vuitoichat
01-07-2013, 16:13
Dấu ấn của những cuộc “Bạo lực cánh mạng”
Nếu phải chọn một trong hai h́nh thái trên, tôi chọn ”DIỄN BIẾN HOÀ B̀NH “. Bởi “Bạo lực cách mạng“ là bước đường cùng để nhân dân bằng “sức mạnh cứng” của ḿnh đập tan một thể chế chính trị tàn bạo, tham nhũng, một thể chế đối lập với nhân dân về mọi phương diện, trong thể chế ấy mọi quyền của dân đều bị tước đoạt và kẻ cầm quyền lộng hành … đẩy dân vào con đường cùng. Tức nước vỡ bờ, trên thực tế đây là sự đối đầu một sống một chết giữa nhân dân – kẻ bị trị và bên kia là kẻ cầm quyền – kẻ thống trị nắm giữ mọi quyền lực. Với tôi dù bên nào thắng th́ vẫn gây ra những tấn thảm kịch cho nhân dân, dẫn đất nước vào chỗ suy vong.
Nhưng nói thế không có nghĩa là tôi vô cảm với những cuộc “BẠO LỰC CÁCH MẠNG“ của nhân dân 13 xứ thuộc địa Anh cùng đứng dậy giành lại nền độc lập từ tay thực dân Anh và từ đó xây nên bản Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1791 ,trong đó có 10 tu chính án như đóng đinh vào lịch sử tiến hoá của nhân loại về quyền của con người và quyền của kẻ cai trị, trong đó dân có quyền “Tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do tôn giáo …” Và cuộc “Bạo lực cách mạng” Pháp năm 1789-1799. Tuyên ngôn nhân quyền từ cuộc “Bạo lực cách mạng” này cho tới hôm nay vẫn là điểm son mà loài người tiến bộ nhớ ơn: “…Người ta sinh ra tự do và b́nh đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và b́nh đẳng về quyền lợi”. “Nguyên tắc chủ yếu đặt ở chủ quyền Quốc gia. Không một tổ chức, không một cá nhân nào có thể sử dụng quyền hành mà không xuất phát từ nguyên tắc đó”.
Chính những cuộc “Bạo lực cách mạng” trên đă tước đi những quyền mang tính tuyệt đối của các nhà cầm quyền độc tài, toàn trị, sa đoạ, và buộc họ phải coi dân làm trọng.
Cách mạng tháng Mười năm 1917 là “Bạo lực cách mạng” lật đổ chế độ Sa Hoàng bằng sức mạnh cứng của nhân dân và quân đội. Nhưng cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 của ta lại là cuộc “Diễn biến hoà b́nh”. Con đường thành công của cách mạng tháng Tám là cuộc tuyên truyền, vận động nhân dân…và chờ thời cơ chín muồi, chuyển hoá một chính thể thực dân – phong kiến sang chính thể dân chủ cộng hoà. Xét trên phương diện rộng, th́ đây chính là chọn lựa của cụ Phan Chu Trinh: Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.
Lịch sử những cuộc chuyển hoá quyền lực
“Diễn biến hoà b́nh” thực chất là sự chuyển hoá tư duy. Từ tư duy cũ theo truyền thống, vận động sang tư duy mới tiến bộ hơn, hợp xu thế thời đại và hợp ḷng dân hơn. Rất tiếc loài người đang ở giữa thập niên 20 của thế kỷ 21 mà một vài quốc gia như Việt Nam lại không muốn thay đổi tư duy, thậm chí muốn quay lại tư duy truyền thống theo kiểu phong kiến, nghĩa là ai giành được nước th́ sẽ giữ độc quyền cai trị dân hết thế hệ này sang thế hệ khác. Nếu trước đây theo kiểu cha truyền con nối th́ ngày nay theo nhóm lợi ích có tôn chỉ mục đích đậm nét h́nh thức. Trên thực tế chính sách mị dân thuở ban sơ ấy đă mất ḷng tin trong dân từ lâu lắm rồi. Quyền lực từ xưa tới nay bao giờ cũng có sức mê hoặc rất lớn, có sức hút đáng sợ, ngay cả những chính khách hay nhà văn hoá lớn cũng không dễ rứt ra được; và nếu quyền lực rơi vào tay những kẻ chủ yếu lao động bằng cơ bắp, mang “thành phần cơ bản”, th́ quyền lực là mối nguy hiểm cho cả dân tộc! Và v́ vậy họ rất sợ “Diễn biến hoà b́nh”. Những lư giải sai lệch “Diễn biến hoà b́nh” của họ hoàn toàn dựa theo cảm tính chủ quan, thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn lịch sử. Hăy đọc lại lịch sử nước nhà để thấy “Diễn biến hoà b́nh” là tất yếu của sự tiến hoá loài người, không có ǵ phải lo sợ.
Lịch sử Đại Việt c̣n ghi rơ ở triều Đinh, Đinh Tuệ lên ngôi lúc 6 tuổi. Vào lúc quân Tống chuẩn bị xâm chiếm nước ta, cả triều thần tôn Lê Hoàn lên ngôi. Thái hậu họ Dương, vượt qua lệ ước ḍng họ, đă đứng về phía Lê Hoàn, chấp nhận phế đế, chung ḷng chống kẻ thù tuyền kiếp của Đại Việt. Cuộc phế lập trong ôn hoà của Dương Thái hậu và đ́nh thần triều Đinh đă xoay chuyển t́nh thế, làm chỗ dựa cho cuộc chống Tống kết quả và đưa nhà tiền Lê vào lịch sử như một vương triều có công chống xâm lược của Đại Việt.
