johnnydan9
04-21-2013, 16:23
Chuyện khó tin ấy tưởng chừng chỉ có trong tiểu thuyết. Khi mặt trời đứng bóng trên triền đồi bạt ngàn của làng Kuk th́ ông Đinh Xuân Vi mới đi làm rẫy về.
Ḿnh trần, chiếc quần dài trễ xuống quá rốn, khuôn ngực ông gầy, nổi từng đốt xương phập phồng theo nhịp thở. Căn lều mái tôn sùm sụp trên đầu khiến tôi có cảm giác ông mang từ rẫy về cái nắng nôi và bụi bặm của một đời người.
Thấy khách lạ ở trong nhà, ông vẫn thủng thẳng tắm táp, gội rửa rồi mới lấy tẩu thuốc ra ngồi với khách. Rất tự nhiên, ông cứ ngồi bệt giữa nhà mà tṛ chuyện.
Tôi hiểu là nếp làng đă bắt vào ông. Giá vô t́nh gặp ở ngoài đường, tôi cũng sẽ đinh ninh ông là một già làng như bao nhiêu già làng khác của vùng cao nguyên này.
<table style="margin: auto;" align="center" border="0" cellpadding="3" cellspacing="3" width="1"><tbody><tr><td>http://res.vtc.vn/media/vtcnews/2013/04/21/200413thsccboru1dan-viet.jpg</td></tr><tr><td style="font-family: Arial; font-size: 10pt; color: rgb(0, 32, 96);" align="center">Ông Đinh Xuân Vi trước ngôi nhà của ḿnh. </td></tr></tbody></table>
Người sót lại của chiến tranh
Ông bắt đầu câu chuyện bằng cái giọng chứa nhiều chua chát. Quê ông ở tận Yên Bái, nhập ngũ năm 1965, phiên hiệu đơn vị ông chỉ c̣n mang máng là tiểu đoàn 1, quân khu Việt Bắc.
Một năm sau, ông được điều đi B, phiên chế về binh trạm trung, mặt trận B3. Suốt 14 năm lăn lộn với chiến trường Tây nguyên ác liệt, với cấp bậc trung úy, đại đội trưởng, tŕnh độ học vấn lớp 10, nếu không v́ cái “sự cố” bất ngờ ấy th́ chí ít ông cũng đă được cái “lon” thượng tá mà về hưu, đâu phải mỏi ṃn ở cái làng bản xa xôi này cho đến bây giờ.
“Số là cuối năm 1972, tôi được giao phụ trách kho gạo ở đồi Ba Không. Một đêm nghe tiếng mưa đổ bất thường, tôi tỉnh giấc nh́n ra th́ đă thấy bốn bề nước láng băng. Ở xứ này, những cơn mưa lở trời lở đất như thế cũng chẳng phải hiếm gặp.
Đang định khoác áo mưa ra kho xem thế nào th́ đă nghe ngoài vách tiếng rào rào nổi lên như có bầy voi rừng đang đạp cây tiến đến. Một cơn lũ quét bất chợt ập về. Chúng tôi ngoi ngóp trong làn nước, may mà không ai bị cuốn trôi.
Định thần lại, nh́n ra bờ suối th́ kho gạo đă bay biến mất tự lúc nào. Sự cố bất khả kháng nhưng tất cả lính kho đều bị kỷ luật, và đương nhiên tôi là người nặng nhất.
Cũng cứ nghĩ đấy chỉ là cái án nhất thời, nào ngờ, cho đến tận ngày giải phóng, mọi cuộc b́nh bầu khen thưởng tôi đều bị gạt ra.” - giọng ông Vi bỗng trở nên xa xăm như đang sống lại những kư ức buồn.
Trăn trở về câu chuyện của ḿnh, ông viết một bức thư cho chỉ huy xin được ra ngoài tạo lập cuộc sống. Rồi chỉ có một bộ quần áo trên người, ông lội bộ t́m về làng Kuk. Làng Kuk bấy giờ xác xơ, đói rét lắm, song cũng chẳng biết đi đâu bởi đây là nơi duy nhất ông có người quen.
Từ lúc về làng, ông Vi thú thật là cũng không ít lần nghĩ đến việc về thăm nhà. Con chim, con thú c̣n biết nhớ cây, nhớ cội, con người sao có thể đành đoạn tuyệt với ruột thịt, quê hương? Thế nhưng, cứ khoác túi bước xuống cầu thang, ông lại tưởng tượng ra những câu hỏi tất yếu của mẹ và những người thân trong gia đ́nh.
