vuitoichat
05-20-2013, 12:25
Lẽ ra ta không cần phải tốn quá nhiều thời gian để bàn luận về quốc hiệu, bởi đó là một chuyện đơn giản. Không ǵ đơn giản hơn việc chọn một tên thật… đơn giản và mộc mạc, để dễ được đa số Nhân dân chấp nhận, và bền vững với thời gian. Vấn đề chỉ trở nên rắc rối khi muốn dùng quốc hiệu để trang điểm, hay cố gói ghém vào đó thiên hướng chính trị, và trở thành phức tạp hơn v́ phải né tránh những t́ vết của lịch sử. Khi đă lâm vào trạng thái rắc rối và phức tạp, th́ gỡ ra cũng không dễ. Mục đích của bài viết này là chia sẻ mấy ư kiến, nhằm góp phần lựa chọn một quốc hiệu hợp lư.
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2013/05/ban-do-VN.jpg
1. Tiêu chí cho quốc hiệu
Để nội dung thảo luận không quá tản mạn, xin đề xuất bốn tiêu chí, mà quốc hiệu cần thỏa măn.
Tiêu chí 1: Quốc hiệu không được chứa đựng những khái niệm trái ngược với thực trạng của Đất nước. Yêu cầu tưởng chừng hiển nhiên này thường bị vi phạm, khi người ta muốn dùng quốc hiệu để trang điểm cho chế độ. Chọn tên thế nào cho hay là một chuyện thường t́nh, nhưng khi tên hay đến mức… trái ngược hẳn với thực trạng th́ lại trở thành trớ trêu. Cũng giống như việc bố mẹ đặt tên con là “Thiên Tài” hay “Hoa Hậu”, trong khi đứa trẻ lại không may bị thiểu năng trí tuệ, hay bị dị tật giữa mặt, th́ cái tên quá hay kia chỉ khiến nó càng hay bị người đời châm chọc mà thôi. Hai mĩ từ được ưa dùng để đưa vào tên nước là “Dân chủ” và “Nhân dân”. Oái oăm thay, ở những quốc gia mà dân chủ đă trở thành hiển nhiên và Nhà nước thực sự là “của Nhân dân, do Nhân dân, v́ Nhân dân”, th́ hai từ “Dân chủ” và “Nhân dân” không xuất hiện trong quốc hiệu – Điều đó cũng chẳng cần thiết v́ “hữu xạ tự nhiên hương”. Ngược lại, ở nhiều quốc gia mà tính từ “Dân chủ” hay danh từ “Nhân dân” được gán vào quốc hiệu, th́ dân chủ hay bị chà đạp và Nhân dân hay bị coi thường, mà một trong những ví dụ điển h́nh là chế độ diệt chủng mang tên “Camphuchia Dân chủ“ của Khmer Đỏ. Những mĩ từ kiểu ấy không lừa được ai, không thể ngụy trang để che lấp thực tế phũ phàng. Chúng không chỉ gây cảm giác mỉa mai, mà c̣n làm cho người dân cảm thấy bị xúc phạm, như thể bị nhà cầm quyền coi thường và thách thức. Đưa vào tên nước những giá trị không tồn tại trên thực tế là giả dối. Khi giả dối tràn lan đến mức phơi ra cả tên nước, th́ đạo đức càng dễ lụn bại, giáo dục càng dễ suy đồi, và Đất nước càng khó phát triển lành mạnh.
Tiêu chí 2: Quốc hiệu không được gây ảnh hưởng xấu cho lợi ích của Dân tộc, của Nhân dân. Tiêu chuẩn này rơ ràng đến mức không cần phải giải thích thêm. Chỉ xin nhấn mạnh rằng: Để sớm đạt được mục tiêu Dân giàu, Nước mạnh, th́ phải thực tâm đoàn kết toàn Dân, nhằm huy động sức mạnh của toàn thể cộng đồng người Việt. Chính v́ vậy, quốc hiệu không được gây cản trở cho quá tŕnh ḥa giải và ḥa hợp Dân tộc.