Cuối nhà tiền Lê, bắt đầu bằng cuộc tranh giành ngôi vương và sự bạo ngược của Lê Long Đỉnh …Triều thần tiền Lê đă sáng suốt tôn Lư Công Uẩn lên ngôi. Tất nhiên công đầu thuộc về nhà sư Vạn Hạnh. Không ngờ đây lại là một triều đại có tầm nh́n của trăm năm, ngh́n năm, cấp tiến, để lại cho hậu thế những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể sáng giá cho đến tận hôm nay. Văn hoá đời Lư là văn hoá từ bi hỷ xả của Phật giáo. Nhớ lại cuối thời tiền Lê, xă hội Đại Việt lấy quyền lực làm quốc sách, anh em tranh giành nhau quyền lực, giết hại nhau v́ quyền lực, tàn bạo, sa đọạ, dâm đăng … mới thấy Lư Thái tổ tôn vinh Phật giáo, lấy tư tưởng nhà Phật làm tư tưởng chính thống của Đại Việt là có lư do của Ngài. Con người ấy, tư tưởng ấy, tầm nh́n ấy đă không do dự dời đô về La Thành – Đại La và sau đổi thành Thăng Long. Về chính trị, ngoại giao,… Lư Thái Tổ đă tự ḿnh làm gương, bắt các thái tử phải cầm quân ra trận. Dư âm của các sứ quân, rồi Chiêm Thành, Chân Lạp đều lo sợ không c̣n đất sống, phải triều cống Đại Việt để “bảo toàn đất nước và sinh mạng nhân dân”. Đại Việt bước vào thời kỳ nước yên, biển lặng, giặc Tống cũng nể sợ, muốn mà không dám gây hấn.
Vua tôi đồng ḷng, đấy là thời kỳ giữa vua và dân ít có khoảng cách nhất. Suy đi ngẫm lại, phế và lập theo con đường “Diễn biến hoà b́nh” là cần thiết cho một xă hội tàn bạo, hủ bại, tham nhũng, hách dịch, chuyên quyền chuyển hoá bằng con đường hoà b́nh sang một xă hội tiến bộ hơn, tốt đẹp hơn, nhân ái và hợp ḷng dân hơn mà ít tốn xương máu, th́ ai lại nỡ lên án, thậm chí căm thù, dùng quyền lực mà triệt tiêu.
“Quân sư” cho “diễn biến hoà b́nh” ở Việt Nam là Trần Thủ Độ. Nếu không có sự tận diệt con cháu nhà Lư cho chắc vương triều Trần vô cùng dă man th́ đây là cuộc chuyển giao quyền lực đẹp nhất từ vương triều Lư đang suy vong sang vương triều Trần đầy sinh lực. Lịch sử không có “giá như”, nếu cho phép “giá như” th́ tôi “giá như” không có cuộc phế lập bằng con đường “Diễn biến hoà b́nh” này, th́ Đại Việt ta chắc khó bề đương nổi với đế quốc Nguyên Mông hùng mạnh đang tung vó ngựa từ Đông sang Tây. Chính trong cái hoạ binh đao Nguyên Mông thế kỷ 13, dân tộc ta xuất hiện nhiều danh tướng và hiền tài cho tới hôm nay vẫn c̣n là những v́ sao chói sáng trên bầu trời nhân loại.
Thật là một thiếu sót, nếu lịch sử quên cuộc phế – lập, “Diễn biến hoà b́nh” triều đại Lê Thánh Tông. Triều Lê Nhân tông tưởng suy bởi sự tranh giành quyền lực, các nhóm triều thần gian xảo làm những cuộc đảo chính, lập thái tử Nghi Dân lên ngôi. Nhưng chỉ 6 tháng sau, cuộc “Diễn biến hoà b́nh”của các đại thần c̣n chút ḷng yêu nước thương ṇi đă lập Tư Thành lên ngôi, hiệu là Lê Thánh tông. Khác với các vua trước cùng thời, Lê Thánh Tông tỏ rơ bản lĩnh và đức độ của một đấng anh quân, đă khai sáng triều đại ḿnh.
Cho đến hôm nay, là người Việt, dù có đi bốn phương trời, nhưng không ai không tự hào về đất nước ngh́n năm văn hiến của ḿnh. Nhưng cái gốc của ngh́n năm văn hiến khởi nguồn từ đâu? Tôi nghĩ có thể nó bắt đầu từ đời Lư với việc định đô ra Thăng Long của Lư Thái tổ, với việc lập Văn Miếu của Lư Thánh Tông… Nét Văn hoá từ bi hỷ xả sâu đậm nhất ở thời kỳ này.
Văn hiến thời Trần là Hội nghị Diên Hồng, t́m sự đồng ḷng trong công cuộc chống kẻ thù mạnh hơn ta trăm lần, ngh́n lần, là “Sát thát!” với kẻ thù, là văn hoá độ lượng dung tha, gác lại quá khứ hướng về tương lai của các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông sau khi thắng trận. Một nét văn hoá đậm tính nhân văn của cha ông một thời cực đẹp vậy mà ở thời hiện đại nhiều nhà lănh đạo của chính thể mới lại e dè, lo ngại và hướng về tư tưởng bảo vệ vương triều hơn là tư tưởng nhân văn thời Trần. Điều đó tạo nên sự hận thù của người trong một nước, chứ không hề nghĩ về Hội nghị Diên Hồng, nghĩ về hai chữ “Sát thát!”, về khoan dung. Nói cách khác, ư thức hệ đă đẩy chủ nghĩa nhân văn ra khỏi tầm với của nền văn hiến có tự ngàn xưa! Mối nguy hiểm mà cha ông thời nào cũng cảnh giác là đưa đất nước xích lại gần hơn với kẻ thù và đẩy nhân dân ra khỏi tầm của Hội nghị Diên Hồng.
