Log in

View Full Version : Nỗi ḷng người tha hương


vuitoichat
05-13-2013, 11:47
Đối với những người rời bỏ quê hương, xứ sở để đến một nước khác, thích ứng và hội nhập là vấn đề sinh tử. Người tỵ nạn đến từ xứ Việt th́ tiến tŕnh ấy gian nan bội phần.

http://iyouphim.com/forum/attachment.php?attac hmentid=221896&stc=1&d=1368382702
Gia đ́nh hội nhập của chị Ngự B́nh. Ảnh: Tác giả cung cấp.

Nhiều người nghĩ rằng đến được các nưóc phương tây, nơi có đời sống văn minh và dân chủ, là “sướng” rồi. Hơn nữa, nh́n thấy những số tiền gửi về giúp đỡ thân nhân, ít ai nghĩ đến sự cơ cực của người tỵ nạn trong thời gian định cư ban đầu.

Ngoài vấn đề rào cản ngôn ngữ, phong tục, tập quán, họ c̣n gặp vấn đề kỳ thị bởi người địa phương và nhiều cảnh . . . đổi đời. Khi c̣n ở trong nước, nhiều ngưới cũng đă trải qua có một số kinh nghiệm đổi đời, nhưng cảnh đổi đời mỗi nơi mỗi khác.

Nhớ lại đợt di cư vào Nam hồi năm 1955, dân Bắc hay bị người miền Nam chế riễu là “Bắc kỳ ăn cá rô cây. . .” hay là dân ăn rau muống. Cũng có những đố kỵ do chưa hiểu biết lẫn nhau, nhưng những người Bắc di cư không gặp nhiều vấn đề hội nhập như thế hệ tỵ nạn sau này.

Thích ứng với cuộc sống mới

Vấn đề đầu tiên phải đối diện là chính là sự khác biệt về văn hóa. Người càng lớn tuổi càng khó thích ứng với môi trường mới. Phần nhiều người lớn tuổi hay bất măn v́ đă quen với cách sống Việt Nam vốn nhấn mạnh vai tṛ gia trưởng của đàn ông cũng như tôn ti trật tự trong gia đ́nh, trong khi văn hoá Mỹ vốn coi trọng cá nhân và sự b́nh đẳng nam nữ.

Một ông bác họ của tôi khi c̣n ở Việt Nam có hai bà vợ chính thức (theo luật từ thời thực dân Pháp). Mặc dù mỗi bà một nhà, nhưng cả hai cùng ở Sài G̣n nên bác thường xuyên qua lại với cả hai bà và hơn mười người con.

Trưóc lúc di tản, bác làm giám đốc một sở thuộc Bộ Canh Nông và là một lănh tụ đảng phái nên rất . . . oai.

Khi đến Mỹ, v́ sinh kế hai bà vợ của bác sốngở hai các tiểu bang khác nhau với các con của họ. Các anh các chị sống cùng tiểu bang với bác cũng không sống cùng nhà.
http://hieuminh.files.wordp ress.com/2013/05/di-te1baa3n-30-4-1975.jpg?w=360&h=182
Di tản 30-4-1975. Ảnh: internet

Do đó, chỉ c̣n có ḿnh bác và một bác gái nương tựa lẫn nhau, cuối tuần hay thỉnh thoảng các con mới về thăm. Bà vợ cả từ khi theo các con sống ở tiểu bang khác cũng không liện lạc với bác.

Buồn cho cảnh cô độc, bác làm hai hai câu thơ, gởi về than thở với bà con c̣n lại bên nhà:
Từ ngày sang xứ Cờ Hoa
Vợ là hàng xứ, con là người dưng

Ba tôi đến Mỹ khi đă 70 tuổi. Lúc c̣n ở VN, tính cụ rất nghiêm, con cái phải vào khuôn vào phép răm rắp, đi đâu cũng phải thưa tŕnh. Đối với con gái, cụ c̣n qui định . . . giới nghiêm vào 9 giờ tối.

Khi đến Mỹ để đoàn tụ sau hơn 10 năm xa cách, cụ rất mặc cảm, v́ không c̣n được làm chủ gia đ́nh như xưa. Không những không được làm chủ cái nhà cụ đang ở, mà nhất nhất việc ǵ củng phải nhờ các con, v́ cụ không biết tiếng Anh và không biết lái xe.

