định chiến lược phát triển sản xuất, kinh doanh, quản lư vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp.
Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực quản lư của đội ngũ lănh đạo, đặc biệt là lănh đạo chủ chốt của doanh nghiệp. Đổi mới quy tŕnh, xác định rơ quyền và trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân có liên quan đến việc xem xét, quyết định nhân sự lănh đạo chủ chốt của doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là nhân sự chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc. Nêu cao vai tṛ và trách nhiệm của hội đồng quản trị, hội đồng thành viên và ban thường vụ đảng ủy; thực hiện việc chủ tịch hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng thành viên kiêm bí thư đảng uỷ doanh nghiệp. Mở rộng diện áp dụng chế độ thi tuyển, hợp đồng có thời hạn tùy thuộc vào kết quả sản xuất, kinh doanh đối với giám đốc, tổng giám đốc. Nghiên cứu h́nh thành cơ quan cấp bộ thực hiện thống nhất chức năng đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Trước mắt, tập trung soát xét, điều chỉnh sự phân cấp, phân công giữa Chính phủ và các bộ, ngành, chính quyền các địa phương trong việc thực hiện chức năng của cơ quan đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước cấp trên của hội đồng quản trị, hội đồng thành viên mà không trực tiếp chỉ đạo hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
3- Về vấn đề đất đai
Thực hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 5 khóa XI, tại Hội nghị này, Trung ương tiếp tục thảo luận và đă nhất trí cao ban hành Nghị quyết của Trung ương để lănh đạo, chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2003, đáp ứng yêu cầu của t́nh h́nh mới, góp phần huy động và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế - xă hội . Khắc phục những hạn chế, yếu kém, tiêu cực trong lĩnh vực đất đai; đặc biệt là t́nh trạng đầu cơ , lăng phí, tham nhũng, tranh chấp, khiếu kiện kéo dài; bảo đảm hài ḥa lợi ích của Nhà nước, của người sử dụng đất và của nhà đầu tư , góp phần ổn định chính trị - xă hội.
Trung ương tiếp tục khẳng định: Quyền sử dụng đất là một loại tài sản và hàng hóa đặc biệt, nhưng không phải là quyền sở hữu, cần được xác định cụ thể, phù hợp với từng loại đất, đối tượng sử dụng đất và các trường hợp giao đất, cho thuê đất. Q uy hoạch sử dụng đất phải đồng bộ, liên thông với quy hoạch ngành, lĩnh vực khác có sử dụng đất ; phải tổng hợp, cân đối, phân bổ hợp lư, hiệu quả đất đai cho phát triển các ngành, lĩnh vực, vùng lănh thổ và các đơn vị hành chính trong cả nước; bảo đảm đất cho mục đích quốc pḥng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, các dự án có mục đích xă hội, tín ngưỡng, tôn giáo, đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số. Xử lư nghiêm các trường hợp đă được Nhà nước giao đất, cho thuê đất nhưng sử dụng không đúng mục đích hoặc chậm đưa đất vào sử dụng. Quản lư chặt chẽ việc chuyển mục đích sử dụng đất lúa, đất có rừng pḥng hộ, rừng đặc dụng. Thu hẹp đối tượng được giao đất không thu tiền sử dụng đất; mở rộng việc giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất để thực hiện các dự án sản xuất, kinh doanh thông qua h́nh thức đấu thầu dự án hoặc đấu giá quyền sử dụng đất. Nhà nước chủ động thu hồi đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng để tạo quỹ đất; trực tiếp thực hiện việc thu hồi đất, giao đất, giải toả, đền bù, hỗ trợ tái định cư theo đúng nguyên tắc, tŕnh tự, thủ tục, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch và công bằng. Thực hiện giá đất do Nhà nước quy định phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lư của Nhà nước và với mục đích sử dụng đất, t́nh h́nh kinh tế - xă hội của cả nước, các vùng, miền và địa phương trong từng thời kỳ. Không để các nhà đầu tư trực tiếp thoả thuận với người sử dụng đất về giá đền bù, chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Chính phủ quy định phương pháp xác định giá đất và khung giá đất làm căn cứ để Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng, ban hành bảng giá đất; bổ sung quy định về điều chỉnh khung giá đất, bảng giá đất sao cho linh hoạt, phù hợp hơn với từng loại đất, các đối tượng sử dụng đất và các trường hợp giao đất.