Nhưng nét văn hiến ngh́n năm đậm nét nhất là ở văn hoá đời Lê với tư tưởng nhân văn của Nguyễn Trăi, tư tưởng “Tâm công sách” của nhà văn hoá kiệt xuất này. Sau Nguyễn Trăi là Lê Thánh tông. Đây là một vị vua để lại sau ḿnh nhiều giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lớn nhất trong các triều đại. Ngoài việc “định phép thi hương, sửa phép thi hội” nhằm chọn hiền tài cho đất nước, danh xưng tiến sĩ bắt đầu từ triều đại này. Trong văn bia đời Lê Thánh Tông, tiến sĩ Thân Nhân Trung để lại cho hậu thế những câu bất hủ: “… Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh th́ thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy th́ thế nước yếu mà thấp hèn. V́ thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết.” Với 24 điều dạy của vua Lê Thánh Tông, chúng ta cảm nhận được giá trị của một nền văn hoá cốt lơi của Việt Nam hôm nay: nền văn hoá lấy dân làm trọng, quan lại là nô bộc của dân, ư dân là ư Trời. Và cũng bắt đầu từ vua Lê Thánh Tông, cương vực lănh thổ, trên bộ, trên biển đảo được các quan sở tại tŕnh báo chi tiết từ nơi ḿnh ở có núi, sông, hồ, biển đảo, … lên triều đ́nh để lập địa đồ cho nước được chính xác. Ngài c̣n căn dặn các tướng sĩ:
“Ta phải ǵn giữ cho cẩn thận đừng để cho ai lấy một phân núi, một tấc sông của vua Thái Rổ để lại .”
Trần Trọng Kim viết trong “Việt Nam sử lược”: “… Xem những công việc của vua Thánh Tông th́ ngài thật là một đấng anh quân. Những sự văn trị và vơ công ở nước Nam ta không có đời nào thịnh hơn thời Hồng Đức. Nhờ có vua Thái Tổ th́ giang sơn nước Nam mới c̣n, và nhờ có vua Thánh Tông th́ văn hoá nước ta mới thịnh.”
“Diễn biến hoà b́nh” không phải như những ǵ người ta gán ghép
Lật lại lịch sử phát triển Việt Nam ta th́ “Bạo lực cách mạng” thường xảy ra khi cần lật đổ ách đô hộ của kẻ thù dân tộc, c̣n hầu hết những chuyển hoá các triều đại đều là từ việc phế – lập mà ngày nay gọi là “Diễn biến hoà b́nh”. Đấy cũng là sự vận động khách quan của quy luật. Không hiểu từ cơ sở nào mà có người lại định nghĩa: “’Diễn biến hoà b́nh’ là một trong những chiến lược có ư nghĩa và phạm vi toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, được h́nh thành từ những năm cuối thập kỷ 40 đầu thập kỷ 50, hoàn chỉnh ở thập kỷ 80 của thế kỷ 20, nhằm chống các nước XHCN, phong trào độc lập dân tộc và phong trào tiến bộ trên thế giới…” (Báo điện tử của Đảng CSVN).
Quả thật tôi chưa bao giờ dám nghĩ có một Thánh nhân nào đó lại có thể lật đổ được CNXH ở Đông Âu và Liên Xô. Bởi lẽ các chế độ này qua một bộ máy tuyên truyền lớn nhất trong mọi thời đại đă bám rễ sâu từ trung ương đến tận hang cùng ngơ hẻm các làng xă trên 50 năm ở các nước Đông Âu và 70 năm ở Nga. Hơn một lần tôi nói trên mạng Internet rằng sự sụp đổ ấy bắt nguồn từ ư chí chủ quan của nhiều nhà lănh đạo các nước XHCN. Chính họ đă bất chấp quy luật tiến hoá của lịch sử phát triển loài người. Sau trên 2 thập kỷ, tôi chưa thấy Đảng cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu trở lại nắm quyền lănh đạo ở nước họ – mặc dù chế độ mới ở các nước ấy không cấm Đảng cộng sản hoạt động. V́ vậy, một Khrutsov, một Gorbachev không thể có sức mạnh siêu phàm nào để giữ cái chính quyền ra đời từ ư chí luận của các bậc tiền nhiệm! Nói cách khác, Khrutsov nhận ra tính không tưởng của thể chế mà họ đang dắt nhân dân Nga đi, nhưng đến Gorbachev nhận ra sự bất đồng quyết kiệt của nhân dân Nga với chính quyền mà ông là đại diện, và sự chuyển biến của ông nằm trong cái thế tất yếu của lịch sử.
Những cuộc “Diễn biến hoà b́nh” gần đây nhất là những cuộc cách mạng mang tên hoa nhài ở các nước Bắc Phi. Những cuộc xuống đường của nhân dân đă buộc những nhà lănh đạo cao nhất, từng có thâm niên trị v́ nước họ, phải từ chức, hoặc phế bỏ. Ai cưỡng lại sức mạnh của nhân dân, người đó hăy noi gương Gaddafi ở chiếc cống ngầm!
