Hanna
11-08-2012, 08:42
THÔNG TẤN XĂ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Hai, ngày 5/11/2012
MỸ: ĐÁNH GIÁ NHIỆM KỲ CỦA TỐNG THỐNG BARACK OBAMA
(Tạp chí The Economist)
Không phải từ năm 1933 mới có một tổng thống Mỹ tuyên thệ nhậm chức trong bối cảnh kinh tế ảm đạm như khi Barack Obama đặt bàn tay trái của ḿnh lên cuốn Kinh thánh vào tháng 1/2009. Hệ thống ngân hàng gần như sụp đổ, hai công ty lớn sản xuất ôtô trượt dốc đến chỗ phá sản; và công ăn việc làm, thị trường nhà và sản lượng đều suy giảm.
Bị vây quanh bởi những thúc ép chính trị, các tổng thống đă thành đặc trưng chỉ có ảnh hưởng ít nhất đối với nền kinh tế Mỹ. Ông Obama, giống như Franklin Roosevelt năm 1933 và Ronald Reagan năm 1981, là một ngoại lệ. Không chỉ những quyết định của ông sẽ có tính quyết định đối với sự phục hồi kinh tế, mà ông c̣n có một cơ hội để định h́nh nền kinh tế vốn đă nổi lên. Như một nhà cố vấn đă nói, cuộc khủng hoảng này không nên được phép để uổng phí.
Ông Obama đă để mất cơ hội chăng? Gần 4 năm sau, các cử tri dường như đều nghĩ như vậy: sự tán thành việc quản lư kinh tế của ông gần như xuống tới điểm thấp nhất, trở ngại lớn nhất duy nhất đối với việc tái cử của ông. Tuy nhiên, đây không phải là một sự đánh giá công bằng về thành tích của ông Obama, mà phải xem xét không chỉ những kết quả mà c̣n những quyết định mà ông đă đưa ra, những lựa chọn thay thế được cân nhắc và những trở ngại trên con đường của ông. Được xem xét dưới ánh sáng đó, thành tích đạt được là tốt hơn. Việc ông xử lư khủng hoảng và suy thoái đă gây ấn tượng. Không may những nỗ lực của ông về việc tái định h́nh nền kinh tế thường không có được hiệu quả mong muốn. Và lĩnh vực tài chính công của Mỹ đang ở trong t́nh trạng thảm hại.
Bảy tuần trước khi ông Obama đánh bại John McCain vào tháng 11/2008, ngân hàng Lehman Brothers sụp đổ. AIG được cứu trợ ngay sau đó. Các biện pháp cứu trợ Ngân hàng Mỹ và City group được đưa ra. Vào quư VI năm 2008, GDP đă giảm với tỉ Ịệ tính cho cả năm là 9%, mức tồi tệ nhất trong gần 50 năm qua.
Do đó, thậm chí trước khi ông Obama nhậm chức, đă có nguy cơ rằng ḷng tin của các nhà đầu tư sẽ tiêu tan trước một thời kỳ quá độ lộn xộn sang một tổng thống chưa được thử thách. Khoảng trống chính trị giữa thắng lợi của FDR (Franklin Delano Roosevelt) năm 1932 và lễ nhậm chức của ông vào năm sau đă làm cho những tháng đó nằm trong những tháng tồi tệ nhất của cuộc Đại Suy thoái.
Ông Obama đă làm nhũng ǵ mà ông có thể để làm giảm nhũng nỗi sợ hăi đó. Với tư cách là ứng cử viên tổng thống và là Thượng nghị sĩ, ông đă ủng hộ Chương tŕnh Cứu trợ Tài sản gặp rắc rối (TARP) không được ḷng dân do Henry Paulson, Bộ trưởng tài chính của George Bush, h́nh thành một cách vội vă. Sau cuộc bầu cử ông đă lựa chọn Tira Geithner, là một người có công trong việc ứng phó với khủng hoảng của chính quyền Bush, làm bộ trưởng tài chính của ḿnh. Những người c̣n lại trong êkíp kinh tế của ông – Larry Summers, là Bộ trưởng Tài chính của Bill Clinton; Peter Orszag, một giám đốc bảo thủ về tài chính của Cơ quan Ngân sách Quốc hội (CBO); và Christina Römer, một nhà kinh tế vĩ mô được kính trọng – tương tự đều làm yên ḷng.
Việc giải quyết một cuộc khủng hoảng tài chính có hệ thống đ̣i hỏi phải tái cung cấp vốn cho các thể chế tài chính yếu kém và chuyển các khoản cho vay khó đ̣i của họ từ khu vực tư nhân sang khu vực công. Dưới thời ông Bush, chính phủ đă bơm tiền mặt vào các ngân hàng. Nhưng những nghi ngại về khả năng của các nhà cho vay tồn tại qua một cuộc suy thoái tồi tệ vẫn c̣n dai dẳng. Ông Obama đă đối mặt với những yêu cầu quốc hữu hóa các ngân hàng yếu kém và buộc họ phải cho vay, hoặc để cho họ phá sản, ông Summers và ông Geithner đă coi cả hai biện pháp sẽ phá vỡ ḷng tin trong hệ thống tài chính, và thay vào đó tiến hành một loạt “kiểm tra năng lực tài chính” để xác định xem ngân hàng nào có đủ vốn. Những ngân hàng không có đủ vốn có thể hoặc huy động thêm vốn tư nhân hoặc huy động vốn từ TARP.
Phản ứng đầu tiên là một phản ứng gây thất vọng – cổ phiếu đă giảm mạnh. Các học giả dự đoán rằng ông Geithner sẽ sớm ra đi. Nhưng các cuộc kiểm tra tỏ ra khắt khe và minh bạch đủ để thuyết phục các nhà đầu tư rằng hệ thống ngân hàng không có ǵ nghiêm trọng được để lại để che giấu. Các ngân hàng buộc phải huy động hàng trăm tỉ USD vốn cổ phần. Tỉ lệ vốn ngân hàng hiện nay đă vưọt quá mức trước khủng hoảng và phần lớn số tiền của họ từ TARP đă được trả lại với một khoản lăi cho chính phủ. Các cuộc kiểm tra năng lực tài chính của châu Âu đă lỏng lẻo hơn, và một số ngân hàng đă qua được kiểm tra sau đó đă phải được giải cún tài chính.
