Hanna
05-02-2013, 06:02
Tại sao Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: 'Tôi chết đừng phủ cờ vàng?'
Năm nay, vấn đề ai là những người phải chịu trách nhiệm đă để một nửa đất nước từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau rơi vào tay những người cộng sản được đặt ra với một bài thơ, một di chúc rất xúc động của một cố tướng lănh VNCH: “Mai tôi chết, xin cờ vàng đừng phủ.” Đó là Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng, nguyên tư lệnh sư đoàn Nhảy Dù mà thời chiến tranh Việt Nam, báo chí gọi ông là “con sói của trận mạc,” xin trích:
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ
Lê Quang Lưỡng
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ
Xác thân này đâu chết cho quê hương?
Súng gươm xưa đă bỏ lại chiến trường!
Thân chiến bại nhục nhằn nơi đất khách!
Hơn nửa đời đă tan rồi khí phách.
Nhớ bạn bè nằm xuống nghĩ mà đau!
Không quan tài cờ phủ giữa chiến hào,
Máu thịt đă thấm vào ḷng đất mẹ.
Bao năm trời bao nhiêu người trai trẻ,
Chết không cần cờ phủ vẫn uy nghi.
Khi nằm xuống bạn nào đă cần ǵ?
Chỉ ước muốn thân này dâng đất nước,
Ta giờ đây đă tàn bao mơ ước!
Chuyện ngày xưa chỉ c̣n thấy trong mơ...
Ngày về quê càng lúc càng xa mờ.
Thời gian vẫn lạnh lùng theo năm tháng,
Tuổi càng cao ḷng càng nghe mặn đắng!
Xót thân này khi chết bỏ lại đây!
Nơi xứ người bạn hữu chẳng c̣n ai??
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ.
Bài thơ tự nó đă là những cảm xúc đầy bi hùng tráng của một bại tướng VNCH. Bài thơ được làm ít lâu trước khi ông qua đời vào ngày 21 Tháng Chín, 2005 tại thành phố Bakerfield, tiểu bang California. Việc ông di tản sang Hoa Kỳ vào ngày 29 Tháng Tư, 1975 đă trở thành vết thương và niềm u sầu suốt những năm tháng sau này qua một câu thơ mà nhiều người thích “Sầu hận tim ta ai biết được.” Nhưng chính lời trối trăn của ông đối với đồng đội, đồng hương đă làm h́nh ảnh của một bại tướng trở nên sáng ngời:
“Tôi làm tướng không bảo vệ được nước, khi nước mất tôi đă không dám chết theo nước, nên khi tôi chết già yêu cầu đừng phủ quốc kỳ lên quan tài tôi, v́ tôi tự biết ḿnh không xứng đáng được hưởng lễ nghi nầy.”
Với ḷng can đảm tuyệt vời, vị tướng lănh đáng được trân trọng nói trên đă để lại lời nói cuối cùng trước khi qua đời bao hàm nỗi ḷng u uẩn của dũng tướng, nhưng trong một phút chùng ḷng đă không theo được gương của người xưa “thân làm tướng khi thành mất th́ phải chết theo thành.” Nỗi buồn đó theo ông suốt những năm tháng c̣n lại của cuộc sống lưu vong trên xứ người, để rồi cuối cùng chuẩn bị cho cái chết ông đă can đảm từ chối vinh dự “da ngựa bọc thây,” khác với các tướng lănh thời đương thời và cùng hoàn cảnh di tản như ông.
Nó là một thông điệp dứt khoát kêu gọi những người có trách nhiệm về việc mất miền Nam Việt Nam hăy can đảm nhận trách nhiệm của ḿnh, chấm dứt những nỗ lực t́m người lănh đạo cuối cùng phải đầu hàng để trút trách nhiệm cho họ, chấm dứt việc đ̣i lại danh dự cho nhà lănh đạo này hay lănh đạo khác mà biến cố cách đây 38 năm đă biến họ thành đào ngũ, đào nhiệm trước địch quân, chấm dứt việc đem lá quốc kỳ đă thấm máu quân, dân, cán, chính VNCH để đem phủ cho những người không đáng được hưởng vinh dự đó, hăy xét lại cho thật kỹ việc tự thêu khăn quàng, tự mang cà-vạt, đội mũ, mặc áo, tự sơn xe riêng của ḿnh mầu cờ vàng ba sọc đỏ và nên tự hỏi: liệu ḿnh có xứng đáng mang lá cờ này không, có đủ nhân cách, tư cách, có đủ sự trung thành với là cờ đó không hay việc ôm lấy lá quốc kỳ chỉ để che giấu những hoạt động chính trị thiếu chính trực của ḿnh?