Ban Chấp hành Trung ương giao cho Bộ Chính trị chỉ đạo khẩn trương tổng kết, đánh giá t́nh h́nh sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh theo Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá IX, trong đó có đánh giá việc quản lư, sử dụng đất nông, lâm trường để có chính sách, biện pháp quản lư phù hợp. Có cơ chế, chính sách đặc thù về việc giao đất, chuyển quyền sử dụng đất ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
4- Về giáo dục và đào tạo
Ban Chấp hành Trung ương đă thảo luận sôi nổi và cho nhiều ư kiến về Đề án "Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xă hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế". Trung ương nhận thấy, sau 16 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, trong điều kiện đất nước c̣n nhiều khó khăn, nguồn lực có hạn, với sự cố gắng, nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là của đội ngũ nhà giáo, sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nước ta đă thu được những kết quả, thành tựu rất có ư nghĩa trong việc thực hiện sứ mệnh nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Tuy nhiên, đến nay giáo dục và đào tạo nước ta vẫn chưa thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, động lực quan trọng nhất cho phát triển; thậm chí c̣n không ít hạn chế, yếu kém, nhất là về chất lượng giáo dục - đào tạo; công tác quản lư và cơ chế tạo nguồn lực và động lực cho phát triển. Để có thể cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, nước ta đang đứng trước yêu cầu đổi mới mô h́nh tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh dựa nhiều hơn vào yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) và kinh tế tri thức. Sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời đại toàn cầu hoá, phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ đ̣i hỏi và cũng tạo điều kiện để nước ta đẩy mạnh toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Những kết quả, thành tựu đă đạt được về quy mô, nguồn nhân lực và cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có cũng cho phép chúng ta chuyển sang giai đoạn phát triển mới, cao hơn về chất. Đó chính là lư do giải thích v́ sao Đại hội XI của Đảng đề ra chủ trương phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo.
Trung ương yêu cầu phải đổi mới từ nhận thức tư duy, mục tiêu đào tạo, hệ thống tổ chức, loại h́nh giáo dục và đào tạo, nội dung và phương pháp dạy và học đến cơ chế vận hành, cơ chế quản lư, xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lư, cơ sở vật chất, nguồn lực, điều kiện bảo đảm thực hiện đổi mới toàn bộ hệ thống giáo dục, bao gồm giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục đại học, đào tạo nghề . Đây là những vấn đề hết sức lớn lao, hệ trọng và phức tạp, c̣n nhiều ư kiến khác nhau, cần phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết, bàn bạc một cách thấu đáo, cẩn trọng, tạo sự thống nhất cao để ban hành Nghị quyết vào thời gian thích hợp. Trước mắt, cần tiếp tục quán triệt các quan điểm, chủ trương của Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, Kết luận Hội nghị Trung ương 6 khoá IX và các kết luận, quyết định của Bộ Chính trị, chỉ đạo triển khai thực hiện thật tốt Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo từ nay đến năm 2020 theo Kết luận của Hội nghị lần này.
5- Về phát triển khoa học và công nghệ
Ban Chấp hành Trung ương tiếp tục khẳng định, phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một động lực quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhân lực khoa học và công nghệ là tài nguyên vô giá của đất nước; trí thức khoa học và công nghệ là nguồn lực đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế tri thức. Đầu tư cho nhân lực khoa học và công nghệ, đăi ngộ người tài là đầu tư cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc. Đảng và Nhà nước có trách nhiệm và chính sách đặc biệt phát triển, trọng dụng và phát huy tiềm năng sáng tạo của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ để khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt, là lực lượng sản xuất trực tiếp, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 và là nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xă hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ 21.
Sự lănh đạo của Đảng, năng lực quản lư của Nhà nước, sự tham gia chủ động, tích cực của mọi lực lượng xă hội và tài năng, tâm huyết của các nhà khoa học đóng vai tṛ quyết định thành công của sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ nước nhà. Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực cho phát triển khoa học và công nghệ. Nhà nước có trách nhiệm đầu tư, khuyến khích, tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia phát triển hạ tầng, nâng cao đồng bộ tiềm lực khoa học xă hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ. Chú trọng nghiên cứu ứng dụng và triển khai; coi doanh nghiệp và các đơn vị dịch vụ công là trung tâm của đổi mới, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, là nguồn cầu quan trọng nhất của thị trường khoa học và công nghệ.
Trung ương yêu cầu phải đổi mới, nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng và chính quyền về vai tṛ của khoa học và công nghệ, coi phát huy ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ là một bộ phận không thể thiếu của quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành và địa phương. Nhà nước có chính sách, cơ chế đặc biệt trọng dụng và đăi ngộ đối với cán bộ khoa học đầu ngành; cán bộ được giao chủ tŕ nhiệm vụ quốc gia; cán bộ trẻ tài năng. Khuyến khích, tạo điều kiện để sinh viên, nghiên cứu sinh sau khi được đào tạo ở nước ngoài về nước làm việc. Đồng thời, phải vận dụng đúng đắn cơ chế thị trường để đổi mới, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lư nhà nước; cơ chế, chính sách; xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ lớn của Nhà nước. Tăng cường và phát huy tiềm lực khoa học quốc gia; phát triển thị trường khoa học và công nghệ; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, thu hút nguồn lực và chuyên gia người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia các dự án khoa học - công nghệ của Việt Nam… Trong đó, đổi mới công tác quản lư nhà nước, đổi mới tổ chức, hoạt động và cơ chế, chính sách là khâu đột phá. Tập trung ưu tiên tháo gỡ các vướng mắc trong công tác kế hoạch, đầu tư, tài chính, đặc biệt là cơ chế cấp phát, thanh quyết toán kinh phí cho các hoạt động khoa học và công nghệ.