Cùng đi B với nhau, cũng bấy nhiêu năm vào chết ra sống, người ta lên úy, lên tá, c̣n ḿnh trơ cái thân không trở về, nếu không đi đầu hàng địch th́ cũng là đào ngũ. Hẳn rằng có thanh minh thế nào th́ mọi người cũng không chấp nhận. Thế là ông lại khoác túi trở lên nhà.
Cứ trượt theo lối suy nghĩ ấy, thư ông cũng chẳng viết, điện thoại về cũng không… “Bây giờ th́ dễ chừng đă có bằng “Tổ quốc ghi công” treo ở quê, nỗi đau của người thân có lẽ cũng đă lắng. Vậy th́ hăy để niềm tin ngủ yên, c̣n xáo động lên làm ǵ sự hoài nghi dằn vặt bởi sự “sống lại” muộn màng này nữa?” - ông Vi chua chát.
<table style="margin: auto;" align="center" border="0" cellpadding="3" cellspacing="3" width="1"><tbody><tr><td>http://res.vtc.vn/media/vtcnews/2013/04/21/200413thsccboru3dan-viet_1.jpg</td></tr><tr><td style="font-family: Arial; font-size: 10pt; color: rgb(0, 32, 96);" align="center">"Giang sơn" của ông Vi trong gần 40 năm ở trên mảnh rừng này. </td></tr></tbody></table>
Tôi nh́n mênh mang vào cái “thế giới” của ông. Căn cḥi thưng bằng nứa lồ ô lợp tôn vá víu được ông chia làm hai ngăn. Ngăn trong cắm một chiếc sạp gỗ buông màn tối om, ư chừng là nơi ngủ của ông. Gian ngoài làm bếp. Từ đây về tới làng Kuk dễ chừng phải đến 3 cây số.
Hút mắt nh́n ra chỉ thấy bốn bề cao su và cà phê vây bủa. Ông phân trần rằng, bởi suốt ngày trần lưng ngoài rẫy, tối mới đáo về nấu cơm ăn rồi lăn ra ngủ. Một ḿnh một cơi nên cũng chẳng buồn nghĩ đến phương tiện sinh hoạt. Xưa sống sao, bây giờ cứ vậy.
Gần bốn chục năm gắn bó với làng, lại c̣n co ḿnh vào cơi cùng của thế giới ấy nữa, ông đă mặc cảm với cuộc sống đến độ không biết tự thương thân.
Những thăng trầm số phận
Tôi không thể không bật cười bởi ḍng suy nghĩ cực đoan của ông. “Đă đành là bác có lỗi, nhưng cái nh́n xă hội bây giờ đă thoáng lắm rồi. Mà như bác nói th́ Nhà nước đă cho hưởng trợ cấp một lần, thế có nghĩa là xem như ḿnh được xóa lỗi.
Bưu điện xă ngay kia, chỉ cần một cú gọi dịch vụ là có ngay số điện thoại UBND quê nhà bác. Rồi cứ nhắn tin như thế, như thế… Việc gặp lại người thân chỉ gang tấc mà thôi!”. Mặc cho tôi nói, ông vẫn cứ ngồi lặng, lúc lâu mới buông một câu gọn lỏn chẳng để làm ǵ: “Có lẽ rồi cũng thử xem? Biết đâu...”.
Trước khi vào làng Kuk t́m ông, tôi đă nghe không ít lời đồn đại chuyện thuốc thư, bùa ngải khá ly kỳ ở ngôi làng này. Người mách tin cho tôi thậm chí c̣n quả quyết: “Cứ cho là trước đây rừng núi mịt mù, điều kiện liên lạc không có th́ cũng đành. Bây giờ ở làng Kuk, đến đứa trẻ con cũng biết điện thoại di động mà vẫn không nghĩ đến chuyện về quê hay t́m cách liên lạc với gia đ́nh th́ tôi tin chắc là ông ấy đă bị bỏ bùa rồi (!)”.