Công ty General Motors (GM) và Chrysler đă thể hiện một thách thức khác. Thông thường một nhà sản xuất đang thất bại sẽ gán nợ và dần đi vào t́nh trạng phá sản dưới sự giám sát của ṭa án. Nhưng năm 2009 không có nhà cho vay nào sẽ cung cấp cho “con nợ sở hữu tài sản” khổng lồ khoản tài trợ mà việc tổ chức lại hai công ty này cần có. Phá sản có nghĩa là vỡ nợ. Điều đó sẽ xóa bỏ các nền kinh tế địa phương và các nhà cung cấp đúng vào lúc các ngân hàng đang được giải cứu. Mặt khác, đơn thuần việc cứu trợ các công ty được điều hành tồi tệ là quá hào phóng.
Giải pháp của Obama là buộc phải đưa cả hai công ty sản xuất ôtô vào bảo hộ phá sản, sau đó cung cấp tài trợ cần thiết đế tổ chức lại, với điều kiện cả hai công ty phải loại bỏ công suất và người lao động không cần đến. Cả hai công ty đă nổi lên từ phá sản trong ṿng vài tháng. Chrysler, hiện là một phần của công ty Fiat của Italia, lại bắt đầu có lăi, GM cũng vậy, công ty này đă trở lại thị trường chứng khoán vào năm 2010. Tuy nhiên, chính phủ sẽ có khả năng mất khoản tiền cứu trợ hai công ty này.
Những nỗ lực của Obama về việc giải quyết thị trường nhà ở ít thành công hơn. Vào đầu năm 2009, 9% số tiền thế chấp nhà ở, trị giá gần 900 tỉ USD, là không trả đúng hạn. Phương sách truyền thống kêu gọi chính phủ mua và sau đó làm giảm các khoản cho vay khó đ̣i này, làm trong sạch hệ thống ngân hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống này cho vay trở lại. Nhưng khi Bộ Tài chính xem xét những đề nghị như vậy, bộ này nhận thấy chưa có một cơ cấu sẵn có để trích số tiền cho vay vô giá trị từ những quỹ được chứng khoán hóa. Một biện pháp thay thế là trả tiền cho các ngân hàng để làm giảm các khoản cho vay xuống mức mà những người chủ nhà có thể xử lư được. Nhưng theo Michael Barr, người đă tiếp tục những nỗ lực đó và hiện giảng dạy tại trường Đại học Michigan, nhớ lại th́ nguy cơ là “người ta hoặc trả quá nhiều cho các ngân hàng… cứu trợ cửa sau mà không bảo trợ đầy đủ cho những người đóng thuế, hoặc trả quá ít và các ngân hàng sẽ không sẵn sàng làm điều đó”.
Thay vào đó, các nhà cho vay đă được thúc đẩy nhằm giảm bớt chi trả cho các khoản thế chấp bằng các khoản trợ cấp và nhũng đảm bảo cho vay. Ngay cả Fannie Mae và Freddie Mac, mặc dù hiện nay rơ ràng thuộc sở hữu của chính phủ, đă phản đối tham gia. Vào tháng 4, chỉ có 2,3 triệu khoản vay thế chấp được điều chỉnh hoặc tái tài trợ theo các chương tŕnh của chính quyền, so với mục tiêu từ 7 triệu đến 9 triệu. Nếu Obama đổ thêm tiền vào số vốn gốc đang suy giảm ngay tự đầu, th́ kết quả có thể là nguy cơ chính trị. Phillip Swasel, nhà kinh tế xử lư các vấn đề tương tự dưới thời ông Paulson, nói: “Họ đă tỏ ta thận trọng. Nh́n lại, tôi đánh cược là họ ước rằng họ không thận trọng, chi tiêu nhiều tiền, và thực sự giải quyết được vấn đề”.
Các hoạt động kinh tế kinh điển cho thấy khi chính sách tiền tệ thông thường bất lực, chỉ có chính sách tài chính mới có thể kéo nền kinh tế thoát khỏi thời kỳ suy thoái. Lần đầu tiên kể từ những năm 1930, Mỹ phải đối mặt với những hoàn cảnh như vậy vào tháng 12/2008. Ngân hàng Dự trữ Liên bang đă cắt giảm lăi suất ngắn hạn xuống bằng 0 vào tháng đó và đă tiến hành thử nghiệm biện pháp không thông thường, mua trái phiếu bằng tiền mới in. Lư lẽ biện minh cho sự kích thích tài chính do vậy là thỏa đáng.
Sự tăng trưởng chậm chạp từ năm 2009 đă nuôi dưỡng những đánh giá phản đối Đạo luật phục hồi và tái đầu tư của Mỹ trị giá 800 tỉ USD. Phe bảo thủ nói rằng gói kích thích kinh tế không phát huy tác dụng, hoặc rằng gói kích thích kinh tế của ông Obama được thiết kế tồi. Công bằng nhất mà nói họ đă sai. Daniel Wilson thuộc Ngân hàng Dự trữ Liên bang San Francisco suy luận hiệu quả của gói kích thích kinh tế thông qua một phân tích về dữ kiện công ăn việc làm cấp nhà nước. Ông đă kết luận rằng việc chi tiêu mang tính kích thích kinh tế này đă tạo ra hoặc cứu văn 3,4 triệu việc làm, sát với ước tính của CBO.
Những cáo buộc cho rằng kế hoạch kích thích kinh tế này có một phần được sử dụng không có hiệu quả cũng là không công bằng. Khoảng 1/3 số tiền này dành cho các khoản cắt giảm thuế hoặc tín dụng. Hầu hết việc chi tiêu đều diễn ra dưới h́nh thức chuyển giao trực tiếp cho các cá nhân, như tem lương thực và bảo hiểm thất nghiệp, hoặc cho các bang và các chính quyền địa phương, về các vấn đề như Medicaid.
Những người ‘theo đường lối tự do đưa ra lư lẽ trái ngược: gói kích thích kinh tế là quá ít. Theo lời lẽ của No am Scheiber trong cuốn sách của ông “Các nghệ sĩ bỏ trốn”, bà Romer ban đầu đề xuất một gói kích thích kinh tế 1,8 ngh́n tỉ USD, Được cho biết rằng con số đó là phi thực tế, bà xem xét lại hạ xuống c̣n 1,2 ngh́n tỉ USD, ông Obama cuối cùng đề nghị, và nhận được, khoảng 800 tỉ USD. Một số nhà chỉ trích lưu ư rằng con số này là quá ít so với số tiền thiếu hụt dự tính là 2 ngh́n tỉ USD trong hoạt động kinh tế năm 2009 và 2010. Nhưng con số này nhiều hơn so với số tiền Quốc hội đă từng chấp thuận trước đó. Bất chấp việc phe Cộng ḥa nam quyền Hạ viện năm 2010, ông Obama cuối cùng nhận được thêm gần 600 tỉ USD trong gói kích thích kinh tế, bao gồm cắt giảm thuế quỹ lương trong 2 năm.