Tôi là phóng viên mặt trận của hệ thống truyền thanh quốc gia đă từng theo tường thuật hành quân và các trận đánh lớn từ thời Tướng Lê Quang Lưỡng c̣n là tiểu đoàn trưởng cho đến lúc ông trở thành lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn 2 Sư Đoàn Nhảy Dù, cho nên tôi hiểu nỗi đau của ông khi phải viết lại di chúc này. Nhưng ngay từ những năm 1964, 1965 khi chiến tranh bắt đầu lan rộng, Tướng Lê Quang Lưỡng đă là một ngôi sao sáng trong số những ngôi sao c̣n rất trẻ ở sư đoàn Nhảy Dù, một đại đơn vị lúc nào cũng ở tuyến đầu, nhận chịu những áp lực nặng nề nhất từ phía CSBV, nhưng họ đă vượt qua được muôn trùng khó khăn là do giữ được kỷ luật và tín niệm Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm.
Riêng Tướng Lê Quang Lưỡng khi c̣n là tiểu đoàn trưởng đă được báo chí miền Nam gọi là “con sói của trận mạc” không có ǵ sai cả. Kiên tŕ vượt lên trên những lần thất bại, luôn luôn là tấm gương tinh thần cho những sĩ quan và binh lính thuộc cấp, gan dạ và mưu lược trong những giây phút căng thẳng và nguy hiểm nhất cho đơn vị, đối xử tốt và đúng luật đối tù binh địch, Tướng Lê Quang Lưỡng đă ngồi vào chức vụ tư lệnh của một trong những đơn vị tổng trừ bị hàng đầu của Quân Lực VNCH.
Là một người công trạng sáng chói như ông mà chỉ v́ một quyết định không mấy vinh dự khi đất nước nghiêng ngửa mà tên tuổi của ông bị một vết chàm tưởng như sẽ vĩnh viễn không gột rửa. Nhưng ḷng yêu nước, trọng danh dự và trách nhiệm được thể hiện qua bài thơ: “Khi tôi chết xin cờ vàng đừng phủ,” ông đă nhận lại được danh dự và sự chính trực của một người mang thân làm tướng và đang là bại tướng. Gặp lại ông trong đám cưới của một người bạn năm 2001, ông cho mời tôi lại bàn. Dù tôi không biết uống rượu, tôi đă rót đầy ly của ông để đánh dấu ngày gặp lại người lính trận mà tôi vẫn nể phục này, ông chỉ thân mật cười, giọng trầm: “Chắc Ánh chưa biết anh không c̣n uống rượu được nữa v́ bệnh. Vả lại nhiều năm qua, anh thấy rượu sao đắng quá.” Tôi nh́n lại “con sói già,” người hùng thở nào trên các mặt trận ở Quảng Trị, Cùa, Đông Hà, Hải Lăng, Mỹ Chánh, PK.17, Kontum, Pleiku... tự nhiên thấy mắt ḿnh cay cay. Đó là lần cuối cùng tôi gặp ông.
Giờ đây, chắc linh hồn Tướng Lê Quang Lưỡng đă yên ổn thênh thang ở cơi không c̣n chiến tranh và hận thù. Ông chắc đă gặp lại các đồng đội cũng từng hành động can đảm giống như ông. Đó là Đại Tá Huỳnh Thanh Sơn, tư lệnh phó Sư Đoàn 7 Bộ Binh, và cựu Trung Úy Đoàn Bá Phụ, một trong những đại đội trưởng xuất sắc của Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù. Đại Tá Sơn xuất thân từ Biệt Động Quân, sau những năm tháng trận mạc dài dài, ông được lệnh thuyên chuyển làm tư lệnh cảnh sát vùng và những năm cuối cùng trước 30 Tháng Tư, 1975, ông được bổ nhiệm tư lệnh phó hành quân Sư Đoàn 7 Bộ Binh do Tướng Trần Văn Hai làm tư lệnh. Khi Tướng Hai chuẩn bị tuẫn tiết th́ vừa lúc ông mở đường máu dẫn quân từ Cai Lậy về Bộ Tư Lệnh ở Đồng Tâm. Kết quả ông lănh hơn 12 năm tù cải tạo. Được thả và định cư ở Mỹ theo diện HO, ông vẫn không muốn ở không để lănh trợ cấp chính phủ nên không bao lâu sau khi định cư dù con cái ông đă khôn lớn và ổn định, cựu Đại Tá Huỳnh Thanh Sơn vẫn nhận công việc của một nhân viên an ninh tư để thấy ḿnh vẫn c̣n có ích cho xă hội.