Có lần ngồi tâm sự với một người bạn từ tiểu bang khác qua thăm, cụ đă cay đắng thốt lên: Bây giờ th́ mù, câm, điếc và què tại xứ cờ hoa. Mù – không đọc được tiếng Anh, câm – không nói được tiếng Anh, điếc – không nghe được tiếng Anh, què – không lái đươc xe.

Cụ bị trầm cảm v́ buồn phiền, và căn bệnh ngày càng tăng lên với thời gian. Khoảng hơn 6 năm sau, cụ bắt đầu bị lẫn rồi mất trí nhớ cho tới khi qua đời.

Không riêng ǵ người già mơí bị trầm cảm, các nghiên cứu về người tỵ nạn Đông Dương ở Hoa Kỳ và Canada cho biết, rất nhiều người có vấn đề sức khoẻ tâm thần (mental health problems), một phần do họ đă trải qua ở VN và sự kinh hoàng trong hành tŕnh vượt biên, và một phần do các khó khăn về hội nhập sau này.

Định cư và xây dựng tương lai

Theo những tài liệu nghiên cứu về di dân ở Hoa Kỳ, người tỵ nạn Viet Nam đến Hoa Kỳ từ sau 1975 được chia làm ba nhóm.

Nhóm thứ nhất thường được gọi là thành phần tuyển chọn (elites) phần lớn là những người di tản vào cuối Tháng Tư 1975. Đa số những người trong nhóm này có căn bản học vấn tốt. Bởi họ là các viên chức dân sự hay quân đội cao cấp ở miền Nam và con em của họ, hay những người nổi tiếng, được người Mỹ giúp di tản.

Nhóm thứ hai là các thuyền nhân (boat people), những người vượt biên bằng đường biển hay đường bộ, ra đi từ khoảng cuối thập kỷ 1970 cho tới cuối thập kỷ 1980. Đây là một thành phần hỗn hợp, gồm nhửng cưụ quân nhân viên chức đă từng bị đi học tập cải tạo, người buôn bán, và cả người ở các vùng quê, nơi tổ chức vượt biên, có khi tiếng Việt viết không thông, tiếng Anh một chử bẻ làm đôi cũng không biết.

Nhóm thứ ba là những người ra đi trong chương tŕnh ODP (Orderly Departure Program) bắt đầu từ cuối thập kỷ 1980, trong đó có chương tŕnh HO (Humanitarian Operations) dành cho những người đă ở trong trại cải tạo ít nhất ba năm và chương tŕnhđoàn tụ gia đ́nh do thân nhân bảo lănh.

Những người trong nhóm thứ nhất mang tiếng là “elites” nhưng lại phải chịu nhiều vất vả nhất trong bước đầu định cư ở Hoa Kỳ. Với chủ trương giúp người tỵ nạn sớm hội nhập, tránh trường hợp bị cô lập trong cộng đồng thiểu số như ở các Chinatowns, những người Việt ban đầu được gởi đi tản mát đến tất cả các vùng từ thành thị đến thôn quê trong 50 tiểu bang.

Với hai bàn tay trắng và không thân nhân, nhiều người chỉ c̣n biết bấu víu vào người bảo trợ để được giúp đỡ tổ chức lại cuộc sống. Đa số những nhà bảo trợ nhận khoán của chính phủ Hoa Kỳ khoảng 3,800 đô la để định cư một người. Khi người tỵ nạn có việc làm là cơ quan bảo trợ coi như hoàn thành nhiệm vụ, nên họ luôn luôn hối thúc người tỵ nạn đi kiếm việc và đi làm.