<table style="margin-right: 7px;" align="left" cellpadding="3" cellspacing="3" width="240"><tbody><tr><td><fieldset style="background-color: rgb(242, 242, 242);"><legend></legend> “Trong những ngày vô vị đầu tiên khi tôi về làng Kuk này, tôi đă t́nh cờ gặp Rmah Thận. Bà ấy vốn là thanh niên xung phong của mặt trận B3. Cũng đă gặp mặt một đôi lần ǵ đó ở binh trạm nhưng tôi đâu có hay bà ấy ở làng này.Như là duyên tiền định, chỉ con gà với ghè rượu, chúng tôi nên vợ nên chồng.” - ông Vi chậm răi uống một ngụm rượu ngọt như người ta uống nước, rồi bắt đầu câu chuyện về mái ấm của ḿnh. </fieldset></td></tr></tbody></table>Bây giờ gặp, tôi mới hiểu chưa hẳn chuyện bùa mê, thuốc lú đă có tác dụng với ông. Ông đưa tôi về nhà. Vợ ông, bà Rmah Thận đang ngồi sưởi nắng trước hiên nhà. Cả tháng nay bà cứ cảm giác như có con lươn đang trườn trên da thịt. Cái lạnh cứ thấm vào từng đốt xương rờn rợn…
“Bệnh người già đấy mà!” - bà bảo thế. C̣n ông Vi cầm tay bà, nói một câu ǵ đó bằng tiếng Jrai, thấy bà lọm khọm đứng dậy đi vào bếp, rồi mang ra một ghè rượu và một ít cá khô.
Hồi ấy làng Kuk này nhà nào cũng đói xác xơ v́ mới chạy loạn từ Campuchia về. Nhà bà Rmah Thận cũng thế nên chẳng giúp được ǵ, hai vợ chồng ông bắt đầu tạo dựng cuộc sống từ con số 0.
Làm việc không tiếc thân ḿnh, vốn liếng có lúc lên tới 7 con ḅ, lẽ ra ông đă được đền bù hay chí ít ra th́ cũng đă có căn nhà đàng hoàng để ở, thế nhưng rốt cuộc lại trở về tay trắng.
Nguyên do là bởi bệnh tật ŕnh rập khắp nơi, sốt rét hoành hành. Mỗi gùi lúa ba chục cân chỉ đổi được liều thuốc sốt. Mà ông th́ chẳng nhớ bao lần bị sốt. “Có một lần tôi sốt chẳng biết đă mấy ngày. Trong mê man chợt nghe văng vẳng tiếng chiêng.
Cố mở mắt th́ thấy họ hàng đang chuẩn bị đập heo để làm ma. Đă không dưới 2 lần tôi được chuẩn bị cho về làng ma như thế, vậy mà như có phép mầu lại được sống. Trời có lẽ cũng thương tôi vào chết ra sống bao năm ở chiến trường không nỡ bắt hay chăng?” - ông Vi cười sảng khoái như khoe một chiến tích của ḿnh.
<table style="margin: auto;" align="center" border="0" cellpadding="3" cellspacing="3" width="1"><tbody><tr><td>http://res.vtc.vn/media/vtcnews/2013/04/21/200413thsccboru2dan-viet_1.jpg</td></tr><tr><td style="font-family: Arial; font-size: 10pt; color: rgb(0, 32, 96);" align="center">Bà Rmah Thận, người níu giữ trái tim đầy mặc cảm của ông Vi trên vùng cao nguyên ấy. </td></tr></tbody></table>
Thực ra th́ nỗi đau thể xác ấy có đận rồi cũng qua, chuyện đáng nói hơn là con cái. Dù ông chỉ kể sơ sài th́ tôi cũng cảm nhận được nỗi buồn thầm kín ấy. Ông có đến 8 đứa con, 4 trai, 4 gái.
Trong cái không gian làng như bao đứa trẻ cùng thời, chúng cứ lớn lên lấm láp và gần như hoang dă. Có đe nẹt hết cách th́ một đứa cũng chỉ tới được lớp 6, một đứa men tới lớp 9 th́ bỏ. Chúng thích lên rẫy hơn là đến trường.
Đau nhất là đứa con đầu. Nó cao to, trắng trẻo, đẹp trai nhất làng. Với đồng bào, điều khác thường như vậy chỉ là do ma lai ám. Giá là con ai khác th́ bị giết công khai rồi, song có lẽ v́ ngại ông, người ta chỉ xầm x́ bàn tán.
Thế rồi bỗng dưng nó bị bệnh, chết một cách bí hiểm. Vợ ông quả quyết là nó bị bỏ “thuốc thư”. Ông chẳng tin nhưng nỗi đau này cứ ám ảnh không thể nào nguôi.
Sáng tinh mơ đă chui ra khỏi lều, chiều nhọ mặt người mới chui về. Vậy mà 3 năm đầu, vợ chồng ông cũng đói vàng cả mắt, toàn phải đi đào củ mài ăn. Thời chiến tranh con mắt nh́n mọi chuyện đều đơn giản, đến lúc ḥa b́nh mới thấy cuộc sống bao điều phải suy xét, lo toan.