Nếu gói kích thích kinh tế phát huy tác dụng, tại sao việc phục hồi kinh tế vẫn rất chập chạp? GDP trung b́nh chỉ tăng 2,2%, từ khi cuộc suy thoái kết thúc vào giữa năm 2009, một trong những sự phục hồi chậm nhất được ghi nhận. V́ một lẽ, nền kinh tế đă vấp phải những “lỗ hổng không khí” dưới dạng giá dầu cao hơn, một phần do Mùa Xuân Arập và khủng hoảng nợ châu Âu gây ra. Hơn nữa, theo Goldman Sachs, từ quư IV năm 2009, việc thắt lưng buộc bụng của bang và địa phương đă vô hiệu hóa thêm gói kích thích kinh tế liên bang.
Có lẽ sự giải thích đơn giản nhất là những phục hồi từ các cuộc khủng hoảng tài chính thường là rất yếu. Ông Obama đă có lỗi khi ngạo mạn cho rằng điều này sẽ khác hẳn. Ông cũng tạo ra những hy vọng rằng, một khi êkíp của ông từ bỏ sự can thiệp triệt để vào thị trường thế chấp, ông có thể sẽ không gặp phải t́nh trạng này.
Một nền kinh tế trong trí tưởng tượng riêng của ông Obama
Từ những ngày đầu tiên trong quá tŕnh vận động tranh cử, ông Obama đă nói rơ ông muốn làm hơn nữa chứ không chỉ khôi phục sự tăng trưởng: ông mơ ước tái tạo nền kinh tế Mỹ. Điều tốt nhất và sáng sủa nhất sẽ là dành cho năng lượng sạch, chứ không phải đầu cơ tài chính. Việc tăng cường đầu tư công cho giáo dục và cơ sở hạ tầng sẽ đem lại sức sống cho sản xuất, thúc đẩy thu nhập của tầng lớp trung lưu và ứng phó với thách thức cạnh tranh từ Trung Quốc.
Khi nhậm chức, Obama đă dốc sức cho chương tŕnh nghị sự đó, trong khi tỏ ra ưa thích chính sách công nghiệp. Jared Bernstein, lúc đó là cố vấn kinh tế cho phó Tổng thống Joe Biden, nói: “Khi chúng ta bắt đầu nói về Đạo luật phục hồi kinh tế vào tháng 12/2008, các cuộc thảo luận đầu tiên là về năng lượng sạch: mạng lưới điện thông minh, sức gió, năng lượng mặt trời, và các pin tiên tiến”. Một số cố vấn, như Summers, đă băn khoăn với chính sách công nghiệp. Những người khác, như ông Bemstein, đă lập luận rằng các hoạt động kinh tế chính thống cho phép chính phủ can thiệp vào công nghệ trong giai đoạn đầu.
Các mục tiêu ưu tiên cá nhân của ông Obama đă giành thắng lợi. Gói kích thích kinh tế đă dành khoảng 90 tỉ USD cho các dự án xanh, bao gồm 8 tỉ dành cho đường sắt cao tốc. Một phần trong số này rơ ràng đă bị lăng phí, nhưng có thể không đến mức như các nhà chỉ trích nghĩ. Chưa đến 2% các khoản vay dành cho năng lượng xanh gây tranh căi của Bộ Năng lượng, như khoản dành cho Solyndra, một công ty sản xuất tấm pin mặt trời hiện bị phá sản, đă bị lăng phí.
Vấn đề lớn hơn với sự chi tiêu này là nó đă đi ngược ḍng kinh tế. Năm ngoái ông Obama khoe khoang rằng Mỹ sẽ sớm đạt được 40% công suất sản xuất thế giới về pin ôtô điện tiên tiến. Nhưng với ôtô điện vẫn c̣n là sai số làm tṛn trong tổng số ôtô bán ra, công suất đó là không cần thiết. Nhiều công ty sản xuất pin đang chật vật để tồn tại. Các công ty sản xuất tấm pin mặt trời phải đối mặt với cuộc cạnh tranh giá rẻ từ Trung Quốc, trong khi khí đốt tự nhiên từ đá phiến đă làm xói ṃn lư lẽ ủng hộ điện năng từ mặt trời và sức gió. Về đường sắt cao tốc, đường cao tốc mở rộng, th́ hàng không giá rẻ và các chính quyền bang và chính quyền địa phương dễ tức giận đă làm cho sức sống của nó trở nên mơ hồ. Một khoản 3,5 tỉ USD của liên bang cấp cho California có thể không đi đến đâu v́ chi phí ước tính của dự án đường sắt cao tốc của bang này nằm ngoài sự kiểm soát.
Ồng Obama luôn tô vẽ ḿnh là một người thực dụng, chứ không phải một nhà tư tưởng, ông nói trong diễn văn nhậm chức của ḿnh: “Câu hỏi mà chúng ta đặt ra hôm nay không phải là liệu chính phủ của chúng ta quá lớn hay quá nhỏ, mà liệu nó có hoạt động hay không”. Mặc dù vậy, trên thực tế, ông luôn lựa chọn chính phủ lớn hơn chứ không phải chính phủ nhỏ.
Đôi khi đây là một vấn đề cần thiết. Sự phức tạp của luật y tế của ông Obama là kết quả của việc thực hiện giấc mơ của Đảng Dân chủ về chăm sóc sức khỏe phổ cập bên trong thị trường tư nhân đang tồn tại. Cuộc khủng hoảng tài chính khiến cho cần thiết phải xử lư các công ty tài chính thất bại mà không phải là các ngân hàng, hợp lư hóa các cơ cấu giám sát và điều chỉnh những vấn đề phát sinh, tất cả do Đạo luật Dodd-Frank đề ra.
Không may đạo luật này đề ra nhiều hơn thế. Trong các lĩnh vực khác, những người được Obama chỉ định cũng đă đề nghị hoặc thực hiện các quy tắc tốn kém và bừa băi hơn so với những người tiền nhiệm của họ về mọi việc từ các chuẩn mực tiết kiệm năng lượng cho xe ôtô đen các chất thải thủy ngân của các nhà máy điện. Chính quyền nói rằng những lợi ích của các quy tắc này quan trọng hơn chi phí, nhưng lư lẽ đó thường dựa trên những giả định đáng nghi ngờ.
