johnnydan9
04-30-2013, 16:32
Lái chiếc máy bay F-5E ném hai trái bom xuống dinh Độc Lập, sau đó quay lại dùng súng phóng lựu vào kho xăng Nhà Bè, là hành động mà tôi ấp ủ trong một quá tŕnh dài, ngay từ thời trai trẻ.
35 năm hoạt động, trên vai áo ông từng đeo quân hàm không quân hai bên là đối thủ của nhau. 22.000 giờ bay với nhiều loại phi cơ chiến đấu và dân dụng hiện đại nhất từ Đông sang Tây, từ Á sang Âu. Những nếm trải cuộc đời, dường như Nguyễn Thành Trung chẳng thiếu thứ nào. Người ta thường nói vinh quang đi cùng cay đắng. C̣n ông, sống chết, tù tội chẳng màng, nhưng những giây phút cô đơn trong cuộc sống hoà b́nh, ngay trong ḷng đồng đội th́ thật dài và khó quên. Tháng tư đến rồi lại đi cùng kư ức.
Chặng đường lịch sử dài 38 năm có quá nhiều biến cố, sự kiện ném bom dinh Độc Lập ngày 8.4.1975 đối với ông có ư nghĩa ǵ? Bây giờ nghĩ về giây phút ấy ông cảm thấy thế nào?
Đối với cá nhân tôi, ngày 8.4.1975 là một bước ngoặt lịch sử quan trọng nhất trong cuộc đời. Lái chiếc máy bay F-5E ném hai trái bom xuống dinh Độc Lập, sau đó quay lại dùng súng phóng lựu vào kho xăng Nhà Bè, là hành động mà tôi ấp ủ trong một quá tŕnh dài, ngay từ thời trai trẻ.
Đối với tôi, chấm dứt chiến tranh để người Việt Nam không c̣n đổ máu là một việc lớn phải làm. Đó không phải là cảm hứng nhất thời, hay bất chợt, liều lĩnh. Sự nỗ lực cá nhân suốt bao nhiêu năm ở khoa toán - lư đại học Khoa học Sài G̣n, trong vỏ bọc sĩ quan không lực Việt Nam Cộng hoà, hay tại các trung tâm học lái máy bay chiến đấu ở Hoa Kỳ từ năm 1969 - 1972 tôi vẫn chuyên chú cho hành động ấy. Tôi âm thầm luyện tập hạ cánh ở cự ly gần 1.000 mét (trong khi máy bay F-5E phải đáp trên đường băng dài tối thiểu 3.000 mét) đến độ hư hai máy bay và phải chịu kỷ luật hạ lương, giáng chức, suưt nữa là bị lộ tại sân bay Biên Hoà. Nhờ vậy mà ngày 8.4 năm ấy tôi đă hành động chính xác, đáp xuống an toàn tại sân bay dă chiến Phước Long vừa giải phóng. Có thể gọi đó là sự chính xác của lư trí và khoa học. Bước ngoặt 180 độ đó cho tôi được chính danh là tôi - Nguyễn Thành Trung như ngày hôm nay.
Nhưng báo chí cả hai phía lúc đó chạy những ḍng tít lớn gọi ông là "phi công phản chiến"?
Đúng vậy, cấp trên nói với tôi là cần tuyên truyền như vậy để kêu gọi những người trong lực lượng không quân Sài G̣n tiếp tục phản chiến. Tôi nghĩ nói sao cũng được, vấn đề là tôi có làm được nhiệm vụ không? Có c̣n sống để trở về không? Từ năm 1969, tôi đă là đảng viên.
Thời khắc đó ông có nghĩ đến sự an toàn của vợ và hai con c̣n quá nhỏ đang sống ở thành phố Biên Hoà? Có khi nào ông cảm thấy khổ tâm hay hối hận về hành động của ḿnh mang lại nỗi vất vả cho vợ con?
Trước khi ném bom dinh Độc Lập ngày 8.4.1975, lănh đạo đề nghị đưa vợ con tôi ra vùng giải phóng để tôi yên tâm làm nhiệm vụ. Nhưng lúc đó, tôi bị nghi kỵ nhiều, nguy cơ lộ rất cao nên chuyện đó là không thể. An ninh quân đội theo sát gia đ́nh tôi từng giờ, nếu vợ con tôi vắng nhà không rơ lư do th́ tôi sẽ bị bắt ngay tức khắc. Cũng có thể trên đường ra vùng giải phóng, vợ con tôi cũng sẽ bị bắt, t́nh thế đó sẽ nghiêm trọng hơn. Rất lo lắng cho tính mạng vợ con, nhưng việc mà tôi đă tính trước mười năm đến thời điểm này là không thể dừng. Mặt khác, thời gian sống trong đội ngũ không lực Sài G̣n cho tôi một niềm tin rằng vợ tôi, một người phụ nữ không liên quan ǵ đến công việc của tôi, con tôi c̣n quá nhỏ (đứa lớn mới năm tuổi, đứa nhỏ chưa tṛn năm) sẽ không bị đối xử một cách tàn nhẫn. Thực tế diễn ra đúng như tôi dự đoán.