Ông ở nhờ nhà vợ, 6 con người phải chen chúc nhau trong túp lều dễ chừng chỉ nhỉnh hơn cḥi lúa. Hiểu rằng ḿnh đang như con ḅ kéo cỗ xe ngược dốc, từ tinh mơ đến tối mịt, ông trần ḿnh trên rẫy, tối lại về xoay trần nấu rượu, rồi th́ đi bộ 20 cây số lấy muối, cá khô về cho vợ đổi lúa lấy lời. Rồi cứ theo lẽ thường tạo hóa, chúng lần lượt lấy vợ lấy chồng, gắn cuộc đời với rẫy nương.
Buồn hơn cả trong số chúng là Siu Hoa. Hoa là cô gái trắng trẻo, xinh xắn vào hàng nhất làng Kuk. Hoa lấy Rơ Châm Then cùng làng. Năm 2004, làng Kuk bị cuốn vào cơn lốc vượt biên. Nghe lời bọn phản động dụ dỗ, Then đă đành đoạn bỏ lại đứa con mới thôi nôi và người vợ trẻ để đi t́m “đất hứa”.
Trong chuyến đ̣ vượt sông Pô Kô vào cái đêm mưa gió băo bùng ấy, chỉ mỗi Then và đứa cháu gái may mắn thoát chết. Nhưng cập được bờ “đất hứa” rồi, anh ta lại viết thư về tuyên bố bỏ vợ. “Đau nỗi con dang dở đă một nhẽ, ḿnh là cựu chiến binh, là người hiểu biết ở làng này, lại để xảy ra chuyện đáng chê trách như vậy, chẳng phải là mang tiếng lắm sao?” - ông Vi phân trần mà ánh mắt buồn vời vợi.
Sự đền đáp quư giá nhất đời ông là một t́nh yêu bền chặt. Ông Vi nh́n bà Rmah Thận âu yếm, cái nh́n của sự chia sẻ và có chút hàm ơn: “Bà ấy không được học hành, sống theo lẽ thường của bao người đàn bà ở làng này.
Nhưng với tôi, trong cái vỏ thô tháp ấy là một viên ngọc t́nh yêu. Thú thật là những ngày đầu sống chung, không ít lần tôi đă trăn trở về sự lựa chọn của ḿnh, thậm chí đă có lúc tôi định bỏ trốn. Thế nhưng, cứ mỗi lần chạm tới ư nghĩ tội lỗi ấy là lại thấy ḿnh hèn.
Những tai ương, những nỗi buồn đă qua, nói “trời thương” là thuận miệng chứ không có bà ấy, dễ tôi đă buông xuôi hay “tiêu cực” từ rất lâu rồi. Làm sao tồn tại bằng sự trốn chạy ấy nếu phía sau không có bà ấy là điểm tựa.
Rồi bây giờ với 2 ha rẫy cao su và cà phê mỗi năm thu mấy trăm triệu đồng là thành quả lao động bao nhiêu năm trời, tôi đâu phải là cái máy nếu không có t́nh yêu của bà ấy “điều khiển”. Thế nên đă bao lần tôi tự cười ḿnh khi đâu đó người ta x́ xầm rằng tôi bị “bỏ bùa”. Đúng là tôi đă bị bỏ bùa như thế đấy!”.
Ở Tây nguyên, những người có cảnh ngộ như ông cũng không phải hiếm, nhưng tôi biết họ đă lần lượt bước qua mặc cảm t́m về quê quán gặp lại người thân. <table style="padding: 5px;" align="center" cellpadding="3" cellspacing="3" width="460"><tbody><tr><td><fieldset style="background-color: rgb(242, 242, 242);"><legend></legend> Năm nay ông Vi đă bước vào tuổi 65. Cuối đời, ông hẳn cũng như bao người Jrai ở làng Kuk này, sẽ lại về với đất, sẽ được bỏ mả như người Jrai để rồi tan biến vào bầu trời như một giọt sương. Kiếp người với cái ṿng luân hồi “đất - người - ma - đất” theo quan niệm của người Jrai thô sơ mà triết lư, ôm hết cho bao tộc người trên thế gian này.
Tôi bảo ông giờ thảnh thơi rồi, liên lạc với quê hương bản quán đi, ông ậm ừ bảo sẽ cố. Chắc là nói để yên ḷng khách chứ tôi tin ông chẳng chịu làm đâu. Nỗi mặc cảm trong ông vẫn c̣n quá lớn.