Nhưng tôi lại thiện cảm với đất nước Miến Điện. 40 năm trong chế độ quân phiệt, nhưng dân tộc này lại “Diễn biến hoà b́nh” theo đúng nghĩa của cụm từ trên để lột xác thành một nước tự do, dân chủ và nhân quyền đích thực, những nhà chính trị khác chính kiến đă được tự do ra khỏi trại giam và tiếp tục hoạt động trở lại. Người tù nhân tiêu biểu là bà Suu Kyi. Báo chí và xuất bản đă được tháo “ṿng kim cô” định hướng, khống chế và kiểm duyệt. Dân được quyền ra báo và xuất bản, lập hội, biểu t́nh, … như những ǵ mà Nguyễn Ái Quốc đ̣i thực dân Pháp phải trao cho nhân dân VN từ đầu những năm 20 của thế kỷ trước. Vậy mà hôm nay Quốc hội VN vẫn chưa thông qua được luật xuất bản trong đó tư nhân được lập nhà xuất bản. C̣n Miến Điện th́ …coi đó là chuyện tất yếu để trở thành một nước dân chủ.
Công lao vĩ đại này trước tiên thuộc về tổng thống Thein Sein.
Lịch sử các triều đại chứng minh, những kẻ nắm quyền lực, thường có xu hướng giữ chặt quyền lực, tăng thêm uy quyền để dễ trị v́ dân chúng, và v́ vậy trường hợp vị tổng thống đương nhiệm Thein Sein là một ngoại lệ. Hành động của tổng thống Thein Sein chắc chắn được nhân dân thế giới tôn vinh như là bậc vĩ nhân của thời hiện đại, dám chia xẻ quyền lực, đúng hơn là trao lại quyền lực về tay nhân dân, làm một tấm gương cho không ít nhà lănh đạo một số nước đang c̣n mê muội bởi quyền lực, coi nhân dân như những tù nhân của chính ḿnh dưới lớp vỏ hào nhoáng: Chính quyền của dân, do dân, v́ dân!
Việt Nam thời hiện đại vẫn c̣n đó những tấm gương trung dũng kiên cường, học rộng tài cao chí lớn …mưu lược một thời. Ở đây tôi xin nhắc đến Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc. Cả ba nhà chí sĩ này theo 3 con đường cứu nước khác nhau. Phan Bội Châu th́ nhờ đồng lân, đồng chủng là Nhật Bản giúp ta chống Tây. Phan Chu Trinh theo con đường “thức tỉnh nhân tâm, hợp quần, hợp xă, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, ai nấy thấy rơ ngọn nguồn, đồng tâm hiệp lực đạp đổ cường quyền …” (Thư của Phan Chu Trinh gởi Nguyễn Ái Quốc ở Marseille 18-12-1922). C̣n Nguyễn Ái Quốc th́ theo Quốc tế 3. Ở đây tôi không đề cập đến nội dung của hai con đường cứu nước(giữa PCT và NAQ) mà tôi chỉ nói tới phương pháp cách mạng không đồng nhất giữa hai người, cũng trong thư PCT gởi NAQ: “…từ thời xưa tới nay, từ Á sang Âu chưa có một người nào làm cái việc như anh (NAQ), anh lấy cái lẽ ở nước ḿnh lưới giăng tứ bề, mà về nước ắt là sa cơ, gia dĩ dân t́nh sĩ khí cơ hồ tan tác, bởi cái chính sách cường quyền nên sự hấp thụ lí thuyết kém cỏi, bởi thế mà anh cứ khư khư cái phương pháp “ngoạ ngoại chiêu hiền đăi thời đột nội”.
Nhưng cuối cùng Nguyễn Ái Quốc đă thành công. Cuộc Cách mạng tháng Tám dựng lên nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, cùng với Tuyên ngôn độc lập, Bản hiến pháp năm 1946 … là sự tích luỹ bao kinh nghiệm, bài học, thành quả của nhân loại tiến bộ cho tới thời ấy mà Nguyễn Ái Quốc có được.
Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc là tấn công chính quốc ngay trên chính quốc. Và khi có điều kiện th́ về nước. Cuộc “Diễn biến hoà b́nh” cách mạng tháng Tám năm 1945 đă được Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị và mai phục từ những năm 20 của thế kỷ 20. Rất tiếc sau đó cuộc “Diễn biến hoà b́nh” lại trở thành “Bạo lực cách mạng” do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, mà hôm nay chưa dễ có sự đồng thuận của nhiều nhà lịch sử, nhà khoa học, học giả trong và ngoài nước. Nhưng nh́n vào thực tế th́ ai cũng thấy Quốc tế 3 thất bại và Quốc tế 2 thành công ít nhất là ở các nước Tây Âu. Lănh tụ của Quốc tế 2 là Enghen. Những năm cuối đời, Enghen nh́n thấy sai lầm của chủ nghĩa L.A. Blanqui (lănh đạo thuộc phái bạo lực trong Quốc tế 1): Dựa vào bạo lực cách mạng là có thể tạo ra một xă hội không có áp bức và bóc lột! “…Tuy nhiên, đừng tưởng đó là toàn bộ nền chuyên chính của toàn bộ giai cấp cách mạng tức là giai cấp vô sản, mà là chuyên chính của số ít người …số người này lại phục tùng chuyên chính của một hoặc vài người” (Toàn tập Marx-Enghen, cuốn 18, tr 580-581 bản Hoa văn). Thời hiện đại TBT Ziuganov cho rằng: “Nguyên nhân cơ bản khiến Liên Xô và Đảng cộng sản sụp đổ là sự lũng đoạn đối với tài sản, quyền lực và chân lư”. Ở đây không có kẻ thù địch và “Diễn biến hoà b́nh” nào cả!