Mới chân ướt chân ráo tới Mỹ, Anh văn c̣n phải nói bằng tay, ḿnh nói ḿnh nghe, Mỹ nói Mỹ nghe, bằng cấp hay chuyên môn chưa được cập nhật theo tiêu chuẩn ở điạ phương, th́ những người có bằng cấp đại học ở VN, bác sĩ, kỹ sư, giáo sư… đành phải đi làm . . . cu li và bao chuyện cười ra nước mắt.
http://hieuminh.files.wordp ress.com/2013/02/viet-star-restaurant1.jpg?w=29 0&h=300
Tết ở DC. Ảnh: HM

Gia đ́nh ông bác họ được một nhà thờ bảo trợ đến Ohio. Các anh các chị con bác từng là giáo viên, kỹ sư, bác sĩ, khi xin người bảo trợ giúp cho đi học để cập nhật kiến thức và chuyên môn, những người bảo trợ nói, lớn tuổi rồi nên đi làm.

Một anh, vốn là giáo sư cấp ba lại có thêm bằng cao học (nay gọi là thạc sĩ) toán ở VN, đưọc nhà thờ t́m cho việc quét dọn, kể cả lau chùi toilet trong một trường đại học.

Một anh khác có bằng kỹ sư điện được giới thiệu đi làm cho một công ty điện lực, chuyên leo cột điện để thay các bóng đèn đường bị hư (hồi đó không được văn minh như bây giờ).

Một anh là bác sĩ quân y làm trong một xưởng cưa gỗ, chuyên khuân vác.

Một số chị, vốn là làm giáo viên, thành người xếp hàng lên kệ trong các siêu thị.

Hồi mới tới Mỹ, mấy năm đầu, tôi đi rửa chén và chạy bàn cho nhà hàng ăn trong thời gian học thêm tiếng Anh trước khi vào đại học.

Trong lớp Anh văn tôi gặp một ông cựu quân nhân, cũng đă trải qua mấy năm trong trại cải tạo, rồi đi vượt biên. Biết tôi chạy bàn ở nhà hàng, ông kể lại lúc mới đến Mỹ ông cũng làm công việc đó và “tay rửa chén, xắp chén vô máy, mà nước mắt chảy nuốt vào trong”

Hỏi ra mới biết, ông từng là cậu ấm ở VN, gia đ́nh giàu có, kẻ hầu người hạ. Nào ngờ qua Mỹ lại phải đi hầu người khác nên thấy tủi nhục.

Riêng tôi ở Việt Nam, không phải cô chiêu, chẳng có kẻ hầu người hạ, mà trái lại sống trong gia đ́nh đông con, phải phụ má buôn bán kiếm sống từ nhỏ. Thế mà trong thời gian đầu định cư, đêm đêm nằm vắt tay lên trán, nước mắt cũng chảy thầm, v́ không ngờ cuôc đời ḿnh lại có ngày đi hầu người khác.

Chị lớn của tôi di tản cùng gia đ́nh chồng đúng vào ngày 30-4-1975. Trong lúc chen lấn, chồng chị không lên tàu được. Sau đó, anh ấy đi học tập cải taọ và chỉ đoàn tụ với vợ con 11 năm sau đó.

Với bốn con thơ, đứa lớn nhất 8 tuổi, và đứa bé nhất mới được 11 tháng, khi tới dịnh cư ở tiểu bang Minnesota, chị tôi đă từng làm không phải một việc (job) mà là 3 việc khác nhau để có tiền gửi về nuôi chồng trong trại và giúp đỡ gia đ́nh.

Chị được nhà thờ bảo trơ hướng dẩn để đi học y tá sơ cấp. Sau khi tốt nghiệp, đi làm cho một viện dưởng lăo, nhưng nhiều người không cho chị săn sóc chỉ v́ chị là người da màu.

Lúc đó chị khóc tưởng không c̣n nước mắt, đến nỗi cấp trên của chị phải nói cho những bệnh nhân kia biết rằng, nếu không cho chị săn sóc th́ họ sẽ không có ai làm việc đó. Lúc ấy, các cụ mới cho chị sờ đến người họ.

Ngoài công việc y tá, cuối tuần chị đi lau nhà cho một số bác sĩ ở Mayo Clinic gần chỗ chị ở. Nhà thờ lại giúp chị mở một lớp dậy nấu các món ăn Việt Nam cho các hội viên nhà thờ học vào ngày chủ nhật.