Ông bị ung thư gan và qua đời cách đây 11 năm. Trước khi qua đời ông dặn vợ con là không nhận phủ cờ vàng v́ cảm thấy ḿnh không đáng được hưởng vinh dự ấy. C̣n cựu Trung Úy Đoàn Bá Phụ là cựu tù cải tạo ở trại A-20 và đồng thời là người tù nổi tiếng bất khuất, định cư ở Mỹ bằng cách vượt biển sau khi được thả ra khỏi trại vài tháng. Sang định cư ở Hoa Kỳ, Phụ lập gia đ́nh, làm việc và nuôi dạy ba cô con gái sau này trở thành những sinh viên, học sinh xuất sắc và được học bổng của tỷ phú Bill Gates cũng như các học bổng khác. Trước khi qua đời anh trối trăn là đừng phủ cờ vàng v́ cảm thấy ḿnh không xứng đáng được hưởng vinh dự ấy và tôi là một trong những người chứng của lời trối trăn đầy can đảm này của người bạn tù. Những điều tôi viết ra chắc chắn có những người không đồng ư. Họ có thể có cách nh́n khác. Tôi tôn trọng và không tranh căi. V́ theo cố Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng:
“Bao năm trời bao nhiêu chàng trai trẻ
Chết không cần cờ phủ vẫn uy nghi.”
Ḷng can đảm của Tướng Lê Quang Lưỡng là một tấm gương sáng ngời một lần nữa củng cố niềm tin cho tôi, cho chúng tôi rằng, cuối cùng danh dự và chính trực muôn đời vẫn là thước đo con người dù trong hoàn cảnh chiến thắng hay trong hoàn cảnh bại trận.
Theo MT
Năm nay, vấn đề ai là những người phải chịu trách nhiệm đă để một nửa đất nước từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau rơi vào tay những người cộng sản được đặt ra với một bài thơ, một di chúc rất xúc động của một cố tướng lănh VNCH: “Mai tôi chết, xin cờ vàng đừng phủ.” Đó là Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng, nguyên tư lệnh sư đoàn Nhảy Dù mà thời chiến tranh Việt Nam, báo chí gọi ông là “con sói của trận mạc,” xin trích:
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ
Lê Quang Lưỡng
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ
Xác thân này đâu chết cho quê hương?
Súng gươm xưa đă bỏ lại chiến trường!
Thân chiến bại nhục nhằn nơi đất khách!
Hơn nửa đời đă tan rồi khí phách.
Nhớ bạn bè nằm xuống nghĩ mà đau!
Không quan tài cờ phủ giữa chiến hào,
Máu thịt đă thấm vào ḷng đất mẹ.
Bao năm trời bao nhiêu người trai trẻ,
Chết không cần cờ phủ vẫn uy nghi.
Khi nằm xuống bạn nào đă cần ǵ?
Chỉ ước muốn thân này dâng đất nước,
Ta giờ đây đă tàn bao mơ ước!
Chuyện ngày xưa chỉ c̣n thấy trong mơ...
Ngày về quê càng lúc càng xa mờ.
Thời gian vẫn lạnh lùng theo năm tháng,
Tuổi càng cao ḷng càng nghe mặn đắng!
Xót thân này khi chết bỏ lại đây!
Nơi xứ người bạn hữu chẳng c̣n ai??
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ.