Nếu phải chọn một trong hai h́nh thái trên, tôi chọn ”DIỄN BIẾN HOÀ B̀NH “. Bởi “Bạo lực cách mạng“ là bước đường cùng để nhân dân bằng “sức mạnh cứng” của ḿnh đập tan một thể chế chính trị tàn bạo, tham nhũng, một thể chế đối lập với nhân dân về mọi phương diện, trong thể chế ấy mọi quyền của dân đều bị tước đoạt và kẻ cầm quyền lộng hành … đẩy dân vào con đường cùng. Tức nước vỡ bờ, trên thực tế đây là sự đối đầu một sống một chết giữa nhân dân – kẻ bị trị và bên kia là kẻ cầm quyền – kẻ thống trị nắm giữ mọi quyền lực. Với tôi dù bên nào thắng th́ vẫn gây ra những tấn thảm kịch cho nhân dân, dẫn đất nước vào chỗ suy vong.
Nhưng nói thế không có nghĩa là tôi vô cảm với những cuộc “BẠO LỰC CÁCH MẠNG“ của nhân dân 13 xứ thuộc địa Anh cùng đứng dậy giành lại nền độc lập từ tay thực dân Anh và từ đó xây nên bản Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1791 ,trong đó có 10 tu chính án như đóng đinh vào lịch sử tiến hoá của nhân loại về quyền của con người và quyền của kẻ cai trị, trong đó dân có quyền “Tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do tôn giáo …” Và cuộc “Bạo lực cách mạng” Pháp năm 1789-1799. Tuyên ngôn nhân quyền từ cuộc “Bạo lực cách mạng” này cho tới hôm nay vẫn là điểm son mà loài người tiến bộ nhớ ơn: “…Người ta sinh ra tự do và b́nh đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và b́nh đẳng về quyền lợi”. “Nguyên tắc chủ yếu đặt ở chủ quyền Quốc gia. Không một tổ chức, không một cá nhân nào có thể sử dụng quyền hành mà không xuất phát từ nguyên tắc đó”.
Chính những cuộc “Bạo lực cách mạng” trên đă tước đi những quyền mang tính tuyệt đối của các nhà cầm quyền độc tài, toàn trị, sa đoạ, và buộc họ phải coi dân làm trọng.
Cách mạng tháng Mười năm 1917 là “Bạo lực cách mạng” lật đổ chế độ Sa Hoàng bằng sức mạnh cứng của nhân dân và quân đội. Nhưng cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 của ta lại là cuộc “Diễn biến hoà b́nh”. Con đường thành công của cách mạng tháng Tám là cuộc tuyên truyền, vận động nhân dân…và chờ thời cơ chín muồi, chuyển hoá một chính thể thực dân – phong kiến sang chính thể dân chủ cộng hoà. Xét trên phương diện rộng, th́ đây chính là chọn lựa của cụ Phan Chu Trinh: Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.
Lịch sử những cuộc chuyển hoá quyền lực
“Diễn biến hoà b́nh” thực chất là sự chuyển hoá tư duy. Từ tư duy cũ theo truyền thống, vận động sang tư duy mới tiến bộ hơn, hợp xu thế thời đại và hợp ḷng dân hơn. Rất tiếc loài người đang ở giữa thập niên 20 của thế kỷ 21 mà một vài quốc gia như Việt Nam lại không muốn thay đổi tư duy, thậm chí muốn quay lại tư duy truyền thống theo kiểu phong kiến, nghĩa là ai giành được nước th́ sẽ giữ độc quyền cai trị dân hết thế hệ này sang thế hệ khác. Nếu trước đây theo kiểu cha truyền con nối th́ ngày nay theo nhóm lợi ích có tôn chỉ mục đích đậm nét h́nh thức. Trên thực tế chính sách mị dân thuở ban sơ ấy đă mất ḷng tin trong dân từ lâu lắm rồi. Quyền lực từ xưa tới nay bao giờ cũng có sức mê hoặc rất lớn, có sức hút đáng sợ, ngay cả những chính khách hay nhà văn hoá lớn cũng không dễ rứt ra được; và nếu quyền lực rơi vào tay những kẻ chủ yếu lao động bằng cơ bắp, mang “thành phần cơ bản”, th́ quyền lực là mối nguy hiểm cho cả dân tộc! Và v́ vậy họ rất sợ “Diễn biến hoà b́nh”. Những lư giải sai lệch “Diễn biến hoà b́nh” của họ hoàn toàn dựa theo cảm tính chủ quan, thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn lịch sử. Hăy đọc lại lịch sử nước nhà để thấy “Diễn biến hoà b́nh” là tất yếu của sự tiến hoá loài người, không có ǵ phải lo sợ.
Lịch sử Đại Việt c̣n ghi rơ ở triều Đinh, Đinh Tuệ lên ngôi lúc 6 tuổi. Vào lúc quân Tống chuẩn bị xâm chiếm nước ta, cả triều thần tôn Lê Hoàn lên ngôi. Thái hậu họ Dương, vượt qua lệ ước ḍng họ, đă đứng về phía Lê Hoàn, chấp nhận phế đế, chung ḷng chống kẻ thù tuyền kiếp của Đại Việt. Cuộc phế lập trong ôn hoà của Dương Thái hậu và đ́nh thần triều Đinh đă xoay chuyển t́nh thế, làm chỗ dựa cho cuộc chống Tống kết quả và đưa nhà tiền Lê vào lịch sử như một vương triều có công chống xâm lược của Đại Việt.