Nếu khối lượng lớn các quy tắc mới xa lánh lĩnh vực kinh doanh, giọng điệu của ông Obama cũng gây ấn tượng rằng ông xuất thân từ một bộ tộc thù địch. Đây là sự tự chuốc lấy thất bại, hơn thế v́ những hành động của ông trong năm qua đă cho thấy một sự thay đổi phương hướng. Nhà Trắng đă buộc Cơ quan Bảo vệ môi trường hoăn áp dụng một chuẩn mực mới về khí ozon gây tốn kém và gây tranh căi. Ông Obama hiện nay là người ủng hộ khí đốt đá phiến. Chính quyền của ông đă đề ra những quy tắc mới có lợi cho ngành công nghiệp này, chẳng hạn cho phép các công ty khoan giếng dầu thêm hai năm để đáp ứng đường lối chỉ đạo về lượng khí thải.
Sau sự thờ ơ ban đầu, ông Obama cũng đă hâm nóng lĩnh vực thương mại. Ông đă tiến hành một thỏa thuận với Đảng Cộng ḥa nhằm thông qua 3 hiệp định thương mại song phương, và đang thúc đẩy Quan hệ đối tác xuyên Thái B́nh Dương. Ṿng đầu về thuế quan đối với mặt hàng lốp xe đă tỏ ra là một sự kích thích riêng biệt trong một mối quan hệ kinh tế mặt khác được xử lư khéo léo với Trung Quốc.
Chiều hướng thực dụng này có thể đă đến quá muộn đối với ông Obama đến mức không thể tranh thủ ve văn được nước Mỹ liên hợp. Thay vào đó, các h́nh thức thị trường tự do lo ngại rằng nếu không kiềm chế ảnh hưởng của các quan chức như ông Summers, Cass Sunstein và ông Geithner (người có thể ra đi khi kết thúc nhiệm kỳ này), các đệ tử theo đường lối can thiệp hơn của ông Obama sẽ vận hành chính phủ nhiệm kỳ hai.
Con voi trong nhiệm kỳ 2
Trên thực tế, ông Obama có thể tiến gần hơn đến phái giữa nếu ông giành thắng lợi nhiệm kỳ 2. Các mục tiêu luật pháp chủ yếu của ông – cải cách y tế và cải cách tài chính – đă đạt được. Phe Cộng ḥa gần như chắc chắn kiểm soát ít nhất một viện trong Quốc hội, ngăn cản các kế hoạch chi tiêu lớn mới, bất chấp t́nh trạng phục hồi kinh tế.
Điều đó để lại những vấn đề tài chính công. Người ta ít b́nh luận về ông Obama trên mặt trận đó. Sự thật, ông thừa hưởng sự thâm hụt ngân sách lớn nhất trong lịch sử thời b́nh, với tỉ lệ 10% GDP. Nhung năm 2009 ông cho rằng tỉ lệ này sẽ giảm xuống c̣n 3% vào năm tài chính sau. Thay vào đó, tỉ lệ này sẽ là 6%, nếu ông đi theo đường hướng của ḿnh. Trở lại năm 2009, ông cho rằng tỉ lệ nợ sẽ đạt đỉnh 70% GDP vào năm 2011. Hiện tỉ lệ này được dự tính lên đến 79% vào năm 2014, giả sử dự đoán tăng trưởng lạc quan của ông là đúng.
Đây hoàn toàn không phải là bản cáo trạng như nó dường như là như vậy: những chuẩn mực thông thường về sự chính trực về tài chính đă không được áp dụng trong 4 năm qua. Khi các hộ gia đ́nh, các công ty và các chính quyền bang và chính quyền địa phương đang cắt giảm nợ của họ, chính phủ liên bang sẽ làm cho cuộc suy thoái trở nên tồi tệ hơn bằng cách làm như vậy.
Ít có thể bào chữa được hơn là những kế hoạch về việc giảm thâm hụt trong tương lai. Bị trói buộc vào một lời hứa ngớ ngẩn là không tăng thuế đối với 95% hộ gia đ́nh, các kế hoạch của ông Obama gần như chỉ dựa vào việc đánh thuế đối với người giàu và các công ty. Những nỗ lực nhằm cắt giảm chi tiêu hầu hết rơi vào quốc pḥng và các hạng mục tùy theo t́nh h́nh khác (có nghĩa là các hạng mục được phê chuẩn lại hàng năm), ông chưa chính thức đề nghị các kế hoạch đáng tin cậy để giảm bớt sự gia tăng các chương tŕnh phúc lợi. Cuộc cải cách y tế của ông không làm cho thâm hụt thêm tồi tệ. Nhưng nó ít có tác dụng đối với sự gia tăng trong chương tŕnh Medicare, nguồn chi tiêu lâu dài lớn nhất duy nhất.
Ông Obama cho rằng cuộc cải cách về phúc lợi sẽ là một phần trong cuộc mặc cả lớn trong đó phe Cộng ḥa cũng đồng ư tăng thuế. Ông đă tính toán nhầm: phe Cộng ḥa không nhượng bộ về thuế. Nhưng cũng có một thỏa thuận sẽ được tiến hành nếu ông Obama giành thắng lợi nhiệm kỳ hai. Do “hẻm núi” ngăn cách giữa hai đảng, dường như có khả năng hơn là cả hai đảng sẽ trở lại thể thức thường xuyên của họ là cáo buộc lẫn nhau. Nhưng cả tổng thống lẫn Đảng Cộng ḥa đều muốn có một biện pháp thay thế cho sự kết hợp đáng báo động vào cuối năm của việc hết hạn cắt giảm thuế và những cắt giảm sâu rộng chi phí tùy theo t́nh h́nh và chi phí quốc pḥng được biết đến như là “vách đá tài chính”.
Mùa Hè vừa qua ông Obama và John Boelner, Chủ tịch Hạ viện đă nhanh chóng tiến hành thỏa thuận về việc tăng thuế và cắt giảm các chương tŕnh phúc lợi. Cuộc mặc cả này đă thất bại phần lớn v́ những tính toán sai lầm chính trị của cả hai người. Việc tái cử của ông Obama có thể cho phép cả hai tiếp tục lại từ gần chỗ mà họ đă ngừng. Ông vẫn có cơ hội để cải thiện điểm số tồi tệ nhất trong phiếu thành tích của ḿnh. Ông Obama nên đi ra và làm việc đó từ nay đến ngày 6/11.