Ngày 2.5.1975, tôi lái máy bay từ Phan Rang về sân bay Biên Hoà. Vợ con tôi cũng vừa được giải thoát khỏi số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng tôi gặp lại nhau trong ngôi nhà nhỏ của ḿnh.
Sau ngày thống nhất đất nước, đối diện với bao khó khăn của cuộc sống thường ngày do nền kinh tế bao cấp áp đặt, những lúc ngột ngạt, mệt mỏi ông nghĩ ǵ?
Tôi là người được học hành tử tế trong những ngôi trường khá lư tưởng của Sài G̣n và tiếp cận nhiều nguồn tài liệu khác nhau, tôi biết rơ những sai lầm trong chính sách kinh tế của miền Bắc nước ta. Bi kịch cải cách ruộng đất c̣n nguyên đó, công nghiệp chẳng có ǵ. Khu gang thép Thái Nguyên c̣n thô sơ lắm, Dệt Nam Định, Sứ Hải Dương chỉ sản xuất được những mặt hàng tiêu dùng cấp thấp, đặc biệt là hạn chế về tŕnh độ của cán bộ quản lư. Sự khác biệt về ư thức hệ giữa hai miền, nhất là do đặc thù của nền kinh tế tự cung tự cấp, cho tôi nh́n rơ sau khi Việt Nam thống nhất, kinh tế sẽ cực kỳ khó khăn ít nhất là mười năm. Tôi chuẩn bị tinh thần đối phó với những khó khăn chung, và cả những khó khăn về mặt cá nhân, nghi ngờ, hay có những phân biệt đối xử này nọ... Tôi chấp nhận đối diện thực tế đó và nghĩ điều quan trọng nhất ḿnh có được là dân tộc Việt được sống trong hoà b́nh.
<table align="center" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="30%"><tbody><tr><td bgcolor="#ffffff" valign="top">http://images.vnmedia.vn/images_upload/2013/vnm_2013_2875059.jpg
Đại tá-Anh hùng Nguyễn Thành Trung
</td></tr></tbody></table>Thực tế mười năm khó khăn như ông nói cũng đă được tháo gỡ bởi bước chuyển đổi mới. Nhưng tới bây giờ, người ta lại tiếp tục đưa ra dự báo ḿnh lại đang hụt hơi, tụt đà. Ông nghĩ thế nào?
Thực ra đổi mới một phần v́ khi ḿnh tiếp xúc với thế giới mới ngộ ra một điều là đang bị co trong ṿng luẩn quẩn, không t́m ra lối thoát trong khi thế giới ào ào tiến lên. Từ ảnh hưởng đó đồng thời tác động mạnh của cuộc khủng hoảng Đông Âu tới ḿnh và cả Trung Quốc, bắt buộc phải một phần nào đó chấp nhận cách làm ăn mới, có sự tư hữu. Tư hữu của thế giới ḿnh không chấp nhận, nhưng con người có quyền tư hữu từ hàng ngàn năm về trước. Ḿnh luẩn quẩn trong khi thế giới đang tiến lên bởi ḿnh không chấp nhận dân làm giàu. Cho nên bắt buộc ḿnh phải công nhận, phải chấp nhận tư hữu ở một mức độ nào đó để dân thở được. Khi đó dân bắt đầu làm ăn được. Cải cách v́ vậy là do dân. Cuộc cách mạng này do dân và do lịch sử thế giới tác động. Nếu muốn không tụt đà th́ phải nương vào sức dân, dân giàu th́ nước mới mạnh.
Sau ngày 30.4, ông có thường gặp lại đồng nghiệp trong những phi đội cũ? T́nh cảnh và và tâm thế lúc gặp lại như thế nào?
Bẵng mười năm sau giải phóng, tôi không gặp lại ai trong nhóm những đồng nghiệp cũ. Sau đổi mới, từ năm 1986 trở về sau này, các đồng nghiệp cũ của tôi lần lượt về mới có dịp gặp lại. Lớp tôi có 23 đứa, chết hết bốn, 18 đứa qua Mỹ, chỉ c̣n ḿnh tôi ở lại. Những lần gặp cũng dễ nói chuyện v́ họ đă hiểu rơ mọi chuyện. Tôi cũng hoàn toàn hiểu và tôn trọng họ. Đa phần những đồng nghiệp của tôi đều ở Mỹ. Lúc mới về, tâm lư chung mấy người bạn đều ngại gặp tôi. Tôi th́ chả ngại ǵ, tôi vẫn xem họ là những người bạn. Khi gặp cũng tâm sự nhiều, cũng so sánh chuyện cũ, chuyện bây giờ. Ai cũng công nhận việc tôi làm là góp phần chấm dứt cuộc chiến tranh, chấm dứt cảnh chết chóc, đổ máu. Nhưng điều họ chia sẻ là họ không dám có những quyết định như vậy.
