Hanna
04-27-2013, 17:24
Cứ tưởng sau 30/4/1975 khi đất nước đă quy về một mối, hết c̣n chiến tranh th́ mọi người Việt Nam ở hai chiến tuyến Bắc-Nam sẽ tay bắt mặt mừng, cùng nhau xây dựng lại Tổ quốc để được sống hạnh phúc, nhưng 38 năm sau ḷng người vẫn phân tán, hạnh phúc c̣n xa tầm tay và đất nước chưa thấy ngày mai.
Đó là thực tế phũ phàng và đáng buồn, không ai muốn thấy nhưng nó đă xẩy ra và chưa ai biết rồi vận nước và phận ḿnh sẽ đi về đâu.
Sau đây là những nguyên nhân tạo thành bức tranh u ám ấy:
Thứ nhất, đảng cầm quyền Cộng sản Việt Nam đă mất định hướng, kể từ sau Cuộc cách mạng “Đổi mới hay là chết” 1986 để cứu nguy đất nước dười thời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh.
Hy vọng vội vàng muốn đảng “mở cửa chính trị” và “tự do tư tưởng” đă bị khoanh lại chỉ sau 2 năm ngắn ngủi.
Ngay cả những bài viết, được người dân và đảng viên hoan nghênh, trong mục “Những việc cần làm ngay” trên báo Nhân Dân của Tác gỉa N.V.L. (Nói Và Làm hay Nguyễn Văn Linh) bàn về những việc cần phải sửa đổi trong xă hội và chính quyền cũng bị rút lại.
Đến thời Tổng Bí thư Đỗ Mười, sau Đại hội đảng kỳ VII (27/06/1991), chính sách bóp nghẹt hà khắc được áp dụng theo Cương lĩnh gọi là “Xây dựng đất nước trong thời kư qúa độ lên Chủ nghĩa Xă hội”. Kinh tế phát triển ngập ngừng “nửa nạc nửa mỡ” theo “định hướng xă hội chủ nghĩa”. Tham nhũng nở rộ. Đảng viên đi chệch hướng, nghi ngờ tính hữu hiệu của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh lên cao sau khi các nước Cộng sản Đông Âu rồi Nga Sô tan ră (từ 1989 đến 1991).
Ông Mười bỏ Nga theo Trung Cộng để được bảo vệ cả về an ninh, kinh tế lẫn lư thuyết chính trị Cộng sản.
Có tin loan truyền rộng răi ở Việt Nam nói rằng, khi ông Đỗ Mười sang Thành Đô (Trung Cộng), trong tư cách Chủ tịch Hội đồng Bộ trường (Thủ tướng) tháp tùng Tổng Bí thư đảng Nguyễn Văn Linh và Cố vấn Phạm Văn Đồng họp với Tổng Bí thư đảng CS Trung Cộng Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lư Bằng năm 1990, trước Đại hội đảng CSVN kỳ VII, phía Việt Nam đă kư với Trung Cộng một thỏa hiệp gọi là “Kỷ yếu hội nghị”, nhưng cả hai phiá đều “giữ bí mật”.
Ng̣ai việc hai nước nối lại bang giao sau Hội nghị Thành Đô, sau khi Việt Nam buộc phải rút quân khỏi chiến trường Cao Miên mà Việt Nam đă xâm lăng tháng 12/1978, đảng CSVN không cho ai biết ba ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng đă “thỏa hiệp” với Trung Cộng những ǵ!
Nhưng từ đó đến nay, Trung Cộng đă công khai “xâm lăng” Việt Nam từ kinh tế, lănh thổ đến đến chính trị mà Việt Nam chỉ dám phản ứng yếu ớt.
Ông Lê Khả Phiêu thay ông Đỗ Mười từ Đại hội đảng VIII (28-6-1996), nhưng nội bộ đảng lại rệu ră thêm với t́nh trạng tham nhũng gia tăng, kỷ luật kém, nạn chạy chức chạy quền lên cao. Cán bộ, đảng viên xa đảng và xa cả dân khiến liên hệ được gọi là “máu thịt” giữa dân và đảng lơang ra.
Vào tháng 2/1999, Ban Chấp hành Trung ương đưa ra Nghị quyết 6 (lần 2) về “một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay” nhằm xây dựng, chỉnh đốn đảng.
Nghị quyết 1999 viết rằng: “ Trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: sự suy thoái về tư tưởng chính trị; t́nh trạng tham nhũng, quan liêu, lăng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không nghiêm, bộ máy tổ chức của Đảng và Nhà nước chậm được củng cố và đổi mới. Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy rmạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng phải có biện pháp phát huy ưu điểm, kiên quyết sửa chữa các khuyết điểm, tiếp tục củng cố, chỉnh đốn, để ngày càng vững mạnh về mọi mặt, đặc biệt là về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, tổ chức và cán bộ.”