Chiều mênh mang buồn trên đại ngàn, tôi cứ nghĩ măi về câu chuyện cuộc đời của ông Vi, cứ nghĩ về những phận người c̣n sót lại sau chiến tranh như ông mà ngậm ngùi. Cũng may sao, ông Vi c̣n được bù trừ những điều tuyệt vời về một gia đ́nh với t́nh yêu định mệnh.</fieldset></td></tr></tbody></table>
Ḿnh trần, chiếc quần dài trễ xuống quá rốn, khuôn ngực ông gầy, nổi từng đốt xương phập phồng theo nhịp thở. Căn lều mái tôn sùm sụp trên đầu khiến tôi có cảm giác ông mang từ rẫy về cái nắng nôi và bụi bặm của một đời người.
Thấy khách lạ ở trong nhà, ông vẫn thủng thẳng tắm táp, gội rửa rồi mới lấy tẩu thuốc ra ngồi với khách. Rất tự nhiên, ông cứ ngồi bệt giữa nhà mà tṛ chuyện.
Tôi hiểu là nếp làng đă bắt vào ông. Giá vô t́nh gặp ở ngoài đường, tôi cũng sẽ đinh ninh ông là một già làng như bao nhiêu già làng khác của vùng cao nguyên này.
<table style="margin: auto;" align="center" border="0" cellpadding="3" cellspacing="3" width="1"><tbody><tr><td>http://res.vtc.vn/media/vtcnews/2013/04/21/200413thsccboru1dan-viet.jpg</td></tr><tr><td style="font-family: Arial; font-size: 10pt; color: rgb(0, 32, 96);" align="center">Ông Đinh Xuân Vi trước ngôi nhà của ḿnh. </td></tr></tbody></table>
Người sót lại của chiến tranh
Ông bắt đầu câu chuyện bằng cái giọng chứa nhiều chua chát. Quê ông ở tận Yên Bái, nhập ngũ năm 1965, phiên hiệu đơn vị ông chỉ c̣n mang máng là tiểu đoàn 1, quân khu Việt Bắc.
Một năm sau, ông được điều đi B, phiên chế về binh trạm trung, mặt trận B3. Suốt 14 năm lăn lộn với chiến trường Tây nguyên ác liệt, với cấp bậc trung úy, đại đội trưởng, tŕnh độ học vấn lớp 10, nếu không v́ cái “sự cố” bất ngờ ấy th́ chí ít ông cũng đă được cái “lon” thượng tá mà về hưu, đâu phải mỏi ṃn ở cái làng bản xa xôi này cho đến bây giờ.
“Số là cuối năm 1972, tôi được giao phụ trách kho gạo ở đồi Ba Không. Một đêm nghe tiếng mưa đổ bất thường, tôi tỉnh giấc nh́n ra th́ đă thấy bốn bề nước láng băng. Ở xứ này, những cơn mưa lở trời lở đất như thế cũng chẳng phải hiếm gặp.
Đang định khoác áo mưa ra kho xem thế nào th́ đă nghe ngoài vách tiếng rào rào nổi lên như có bầy voi rừng đang đạp cây tiến đến. Một cơn lũ quét bất chợt ập về. Chúng tôi ngoi ngóp trong làn nước, may mà không ai bị cuốn trôi.
Định thần lại, nh́n ra bờ suối th́ kho gạo đă bay biến mất tự lúc nào. Sự cố bất khả kháng nhưng tất cả lính kho đều bị kỷ luật, và đương nhiên tôi là người nặng nhất.
Cũng cứ nghĩ đấy chỉ là cái án nhất thời, nào ngờ, cho đến tận ngày giải phóng, mọi cuộc b́nh bầu khen thưởng tôi đều bị gạt ra.” - giọng ông Vi bỗng trở nên xa xăm như đang sống lại những kư ức buồn.
Trăn trở về câu chuyện của ḿnh, ông viết một bức thư cho chỉ huy xin được ra ngoài tạo lập cuộc sống. Rồi chỉ có một bộ quần áo trên người, ông lội bộ t́m về làng Kuk. Làng Kuk bấy giờ xác xơ, đói rét lắm, song cũng chẳng biết đi đâu bởi đây là nơi duy nhất ông có người quen.
Từ lúc về làng, ông Vi thú thật là cũng không ít lần nghĩ đến việc về thăm nhà. Con chim, con thú c̣n biết nhớ cây, nhớ cội, con người sao có thể đành đoạn tuyệt với ruột thịt, quê hương? Thế nhưng, cứ khoác túi bước xuống cầu thang, ông lại tưởng tượng ra những câu hỏi tất yếu của mẹ và những người thân trong gia đ́nh.
Cùng đi B với nhau, cũng bấy nhiêu năm vào chết ra sống, người ta lên úy, lên tá, c̣n ḿnh trơ cái thân không trở về, nếu không đi đầu hàng địch th́ cũng là đào ngũ. Hẳn rằng có thanh minh thế nào th́ mọi người cũng không chấp nhận. Thế là ông lại khoác túi trở lên nhà.