Những người bạn lựa chọn khác tôi lúc qua Mỹ c̣n trẻ nên ai hội nhập được, sống khá giả. Năm nào mấy ổng cũng ngồi lại với nhau, chuyện nói nhiều nhất là về tôi. Nhiều anh em bảo quyết định của tôi hơi dại dột, v́ sau giải phóng sống kiểu ǵ cũng bị nghi ngờ, đói khổ... Tôi trả lời đó không phải là quyết định bậy bởi tôi ư thức được việc cần làm. Cái ǵ cũng vậy, làm th́ phải trả giá nhưng tôi chấp nhận việc đó. Nhưng qua những thăng trầm của đất nước, nhiều kinh nghiệm cuộc đời đúc kết lại, tôi thấy việc tôi làm càng ngày càng đúng. C̣n hỏi tôi có lăn tăn hay không, tôi trả lời thật là thánh mới không lăn tăn, nhưng những cái lớn nhất át những lăn tăn nhỏ đi, nên hàng đêm tôi ngủ yên v́ biết tôi đang ngủ trên đất nước ḿnh, chứ qua Mỹ sướng thật nhưng ngủ không yên bởi lúc nào cũng đau đáu một quê hương chỉ c̣n trong kư ức. Nhiều đứa bạn nói thẳng: "Đến bây giờ mới nghe được một người nói điều đó là mày". Chúng tôi gặp nhau trao đổi thẳng thắn, không giấu giếm điều ǵ, nói đến tận cùng suy nghĩ của mỗi người.
Với ông, quê hương là thế nào?
Tôi có tới hai quê hương. Một Bến Tre nơi tôi sinh ra, nơi đó là ḍng tộc máu mủ, nơi đó cha mẹ tôi đă nằm xuống cho chúng tôi trưởng thành. Vốn là xứ học, địa linh nhân kiệt, nhiều tên tuổi trí thức lớn Việt Nam xuất phát từ đây. Những Phan Thanh Giản, Vơ Trường Toản, Trương Vĩnh Kư, Nguyễn Đ́nh Chiểu... là những tấm gương của nhân - nghĩa - lễ - trí - tín mà tôi từng học được.
C̣n một quê hương khác, Sài G̣n đối với tôi là máu thịt, là t́nh yêu, là ǵ đó không thể lay chuyển được dù cho năm tháng trôi qua, nh́n góc phố thay đổi, cũng nhiều lúc buồn vui hờn giận, tiếc nuối...
Ông đă bước ra khỏi vỏ bọc của một điệp viên, lái máy bay trên bầu trời hoà b́nh, và làm công việc đào tạo, hết ḷng với một thế hệ phi công trẻ Việt Nam. Điều đọng lại trong ông sau thời gian dài gắn bó với công việc đào tạo, huấn luyện ấy là ǵ?
Giă từ cuộc chiến, tôi thấy ḿnh làm khá nhiều việc mà những việc đó chắc không phải ai cũng làm được. Hồi c̣n sống, anh Hai Trung (tướng t́nh báo Phạm Xuân Ẩn) nói nửa đùa nửa thật: "Việc ông ném bom dinh Độc Lập, Nhà nước phong ông anh hùng th́ tôi không nói làm ǵ, c̣n công việc ông làm sau này nếu được, tôi phong ông hai lần anh hùng nữa". Anh Hai Trung hiểu về công việc đặc thù của tôi. Khi giải phóng, cả một bề thế không quân chế độ cũ bỏ lại, tôi là người làm sống lại phi đội A37 sau này tham gia đánh Tân Sơn Nhất vào ngày 28.4 trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. F5 là máy bay chiến đấu hiện đại nhất của Sài G̣n lúc bấy giờ mà Mỹ bỏ lại mấy phi đoàn nhưng không có người bay. Giá trị vậy nhưng bỏ lại quá lâu bị hư hại nhiều, có chiếc bị bắn phá thủng lỗ chỗ. Nhiều chiếc c̣n bị bộ đội tiếp quản tháo đi những tiện nghi nội thất hay linh kiện quan trọng... Sau khi thành lập bộ phận tiếp quản, tôi nhận nhiệm vụ làm sống lại những chiếc máy bay này. Khi sửa xong, tôi là người bay thử. Phi công bay thử của người ta điều kiện bảo hiểm ngặt nghèo lắm, c̣n tôi th́ như con thiêu thân. Gần 50 lần bay như thế, tôi luôn sẵn sàng t́nh huống nhảy dù khẩn cấp bởi máy bay có thể hư bất cứ lúc nào. Mỗi lần bay, nhiên liệu chỉ cung cấp đủ phân nửa cơ số. Vốn là người nhạy cảm trong cuộc sống, con ruồi bay qua tôi phân biệt ruồi đực hay ruồi cái, huống chi chuyện nhiên liệu chỉ đủ bay một ṿng trong bán kính hẹp. Điều lăn tăn mà tôi kể trên là như vậy đó.
Tháng 8.1975 sau khi hồi phục xong rồi, tôi huấn luyện cả một phi đội, bay thành thục F5 để thành lập trung đoàn không quân 935, sau này trở thành trung đoàn anh hùng.
Đă quá cái tuổi lục thập nhi nhĩ thuận, c̣n điều ǵ ông thấy hối tiếc, hoặc món nợ nào ông chưa trả được?