Tiêu chí 3: Quốc hiệu cần tránh gây phản cảm. Phản cảm không phải do nó chứa đựng những từ có nghĩa xấu, v́ thông thường chỉ những khái niệm được coi là tốt đẹp mới được lựa chọn để đưa vào quốc hiệu. Thế nhưng, nếu khái niệm đẹp đẽ nào đó đă bị gắn với một giai đoạn lịch sử bi thương, th́ nó gợi lại những kỷ niệm buồn. Mặc dù “Nhân dân” là một trong những danh từ được trân trọng nhất, nhưng người dân các nước Ba Lan, Bun-ga-ri, Hung-ga-ri… chẳng muốn tiếp tục lưu giữ nó trong tên nước, sau khi đă xóa bỏ các chế độ mang tên Cộng ḥa Nhân dân Ba Lan, Cộng ḥa Nhân dân Bun-ga-ri, Cộng ḥa Nhân dân Hung-ga-ri… Mặc dù “Dân chủ” là một trong những tính từ đẹp nhất, nhưng người Camphuchia khó có thể chấp nhận để nó tái xuất hiện trong tên nước của họ, sau khi đă trải qua thảm họa diệt chủng dưới chế độ Khmer Đỏ man rợ mang tên “Camphuchia Dân chủ“. “Xă hội chủ nghĩa” vốn là một từ đẹp, thể hiện giấc mơ về một xă hội công bằng, nhưng trên thực tế th́ nó lại bị bôi nhọ bởi các chế độ độc tài chuyên chế, và bị nhuốm máu của hàng chục triệu người đă chết oan ức dưới thời Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot… Trải qua những cơn ác mộng như vậy, các nạn nhân sẽ cảm thấy rùng ḿnh khi phải nghe lại những mĩ từ đă từng bị lạm dụng để hóa trang cho tội ác. V́ vậy, cần tránh dùng những từ đă trở nên phản cảm để đặt tên nước.
Tiêu chí 4: Quốc hiệu cần được Nhân dân chấp thuận. Đất nước là của chung, chứ không phải của riêng ai. V́ vậy không ai có đặc quyền đơn phương quyết định tên nước. Hiển nhiên là khó có thể chọn được một cái tên để tất cả mọi người đều thích, nên không thể cầu toàn. Nhưng nếu chỉ đưa vào quốc hiệu những giá trị phổ cập, những khái niệm mang tính hiển nhiên, th́ dễ được đa số Nhân dân chấp nhận (ít nhất là không phản đối). Ví dụ: Có thể coi “Cộng ḥa” là một khái niệm mang tính hiển nhiên (v́ đa số nhân dân Việt Nam không muốn trở lại chế độ quân chủ), nhưng “Xă hội chủ nghĩa” th́ không thuộc vào phạm trù ấy. Có thể “Xă hội chủ nghĩa” là t́nh yêu chân thành của một số người, nhưng tên nước không phải là nơi để thể hiện tuyên ngôn t́nh yêu của họ. Không nhất thiết phải trưng ra mọi thứ ḿnh yêu, bởi điều đó cũng ngộ nghĩnh như việc in lên danh thiếp danh sách t́nh nhân. Mặt khác, họ yêu ǵ th́ cứ việc yêu, nhưng không thể ép toàn Dân phải cùng yêu thứ đó, bởi điều ấy cũng phi lư như việc họ ép tất cả mọi người phải cùng yêu vợ hay t́nh nhân của riêng họ vậy.
Thiết nghĩ, bốn tiêu chí kể trên là hợp lư, không hề quá cao, mà có thể coi là tiêu chuẩn tối thiểu đối với quốc hiệu. Sau đây, ta sẽ dựa vào chúng để đánh giá quốc hiệu hiện thời và đề xuất quốc hiệu thay thế.
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2013/05/hxphu-392x550.jpg
Hoàng Xuân Phú
2. Quốc hiệu hiện thời
Năm 1976 nước Việt Nam tái thống nhất, lấy quốc hiệu là “Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam”. Từ “Xă hội chủ nghĩa” được sao chép từ tên của một số quốc gia, như Liên bang Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Xô viết, Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Romania, Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Tiệp Khắc… Điều đó không chỉ để phân biệt với ba quốc hiệu đă từng tồn tại trên đất Việt là “Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa”, “Việt Nam Cộng ḥa” và “Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam”, mà c̣n để thể hiện con đường do giới lănh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đă chọn cho Dân tộc.
Có lẽ khi ấy không có nhiều người công khai phản đối sự lựa chọn này. “Bên thắng cuộc” th́ tin tưởng vào sự sáng suốt của những người đă lănh đạo thắng lợi hai cuộc chiến tranh chấn động địa cầu, và cuộc sống no đủ ở Liên Xô và các nước Xă hội chủ nghĩa Đông Âu (như đă được truyền tụng) là niềm mơ ước của hàng triệu người đă phải chịu đói khổ suốt mấy chục năm chiến tranh. “Bên thua cuộc” th́ nghĩ ḿnh buộc phải chấp nhận, chứ không được quyền tham gia lựa chọn.