Bài thơ tự nó đă là những cảm xúc đầy bi hùng tráng của một bại tướng VNCH. Bài thơ được làm ít lâu trước khi ông qua đời vào ngày 21 Tháng Chín, 2005 tại thành phố Bakerfield, tiểu bang California. Việc ông di tản sang Hoa Kỳ vào ngày 29 Tháng Tư, 1975 đă trở thành vết thương và niềm u sầu suốt những năm tháng sau này qua một câu thơ mà nhiều người thích “Sầu hận tim ta ai biết được.” Nhưng chính lời trối trăn của ông đối với đồng đội, đồng hương đă làm h́nh ảnh của một bại tướng trở nên sáng ngời:
“Tôi làm tướng không bảo vệ được nước, khi nước mất tôi đă không dám chết theo nước, nên khi tôi chết già yêu cầu đừng phủ quốc kỳ lên quan tài tôi, v́ tôi tự biết ḿnh không xứng đáng được hưởng lễ nghi nầy.”
Với ḷng can đảm tuyệt vời, vị tướng lănh đáng được trân trọng nói trên đă để lại lời nói cuối cùng trước khi qua đời bao hàm nỗi ḷng u uẩn của dũng tướng, nhưng trong một phút chùng ḷng đă không theo được gương của người xưa “thân làm tướng khi thành mất th́ phải chết theo thành.” Nỗi buồn đó theo ông suốt những năm tháng c̣n lại của cuộc sống lưu vong trên xứ người, để rồi cuối cùng chuẩn bị cho cái chết ông đă can đảm từ chối vinh dự “da ngựa bọc thây,” khác với các tướng lănh thời đương thời và cùng hoàn cảnh di tản như ông.
Nó là một thông điệp dứt khoát kêu gọi những người có trách nhiệm về việc mất miền Nam Việt Nam hăy can đảm nhận trách nhiệm của ḿnh, chấm dứt những nỗ lực t́m người lănh đạo cuối cùng phải đầu hàng để trút trách nhiệm cho họ, chấm dứt việc đ̣i lại danh dự cho nhà lănh đạo này hay lănh đạo khác mà biến cố cách đây 38 năm đă biến họ thành đào ngũ, đào nhiệm trước địch quân, chấm dứt việc đem lá quốc kỳ đă thấm máu quân, dân, cán, chính VNCH để đem phủ cho những người không đáng được hưởng vinh dự đó, hăy xét lại cho thật kỹ việc tự thêu khăn quàng, tự mang cà-vạt, đội mũ, mặc áo, tự sơn xe riêng của ḿnh mầu cờ vàng ba sọc đỏ và nên tự hỏi: liệu ḿnh có xứng đáng mang lá cờ này không, có đủ nhân cách, tư cách, có đủ sự trung thành với là cờ đó không hay việc ôm lấy lá quốc kỳ chỉ để che giấu những hoạt động chính trị thiếu chính trực của ḿnh?
Tôi là phóng viên mặt trận của hệ thống truyền thanh quốc gia đă từng theo tường thuật hành quân và các trận đánh lớn từ thời Tướng Lê Quang Lưỡng c̣n là tiểu đoàn trưởng cho đến lúc ông trở thành lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn 2 Sư Đoàn Nhảy Dù, cho nên tôi hiểu nỗi đau của ông khi phải viết lại di chúc này. Nhưng ngay từ những năm 1964, 1965 khi chiến tranh bắt đầu lan rộng, Tướng Lê Quang Lưỡng đă là một ngôi sao sáng trong số những ngôi sao c̣n rất trẻ ở sư đoàn Nhảy Dù, một đại đơn vị lúc nào cũng ở tuyến đầu, nhận chịu những áp lực nặng nề nhất từ phía CSBV, nhưng họ đă vượt qua được muôn trùng khó khăn là do giữ được kỷ luật và tín niệm Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm.
Riêng Tướng Lê Quang Lưỡng khi c̣n là tiểu đoàn trưởng đă được báo chí miền Nam gọi là “con sói của trận mạc” không có ǵ sai cả. Kiên tŕ vượt lên trên những lần thất bại, luôn luôn là tấm gương tinh thần cho những sĩ quan và binh lính thuộc cấp, gan dạ và mưu lược trong những giây phút căng thẳng và nguy hiểm nhất cho đơn vị, đối xử tốt và đúng luật đối tù binh địch, Tướng Lê Quang Lưỡng đă ngồi vào chức vụ tư lệnh của một trong những đơn vị tổng trừ bị hàng đầu của Quân Lực VNCH.