Đến giờ này tôi vẫn ân hận, tiếc là không được chết v́ Hoàng Sa. Ngày 18.1.1974, hải quân Trung Quốc đổ bộ lên chiếm đảo Hoàng Sa, phía Việt Nam Cộng hoà khi đó có một đại đội địa phương quân chốt trên đảo Phú Lâm. Hai bên đánh nhau, cùng có thương vong về con người nhưng quân số Trung Quốc đông quá, 51 lính địa phương quân của ta bị bắt đưa về Trung Quốc. Việt Nam Cộng hoà lên tiếng phản đối việc Trung Quốc dùng sức mạnh quân sự để chiếm đảo của Việt Nam một cách phi pháp. Đây là sự kiện lớn, dư luận thế giới cũng phản đối việc đó.
Lúc này hải quân của Việt Nam Cộng hoà không thể đổ bộ chiếm lại đảo được. Ngày 19.1.1974, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu điều năm phi đoàn F5, bốn ở sân bay Biên Hoà, một ở sân bay Đà Nẵng, mỗi phi đoàn có 24 máy bay và 120 phi công ra Đà Nẵng chuẩn bị đánh lấy lại Hoàng Sa. Mọi người rất phấn khởi, tụi tôi đi ra với tư thế là đi lấy lại một phần lănh thổ đất nước. Sĩ quan cấp tá ở các phi đoàn 520 - Nguyễn Văn Dũng, 536 - Đàm Thượng Vũ, 540 - Nguyễn Văn Thanh, 544 - Đặng Văn Quang, 538 - Nguyễn Văn Giàu đều đă lên kế hoạch tác chiến kỹ lưỡng.
150 phi công thuộc sáu phi đoàn F5 của không lực Việt Nam Cộng hoà khi đó đều kư tên chung vào một lá đơn t́nh nguyện "Xin được chết v́ Hoàng Sa".
Hàng ngày, máy bay RF5 có nhiệm vụ bay và chụp ảnh các toạ độ từ nhỏ nhất ở Hoàng Sa, xem có thay đổi ǵ, tàu chiến Trung Quốc di chuyển ra sao, bố trí các cụm pḥng thủ thế nào... đưa về chiếu ra cho tất cả phi công theo dơi. Tụi tôi đếm từng tàu một, thậm chí đếm được cả số ghi trên tàu, chia bản đồ ra làm bốn, mỗi góc tư giao cho một phi đoàn, phi đoàn thứ năm bay bảo vệ trên không. Họ có 43 tàu tất cả và quyết tâm của tụi tôi là đánh ch́m tất cả 43 tàu đó trong vài giờ.
Về không quân, vào thời điểm đó chúng tôi có nhiều lợi thế hơn Trung Quốc. Bay từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa bằng cự ly từ đảo Hải Nam ra. Ưu thế của phi đội tụi tôi là máy bay bay ra, đánh nửa tiếng vẫn thừa dầu bay về c̣n Trung Quốc chỉ có Mig 21, bay ra đến Hoàng Sa th́ không đủ dầu bay về. Khí thế phi công lúc đó hừng hực, mấy anh chỉ huy trưởng từ đại tá trở xuống đ̣i đi đánh trước. Tất cả háo hức chờ đến giờ G là xuất kích. Nhưng giờ G ấy đă không đến. Hạm đội 7 của Mỹ trên biển không cứu các hạm đội của đồng minh Việt Nam Cộng hoà bị bắn ch́m và bị thương trên đảo. Dường như v́ lợi ích của ḿnh, các quốc gia lớn có quyền mặc cả và thương lượng bất chấp sự toàn vẹn lănh thổ của quốc gia khác.
Một mảnh đất dù nhỏ cũng là tổ quốc ḿnh, cha ông ta đă đắp xây nên bờ cơi, là con dân của đất nước ai cũng có nghĩa vụ thiêng liêng ǵn giữ lấy. Tụi tôi háo hức sẵn sàng tất cả nhưng cuối cùng không được chết cho Hoàng Sa. Tới bây giờ tôi vẫn ân hận. Sau này bạn bè tôi gặp lại nhau cũng cùng một tâm trạng: đáng lẽ tụi ḿnh chết cho Hoàng Sa th́ vinh dự hơn!
Hiện nay ông có bằng ḷng với cuộc sống của ḿnh?
Thời nào tôi cũng bằng ḷng với hiện tại. Thời khó khăn nhất cũng như khi đất nước đổi mới đến nay, tôi bằng ḷng với những cái ḿnh hiện có. Đó là hạnh phúc tự tạo. Nếu để làm giàu tôi sẽ đi đường khác và tôi biết cách làm giàu, nhưng tôi đă không lựa chọn như vậy. Tôi vẫn nghĩ "tri túc tiện túc hà thời túc", ḿnh biết đủ th́ lúc nào cũng đủ, c̣n ham muốn, lúc nào cũng thấy thiếu th́ không bao giờ đủ cả. Tôi bằng ḷng với cuộc sống con cái học hành đàng hoàng, lễ phép với cha mẹ. Hiện tôi vẫn chưa nhàn được, tôi vẫn đi làm thuê, nhưng làm để vui, chứ làm để buồn th́ tôi không bao giờ làm.