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Hai, ngày 5/11/2012
MỸ: ĐÁNH GIÁ NHIỆM KỲ CỦA TỐNG THỐNG BARACK OBAMA
(Tạp chí The Economist)
Không phải từ năm 1933 mới có một tổng thống Mỹ tuyên thệ nhậm chức trong bối cảnh kinh tế ảm đạm như khi Barack Obama đặt bàn tay trái của ḿnh lên cuốn Kinh thánh vào tháng 1/2009. Hệ thống ngân hàng gần như sụp đổ, hai công ty lớn sản xuất ôtô trượt dốc đến chỗ phá sản; và công ăn việc làm, thị trường nhà và sản lượng đều suy giảm.
Bị vây quanh bởi những thúc ép chính trị, các tổng thống đă thành đặc trưng chỉ có ảnh hưởng ít nhất đối với nền kinh tế Mỹ. Ông Obama, giống như Franklin Roosevelt năm 1933 và Ronald Reagan năm 1981, là một ngoại lệ. Không chỉ những quyết định của ông sẽ có tính quyết định đối với sự phục hồi kinh tế, mà ông c̣n có một cơ hội để định h́nh nền kinh tế vốn đă nổi lên. Như một nhà cố vấn đă nói, cuộc khủng hoảng này không nên được phép để uổng phí.
Ông Obama đă để mất cơ hội chăng? Gần 4 năm sau, các cử tri dường như đều nghĩ như vậy: sự tán thành việc quản lư kinh tế của ông gần như xuống tới điểm thấp nhất, trở ngại lớn nhất duy nhất đối với việc tái cử của ông. Tuy nhiên, đây không phải là một sự đánh giá công bằng về thành tích của ông Obama, mà phải xem xét không chỉ những kết quả mà c̣n những quyết định mà ông đă đưa ra, những lựa chọn thay thế được cân nhắc và những trở ngại trên con đường của ông. Được xem xét dưới ánh sáng đó, thành tích đạt được là tốt hơn. Việc ông xử lư khủng hoảng và suy thoái đă gây ấn tượng. Không may những nỗ lực của ông về việc tái định h́nh nền kinh tế thường không có được hiệu quả mong muốn. Và lĩnh vực tài chính công của Mỹ đang ở trong t́nh trạng thảm hại.
Bảy tuần trước khi ông Obama đánh bại John McCain vào tháng 11/2008, ngân hàng Lehman Brothers sụp đổ. AIG được cứu trợ ngay sau đó. Các biện pháp cứu trợ Ngân hàng Mỹ và City group được đưa ra. Vào quư VI năm 2008, GDP đă giảm với tỉ Ịệ tính cho cả năm là 9%, mức tồi tệ nhất trong gần 50 năm qua.
Do đó, thậm chí trước khi ông Obama nhậm chức, đă có nguy cơ rằng ḷng tin của các nhà đầu tư sẽ tiêu tan trước một thời kỳ quá độ lộn xộn sang một tổng thống chưa được thử thách. Khoảng trống chính trị giữa thắng lợi của FDR (Franklin Delano Roosevelt) năm 1932 và lễ nhậm chức của ông vào năm sau đă làm cho những tháng đó nằm trong những tháng tồi tệ nhất của cuộc Đại Suy thoái.
Ông Obama đă làm nhũng ǵ mà ông có thể để làm giảm nhũng nỗi sợ hăi đó. Với tư cách là ứng cử viên tổng thống và là Thượng nghị sĩ, ông đă ủng hộ Chương tŕnh Cứu trợ Tài sản gặp rắc rối (TARP) không được ḷng dân do Henry Paulson, Bộ trưởng tài chính của George Bush, h́nh thành một cách vội vă. Sau cuộc bầu cử ông đă lựa chọn Tira Geithner, là một người có công trong việc ứng phó với khủng hoảng của chính quyền Bush, làm bộ trưởng tài chính của ḿnh. Những người c̣n lại trong êkíp kinh tế của ông – Larry Summers, là Bộ trưởng Tài chính của Bill Clinton; Peter Orszag, một giám đốc bảo thủ về tài chính của Cơ quan Ngân sách Quốc hội (CBO); và Christina Römer, một nhà kinh tế vĩ mô được kính trọng – tương tự đều làm yên ḷng.
Việc giải quyết một cuộc khủng hoảng tài chính có hệ thống đ̣i hỏi phải tái cung cấp vốn cho các thể chế tài chính yếu kém và chuyển các khoản cho vay khó đ̣i của họ từ khu vực tư nhân sang khu vực công. Dưới thời ông Bush, chính phủ đă bơm tiền mặt vào các ngân hàng. Nhưng những nghi ngại về khả năng của các nhà cho vay tồn tại qua một cuộc suy thoái tồi tệ vẫn c̣n dai dẳng. Ông Obama đă đối mặt với những yêu cầu quốc hữu hóa các ngân hàng yếu kém và buộc họ phải cho vay, hoặc để cho họ phá sản, ông Summers và ông Geithner đă coi cả hai biện pháp sẽ phá vỡ ḷng tin trong hệ thống tài chính, và thay vào đó tiến hành một loạt “kiểm tra năng lực tài chính” để xác định xem ngân hàng nào có đủ vốn. Những ngân hàng không có đủ vốn có thể hoặc huy động thêm vốn tư nhân hoặc huy động vốn từ TARP.
Phản ứng đầu tiên là một phản ứng gây thất vọng – cổ phiếu đă giảm mạnh. Các học giả dự đoán rằng ông Geithner sẽ sớm ra đi. Nhưng các cuộc kiểm tra tỏ ra khắt khe và minh bạch đủ để thuyết phục các nhà đầu tư rằng hệ thống ngân hàng không có ǵ nghiêm trọng được để lại để che giấu. Các ngân hàng buộc phải huy động hàng trăm tỉ USD vốn cổ phần. Tỉ lệ vốn ngân hàng hiện nay đă vưọt quá mức trước khủng hoảng và phần lớn số tiền của họ từ TARP đă được trả lại với một khoản lăi cho chính phủ. Các cuộc kiểm tra năng lực tài chính của châu Âu đă lỏng lẻo hơn, và một số ngân hàng đă qua được kiểm tra sau đó đă phải được giải cún tài chính.