Cuối nhà tiền Lê, bắt đầu bằng cuộc tranh giành ngôi vương và sự bạo ngược của Lê Long Đỉnh …Triều thần tiền Lê đă sáng suốt tôn Lư Công Uẩn lên ngôi. Tất nhiên công đầu thuộc về nhà sư Vạn Hạnh. Không ngờ đây lại là một triều đại có tầm nh́n của trăm năm, ngh́n năm, cấp tiến, để lại cho hậu thế những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể sáng giá cho đến tận hôm nay. Văn hoá đời Lư là văn hoá từ bi hỷ xả của Phật giáo. Nhớ lại cuối thời tiền Lê, xă hội Đại Việt lấy quyền lực làm quốc sách, anh em tranh giành nhau quyền lực, giết hại nhau v́ quyền lực, tàn bạo, sa đọạ, dâm đăng … mới thấy Lư Thái tổ tôn vinh Phật giáo, lấy tư tưởng nhà Phật làm tư tưởng chính thống của Đại Việt là có lư do của Ngài. Con người ấy, tư tưởng ấy, tầm nh́n ấy đă không do dự dời đô về La Thành – Đại La và sau đổi thành Thăng Long. Về chính trị, ngoại giao,… Lư Thái Tổ đă tự ḿnh làm gương, bắt các thái tử phải cầm quân ra trận. Dư âm của các sứ quân, rồi Chiêm Thành, Chân Lạp đều lo sợ không c̣n đất sống, phải triều cống Đại Việt để “bảo toàn đất nước và sinh mạng nhân dân”. Đại Việt bước vào thời kỳ nước yên, biển lặng, giặc Tống cũng nể sợ, muốn mà không dám gây hấn.
Vua tôi đồng ḷng, đấy là thời kỳ giữa vua và dân ít có khoảng cách nhất. Suy đi ngẫm lại, phế và lập theo con đường “Diễn biến hoà b́nh” là cần thiết cho một xă hội tàn bạo, hủ bại, tham nhũng, hách dịch, chuyên quyền chuyển hoá bằng con đường hoà b́nh sang một xă hội tiến bộ hơn, tốt đẹp hơn, nhân ái và hợp ḷng dân hơn mà ít tốn xương máu, th́ ai lại nỡ lên án, thậm chí căm thù, dùng quyền lực mà triệt tiêu.
“Quân sư” cho “diễn biến hoà b́nh” ở Việt Nam là Trần Thủ Độ. Nếu không có sự tận diệt con cháu nhà Lư cho chắc vương triều Trần vô cùng dă man th́ đây là cuộc chuyển giao quyền lực đẹp nhất từ vương triều Lư đang suy vong sang vương triều Trần đầy sinh lực. Lịch sử không có “giá như”, nếu cho phép “giá như” th́ tôi “giá như” không có cuộc phế lập bằng con đường “Diễn biến hoà b́nh” này, th́ Đại Việt ta chắc khó bề đương nổi với đế quốc Nguyên Mông hùng mạnh đang tung vó ngựa từ Đông sang Tây. Chính trong cái hoạ binh đao Nguyên Mông thế kỷ 13, dân tộc ta xuất hiện nhiều danh tướng và hiền tài cho tới hôm nay vẫn c̣n là những v́ sao chói sáng trên bầu trời nhân loại.
Thật là một thiếu sót, nếu lịch sử quên cuộc phế – lập, “Diễn biến hoà b́nh” triều đại Lê Thánh Tông. Triều Lê Nhân tông tưởng suy bởi sự tranh giành quyền lực, các nhóm triều thần gian xảo làm những cuộc đảo chính, lập thái tử Nghi Dân lên ngôi. Nhưng chỉ 6 tháng sau, cuộc “Diễn biến hoà b́nh”của các đại thần c̣n chút ḷng yêu nước thương ṇi đă lập Tư Thành lên ngôi, hiệu là Lê Thánh tông. Khác với các vua trước cùng thời, Lê Thánh Tông tỏ rơ bản lĩnh và đức độ của một đấng anh quân, đă khai sáng triều đại ḿnh.
Cho đến hôm nay, là người Việt, dù có đi bốn phương trời, nhưng không ai không tự hào về đất nước ngh́n năm văn hiến của ḿnh. Nhưng cái gốc của ngh́n năm văn hiến khởi nguồn từ đâu? Tôi nghĩ có thể nó bắt đầu từ đời Lư với việc định đô ra Thăng Long của Lư Thái tổ, với việc lập Văn Miếu của Lư Thánh Tông… Nét Văn hoá từ bi hỷ xả sâu đậm nhất ở thời kỳ này.
Văn hiến thời Trần là Hội nghị Diên Hồng, t́m sự đồng ḷng trong công cuộc chống kẻ thù mạnh hơn ta trăm lần, ngh́n lần, là “Sát thát!” với kẻ thù, là văn hoá độ lượng dung tha, gác lại quá khứ hướng về tương lai của các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông sau khi thắng trận. Một nét văn hoá đậm tính nhân văn của cha ông một thời cực đẹp vậy mà ở thời hiện đại nhiều nhà lănh đạo của chính thể mới lại e dè, lo ngại và hướng về tư tưởng bảo vệ vương triều hơn là tư tưởng nhân văn thời Trần. Điều đó tạo nên sự hận thù của người trong một nước, chứ không hề nghĩ về Hội nghị Diên Hồng, nghĩ về hai chữ “Sát thát!”, về khoan dung. Nói cách khác, ư thức hệ đă đẩy chủ nghĩa nhân văn ra khỏi tầm với của nền văn hiến có tự ngàn xưa! Mối nguy hiểm mà cha ông thời nào cũng cảnh giác là đưa đất nước xích lại gần hơn với kẻ thù và đẩy nhân dân ra khỏi tầm của Hội nghị Diên Hồng.