Đến Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), sau khi ông Nguyễn Phú Trọng lên làm Tổng Bí Thư, th́ Nghị quyết về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, giống hệt như Nghị quyết 6 (lần 2) của 13 năm trước được chấp thuận ngày 31/12/2011.
Văn kiện quan trọng này viết: “Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn c̣n không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút ḷng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai tṛ lănh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.”
Nghị quyết nói rơ rằng: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lănh đạo, quản lư, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lư tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lăng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”
Như thế th́ đảng CSVN đă “mất định hướng” chưa hay vẫn c̣n nói là mới có “tự diễn biến” và “tự chuyển hoá”, chưa đến t́nh trạng “tự ră đám” hay “tự ư tan hàng”?
AI THEO TẦU HƠN AI?
Thứ hai, nội bộ th́ như thế, nhưng trong quan hệ với Trung Cộng th́ ông Phiêu đă lưu lại vết nhơ không kém hai ông Linh và Mười bao nhiêu.
Dù Việt Nam đă nhiều lần cải chính, nhưng việc nhượng đất ở biên giới và lănh hải cho Trung Cộng của “triều đại” Lê Khả Phiêu đă rơ trong 3 “Hiệp ước biên giới trên đất liền” (30/12/1999); “Hiệp định về phân định lănh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong vịnh Bắc Bộ” và “Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ” (25/12/2000).
Cụ thể Việt Nam đă mất đất như thế nào th́ hăy nghe lời kể của Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ của CSVN tại Bắc Kinh từ 1974 đến 1989, như sau:
“Đánh ta năm 1979 một mặt gạt bỏ sự hàm ơn của ta đối với những giúp đỡ trước đây của nhân dân Trung Quốc, mặt khác tự phơi bày ư đồ vụ lợi trong sự viện trợ cho ta. Khi không đạt được th́ trở mặt…. Năm 1984, Trung Quốc huy động một Trung đoàn với hỏa lực mạnh liên tục tấn công bắn giết phân đội quân ta đóng giữ cao điểm 1.502 ở huyện Vị Xuyên, cuối cùng chiếm lấy cao điểm ấy làm điểm quan sát từ xa, nḥm vào nội địa ta. Ở biên giới phía Bắc nước ta từ trước đến nay, dân hai bên đă có những việc xâm canh, xâm cư, dân ta cũng có một số điểm xâm canh sang đất Trung Quốc, diện tích không đáng kể, dân Trung Quốc xâm canh, xâm cư sang nước ta tại rất nhiều điểm, tổng diện tích khá lớn. Trong đàm phán phân định biên giới, Trung Quốc luôn nêu lên “phân định theo hiện trạng”, tranh luận qua lại, Trung Quốc luôn nêu “nhân nhượng lẫn nhau v́ đại cục (?), cuối cùng Trung Quốc vẫn ăn hơn th́ mới chịu. Thác Bản Giốc vốn của ta nay họ chiếm đứt được một nửa. Xưa Nguyễn Trăi tiễn cha đến tận ải Nam Quan, trước nay ta vẫn nói đất nước ta từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, sau đàm phán, biên giới nước ta tụt lùi xuống măi đến chợ Tân Thanh, đối diện đă là trụ sở hải quan của Trung Quốc….”
(17-03-2010, Bauxite Viet Nam)
Sau ông Phiêu, đến phiên ông Nông Đức Mạnh lên giữ chức Tổng Bí thư liền hai khoá đảng IX và X (từ 22/04/2001 đến 12/01/2011).
Trong 10 năm, ông Mạnh đă để cho Trung Cộng vào khai thác Bauxite ở Tây Nguyên, mặc dù không có phép của Ủy ban Trung ương đảng và của Quốc hội. Rất nhiều Công ty của Trung Cộng đă được ưu tiên “trúng thầu” nhiều dự án kinh tế với gía rẻ, chiếm nhiều vị trí chiến lược dọc theo bờ biển và dọc theo biền giới, qua kế họach cho thuê đất rừng dài hạn đến 50 năm!
Về khai thác Bauxite, mặc dù đă bị hàng ngàn người dân, trong số có nhiều Trí thức và chuyên viên Khoáng sản hàng đầu của Việt Nam, kể cả Đại tướng Vơ Nguyên Giáp và Nguyên Phó Chủ tịch Nước Bà Nguyễn Thị B́nh và Đức cha Nguyễn Thái Hợp, Chủ tịch Ban Công lư và Ḥa b́nh của Hội đồng Giám mục Việt Nam khuyên can “dừng lại”, đảng vẫn hăm hở thực hiện mà chưa biết lợi hại về an ninh và kinh tế sẽ đưa đất nước đến đâu!