Cảm ơn về cuộc tṛ chuyện chân t́nh và thẳng thắn của ông.
(Theo SGTT)
35 năm hoạt động, trên vai áo ông từng đeo quân hàm không quân hai bên là đối thủ của nhau. 22.000 giờ bay với nhiều loại phi cơ chiến đấu và dân dụng hiện đại nhất từ Đông sang Tây, từ Á sang Âu. Những nếm trải cuộc đời, dường như Nguyễn Thành Trung chẳng thiếu thứ nào. Người ta thường nói vinh quang đi cùng cay đắng. C̣n ông, sống chết, tù tội chẳng màng, nhưng những giây phút cô đơn trong cuộc sống hoà b́nh, ngay trong ḷng đồng đội th́ thật dài và khó quên. Tháng tư đến rồi lại đi cùng kư ức.
Chặng đường lịch sử dài 38 năm có quá nhiều biến cố, sự kiện ném bom dinh Độc Lập ngày 8.4.1975 đối với ông có ư nghĩa ǵ? Bây giờ nghĩ về giây phút ấy ông cảm thấy thế nào?
Đối với cá nhân tôi, ngày 8.4.1975 là một bước ngoặt lịch sử quan trọng nhất trong cuộc đời. Lái chiếc máy bay F-5E ném hai trái bom xuống dinh Độc Lập, sau đó quay lại dùng súng phóng lựu vào kho xăng Nhà Bè, là hành động mà tôi ấp ủ trong một quá tŕnh dài, ngay từ thời trai trẻ.
Đối với tôi, chấm dứt chiến tranh để người Việt Nam không c̣n đổ máu là một việc lớn phải làm. Đó không phải là cảm hứng nhất thời, hay bất chợt, liều lĩnh. Sự nỗ lực cá nhân suốt bao nhiêu năm ở khoa toán - lư đại học Khoa học Sài G̣n, trong vỏ bọc sĩ quan không lực Việt Nam Cộng hoà, hay tại các trung tâm học lái máy bay chiến đấu ở Hoa Kỳ từ năm 1969 - 1972 tôi vẫn chuyên chú cho hành động ấy. Tôi âm thầm luyện tập hạ cánh ở cự ly gần 1.000 mét (trong khi máy bay F-5E phải đáp trên đường băng dài tối thiểu 3.000 mét) đến độ hư hai máy bay và phải chịu kỷ luật hạ lương, giáng chức, suưt nữa là bị lộ tại sân bay Biên Hoà. Nhờ vậy mà ngày 8.4 năm ấy tôi đă hành động chính xác, đáp xuống an toàn tại sân bay dă chiến Phước Long vừa giải phóng. Có thể gọi đó là sự chính xác của lư trí và khoa học. Bước ngoặt 180 độ đó cho tôi được chính danh là tôi - Nguyễn Thành Trung như ngày hôm nay.
Nhưng báo chí cả hai phía lúc đó chạy những ḍng tít lớn gọi ông là "phi công phản chiến"?
Đúng vậy, cấp trên nói với tôi là cần tuyên truyền như vậy để kêu gọi những người trong lực lượng không quân Sài G̣n tiếp tục phản chiến. Tôi nghĩ nói sao cũng được, vấn đề là tôi có làm được nhiệm vụ không? Có c̣n sống để trở về không? Từ năm 1969, tôi đă là đảng viên.
Thời khắc đó ông có nghĩ đến sự an toàn của vợ và hai con c̣n quá nhỏ đang sống ở thành phố Biên Hoà? Có khi nào ông cảm thấy khổ tâm hay hối hận về hành động của ḿnh mang lại nỗi vất vả cho vợ con?
Trước khi ném bom dinh Độc Lập ngày 8.4.1975, lănh đạo đề nghị đưa vợ con tôi ra vùng giải phóng để tôi yên tâm làm nhiệm vụ. Nhưng lúc đó, tôi bị nghi kỵ nhiều, nguy cơ lộ rất cao nên chuyện đó là không thể. An ninh quân đội theo sát gia đ́nh tôi từng giờ, nếu vợ con tôi vắng nhà không rơ lư do th́ tôi sẽ bị bắt ngay tức khắc. Cũng có thể trên đường ra vùng giải phóng, vợ con tôi cũng sẽ bị bắt, t́nh thế đó sẽ nghiêm trọng hơn. Rất lo lắng cho tính mạng vợ con, nhưng việc mà tôi đă tính trước mười năm đến thời điểm này là không thể dừng. Mặt khác, thời gian sống trong đội ngũ không lực Sài G̣n cho tôi một niềm tin rằng vợ tôi, một người phụ nữ không liên quan ǵ đến công việc của tôi, con tôi c̣n quá nhỏ (đứa lớn mới năm tuổi, đứa nhỏ chưa tṛn năm) sẽ không bị đối xử một cách tàn nhẫn. Thực tế diễn ra đúng như tôi dự đoán.
Ngày 2.5.1975, tôi lái máy bay từ Phan Rang về sân bay Biên Hoà. Vợ con tôi cũng vừa được giải thoát khỏi số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng tôi gặp lại nhau trong ngôi nhà nhỏ của ḿnh.