Là một người công trạng sáng chói như ông mà chỉ v́ một quyết định không mấy vinh dự khi đất nước nghiêng ngửa mà tên tuổi của ông bị một vết chàm tưởng như sẽ vĩnh viễn không gột rửa. Nhưng ḷng yêu nước, trọng danh dự và trách nhiệm được thể hiện qua bài thơ: “Khi tôi chết xin cờ vàng đừng phủ,” ông đă nhận lại được danh dự và sự chính trực của một người mang thân làm tướng và đang là bại tướng. Gặp lại ông trong đám cưới của một người bạn năm 2001, ông cho mời tôi lại bàn. Dù tôi không biết uống rượu, tôi đă rót đầy ly của ông để đánh dấu ngày gặp lại người lính trận mà tôi vẫn nể phục này, ông chỉ thân mật cười, giọng trầm: “Chắc Ánh chưa biết anh không c̣n uống rượu được nữa v́ bệnh. Vả lại nhiều năm qua, anh thấy rượu sao đắng quá.” Tôi nh́n lại “con sói già,” người hùng thở nào trên các mặt trận ở Quảng Trị, Cùa, Đông Hà, Hải Lăng, Mỹ Chánh, PK.17, Kontum, Pleiku... tự nhiên thấy mắt ḿnh cay cay. Đó là lần cuối cùng tôi gặp ông.
Giờ đây, chắc linh hồn Tướng Lê Quang Lưỡng đă yên ổn thênh thang ở cơi không c̣n chiến tranh và hận thù. Ông chắc đă gặp lại các đồng đội cũng từng hành động can đảm giống như ông. Đó là Đại Tá Huỳnh Thanh Sơn, tư lệnh phó Sư Đoàn 7 Bộ Binh, và cựu Trung Úy Đoàn Bá Phụ, một trong những đại đội trưởng xuất sắc của Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù. Đại Tá Sơn xuất thân từ Biệt Động Quân, sau những năm tháng trận mạc dài dài, ông được lệnh thuyên chuyển làm tư lệnh cảnh sát vùng và những năm cuối cùng trước 30 Tháng Tư, 1975, ông được bổ nhiệm tư lệnh phó hành quân Sư Đoàn 7 Bộ Binh do Tướng Trần Văn Hai làm tư lệnh. Khi Tướng Hai chuẩn bị tuẫn tiết th́ vừa lúc ông mở đường máu dẫn quân từ Cai Lậy về Bộ Tư Lệnh ở Đồng Tâm. Kết quả ông lănh hơn 12 năm tù cải tạo. Được thả và định cư ở Mỹ theo diện HO, ông vẫn không muốn ở không để lănh trợ cấp chính phủ nên không bao lâu sau khi định cư dù con cái ông đă khôn lớn và ổn định, cựu Đại Tá Huỳnh Thanh Sơn vẫn nhận công việc của một nhân viên an ninh tư để thấy ḿnh vẫn c̣n có ích cho xă hội.
Ông bị ung thư gan và qua đời cách đây 11 năm. Trước khi qua đời ông dặn vợ con là không nhận phủ cờ vàng v́ cảm thấy ḿnh không đáng được hưởng vinh dự ấy. C̣n cựu Trung Úy Đoàn Bá Phụ là cựu tù cải tạo ở trại A-20 và đồng thời là người tù nổi tiếng bất khuất, định cư ở Mỹ bằng cách vượt biển sau khi được thả ra khỏi trại vài tháng. Sang định cư ở Hoa Kỳ, Phụ lập gia đ́nh, làm việc và nuôi dạy ba cô con gái sau này trở thành những sinh viên, học sinh xuất sắc và được học bổng của tỷ phú Bill Gates cũng như các học bổng khác. Trước khi qua đời anh trối trăn là đừng phủ cờ vàng v́ cảm thấy ḿnh không xứng đáng được hưởng vinh dự ấy và tôi là một trong những người chứng của lời trối trăn đầy can đảm này của người bạn tù. Những điều tôi viết ra chắc chắn có những người không đồng ư. Họ có thể có cách nh́n khác. Tôi tôn trọng và không tranh căi. V́ theo cố Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng:
“Bao năm trời bao nhiêu chàng trai trẻ
Chết không cần cờ phủ vẫn uy nghi.”
Ḷng can đảm của Tướng Lê Quang Lưỡng là một tấm gương sáng ngời một lần nữa củng cố niềm tin cho tôi, cho chúng tôi rằng, cuối cùng danh dự và chính trực muôn đời vẫn là thước đo con người dù trong hoàn cảnh chiến thắng hay trong hoàn cảnh bại trận.
Theo MT