Cuộc sống khắc nghiệt đằng đẵng những năm 80 của thế kỷ 20 khiến người người bừng tỉnh khỏi giấc mộng, và thảng thốt tự hỏi: Chẳng nhẽ “Xă hội chủ nghĩa” là thế này sao?
Rồi Liên Xô và hệ thống các nước Xă hội chủ nghĩa Đông Âu đồng loạt sụp đổ. Chính Nhân dân (của các nước đó) đă đứng lên xóa bỏ cái chế độ mà họ từng kỳ vọng, nhưng rồi quá thất vọng. Đối với hầu hết các nước trên Thế giới, cuộc thí nghiệm quy mô, tốn kém mồ hôi và xương máu có một không hai trong lịch sử nhân loại đă kết thúc. Mấy chế độ mang danh “Xă hội chủ nghĩa” c̣n sót lại bơ vơ với câu hỏi “đi đâu, về đâu”.
Thực tế phũ phàng có sức thuyết phục mạnh hơn mọi lư thuyết, khiến những người bảo thủ nhất trong bộ máy cầm quyền ở Việt Nam cũng phải nhận ra rằng lối thoát duy nhất là phải “đổi mới”, tức là phải dứt khỏi những ràng buộc lư luận quá giáo điều. Như người mới tập bơi, lúc đầu chỉ dám mon men cạnh con tàu đang ch́m dần. Nhưng rồi chới với trong sóng nước, đành phải bám vào bất cứ vật nào trôi nổi trong tầm với, miễn là c̣n có thể lềnh bềnh trên mặt nước. Sau hơn hai mươi năm trôi dạt, giờ đây đă mất hút bóng tàu xưa, chỉ c̣n lại kẻ ngơ ngác kiếm t́m “định hướng”. Tuy điệp khúc “Xă hội chủ nghĩa” vẫn c̣n vang lên đâu đó, nhưng với lư lẽ vu vơ như trong cơn mê sảng. Nếu tỉnh táo t́m kiếm từ Bắc vô Nam, th́ không thể t́m được bất cứ biểu hiện tích cực nào trong thực tế cuộc sống, để chứng tỏ rằng xă hội này cũng có những nét tốt hơn so với xă hội tư bản phát triển. Những giá trị tốt đẹp từng được gán cho “Xă hội chủ nghĩa” ngày càng vắng bóng, dần bị triệt tiêu. Thay vào đó, những biểu hiện vốn được coi là đặc trưng xấu của chế độ phong kiến và của chủ nghĩa tư bản hoang dă ngày càng lấn át: Tham nhũng lộng hành, bất công ngự trị, bóc lột trắng trợn, thất nghiệp tràn lan… Quốc hiệu hiện thời trở nên cô đơn giữa ḷng Dân tộc, v́ nó chứa đựng tính từ “Xă hội chủ nghĩa”, đă trở nên xa lạ và hoàn toàn trái ngược với thực trạng của Đất nước. V́ vậy, theo Tiêu chí 1, đă đến lúc chúng ta phải chia tay với quốc hiệu “Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam”, để sống thật hơn với ḷng ḿnh. Nếu ai đó thực tâm yêu Chủ nghĩa xă hội với tư cách một lư tưởng tốt đẹp, th́ lại càng phải đấu tranh đ̣i bỏ quốc hiệu hiện thời, bởi việc gắn tính từ “Xă hội chủ nghĩa” với t́nh trạng tệ hại hiện nay chỉ có tác dụng bôi nhọ Chủ nghĩa xă hội mà thôi.