Nhưng nét văn hiến ngh́n năm đậm nét nhất là ở văn hoá đời Lê với tư tưởng nhân văn của Nguyễn Trăi, tư tưởng “Tâm công sách” của nhà văn hoá kiệt xuất này. Sau Nguyễn Trăi là Lê Thánh tông. Đây là một vị vua để lại sau ḿnh nhiều giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lớn nhất trong các triều đại. Ngoài việc “định phép thi hương, sửa phép thi hội” nhằm chọn hiền tài cho đất nước, danh xưng tiến sĩ bắt đầu từ triều đại này. Trong văn bia đời Lê Thánh Tông, tiến sĩ Thân Nhân Trung để lại cho hậu thế những câu bất hủ: “… Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh th́ thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy th́ thế nước yếu mà thấp hèn. V́ thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết.” Với 24 điều dạy của vua Lê Thánh Tông, chúng ta cảm nhận được giá trị của một nền văn hoá cốt lơi của Việt Nam hôm nay: nền văn hoá lấy dân làm trọng, quan lại là nô bộc của dân, ư dân là ư Trời. Và cũng bắt đầu từ vua Lê Thánh Tông, cương vực lănh thổ, trên bộ, trên biển đảo được các quan sở tại tŕnh báo chi tiết từ nơi ḿnh ở có núi, sông, hồ, biển đảo, … lên triều đ́nh để lập địa đồ cho nước được chính xác. Ngài c̣n căn dặn các tướng sĩ:
“Ta phải ǵn giữ cho cẩn thận đừng để cho ai lấy một phân núi, một tấc sông của vua Thái Rổ để lại .”
Trần Trọng Kim viết trong “Việt Nam sử lược”: “… Xem những công việc của vua Thánh Tông th́ ngài thật là một đấng anh quân. Những sự văn trị và vơ công ở nước Nam ta không có đời nào thịnh hơn thời Hồng Đức. Nhờ có vua Thái Tổ th́ giang sơn nước Nam mới c̣n, và nhờ có vua Thánh Tông th́ văn hoá nước ta mới thịnh.”
“Diễn biến hoà b́nh” không phải như những ǵ người ta gán ghép
Lật lại lịch sử phát triển Việt Nam ta th́ “Bạo lực cách mạng” thường xảy ra khi cần lật đổ ách đô hộ của kẻ thù dân tộc, c̣n hầu hết những chuyển hoá các triều đại đều là từ việc phế – lập mà ngày nay gọi là “Diễn biến hoà b́nh”. Đấy cũng là sự vận động khách quan của quy luật. Không hiểu từ cơ sở nào mà có người lại định nghĩa: “’Diễn biến hoà b́nh’ là một trong những chiến lược có ư nghĩa và phạm vi toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, được h́nh thành từ những năm cuối thập kỷ 40 đầu thập kỷ 50, hoàn chỉnh ở thập kỷ 80 của thế kỷ 20, nhằm chống các nước XHCN, phong trào độc lập dân tộc và phong trào tiến bộ trên thế giới…” (Báo điện tử của Đảng CSVN).
Quả thật tôi chưa bao giờ dám nghĩ có một Thánh nhân nào đó lại có thể lật đổ được CNXH ở Đông Âu và Liên Xô. Bởi lẽ các chế độ này qua một bộ máy tuyên truyền lớn nhất trong mọi thời đại đă bám rễ sâu từ trung ương đến tận hang cùng ngơ hẻm các làng xă trên 50 năm ở các nước Đông Âu và 70 năm ở Nga. Hơn một lần tôi nói trên mạng Internet rằng sự sụp đổ ấy bắt nguồn từ ư chí chủ quan của nhiều nhà lănh đạo các nước XHCN. Chính họ đă bất chấp quy luật tiến hoá của lịch sử phát triển loài người. Sau trên 2 thập kỷ, tôi chưa thấy Đảng cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu trở lại nắm quyền lănh đạo ở nước họ – mặc dù chế độ mới ở các nước ấy không cấm Đảng cộng sản hoạt động. V́ vậy, một Khrutsov, một Gorbachev không thể có sức mạnh siêu phàm nào để giữ cái chính quyền ra đời từ ư chí luận của các bậc tiền nhiệm! Nói cách khác, Khrutsov nhận ra tính không tưởng của thể chế mà họ đang dắt nhân dân Nga đi, nhưng đến Gorbachev nhận ra sự bất đồng quyết kiệt của nhân dân Nga với chính quyền mà ông là đại diện, và sự chuyển biến của ông nằm trong cái thế tất yếu của lịch sử.
Những cuộc “Diễn biến hoà b́nh” gần đây nhất là những cuộc cách mạng mang tên hoa nhài ở các nước Bắc Phi. Những cuộc xuống đường của nhân dân đă buộc những nhà lănh đạo cao nhất, từng có thâm niên trị v́ nước họ, phải từ chức, hoặc phế bỏ. Ai cưỡng lại sức mạnh của nhân dân, người đó hăy noi gương Gaddafi ở chiếc cống ngầm!