Cứ trượt theo lối suy nghĩ ấy, thư ông cũng chẳng viết, điện thoại về cũng không… “Bây giờ th́ dễ chừng đă có bằng “Tổ quốc ghi công” treo ở quê, nỗi đau của người thân có lẽ cũng đă lắng. Vậy th́ hăy để niềm tin ngủ yên, c̣n xáo động lên làm ǵ sự hoài nghi dằn vặt bởi sự “sống lại” muộn màng này nữa?” - ông Vi chua chát.
<table style="margin: auto;" align="center" border="0" cellpadding="3" cellspacing="3" width="1"><tbody><tr><td>http://res.vtc.vn/media/vtcnews/2013/04/21/200413thsccboru3dan-viet_1.jpg</td></tr><tr><td style="font-family: Arial; font-size: 10pt; color: rgb(0, 32, 96);" align="center">"Giang sơn" của ông Vi trong gần 40 năm ở trên mảnh rừng này. </td></tr></tbody></table>
Tôi nh́n mênh mang vào cái “thế giới” của ông. Căn cḥi thưng bằng nứa lồ ô lợp tôn vá víu được ông chia làm hai ngăn. Ngăn trong cắm một chiếc sạp gỗ buông màn tối om, ư chừng là nơi ngủ của ông. Gian ngoài làm bếp. Từ đây về tới làng Kuk dễ chừng phải đến 3 cây số.
Hút mắt nh́n ra chỉ thấy bốn bề cao su và cà phê vây bủa. Ông phân trần rằng, bởi suốt ngày trần lưng ngoài rẫy, tối mới đáo về nấu cơm ăn rồi lăn ra ngủ. Một ḿnh một cơi nên cũng chẳng buồn nghĩ đến phương tiện sinh hoạt. Xưa sống sao, bây giờ cứ vậy.
Gần bốn chục năm gắn bó với làng, lại c̣n co ḿnh vào cơi cùng của thế giới ấy nữa, ông đă mặc cảm với cuộc sống đến độ không biết tự thương thân.
Những thăng trầm số phận
Tôi không thể không bật cười bởi ḍng suy nghĩ cực đoan của ông. “Đă đành là bác có lỗi, nhưng cái nh́n xă hội bây giờ đă thoáng lắm rồi. Mà như bác nói th́ Nhà nước đă cho hưởng trợ cấp một lần, thế có nghĩa là xem như ḿnh được xóa lỗi.
Bưu điện xă ngay kia, chỉ cần một cú gọi dịch vụ là có ngay số điện thoại UBND quê nhà bác. Rồi cứ nhắn tin như thế, như thế… Việc gặp lại người thân chỉ gang tấc mà thôi!”. Mặc cho tôi nói, ông vẫn cứ ngồi lặng, lúc lâu mới buông một câu gọn lỏn chẳng để làm ǵ: “Có lẽ rồi cũng thử xem? Biết đâu...”.
Trước khi vào làng Kuk t́m ông, tôi đă nghe không ít lời đồn đại chuyện thuốc thư, bùa ngải khá ly kỳ ở ngôi làng này. Người mách tin cho tôi thậm chí c̣n quả quyết: “Cứ cho là trước đây rừng núi mịt mù, điều kiện liên lạc không có th́ cũng đành. Bây giờ ở làng Kuk, đến đứa trẻ con cũng biết điện thoại di động mà vẫn không nghĩ đến chuyện về quê hay t́m cách liên lạc với gia đ́nh th́ tôi tin chắc là ông ấy đă bị bỏ bùa rồi (!)”.
<table style="margin-right: 7px;" align="left" cellpadding="3" cellspacing="3" width="240"><tbody><tr><td><fieldset style="background-color: rgb(242, 242, 242);"><legend></legend> “Trong những ngày vô vị đầu tiên khi tôi về làng Kuk này, tôi đă t́nh cờ gặp Rmah Thận. Bà ấy vốn là thanh niên xung phong của mặt trận B3. Cũng đă gặp mặt một đôi lần ǵ đó ở binh trạm nhưng tôi đâu có hay bà ấy ở làng này.Như là duyên tiền định, chỉ con gà với ghè rượu, chúng tôi nên vợ nên chồng.” - ông Vi chậm răi uống một ngụm rượu ngọt như người ta uống nước, rồi bắt đầu câu chuyện về mái ấm của ḿnh. </fieldset></td></tr></tbody></table>Bây giờ gặp, tôi mới hiểu chưa hẳn chuyện bùa mê, thuốc lú đă có tác dụng với ông. Ông đưa tôi về nhà. Vợ ông, bà Rmah Thận đang ngồi sưởi nắng trước hiên nhà. Cả tháng nay bà cứ cảm giác như có con lươn đang trườn trên da thịt. Cái lạnh cứ thấm vào từng đốt xương rờn rợn…
“Bệnh người già đấy mà!” - bà bảo thế. C̣n ông Vi cầm tay bà, nói một câu ǵ đó bằng tiếng Jrai, thấy bà lọm khọm đứng dậy đi vào bếp, rồi mang ra một ghè rượu và một ít cá khô.