Ngày 24/4/2009, ông Trương Tấn Sang (khi ấy là Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư ) đă thay mặt Bộ Chính trị kư Thông báo số 245- TB/TW về Kết luận của Bộ Chính trị về Quy hoạch phân vùng thăm ḍ, khai thác, chế biến, sử dụng bô-xít giai đoạn 2007 - 2015, có xét đến năm 2025.
Kết luận viết: “Chủ trương thăm ḍ, khai thác, chế biến bô-xít là chủ trương nhất quán từ Đại hội IX và Đại hội X của Đảng đến nay. Triển khai các nghị quyết Đại hội, trong 2 nhiệm kỳ, Bộ Chính trị đă nhiều lần bàn và ra các nghị quyết, kết luận để lănh đạo, chỉ đạo xây dựng ngành công nghiệp bô-xít, alumin, nhôm, phục vụ phát triển kinh tế đất nước nói chung, góp phần phát triển kinh tế - xă hội Tây Nguyên nói riêng.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, Chính phủ đă chỉ đạo xây dựng và phê duyệt Quy hoạch phân vùng thăm ḍ, khai thác, chế biến, sử dụng bô-xít giai đoạn 2007 - 2015, có xét đến năm 2025 với bước đi cụ thể và chỉ đạo triển khai 2 dự án khai thác bô-xít, sản xuất alumin đầu tiên tại Tân Rai (Bảo Lộc, Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắc Nông); đồng thời, chỉ đạo t́m kiếm, lựa chọn đối tác nước ngoài có năng lực để hợp tác phát triển kết cấu hạ tầng và đầu tư xây dựng ngành công nghiệp bô-xít, alumin, nhôm. Chính phủ đă giao Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam là đơn vị có kinh nghiệm trong khai thác khoáng sản làm chủ đầu tư thực hiện 2 dự án và chủ tŕ đàm phán với các đối tác nước ngoài.”
“Đối tác nước ng̣ai”, không ai khác hơn chính là nhà thầu Chalieco của Trung Cộng, nước đă thúc ép ông Nông Đức Mạnh phải để cho họ nhảy vào khai thác v́ nhu cầu cầu quặng nhôm kỹ nghệ của Bắc Kinh!
MẮC MƯU TRUNG CỘNG?
Đó là thực tế phũ phàng và đáng buồn, không ai muốn thấy nhưng nó đă xẩy ra và chưa ai biết rồi vận nước và phận ḿnh sẽ đi về đâu.
Sau đây là những nguyên nhân tạo thành bức tranh u ám ấy:
Thứ nhất, đảng cầm quyền Cộng sản Việt Nam đă mất định hướng, kể từ sau Cuộc cách mạng “Đổi mới hay là chết” 1986 để cứu nguy đất nước dười thời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh.
Hy vọng vội vàng muốn đảng “mở cửa chính trị” và “tự do tư tưởng” đă bị khoanh lại chỉ sau 2 năm ngắn ngủi.
Ngay cả những bài viết, được người dân và đảng viên hoan nghênh, trong mục “Những việc cần làm ngay” trên báo Nhân Dân của Tác gỉa N.V.L. (Nói Và Làm hay Nguyễn Văn Linh) bàn về những việc cần phải sửa đổi trong xă hội và chính quyền cũng bị rút lại.
Đến thời Tổng Bí thư Đỗ Mười, sau Đại hội đảng kỳ VII (27/06/1991), chính sách bóp nghẹt hà khắc được áp dụng theo Cương lĩnh gọi là “Xây dựng đất nước trong thời kư qúa độ lên Chủ nghĩa Xă hội”. Kinh tế phát triển ngập ngừng “nửa nạc nửa mỡ” theo “định hướng xă hội chủ nghĩa”. Tham nhũng nở rộ. Đảng viên đi chệch hướng, nghi ngờ tính hữu hiệu của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh lên cao sau khi các nước Cộng sản Đông Âu rồi Nga Sô tan ră (từ 1989 đến 1991).
Ông Mười bỏ Nga theo Trung Cộng để được bảo vệ cả về an ninh, kinh tế lẫn lư thuyết chính trị Cộng sản.