Công ty General Motors (GM) và Chrysler đă thể hiện một thách thức khác. Thông thường một nhà sản xuất đang thất bại sẽ gán nợ và dần đi vào t́nh trạng phá sản dưới sự giám sát của ṭa án. Nhưng năm 2009 không có nhà cho vay nào sẽ cung cấp cho “con nợ sở hữu tài sản” khổng lồ khoản tài trợ mà việc tổ chức lại hai công ty này cần có. Phá sản có nghĩa là vỡ nợ. Điều đó sẽ xóa bỏ các nền kinh tế địa phương và các nhà cung cấp đúng vào lúc các ngân hàng đang được giải cứu. Mặt khác, đơn thuần việc cứu trợ các công ty được điều hành tồi tệ là quá hào phóng.
Giải pháp của Obama là buộc phải đưa cả hai công ty sản xuất ôtô vào bảo hộ phá sản, sau đó cung cấp tài trợ cần thiết đế tổ chức lại, với điều kiện cả hai công ty phải loại bỏ công suất và người lao động không cần đến. Cả hai công ty đă nổi lên từ phá sản trong ṿng vài tháng. Chrysler, hiện là một phần của công ty Fiat của Italia, lại bắt đầu có lăi, GM cũng vậy, công ty này đă trở lại thị trường chứng khoán vào năm 2010. Tuy nhiên, chính phủ sẽ có khả năng mất khoản tiền cứu trợ hai công ty này.
Những nỗ lực của Obama về việc giải quyết thị trường nhà ở ít thành công hơn. Vào đầu năm 2009, 9% số tiền thế chấp nhà ở, trị giá gần 900 tỉ USD, là không trả đúng hạn. Phương sách truyền thống kêu gọi chính phủ mua và sau đó làm giảm các khoản cho vay khó đ̣i này, làm trong sạch hệ thống ngân hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống này cho vay trở lại. Nhưng khi Bộ Tài chính xem xét những đề nghị như vậy, bộ này nhận thấy chưa có một cơ cấu sẵn có để trích số tiền cho vay vô giá trị từ những quỹ được chứng khoán hóa. Một biện pháp thay thế là trả tiền cho các ngân hàng để làm giảm các khoản cho vay xuống mức mà những người chủ nhà có thể xử lư được. Nhưng theo Michael Barr, người đă tiếp tục những nỗ lực đó và hiện giảng dạy tại trường Đại học Michigan, nhớ lại th́ nguy cơ là “người ta hoặc trả quá nhiều cho các ngân hàng… cứu trợ cửa sau mà không bảo trợ đầy đủ cho những người đóng thuế, hoặc trả quá ít và các ngân hàng sẽ không sẵn sàng làm điều đó”.
Thay vào đó, các nhà cho vay đă được thúc đẩy nhằm giảm bớt chi trả cho các khoản thế chấp bằng các khoản trợ cấp và nhũng đảm bảo cho vay. Ngay cả Fannie Mae và Freddie Mac, mặc dù hiện nay rơ ràng thuộc sở hữu của chính phủ, đă phản đối tham gia. Vào tháng 4, chỉ có 2,3 triệu khoản vay thế chấp được điều chỉnh hoặc tái tài trợ theo các chương tŕnh của chính quyền, so với mục tiêu từ 7 triệu đến 9 triệu. Nếu Obama đổ thêm tiền vào số vốn gốc đang suy giảm ngay tự đầu, th́ kết quả có thể là nguy cơ chính trị. Phillip Swasel, nhà kinh tế xử lư các vấn đề tương tự dưới thời ông Paulson, nói: “Họ đă tỏ ta thận trọng. Nh́n lại, tôi đánh cược là họ ước rằng họ không thận trọng, chi tiêu nhiều tiền, và thực sự giải quyết được vấn đề”.
Các hoạt động kinh tế kinh điển cho thấy khi chính sách tiền tệ thông thường bất lực, chỉ có chính sách tài chính mới có thể kéo nền kinh tế thoát khỏi thời kỳ suy thoái. Lần đầu tiên kể từ những năm 1930, Mỹ phải đối mặt với những hoàn cảnh như vậy vào tháng 12/2008. Ngân hàng Dự trữ Liên bang đă cắt giảm lăi suất ngắn hạn xuống bằng 0 vào tháng đó và đă tiến hành thử nghiệm biện pháp không thông thường, mua trái phiếu bằng tiền mới in. Lư lẽ biện minh cho sự kích thích tài chính do vậy là thỏa đáng.
Sự tăng trưởng chậm chạp từ năm 2009 đă nuôi dưỡng những đánh giá phản đối Đạo luật phục hồi và tái đầu tư của Mỹ trị giá 800 tỉ USD. Phe bảo thủ nói rằng gói kích thích kinh tế không phát huy tác dụng, hoặc rằng gói kích thích kinh tế của ông Obama được thiết kế tồi. Công bằng nhất mà nói họ đă sai. Daniel Wilson thuộc Ngân hàng Dự trữ Liên bang San Francisco suy luận hiệu quả của gói kích thích kinh tế thông qua một phân tích về dữ kiện công ăn việc làm cấp nhà nước. Ông đă kết luận rằng việc chi tiêu mang tính kích thích kinh tế này đă tạo ra hoặc cứu văn 3,4 triệu việc làm, sát với ước tính của CBO.
Những cáo buộc cho rằng kế hoạch kích thích kinh tế này có một phần được sử dụng không có hiệu quả cũng là không công bằng. Khoảng 1/3 số tiền này dành cho các khoản cắt giảm thuế hoặc tín dụng. Hầu hết việc chi tiêu đều diễn ra dưới h́nh thức chuyển giao trực tiếp cho các cá nhân, như tem lương thực và bảo hiểm thất nghiệp, hoặc cho các bang và các chính quyền địa phương, về các vấn đề như Medicaid.
Những người ‘theo đường lối tự do đưa ra lư lẽ trái ngược: gói kích thích kinh tế là quá ít. Theo lời lẽ của No am Scheiber trong cuốn sách của ông “Các nghệ sĩ bỏ trốn”, bà Romer ban đầu đề xuất một gói kích thích kinh tế 1,8 ngh́n tỉ USD, Được cho biết rằng con số đó là phi thực tế, bà xem xét lại hạ xuống c̣n 1,2 ngh́n tỉ USD, ông Obama cuối cùng đề nghị, và nhận được, khoảng 800 tỉ USD. Một số nhà chỉ trích lưu ư rằng con số này là quá ít so với số tiền thiếu hụt dự tính là 2 ngh́n tỉ USD trong hoạt động kinh tế năm 2009 và 2010. Nhưng con số này nhiều hơn so với số tiền Quốc hội đă từng chấp thuận trước đó. Bất chấp việc phe Cộng ḥa nam quyền Hạ viện năm 2010, ông Obama cuối cùng nhận được thêm gần 600 tỉ USD trong gói kích thích kinh tế, bao gồm cắt giảm thuế quỹ lương trong 2 năm.