Khi hai cô con gái lên 10 và 13 tuổi th́ cuối tuần đi theo phụ mẹ ở lớp nấu ăn hay làm catering ở tư gia. Cậu con trai lớn, được 14 tuổi, mùa hè đi bán bắp cho các nông trại ở gần đó, hay đi cắt cỏ cho tư gia vào mùa hè.

Học lớp 12, cháu là một trong hai học sinh được chọn làm đại diện cho tiểu bang đến thăm White House và gặp Tổng Thống Hoa Kỳ.

Khi khi ông bố đến Mỷ đoàn tụ với gia đ́nh, cậu con trai, lúc đó đă bắt đầu lên đại học, chắc muốn truyền lại nghề cắt cỏ cho bố, nên chỉ một tuần sau khi bố đến Mỷ đúng dịp mùa hè, bèn rủ ông đi cắt cỏ ở nơi mà cậu từng làm kiếm tiền giúp mẹ.

Ông bố lúc đó đă hơn 50 tuổi, sức khoẻ lại yếu sau những năm tháng trong trại. Nơi thuê cắt cỏ toàn ở nhà giầu, to đùng ngă ngửa trên đồi. Ông theo con trai đẩy cái máy cắt cỏ lên dốc gần muốn đứt hơi.

Nhiều người bị sốc v́ ngoài công việc cực nhọc, c̣n là sự “đổi đời” qua bởi bậc thang xă hội không c̣n như xưa và sự kỳ thị người da màu của một số người bảo thủ ở điạ phương. Nhóm mang tiếng là “elites” tại Sài G̣n thời bấy giờ gần như là ngồi bệt trên mặt đất ở Mỹ.

Giấc mơ Mỹ đến với nhiều người

Nhưng may mắn là nước Mỹ có nhiều cơ hội, nên những người chiụ thương, chịu khó đi làm, để dành tiền, t́m cách đi học lại, về sau hầu hết có việc tốt hơn và đời sống khá hơn. Đó chính là giấc mơ Mỹ mà người ta hay nói đến.

Người anh con ông bác họ, từng lau chùi toilet trong trường đại học, một thời gian xin vào học lại ở ngay trường đó. Sau này đậu tiến sĩ toán và trở thành giáo sư đại học. Khi hay tin anh đậu tiến sĩ toán, nhà thờ từng bảo lănh anh đi làm, muốn đứng ra tổ chức party mừng sự thành đạt của một người từng đi lau cầu tiêu.

Cả bốn cháu của chị tôi cũng đều học hành nên người. Cậu bé đi bán bắp và cắt cỏ sau này có bằng Ph.D., hai cháu gái có MBA, và một cháu có cử nhân kinh tế.

Đa số những nguời trong nhóm elites khi đến Mỹ trong độ tuổi dưới 40 trở xuống và con cái của họ, đều thành đạt và hội nhập dễ hơn (mainstream).

Với chính sách tự do cư trú, người Việt dần dần “di cư” đến những vùng ấm áp như California và Texas, để tránh tuyết và cái lạnh mùa đông, thành lập những cộng đồng người Việt.

Nhờ vào những cộng đồng người Việt thuộc hàng elites mà kinh nghiệm định cư của những người trong nhóm thứ hai và thứ ba đỡ vất vả hơn. Nhiều người có thân nhân hay bạn bè đến trước chỉ dẩn cho đường đi nước bước, làm chỗ nương dựa tinh thần và đôi khi cả vật chất lúc ban đầu.

Sau này, có các dịch vụ định cư người tỵ nạn do người Việt đảm trách cũng tạo ra nhiều thuận lợi cho những người không có thân nhân hay bạn bè.

Các anh chị của tôi đi vượt biên, ở trại tị nạn và sau được chị lớn bảo lảnh đến Minnesota. Một thời gian, họ cũng theo bạn bè đến Texas, v́ có nhiều bạn bè ở đó, khí hậu ở miền Nam ít lạnh hơn, và lúc đó các công ty có hợp đồng với quốc pḥng đang tuyển người vào làm dây chuyền với mức lương khá cao.

Anh rể tôi khi sau khi tốt nghiệp lớp thợ mộc ở Minnesota, thấy ở đó lạnh quá, lại kiếm việc không ra, trong khi đám em vợ ở Texas tha thiết rủ rê nên quyết định cùng gia đ́nh “di cư” xuống Texas để làm ăn buôn bán.