Nhưng tôi lại thiện cảm với đất nước Miến Điện. 40 năm trong chế độ quân phiệt, nhưng dân tộc này lại “Diễn biến hoà b́nh” theo đúng nghĩa của cụm từ trên để lột xác thành một nước tự do, dân chủ và nhân quyền đích thực, những nhà chính trị khác chính kiến đă được tự do ra khỏi trại giam và tiếp tục hoạt động trở lại. Người tù nhân tiêu biểu là bà Suu Kyi. Báo chí và xuất bản đă được tháo “ṿng kim cô” định hướng, khống chế và kiểm duyệt. Dân được quyền ra báo và xuất bản, lập hội, biểu t́nh, … như những ǵ mà Nguyễn Ái Quốc đ̣i thực dân Pháp phải trao cho nhân dân VN từ đầu những năm 20 của thế kỷ trước. Vậy mà hôm nay Quốc hội VN vẫn chưa thông qua được luật xuất bản trong đó tư nhân được lập nhà xuất bản. C̣n Miến Điện th́ …coi đó là chuyện tất yếu để trở thành một nước dân chủ.
Công lao vĩ đại này trước tiên thuộc về tổng thống Thein Sein.
Lịch sử các triều đại chứng minh, những kẻ nắm quyền lực, thường có xu hướng giữ chặt quyền lực, tăng thêm uy quyền để dễ trị v́ dân chúng, và v́ vậy trường hợp vị tổng thống đương nhiệm Thein Sein là một ngoại lệ. Hành động của tổng thống Thein Sein chắc chắn được nhân dân thế giới tôn vinh như là bậc vĩ nhân của thời hiện đại, dám chia xẻ quyền lực, đúng hơn là trao lại quyền lực về tay nhân dân, làm một tấm gương cho không ít nhà lănh đạo một số nước đang c̣n mê muội bởi quyền lực, coi nhân dân như những tù nhân của chính ḿnh dưới lớp vỏ hào nhoáng: Chính quyền của dân, do dân, v́ dân!
Việt Nam thời hiện đại vẫn c̣n đó những tấm gương trung dũng kiên cường, học rộng tài cao chí lớn …mưu lược một thời. Ở đây tôi xin nhắc đến Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc. Cả ba nhà chí sĩ này theo 3 con đường cứu nước khác nhau. Phan Bội Châu th́ nhờ đồng lân, đồng chủng là Nhật Bản giúp ta chống Tây. Phan Chu Trinh theo con đường “thức tỉnh nhân tâm, hợp quần, hợp xă, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, ai nấy thấy rơ ngọn nguồn, đồng tâm hiệp lực đạp đổ cường quyền …” (Thư của Phan Chu Trinh gởi Nguyễn Ái Quốc ở Marseille 18-12-1922). C̣n Nguyễn Ái Quốc th́ theo Quốc tế 3. Ở đây tôi không đề cập đến nội dung của hai con đường cứu nước(giữa PCT và NAQ) mà tôi chỉ nói tới phương pháp cách mạng không đồng nhất giữa hai người, cũng trong thư PCT gởi NAQ: “…từ thời xưa tới nay, từ Á sang Âu chưa có một người nào làm cái việc như anh (NAQ), anh lấy cái lẽ ở nước ḿnh lưới giăng tứ bề, mà về nước ắt là sa cơ, gia dĩ dân t́nh sĩ khí cơ hồ tan tác, bởi cái chính sách cường quyền nên sự hấp thụ lí thuyết kém cỏi, bởi thế mà anh cứ khư khư cái phương pháp “ngoạ ngoại chiêu hiền đăi thời đột nội”.
Nhưng cuối cùng Nguyễn Ái Quốc đă thành công. Cuộc Cách mạng tháng Tám dựng lên nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, cùng với Tuyên ngôn độc lập, Bản hiến pháp năm 1946 … là sự tích luỹ bao kinh nghiệm, bài học, thành quả của nhân loại tiến bộ cho tới thời ấy mà Nguyễn Ái Quốc có được.
Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc là tấn công chính quốc ngay trên chính quốc. Và khi có điều kiện th́ về nước. Cuộc “Diễn biến hoà b́nh” cách mạng tháng Tám năm 1945 đă được Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị và mai phục từ những năm 20 của thế kỷ 20. Rất tiếc sau đó cuộc “Diễn biến hoà b́nh” lại trở thành “Bạo lực cách mạng” do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, mà hôm nay chưa dễ có sự đồng thuận của nhiều nhà lịch sử, nhà khoa học, học giả trong và ngoài nước. Nhưng nh́n vào thực tế th́ ai cũng thấy Quốc tế 3 thất bại và Quốc tế 2 thành công ít nhất là ở các nước Tây Âu. Lănh tụ của Quốc tế 2 là Enghen. Những năm cuối đời, Enghen nh́n thấy sai lầm của chủ nghĩa L.A. Blanqui (lănh đạo thuộc phái bạo lực trong Quốc tế 1): Dựa vào bạo lực cách mạng là có thể tạo ra một xă hội không có áp bức và bóc lột! “…Tuy nhiên, đừng tưởng đó là toàn bộ nền chuyên chính của toàn bộ giai cấp cách mạng tức là giai cấp vô sản, mà là chuyên chính của số ít người …số người này lại phục tùng chuyên chính của một hoặc vài người” (Toàn tập Marx-Enghen, cuốn 18, tr 580-581 bản Hoa văn). Thời hiện đại TBT Ziuganov cho rằng: “Nguyên nhân cơ bản khiến Liên Xô và Đảng cộng sản sụp đổ là sự lũng đoạn đối với tài sản, quyền lực và chân lư”. Ở đây không có kẻ thù địch và “Diễn biến hoà b́nh” nào cả!