Sau ngày thống nhất đất nước, đối diện với bao khó khăn của cuộc sống thường ngày do nền kinh tế bao cấp áp đặt, những lúc ngột ngạt, mệt mỏi ông nghĩ ǵ?
Tôi là người được học hành tử tế trong những ngôi trường khá lư tưởng của Sài G̣n và tiếp cận nhiều nguồn tài liệu khác nhau, tôi biết rơ những sai lầm trong chính sách kinh tế của miền Bắc nước ta. Bi kịch cải cách ruộng đất c̣n nguyên đó, công nghiệp chẳng có ǵ. Khu gang thép Thái Nguyên c̣n thô sơ lắm, Dệt Nam Định, Sứ Hải Dương chỉ sản xuất được những mặt hàng tiêu dùng cấp thấp, đặc biệt là hạn chế về tŕnh độ của cán bộ quản lư. Sự khác biệt về ư thức hệ giữa hai miền, nhất là do đặc thù của nền kinh tế tự cung tự cấp, cho tôi nh́n rơ sau khi Việt Nam thống nhất, kinh tế sẽ cực kỳ khó khăn ít nhất là mười năm. Tôi chuẩn bị tinh thần đối phó với những khó khăn chung, và cả những khó khăn về mặt cá nhân, nghi ngờ, hay có những phân biệt đối xử này nọ... Tôi chấp nhận đối diện thực tế đó và nghĩ điều quan trọng nhất ḿnh có được là dân tộc Việt được sống trong hoà b́nh.
<table align="center" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="30%"><tbody><tr><td bgcolor="#ffffff" valign="top">http://images.vnmedia.vn/images_upload/2013/vnm_2013_2875059.jpg
Đại tá-Anh hùng Nguyễn Thành Trung
</td></tr></tbody></table>Thực tế mười năm khó khăn như ông nói cũng đă được tháo gỡ bởi bước chuyển đổi mới. Nhưng tới bây giờ, người ta lại tiếp tục đưa ra dự báo ḿnh lại đang hụt hơi, tụt đà. Ông nghĩ thế nào?
Thực ra đổi mới một phần v́ khi ḿnh tiếp xúc với thế giới mới ngộ ra một điều là đang bị co trong ṿng luẩn quẩn, không t́m ra lối thoát trong khi thế giới ào ào tiến lên. Từ ảnh hưởng đó đồng thời tác động mạnh của cuộc khủng hoảng Đông Âu tới ḿnh và cả Trung Quốc, bắt buộc phải một phần nào đó chấp nhận cách làm ăn mới, có sự tư hữu. Tư hữu của thế giới ḿnh không chấp nhận, nhưng con người có quyền tư hữu từ hàng ngàn năm về trước. Ḿnh luẩn quẩn trong khi thế giới đang tiến lên bởi ḿnh không chấp nhận dân làm giàu. Cho nên bắt buộc ḿnh phải công nhận, phải chấp nhận tư hữu ở một mức độ nào đó để dân thở được. Khi đó dân bắt đầu làm ăn được. Cải cách v́ vậy là do dân. Cuộc cách mạng này do dân và do lịch sử thế giới tác động. Nếu muốn không tụt đà th́ phải nương vào sức dân, dân giàu th́ nước mới mạnh.
Sau ngày 30.4, ông có thường gặp lại đồng nghiệp trong những phi đội cũ? T́nh cảnh và và tâm thế lúc gặp lại như thế nào?
Bẵng mười năm sau giải phóng, tôi không gặp lại ai trong nhóm những đồng nghiệp cũ. Sau đổi mới, từ năm 1986 trở về sau này, các đồng nghiệp cũ của tôi lần lượt về mới có dịp gặp lại. Lớp tôi có 23 đứa, chết hết bốn, 18 đứa qua Mỹ, chỉ c̣n ḿnh tôi ở lại. Những lần gặp cũng dễ nói chuyện v́ họ đă hiểu rơ mọi chuyện. Tôi cũng hoàn toàn hiểu và tôn trọng họ. Đa phần những đồng nghiệp của tôi đều ở Mỹ. Lúc mới về, tâm lư chung mấy người bạn đều ngại gặp tôi. Tôi th́ chả ngại ǵ, tôi vẫn xem họ là những người bạn. Khi gặp cũng tâm sự nhiều, cũng so sánh chuyện cũ, chuyện bây giờ. Ai cũng công nhận việc tôi làm là góp phần chấm dứt cuộc chiến tranh, chấm dứt cảnh chết chóc, đổ máu. Nhưng điều họ chia sẻ là họ không dám có những quyết định như vậy.