Nếu gói kích thích kinh tế phát huy tác dụng, tại sao việc phục hồi kinh tế vẫn rất chập chạp? GDP trung b́nh chỉ tăng 2,2%, từ khi cuộc suy thoái kết thúc vào giữa năm 2009, một trong những sự phục hồi chậm nhất được ghi nhận. V́ một lẽ, nền kinh tế đă vấp phải những “lỗ hổng không khí” dưới dạng giá dầu cao hơn, một phần do Mùa Xuân Arập và khủng hoảng nợ châu Âu gây ra. Hơn nữa, theo Goldman Sachs, từ quư IV năm 2009, việc thắt lưng buộc bụng của bang và địa phương đă vô hiệu hóa thêm gói kích thích kinh tế liên bang.
Có lẽ sự giải thích đơn giản nhất là những phục hồi từ các cuộc khủng hoảng tài chính thường là rất yếu. Ông Obama đă có lỗi khi ngạo mạn cho rằng điều này sẽ khác hẳn. Ông cũng tạo ra những hy vọng rằng, một khi êkíp của ông từ bỏ sự can thiệp triệt để vào thị trường thế chấp, ông có thể sẽ không gặp phải t́nh trạng này.
Một nền kinh tế trong trí tưởng tượng riêng của ông Obama
Từ những ngày đầu tiên trong quá tŕnh vận động tranh cử, ông Obama đă nói rơ ông muốn làm hơn nữa chứ không chỉ khôi phục sự tăng trưởng: ông mơ ước tái tạo nền kinh tế Mỹ. Điều tốt nhất và sáng sủa nhất sẽ là dành cho năng lượng sạch, chứ không phải đầu cơ tài chính. Việc tăng cường đầu tư công cho giáo dục và cơ sở hạ tầng sẽ đem lại sức sống cho sản xuất, thúc đẩy thu nhập của tầng lớp trung lưu và ứng phó với thách thức cạnh tranh từ Trung Quốc.
Khi nhậm chức, Obama đă dốc sức cho chương tŕnh nghị sự đó, trong khi tỏ ra ưa thích chính sách công nghiệp. Jared Bernstein, lúc đó là cố vấn kinh tế cho phó Tổng thống Joe Biden, nói: “Khi chúng ta bắt đầu nói về Đạo luật phục hồi kinh tế vào tháng 12/2008, các cuộc thảo luận đầu tiên là về năng lượng sạch: mạng lưới điện thông minh, sức gió, năng lượng mặt trời, và các pin tiên tiến”. Một số cố vấn, như Summers, đă băn khoăn với chính sách công nghiệp. Những người khác, như ông Bemstein, đă lập luận rằng các hoạt động kinh tế chính thống cho phép chính phủ can thiệp vào công nghệ trong giai đoạn đầu.
Các mục tiêu ưu tiên cá nhân của ông Obama đă giành thắng lợi. Gói kích thích kinh tế đă dành khoảng 90 tỉ USD cho các dự án xanh, bao gồm 8 tỉ dành cho đường sắt cao tốc. Một phần trong số này rơ ràng đă bị lăng phí, nhưng có thể không đến mức như các nhà chỉ trích nghĩ. Chưa đến 2% các khoản vay dành cho năng lượng xanh gây tranh căi của Bộ Năng lượng, như khoản dành cho Solyndra, một công ty sản xuất tấm pin mặt trời hiện bị phá sản, đă bị lăng phí.
Vấn đề lớn hơn với sự chi tiêu này là nó đă đi ngược ḍng kinh tế. Năm ngoái ông Obama khoe khoang rằng Mỹ sẽ sớm đạt được 40% công suất sản xuất thế giới về pin ôtô điện tiên tiến. Nhưng với ôtô điện vẫn c̣n là sai số làm tṛn trong tổng số ôtô bán ra, công suất đó là không cần thiết. Nhiều công ty sản xuất pin đang chật vật để tồn tại. Các công ty sản xuất tấm pin mặt trời phải đối mặt với cuộc cạnh tranh giá rẻ từ Trung Quốc, trong khi khí đốt tự nhiên từ đá phiến đă làm xói ṃn lư lẽ ủng hộ điện năng từ mặt trời và sức gió. Về đường sắt cao tốc, đường cao tốc mở rộng, th́ hàng không giá rẻ và các chính quyền bang và chính quyền địa phương dễ tức giận đă làm cho sức sống của nó trở nên mơ hồ. Một khoản 3,5 tỉ USD của liên bang cấp cho California có thể không đi đến đâu v́ chi phí ước tính của dự án đường sắt cao tốc của bang này nằm ngoài sự kiểm soát.
Ồng Obama luôn tô vẽ ḿnh là một người thực dụng, chứ không phải một nhà tư tưởng, ông nói trong diễn văn nhậm chức của ḿnh: “Câu hỏi mà chúng ta đặt ra hôm nay không phải là liệu chính phủ của chúng ta quá lớn hay quá nhỏ, mà liệu nó có hoạt động hay không”. Mặc dù vậy, trên thực tế, ông luôn lựa chọn chính phủ lớn hơn chứ không phải chính phủ nhỏ.
Đôi khi đây là một vấn đề cần thiết. Sự phức tạp của luật y tế của ông Obama là kết quả của việc thực hiện giấc mơ của Đảng Dân chủ về chăm sóc sức khỏe phổ cập bên trong thị trường tư nhân đang tồn tại. Cuộc khủng hoảng tài chính khiến cho cần thiết phải xử lư các công ty tài chính thất bại mà không phải là các ngân hàng, hợp lư hóa các cơ cấu giám sát và điều chỉnh những vấn đề phát sinh, tất cả do Đạo luật Dodd-Frank đề ra.
Không may đạo luật này đề ra nhiều hơn thế. Trong các lĩnh vực khác, những người được Obama chỉ định cũng đă đề nghị hoặc thực hiện các quy tắc tốn kém và bừa băi hơn so với những người tiền nhiệm của họ về mọi việc từ các chuẩn mực tiết kiệm năng lượng cho xe ôtô đen các chất thải thủy ngân của các nhà máy điện. Chính quyền nói rằng những lợi ích của các quy tắc này quan trọng hơn chi phí, nhưng lư lẽ đó thường dựa trên những giả định đáng nghi ngờ.