Có ư kiến chỉ đạo rằng cần tiếp tục duy tŕ quốc hiệu hiện nay để “thể hiện rơ mục tiêu phấn đấu của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta về con đường đi lên Chủ nghĩa xă hội”. Mục tiêu nào? Nếu là mục tiêu cuối cùng của ĐCSVN th́ là tiến lên Cộng sản chủ nghĩa, vậy th́ tại sao không đổi tên nước thành “Cộng ḥa Cộng sản chủ nghĩa Việt Nam”? Nếu là mục tiêu trước mắt th́ chỉ là “quá độ” hay “định hướng Xă hội chủ nghĩa”, vậy th́ tại sao không đổi tên nước thành “Cộng ḥa Quá độ Xă hội chủ nghĩa Việt Nam” hay “Cộng ḥa Định hướng Xă hội chủ nghĩa Việt Nam”? Thực ra, mục tiêu hiện nay của giới cầm quyền chỉ đơn thuần là duy tŕ chế độ độc đảng bằng mọi cách. Vậy th́, nếu muốn “thể hiện rơ mục tiêu phấn đấu của Đảng”, tại sao không chọn quốc hiệu là “Cộng ḥa Độc đảng Việt Nam” cho trung thực? Đặt các câu hỏi như vậy để thấy rơ hơn sự ngụy biện, khi vin vào mục tiêu phấn đấu để duy tŕ quốc hiệu hiện thời.
Mục tiêu càng cao xa th́ càng có thể sai, có thể nhầm. Nếu muốn th́ cứ việc âm thầm mà theo đuổi, như người lính ra trận giữ bí mật mục tiêu. Tại sao cứ phải bô bô, nói thay làm, rồi gán cái mục tiêu đă lộ rơ là vô vọng vào cả tên nước, tạo cớ trói buộc quyền t́m ṭi, lựa chọn và khả năng sáng tạo của Nhân dân, cản trở bước tiến của Dân tộc?
Chủ nghĩa xă hội chỉ là mục tiêu phấn đấu của ĐCSVN, nhưng lại được gán bừa cho nguyện vọng của Nhân dân. Đó là một sự xúc phạm, thể hiện tập quán coi thường Nhân dân. Khi cuộc thử sức đă ngă ngũ trên phạm vi Thế giới, mà vẫn dai dẳng bám lấy ảo vọng “Xă hội chủ nghĩa” được cóp nhặt từ con tàu đă ch́m nghỉm mang tên Liên Xô, th́ chẳng thể hiện được ḷng trung thành, mà chỉ chứng tỏ sự tŕ trệ, bảo thủ và khả năng nhận thức thời cuộc quá kém cỏi. Điều đó chỉ khiến Dân thêm xa và càng coi thường giới lănh đạo, ảnh hưởng xấu tới hiệu quả điều hành của chính quyền.
Giờ đây, bao người sinh ra, lớn lên và được đào tạo trong chế độ này đă mất hẳn niềm tin vào Chủ nghĩa xă hội. Những người từng ở bên kia chiến tuyến và con em họ lại càng khó chia sẻ với lư tưởng “Xă hội chủ nghĩa”. Do đó, việc duy tŕ quốc hiệu hiện nay chỉ làm cho ḷng người thêm li tán, gây cản trở cho quá tŕnh ḥa giải và ḥa hợp Dân tộc.
Khi “Xă hội chủ nghĩa” đă trở nên tai tiếng, cả Thế giới chỉ có hai nước Việt Nam và Sri Lanka c̣n giữ tính từ ấy trong quốc hiệu, th́ sự kiên định duy tŕ quốc hiệu hiện thời chỉ làm cho Đất nước thêm cô đơn trên trường quốc tế, và chứng tỏ rằng chính quyền này thuộc loại “khó hội nhập”.
Trong thuyết minh về ư kiến đề nghị lấy lại tên gọi “Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa“, Báo cáo của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 gửi Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 11 tháng 4 năm 2013 viết rằng:
“Tên gọi này có khả năng lôi cuốn, tập hợp đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự đồng thuận chung trong xă hội, đồng thời thuận lợi hơn cho ta trong quan hệ hợp tác với các nước trên Thế giới, góp phần phát huy và tranh thủ được các nguồn lực trong công cuộc kiến thiết và phát triển đất nước.”
Đánh giá như vậy, trong mối so sánh với phương án tiếp tục duy tŕ tên nước là “Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam”, th́ có nghĩa là thừa nhận rằng quốc hiệu hiện thời không có những tác dụng ấy. Vậy th́, chiếu theo Tiêu chí 2, c̣n chần chừ ǵ nữa mà không chia tay với quốc hiệu “Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam”, để “đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự đồng thuận chung trong xă hội”, để “thuận lợi hơn cho ta trong quan hệ hợp tác với các nước trên Thế giới”, và để “phát huy và tranh thủ được các nguồn lực trong công cuộc kiến thiết và phát triển đất nước”?