Có tin loan truyền rộng răi ở Việt Nam nói rằng, khi ông Đỗ Mười sang Thành Đô (Trung Cộng), trong tư cách Chủ tịch Hội đồng Bộ trường (Thủ tướng) tháp tùng Tổng Bí thư đảng Nguyễn Văn Linh và Cố vấn Phạm Văn Đồng họp với Tổng Bí thư đảng CS Trung Cộng Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lư Bằng năm 1990, trước Đại hội đảng CSVN kỳ VII, phía Việt Nam đă kư với Trung Cộng một thỏa hiệp gọi là “Kỷ yếu hội nghị”, nhưng cả hai phiá đều “giữ bí mật”.
Ng̣ai việc hai nước nối lại bang giao sau Hội nghị Thành Đô, sau khi Việt Nam buộc phải rút quân khỏi chiến trường Cao Miên mà Việt Nam đă xâm lăng tháng 12/1978, đảng CSVN không cho ai biết ba ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng đă “thỏa hiệp” với Trung Cộng những ǵ!
Nhưng từ đó đến nay, Trung Cộng đă công khai “xâm lăng” Việt Nam từ kinh tế, lănh thổ đến đến chính trị mà Việt Nam chỉ dám phản ứng yếu ớt.
Ông Lê Khả Phiêu thay ông Đỗ Mười từ Đại hội đảng VIII (28-6-1996), nhưng nội bộ đảng lại rệu ră thêm với t́nh trạng tham nhũng gia tăng, kỷ luật kém, nạn chạy chức chạy quền lên cao. Cán bộ, đảng viên xa đảng và xa cả dân khiến liên hệ được gọi là “máu thịt” giữa dân và đảng lơang ra.
Vào tháng 2/1999, Ban Chấp hành Trung ương đưa ra Nghị quyết 6 (lần 2) về “một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay” nhằm xây dựng, chỉnh đốn đảng.
Nghị quyết 1999 viết rằng: “ Trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: sự suy thoái về tư tưởng chính trị; t́nh trạng tham nhũng, quan liêu, lăng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không nghiêm, bộ máy tổ chức của Đảng và Nhà nước chậm được củng cố và đổi mới. Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy rmạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng phải có biện pháp phát huy ưu điểm, kiên quyết sửa chữa các khuyết điểm, tiếp tục củng cố, chỉnh đốn, để ngày càng vững mạnh về mọi mặt, đặc biệt là về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, tổ chức và cán bộ.”
Đến Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), sau khi ông Nguyễn Phú Trọng lên làm Tổng Bí Thư, th́ Nghị quyết về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, giống hệt như Nghị quyết 6 (lần 2) của 13 năm trước được chấp thuận ngày 31/12/2011.
Văn kiện quan trọng này viết: “Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn c̣n không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút ḷng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai tṛ lănh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.”
Nghị quyết nói rơ rằng: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lănh đạo, quản lư, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lư tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lăng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”
Như thế th́ đảng CSVN đă “mất định hướng” chưa hay vẫn c̣n nói là mới có “tự diễn biến” và “tự chuyển hoá”, chưa đến t́nh trạng “tự ră đám” hay “tự ư tan hàng”?
AI THEO TẦU HƠN AI?
Thứ hai, nội bộ th́ như thế, nhưng trong quan hệ với Trung Cộng th́ ông Phiêu đă lưu lại vết nhơ không kém hai ông Linh và Mười bao nhiêu.
Dù Việt Nam đă nhiều lần cải chính, nhưng việc nhượng đất ở biên giới và lănh hải cho Trung Cộng của “triều đại” Lê Khả Phiêu đă rơ trong 3 “Hiệp ước biên giới trên đất liền” (30/12/1999); “Hiệp định về phân định lănh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong vịnh Bắc Bộ” và “Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ” (25/12/2000).
Cụ thể Việt Nam đă mất đất như thế nào th́ hăy nghe lời kể của Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ của CSVN tại Bắc Kinh từ 1974 đến 1989, như sau:
“Đánh ta năm 1979 một mặt gạt bỏ sự hàm ơn của ta đối với những giúp đỡ trước đây của nhân dân Trung Quốc, mặt khác tự phơi bày ư đồ vụ lợi trong sự viện trợ cho ta. Khi không đạt được th́ trở mặt…. Năm 1984, Trung Quốc huy động một Trung đoàn với hỏa lực mạnh liên tục tấn công bắn giết phân đội quân ta đóng giữ cao điểm 1.502 ở huyện Vị Xuyên, cuối cùng chiếm lấy cao điểm ấy làm điểm quan sát từ xa, nḥm vào nội địa ta. Ở biên giới phía Bắc nước ta từ trước đến nay, dân hai bên đă có những việc xâm canh, xâm cư, dân ta cũng có một số điểm xâm canh sang đất Trung Quốc, diện tích không đáng kể, dân Trung Quốc xâm canh, xâm cư sang nước ta tại rất nhiều điểm, tổng diện tích khá lớn. Trong đàm phán phân định biên giới, Trung Quốc luôn nêu lên “phân định theo hiện trạng”, tranh luận qua lại, Trung Quốc luôn nêu “nhân nhượng lẫn nhau v́ đại cục (?), cuối cùng Trung Quốc vẫn ăn hơn th́ mới chịu. Thác Bản Giốc vốn của ta nay họ chiếm đứt được một nửa. Xưa Nguyễn Trăi tiễn cha đến tận ải Nam Quan, trước nay ta vẫn nói đất nước ta từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, sau đàm phán, biên giới nước ta tụt lùi xuống măi đến chợ Tân Thanh, đối diện đă là trụ sở hải quan của Trung Quốc….”