Hồi ấy làng Kuk này nhà nào cũng đói xác xơ v́ mới chạy loạn từ Campuchia về. Nhà bà Rmah Thận cũng thế nên chẳng giúp được ǵ, hai vợ chồng ông bắt đầu tạo dựng cuộc sống từ con số 0.
Làm việc không tiếc thân ḿnh, vốn liếng có lúc lên tới 7 con ḅ, lẽ ra ông đă được đền bù hay chí ít ra th́ cũng đă có căn nhà đàng hoàng để ở, thế nhưng rốt cuộc lại trở về tay trắng.
Nguyên do là bởi bệnh tật ŕnh rập khắp nơi, sốt rét hoành hành. Mỗi gùi lúa ba chục cân chỉ đổi được liều thuốc sốt. Mà ông th́ chẳng nhớ bao lần bị sốt. “Có một lần tôi sốt chẳng biết đă mấy ngày. Trong mê man chợt nghe văng vẳng tiếng chiêng.
Cố mở mắt th́ thấy họ hàng đang chuẩn bị đập heo để làm ma. Đă không dưới 2 lần tôi được chuẩn bị cho về làng ma như thế, vậy mà như có phép mầu lại được sống. Trời có lẽ cũng thương tôi vào chết ra sống bao năm ở chiến trường không nỡ bắt hay chăng?” - ông Vi cười sảng khoái như khoe một chiến tích của ḿnh.
<table style="margin: auto;" align="center" border="0" cellpadding="3" cellspacing="3" width="1"><tbody><tr><td>http://res.vtc.vn/media/vtcnews/2013/04/21/200413thsccboru2dan-viet_1.jpg</td></tr><tr><td style="font-family: Arial; font-size: 10pt; color: rgb(0, 32, 96);" align="center">Bà Rmah Thận, người níu giữ trái tim đầy mặc cảm của ông Vi trên vùng cao nguyên ấy. </td></tr></tbody></table>
Thực ra th́ nỗi đau thể xác ấy có đận rồi cũng qua, chuyện đáng nói hơn là con cái. Dù ông chỉ kể sơ sài th́ tôi cũng cảm nhận được nỗi buồn thầm kín ấy. Ông có đến 8 đứa con, 4 trai, 4 gái.
Trong cái không gian làng như bao đứa trẻ cùng thời, chúng cứ lớn lên lấm láp và gần như hoang dă. Có đe nẹt hết cách th́ một đứa cũng chỉ tới được lớp 6, một đứa men tới lớp 9 th́ bỏ. Chúng thích lên rẫy hơn là đến trường.
Đau nhất là đứa con đầu. Nó cao to, trắng trẻo, đẹp trai nhất làng. Với đồng bào, điều khác thường như vậy chỉ là do ma lai ám. Giá là con ai khác th́ bị giết công khai rồi, song có lẽ v́ ngại ông, người ta chỉ xầm x́ bàn tán.
Thế rồi bỗng dưng nó bị bệnh, chết một cách bí hiểm. Vợ ông quả quyết là nó bị bỏ “thuốc thư”. Ông chẳng tin nhưng nỗi đau này cứ ám ảnh không thể nào nguôi.
Sáng tinh mơ đă chui ra khỏi lều, chiều nhọ mặt người mới chui về. Vậy mà 3 năm đầu, vợ chồng ông cũng đói vàng cả mắt, toàn phải đi đào củ mài ăn. Thời chiến tranh con mắt nh́n mọi chuyện đều đơn giản, đến lúc ḥa b́nh mới thấy cuộc sống bao điều phải suy xét, lo toan.