Kết quả là anh chị tôi mở một nhà hàng ăn bán thức ăn Việt Nam cho . . . Mỹ. Thật thú vị, đó là nơi mà tôi từng rửa chén chạy bàn ngay sau khi đến Mỹ được đúng một tuần.

Hội Nhập (Integration)

Nhà xă hội học Milton Gordon đă đưa ra một lộ tŕnh hội nhập, mà ông ta gọi là đồng hoá (assimilation), của người di dân vào xă hội Mỹ (từ assimilation sau này bịchỉ trích và từ integration được dùng nhiều hơn).

Lộ tŕnh này gồm 7 giai đoạn, khởi đầu bằng sự hội nhập về phương diện văn hoá (cultural assimilation), tiếp đến là hội nhập vào các tổ chức xă hội (structural assimilation), tức là gia nhập vào các hội đoàn, các nhóm trong xă hội Mỹ, hội nhập qua hôn nhân (marital assimilation), hội nhập về căn cước (identification assimilation – coi ḿnh là một thành phần của xă hội Mỹ), và quá tŕnh hội nhập sẽ hoàn tất khi nhửng nhóm di dân không c̣n bị thành kiến và có những tranh chấp về chính trị với người điạ phương.

Dựa theo quan điểm của Gordon th́ nhiều người Việt tại Mỹ đă đạt được đến mức . . . thứ tư của quá tŕnh hội nhập. Nhiều người Việt đă lập gia đ́nh với người điạ phương, và coi ḿnh là người Mỹ gốc Việt (Vietnamese Americans).

Các con của chị lớn của tôi đều kết hôn với người Mỹ gốc Âu Châu, và má tôi có một đàn chắt mắt xanh tóc vàng, nhưng biết bập bẹ “chào bà” (các cháu không phát âm được chữ cụ v́ sợ … nhầm tai hại), biết nói “cám ơn” khi nhận tiền ĺ x́ ngày tết.

Một số ít cũng tham gia vào sinh hoạt chính trị của ḍng chính (mainstream), giữ vai tṛ dân cử ở cấp địa phưong, tiểu bang, và liên bang như cựu dân biểu Cao Quang Ánh.

Những người có mức độ hội nhập cao thường là những người trong nhóm di tản “elites” và những người đến Mỹ khi c̣n nhỏ tuổi. C̣n phần đông vẫn c̣n coi nước Mỹ là chổ tạm dung, mặc dù không biết phải tạm nương thân đến bao giờ.

Bản thân tôi thuộc về mainstream, hàng ngày dùng tiếng Anh nhiều hơn tiếng Việt, chăm chỉ như công dân (Mỹ) trong các cuộc bầu cử ở phương, tiểu bang và liên bang, thường xuyên tham gia sinh hoạt chính trị và từ thiện các loại ở địa phương. Thỉnh thoảng bị đảng Dân chủ réo vào đảng, v́ tôi đóng tiền ủng hộ Obama trong cả hai đợt tranh cử.

Người ta nói về giấc mơ Mỹ và những điều kỳ diệu. Nhiều lúc, tôi cứ nghĩ ḿnh có một giấc mơ thật của xứ Cờ Hoa và nó hiển hiện trước mắt.

Dẫu vậy, có những sáng cuối tuần, được nằm ngủ nướng trên giường, đầu óc tôi lại suy nghĩ miên man và có một cảm giá lạ lùng, không hiểu tại sao ḿnh lại ở nơi đây, vừa lạ, vừa thân quen, nghĩ về những ngày tháng có cả nụ cười và nước mắt.

Đă hơn 25 năm trôi qua, cảm giác không có một tổ quốc đích thực vẫn c̣n đó trong tôi, lẩn khuất trong đáy ḷng mà không thể hiểu nổi.

Nỗi ḷng tha hương phải bỏ đất nước ra đi, có lẽ nó chính là đây.

Nguồn: Ngự B́nh/Hiệu Minh Blog

NongDan
05-13-2013, 13:30
vẫn sướng hơn ở VN bây giờ.