(17-03-2010, Bauxite Viet Nam)
Sau ông Phiêu, đến phiên ông Nông Đức Mạnh lên giữ chức Tổng Bí thư liền hai khoá đảng IX và X (từ 22/04/2001 đến 12/01/2011).
Trong 10 năm, ông Mạnh đă để cho Trung Cộng vào khai thác Bauxite ở Tây Nguyên, mặc dù không có phép của Ủy ban Trung ương đảng và của Quốc hội. Rất nhiều Công ty của Trung Cộng đă được ưu tiên “trúng thầu” nhiều dự án kinh tế với gía rẻ, chiếm nhiều vị trí chiến lược dọc theo bờ biển và dọc theo biền giới, qua kế họach cho thuê đất rừng dài hạn đến 50 năm!
Về khai thác Bauxite, mặc dù đă bị hàng ngàn người dân, trong số có nhiều Trí thức và chuyên viên Khoáng sản hàng đầu của Việt Nam, kể cả Đại tướng Vơ Nguyên Giáp và Nguyên Phó Chủ tịch Nước Bà Nguyễn Thị B́nh và Đức cha Nguyễn Thái Hợp, Chủ tịch Ban Công lư và Ḥa b́nh của Hội đồng Giám mục Việt Nam khuyên can “dừng lại”, đảng vẫn hăm hở thực hiện mà chưa biết lợi hại về an ninh và kinh tế sẽ đưa đất nước đến đâu!
Ngày 24/4/2009, ông Trương Tấn Sang (khi ấy là Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư ) đă thay mặt Bộ Chính trị kư Thông báo số 245- TB/TW về Kết luận của Bộ Chính trị về Quy hoạch phân vùng thăm ḍ, khai thác, chế biến, sử dụng bô-xít giai đoạn 2007 - 2015, có xét đến năm 2025.
Kết luận viết: “Chủ trương thăm ḍ, khai thác, chế biến bô-xít là chủ trương nhất quán từ Đại hội IX và Đại hội X của Đảng đến nay. Triển khai các nghị quyết Đại hội, trong 2 nhiệm kỳ, Bộ Chính trị đă nhiều lần bàn và ra các nghị quyết, kết luận để lănh đạo, chỉ đạo xây dựng ngành công nghiệp bô-xít, alumin, nhôm, phục vụ phát triển kinh tế đất nước nói chung, góp phần phát triển kinh tế - xă hội Tây Nguyên nói riêng.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, Chính phủ đă chỉ đạo xây dựng và phê duyệt Quy hoạch phân vùng thăm ḍ, khai thác, chế biến, sử dụng bô-xít giai đoạn 2007 - 2015, có xét đến năm 2025 với bước đi cụ thể và chỉ đạo triển khai 2 dự án khai thác bô-xít, sản xuất alumin đầu tiên tại Tân Rai (Bảo Lộc, Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắc Nông); đồng thời, chỉ đạo t́m kiếm, lựa chọn đối tác nước ngoài có năng lực để hợp tác phát triển kết cấu hạ tầng và đầu tư xây dựng ngành công nghiệp bô-xít, alumin, nhôm. Chính phủ đă giao Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam là đơn vị có kinh nghiệm trong khai thác khoáng sản làm chủ đầu tư thực hiện 2 dự án và chủ tŕ đàm phán với các đối tác nước ngoài.”
“Đối tác nước ng̣ai”, không ai khác hơn chính là nhà thầu Chalieco của Trung Cộng, nước đă thúc ép ông Nông Đức Mạnh phải để cho họ nhảy vào khai thác v́ nhu cầu cầu quặng nhôm kỹ nghệ của Bắc Kinh!
MẮC MƯU TRUNG CỘNG?