Ông ở nhờ nhà vợ, 6 con người phải chen chúc nhau trong túp lều dễ chừng chỉ nhỉnh hơn cḥi lúa. Hiểu rằng ḿnh đang như con ḅ kéo cỗ xe ngược dốc, từ tinh mơ đến tối mịt, ông trần ḿnh trên rẫy, tối lại về xoay trần nấu rượu, rồi th́ đi bộ 20 cây số lấy muối, cá khô về cho vợ đổi lúa lấy lời. Rồi cứ theo lẽ thường tạo hóa, chúng lần lượt lấy vợ lấy chồng, gắn cuộc đời với rẫy nương.
Buồn hơn cả trong số chúng là Siu Hoa. Hoa là cô gái trắng trẻo, xinh xắn vào hàng nhất làng Kuk. Hoa lấy Rơ Châm Then cùng làng. Năm 2004, làng Kuk bị cuốn vào cơn lốc vượt biên. Nghe lời bọn phản động dụ dỗ, Then đă đành đoạn bỏ lại đứa con mới thôi nôi và người vợ trẻ để đi t́m “đất hứa”.
Trong chuyến đ̣ vượt sông Pô Kô vào cái đêm mưa gió băo bùng ấy, chỉ mỗi Then và đứa cháu gái may mắn thoát chết. Nhưng cập được bờ “đất hứa” rồi, anh ta lại viết thư về tuyên bố bỏ vợ. “Đau nỗi con dang dở đă một nhẽ, ḿnh là cựu chiến binh, là người hiểu biết ở làng này, lại để xảy ra chuyện đáng chê trách như vậy, chẳng phải là mang tiếng lắm sao?” - ông Vi phân trần mà ánh mắt buồn vời vợi.
Sự đền đáp quư giá nhất đời ông là một t́nh yêu bền chặt. Ông Vi nh́n bà Rmah Thận âu yếm, cái nh́n của sự chia sẻ và có chút hàm ơn: “Bà ấy không được học hành, sống theo lẽ thường của bao người đàn bà ở làng này.
Nhưng với tôi, trong cái vỏ thô tháp ấy là một viên ngọc t́nh yêu. Thú thật là những ngày đầu sống chung, không ít lần tôi đă trăn trở về sự lựa chọn của ḿnh, thậm chí đă có lúc tôi định bỏ trốn. Thế nhưng, cứ mỗi lần chạm tới ư nghĩ tội lỗi ấy là lại thấy ḿnh hèn.
Những tai ương, những nỗi buồn đă qua, nói “trời thương” là thuận miệng chứ không có bà ấy, dễ tôi đă buông xuôi hay “tiêu cực” từ rất lâu rồi. Làm sao tồn tại bằng sự trốn chạy ấy nếu phía sau không có bà ấy là điểm tựa.
Rồi bây giờ với 2 ha rẫy cao su và cà phê mỗi năm thu mấy trăm triệu đồng là thành quả lao động bao nhiêu năm trời, tôi đâu phải là cái máy nếu không có t́nh yêu của bà ấy “điều khiển”. Thế nên đă bao lần tôi tự cười ḿnh khi đâu đó người ta x́ xầm rằng tôi bị “bỏ bùa”. Đúng là tôi đă bị bỏ bùa như thế đấy!”.
Ở Tây nguyên, những người có cảnh ngộ như ông cũng không phải hiếm, nhưng tôi biết họ đă lần lượt bước qua mặc cảm t́m về quê quán gặp lại người thân. <table style="padding: 5px;" align="center" cellpadding="3" cellspacing="3" width="460"><tbody><tr><td><fieldset style="background-color: rgb(242, 242, 242);"><legend></legend> Năm nay ông Vi đă bước vào tuổi 65. Cuối đời, ông hẳn cũng như bao người Jrai ở làng Kuk này, sẽ lại về với đất, sẽ được bỏ mả như người Jrai để rồi tan biến vào bầu trời như một giọt sương. Kiếp người với cái ṿng luân hồi “đất - người - ma - đất” theo quan niệm của người Jrai thô sơ mà triết lư, ôm hết cho bao tộc người trên thế gian này.
Tôi bảo ông giờ thảnh thơi rồi, liên lạc với quê hương bản quán đi, ông ậm ừ bảo sẽ cố. Chắc là nói để yên ḷng khách chứ tôi tin ông chẳng chịu làm đâu. Nỗi mặc cảm trong ông vẫn c̣n quá lớn.
Chiều mênh mang buồn trên đại ngàn, tôi cứ nghĩ măi về câu chuyện cuộc đời của ông Vi, cứ nghĩ về những phận người c̣n sót lại sau chiến tranh như ông mà ngậm ngùi. Cũng may sao, ông Vi c̣n được bù trừ những điều tuyệt vời về một gia đ́nh với t́nh yêu định mệnh.</fieldset></td></tr></tbody></table>