Những người bạn lựa chọn khác tôi lúc qua Mỹ c̣n trẻ nên ai hội nhập được, sống khá giả. Năm nào mấy ổng cũng ngồi lại với nhau, chuyện nói nhiều nhất là về tôi. Nhiều anh em bảo quyết định của tôi hơi dại dột, v́ sau giải phóng sống kiểu ǵ cũng bị nghi ngờ, đói khổ... Tôi trả lời đó không phải là quyết định bậy bởi tôi ư thức được việc cần làm. Cái ǵ cũng vậy, làm th́ phải trả giá nhưng tôi chấp nhận việc đó. Nhưng qua những thăng trầm của đất nước, nhiều kinh nghiệm cuộc đời đúc kết lại, tôi thấy việc tôi làm càng ngày càng đúng. C̣n hỏi tôi có lăn tăn hay không, tôi trả lời thật là thánh mới không lăn tăn, nhưng những cái lớn nhất át những lăn tăn nhỏ đi, nên hàng đêm tôi ngủ yên v́ biết tôi đang ngủ trên đất nước ḿnh, chứ qua Mỹ sướng thật nhưng ngủ không yên bởi lúc nào cũng đau đáu một quê hương chỉ c̣n trong kư ức. Nhiều đứa bạn nói thẳng: "Đến bây giờ mới nghe được một người nói điều đó là mày". Chúng tôi gặp nhau trao đổi thẳng thắn, không giấu giếm điều ǵ, nói đến tận cùng suy nghĩ của mỗi người.
Với ông, quê hương là thế nào?
Tôi có tới hai quê hương. Một Bến Tre nơi tôi sinh ra, nơi đó là ḍng tộc máu mủ, nơi đó cha mẹ tôi đă nằm xuống cho chúng tôi trưởng thành. Vốn là xứ học, địa linh nhân kiệt, nhiều tên tuổi trí thức lớn Việt Nam xuất phát từ đây. Những Phan Thanh Giản, Vơ Trường Toản, Trương Vĩnh Kư, Nguyễn Đ́nh Chiểu... là những tấm gương của nhân - nghĩa - lễ - trí - tín mà tôi từng học được.
C̣n một quê hương khác, Sài G̣n đối với tôi là máu thịt, là t́nh yêu, là ǵ đó không thể lay chuyển được dù cho năm tháng trôi qua, nh́n góc phố thay đổi, cũng nhiều lúc buồn vui hờn giận, tiếc nuối...
Ông đă bước ra khỏi vỏ bọc của một điệp viên, lái máy bay trên bầu trời hoà b́nh, và làm công việc đào tạo, hết ḷng với một thế hệ phi công trẻ Việt Nam. Điều đọng lại trong ông sau thời gian dài gắn bó với công việc đào tạo, huấn luyện ấy là ǵ?
Giă từ cuộc chiến, tôi thấy ḿnh làm khá nhiều việc mà những việc đó chắc không phải ai cũng làm được. Hồi c̣n sống, anh Hai Trung (tướng t́nh báo Phạm Xuân Ẩn) nói nửa đùa nửa thật: "Việc ông ném bom dinh Độc Lập, Nhà nước phong ông anh hùng th́ tôi không nói làm ǵ, c̣n công việc ông làm sau này nếu được, tôi phong ông hai lần anh hùng nữa". Anh Hai Trung hiểu về công việc đặc thù của tôi. Khi giải phóng, cả một bề thế không quân chế độ cũ bỏ lại, tôi là người làm sống lại phi đội A37 sau này tham gia đánh Tân Sơn Nhất vào ngày 28.4 trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. F5 là máy bay chiến đấu hiện đại nhất của Sài G̣n lúc bấy giờ mà Mỹ bỏ lại mấy phi đoàn nhưng không có người bay. Giá trị vậy nhưng bỏ lại quá lâu bị hư hại nhiều, có chiếc bị bắn phá thủng lỗ chỗ. Nhiều chiếc c̣n bị bộ đội tiếp quản tháo đi những tiện nghi nội thất hay linh kiện quan trọng... Sau khi thành lập bộ phận tiếp quản, tôi nhận nhiệm vụ làm sống lại những chiếc máy bay này. Khi sửa xong, tôi là người bay thử. Phi công bay thử của người ta điều kiện bảo hiểm ngặt nghèo lắm, c̣n tôi th́ như con thiêu thân. Gần 50 lần bay như thế, tôi luôn sẵn sàng t́nh huống nhảy dù khẩn cấp bởi máy bay có thể hư bất cứ lúc nào. Mỗi lần bay, nhiên liệu chỉ cung cấp đủ phân nửa cơ số. Vốn là người nhạy cảm trong cuộc sống, con ruồi bay qua tôi phân biệt ruồi đực hay ruồi cái, huống chi chuyện nhiên liệu chỉ đủ bay một ṿng trong bán kính hẹp. Điều lăn tăn mà tôi kể trên là như vậy đó.
Tháng 8.1975 sau khi hồi phục xong rồi, tôi huấn luyện cả một phi đội, bay thành thục F5 để thành lập trung đoàn không quân 935, sau này trở thành trung đoàn anh hùng.
Đă quá cái tuổi lục thập nhi nhĩ thuận, c̣n điều ǵ ông thấy hối tiếc, hoặc món nợ nào ông chưa trả được?