Nếu khối lượng lớn các quy tắc mới xa lánh lĩnh vực kinh doanh, giọng điệu của ông Obama cũng gây ấn tượng rằng ông xuất thân từ một bộ tộc thù địch. Đây là sự tự chuốc lấy thất bại, hơn thế v́ những hành động của ông trong năm qua đă cho thấy một sự thay đổi phương hướng. Nhà Trắng đă buộc Cơ quan Bảo vệ môi trường hoăn áp dụng một chuẩn mực mới về khí ozon gây tốn kém và gây tranh căi. Ông Obama hiện nay là người ủng hộ khí đốt đá phiến. Chính quyền của ông đă đề ra những quy tắc mới có lợi cho ngành công nghiệp này, chẳng hạn cho phép các công ty khoan giếng dầu thêm hai năm để đáp ứng đường lối chỉ đạo về lượng khí thải.
Sau sự thờ ơ ban đầu, ông Obama cũng đă hâm nóng lĩnh vực thương mại. Ông đă tiến hành một thỏa thuận với Đảng Cộng ḥa nhằm thông qua 3 hiệp định thương mại song phương, và đang thúc đẩy Quan hệ đối tác xuyên Thái B́nh Dương. Ṿng đầu về thuế quan đối với mặt hàng lốp xe đă tỏ ra là một sự kích thích riêng biệt trong một mối quan hệ kinh tế mặt khác được xử lư khéo léo với Trung Quốc.
Chiều hướng thực dụng này có thể đă đến quá muộn đối với ông Obama đến mức không thể tranh thủ ve văn được nước Mỹ liên hợp. Thay vào đó, các h́nh thức thị trường tự do lo ngại rằng nếu không kiềm chế ảnh hưởng của các quan chức như ông Summers, Cass Sunstein và ông Geithner (người có thể ra đi khi kết thúc nhiệm kỳ này), các đệ tử theo đường lối can thiệp hơn của ông Obama sẽ vận hành chính phủ nhiệm kỳ hai.
Con voi trong nhiệm kỳ 2
Trên thực tế, ông Obama có thể tiến gần hơn đến phái giữa nếu ông giành thắng lợi nhiệm kỳ 2. Các mục tiêu luật pháp chủ yếu của ông – cải cách y tế và cải cách tài chính – đă đạt được. Phe Cộng ḥa gần như chắc chắn kiểm soát ít nhất một viện trong Quốc hội, ngăn cản các kế hoạch chi tiêu lớn mới, bất chấp t́nh trạng phục hồi kinh tế.
Điều đó để lại những vấn đề tài chính công. Người ta ít b́nh luận về ông Obama trên mặt trận đó. Sự thật, ông thừa hưởng sự thâm hụt ngân sách lớn nhất trong lịch sử thời b́nh, với tỉ lệ 10% GDP. Nhung năm 2009 ông cho rằng tỉ lệ này sẽ giảm xuống c̣n 3% vào năm tài chính sau. Thay vào đó, tỉ lệ này sẽ là 6%, nếu ông đi theo đường hướng của ḿnh. Trở lại năm 2009, ông cho rằng tỉ lệ nợ sẽ đạt đỉnh 70% GDP vào năm 2011. Hiện tỉ lệ này được dự tính lên đến 79% vào năm 2014, giả sử dự đoán tăng trưởng lạc quan của ông là đúng.
Đây hoàn toàn không phải là bản cáo trạng như nó dường như là như vậy: những chuẩn mực thông thường về sự chính trực về tài chính đă không được áp dụng trong 4 năm qua. Khi các hộ gia đ́nh, các công ty và các chính quyền bang và chính quyền địa phương đang cắt giảm nợ của họ, chính phủ liên bang sẽ làm cho cuộc suy thoái trở nên tồi tệ hơn bằng cách làm như vậy.
Ít có thể bào chữa được hơn là những kế hoạch về việc giảm thâm hụt trong tương lai. Bị trói buộc vào một lời hứa ngớ ngẩn là không tăng thuế đối với 95% hộ gia đ́nh, các kế hoạch của ông Obama gần như chỉ dựa vào việc đánh thuế đối với người giàu và các công ty. Những nỗ lực nhằm cắt giảm chi tiêu hầu hết rơi vào quốc pḥng và các hạng mục tùy theo t́nh h́nh khác (có nghĩa là các hạng mục được phê chuẩn lại hàng năm), ông chưa chính thức đề nghị các kế hoạch đáng tin cậy để giảm bớt sự gia tăng các chương tŕnh phúc lợi. Cuộc cải cách y tế của ông không làm cho thâm hụt thêm tồi tệ. Nhưng nó ít có tác dụng đối với sự gia tăng trong chương tŕnh Medicare, nguồn chi tiêu lâu dài lớn nhất duy nhất.
Ông Obama cho rằng cuộc cải cách về phúc lợi sẽ là một phần trong cuộc mặc cả lớn trong đó phe Cộng ḥa cũng đồng ư tăng thuế. Ông đă tính toán nhầm: phe Cộng ḥa không nhượng bộ về thuế. Nhưng cũng có một thỏa thuận sẽ được tiến hành nếu ông Obama giành thắng lợi nhiệm kỳ hai. Do “hẻm núi” ngăn cách giữa hai đảng, dường như có khả năng hơn là cả hai đảng sẽ trở lại thể thức thường xuyên của họ là cáo buộc lẫn nhau. Nhưng cả tổng thống lẫn Đảng Cộng ḥa đều muốn có một biện pháp thay thế cho sự kết hợp đáng báo động vào cuối năm của việc hết hạn cắt giảm thuế và những cắt giảm sâu rộng chi phí tùy theo t́nh h́nh và chi phí quốc pḥng được biết đến như là “vách đá tài chính”.
Mùa Hè vừa qua ông Obama và John Boelner, Chủ tịch Hạ viện đă nhanh chóng tiến hành thỏa thuận về việc tăng thuế và cắt giảm các chương tŕnh phúc lợi. Cuộc mặc cả này đă thất bại phần lớn v́ những tính toán sai lầm chính trị của cả hai người. Việc tái cử của ông Obama có thể cho phép cả hai tiếp tục lại từ gần chỗ mà họ đă ngừng. Ông vẫn có cơ hội để cải thiện điểm số tồi tệ nhất trong phiếu thành tích của ḿnh. Ông Obama nên đi ra và làm việc đó từ nay đến ngày 6/11.