Đến giờ này tôi vẫn ân hận, tiếc là không được chết v́ Hoàng Sa. Ngày 18.1.1974, hải quân Trung Quốc đổ bộ lên chiếm đảo Hoàng Sa, phía Việt Nam Cộng hoà khi đó có một đại đội địa phương quân chốt trên đảo Phú Lâm. Hai bên đánh nhau, cùng có thương vong về con người nhưng quân số Trung Quốc đông quá, 51 lính địa phương quân của ta bị bắt đưa về Trung Quốc. Việt Nam Cộng hoà lên tiếng phản đối việc Trung Quốc dùng sức mạnh quân sự để chiếm đảo của Việt Nam một cách phi pháp. Đây là sự kiện lớn, dư luận thế giới cũng phản đối việc đó.
Lúc này hải quân của Việt Nam Cộng hoà không thể đổ bộ chiếm lại đảo được. Ngày 19.1.1974, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu điều năm phi đoàn F5, bốn ở sân bay Biên Hoà, một ở sân bay Đà Nẵng, mỗi phi đoàn có 24 máy bay và 120 phi công ra Đà Nẵng chuẩn bị đánh lấy lại Hoàng Sa. Mọi người rất phấn khởi, tụi tôi đi ra với tư thế là đi lấy lại một phần lănh thổ đất nước. Sĩ quan cấp tá ở các phi đoàn 520 - Nguyễn Văn Dũng, 536 - Đàm Thượng Vũ, 540 - Nguyễn Văn Thanh, 544 - Đặng Văn Quang, 538 - Nguyễn Văn Giàu đều đă lên kế hoạch tác chiến kỹ lưỡng.
150 phi công thuộc sáu phi đoàn F5 của không lực Việt Nam Cộng hoà khi đó đều kư tên chung vào một lá đơn t́nh nguyện "Xin được chết v́ Hoàng Sa".
Hàng ngày, máy bay RF5 có nhiệm vụ bay và chụp ảnh các toạ độ từ nhỏ nhất ở Hoàng Sa, xem có thay đổi ǵ, tàu chiến Trung Quốc di chuyển ra sao, bố trí các cụm pḥng thủ thế nào... đưa về chiếu ra cho tất cả phi công theo dơi. Tụi tôi đếm từng tàu một, thậm chí đếm được cả số ghi trên tàu, chia bản đồ ra làm bốn, mỗi góc tư giao cho một phi đoàn, phi đoàn thứ năm bay bảo vệ trên không. Họ có 43 tàu tất cả và quyết tâm của tụi tôi là đánh ch́m tất cả 43 tàu đó trong vài giờ.
Về không quân, vào thời điểm đó chúng tôi có nhiều lợi thế hơn Trung Quốc. Bay từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa bằng cự ly từ đảo Hải Nam ra. Ưu thế của phi đội tụi tôi là máy bay bay ra, đánh nửa tiếng vẫn thừa dầu bay về c̣n Trung Quốc chỉ có Mig 21, bay ra đến Hoàng Sa th́ không đủ dầu bay về. Khí thế phi công lúc đó hừng hực, mấy anh chỉ huy trưởng từ đại tá trở xuống đ̣i đi đánh trước. Tất cả háo hức chờ đến giờ G là xuất kích. Nhưng giờ G ấy đă không đến. Hạm đội 7 của Mỹ trên biển không cứu các hạm đội của đồng minh Việt Nam Cộng hoà bị bắn ch́m và bị thương trên đảo. Dường như v́ lợi ích của ḿnh, các quốc gia lớn có quyền mặc cả và thương lượng bất chấp sự toàn vẹn lănh thổ của quốc gia khác.
Một mảnh đất dù nhỏ cũng là tổ quốc ḿnh, cha ông ta đă đắp xây nên bờ cơi, là con dân của đất nước ai cũng có nghĩa vụ thiêng liêng ǵn giữ lấy. Tụi tôi háo hức sẵn sàng tất cả nhưng cuối cùng không được chết cho Hoàng Sa. Tới bây giờ tôi vẫn ân hận. Sau này bạn bè tôi gặp lại nhau cũng cùng một tâm trạng: đáng lẽ tụi ḿnh chết cho Hoàng Sa th́ vinh dự hơn!
Hiện nay ông có bằng ḷng với cuộc sống của ḿnh?
Thời nào tôi cũng bằng ḷng với hiện tại. Thời khó khăn nhất cũng như khi đất nước đổi mới đến nay, tôi bằng ḷng với những cái ḿnh hiện có. Đó là hạnh phúc tự tạo. Nếu để làm giàu tôi sẽ đi đường khác và tôi biết cách làm giàu, nhưng tôi đă không lựa chọn như vậy. Tôi vẫn nghĩ "tri túc tiện túc hà thời túc", ḿnh biết đủ th́ lúc nào cũng đủ, c̣n ham muốn, lúc nào cũng thấy thiếu th́ không bao giờ đủ cả. Tôi bằng ḷng với cuộc sống con cái học hành đàng hoàng, lễ phép với cha mẹ. Hiện tôi vẫn chưa nhàn được, tôi vẫn đi làm thuê, nhưng làm để vui, chứ làm để buồn th́ tôi không bao giờ làm.
Cảm ơn về cuộc tṛ chuyện chân t́nh và thẳng thắn của ông.
(Theo SGTT)