Cùng với sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống Xă hội chủ nghĩa, khái niệm “Xă hội chủ nghĩa” đă vương phải cái dớp đại bại. Đối với người Việt, từ “Xă hội chủ nghĩa” hay hiện hữu trong kư ức về những sai lầm của cuộc cải tạo tư sản ở miền Nam, về những năm tháng bế tắc và túng quẫn trước thời kỳ “đổi mới”, và đặc biệt hằn sâu trong tâm khảm của bao người đă bị cầm tù không án, v́ từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng ḥa, và những người đă phải mạo hiểm cả mạng sống để vượt biên đi t́m kiếm tự do. Mấy chục năm qua, từ “Xă hội chủ nghĩa” đă bị lạm dụng, để tô vẽ và biện hộ cho chế độ phi dân chủ, bị tham nhũng lộng hành từ trên xuống dưới. “Xă hội chủ nghĩa” bị gán cho một nền kinh tế lâm cảnh “cha chung không ai khóc”, với kinh tế nhà nước giữ vai tṛ chủ đạo trong việc… phung phí của cải của Nhân dân và d́m Đất nước ngập sâu trong nợ nần. “Xă hội chủ nghĩa” vang lên như một lời nói dối trơ trẽn đối với bao số phận bị vùi dập bất công, quanh năm lang thang vật nài công lư… Vậy là bốn chữ “Xă hội chủ nghĩa” không c̣n tạo ra được hưng phấn cho những tâm hồn đă một thời tràn trề hy vọng, mà trở nên phản cảm đối với hàng triệu trái tim. Thế th́, theo Tiêu chí 3, tại sao không tránh nhắc tới nó trong quốc hiệu cho đỡ đau ḷng?
Với những điều đă được tŕnh bày ở trên, có lẽ đa số Nhân dân sẽ không chấp thuận gắn bó măi với quốc hiệu hiện thời, tức là nó không thỏa măn Tiêu chí 4. Nếu nhà cầm quyền muốn chứng minh điều ngược lại, th́ phải tiến hành trưng cầu dân ư một cách thật sự dân chủ, thông qua h́nh thức bỏ phiếu kín, để người dân dám bầy tỏ chính kiến của ḿnh, thay v́ ép buộc họ phải điền hai chữ “đồng ư”, hay làm ngơ trước thực tế rồi kết luận bừa như mấy chục năm qua. Trước khi trưng cầu dân ư, giới lănh đạo và bộ máy lư luận hăy ngồi lại với nhau, thảo luận cho ra nhẽ, để xác định rơ thứ “Xă hội chủ nghĩa” mà họ theo đuổi thực ra là cái ǵ. Chắc hẳn nó không thể là thứ “Xă hội chủ nghĩa quốc gia” (National Socialism, Nationalsozialismus) , cái lư tưởng của tổ chức phát xít mang tên “Đảng Công nhân Xă hội chủ nghĩa quốc gia Đức” (Nationalsozialistis chen Deutschen Arbeiterpartei, mà người Việt quen gọi tắt là “Đức Quốc Xă”), đă gây bao tội ác ngút trời trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Liệu thứ mà họ theo đuổi có phải là kiểu “Xă hội chủ nghĩa” thuần túy lư thuyết của Marx và Engels, hay là kiểu “Xă hội chủ nghĩa” đă được hiện thực hóa bởi trường phái Lenin và Stalin? Tại sao càng phát triển theo định hướng “Xă hội chủ nghĩa” th́ càng khác lạ so với nguyên mẫu? Xét cho cùng th́ điều kiện kinh tế và xă hội Việt Nam có phù hợp với sản phẩm nhập ngoại ấy hay không? Cái gọi là “vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx – Lenin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam” chẳng qua là cố “gọt chân cho vừa giày”. Sư phụ có “chân vừa giày” mà c̣n phải “treo giày”, giữa đường bỏ cuộc, vậy th́ đệ tử “gọt chân” có thể tập tễnh được bao lâu? Khi không c̣n ai thí thân đi trước làm hoa tiêu, th́ kẻ ṃ mẫm cô đơn biết lẫm chẫm về đâu? Lấy đâu ra cái quyền để bắt cả Dân tộc phải lẽo đẽo đi theo trong cuộc t́m kiếm vô định, mịt mù tương lai? Bằng nào các nhà lư luận của ĐCSVN chưa t́m được câu trả lời thuyết phục cho chính bản thân ḿnh, th́ không nên đem câu hỏi lựa chọn hay không con đường “Xă hội chủ nghĩa” để đặt ra cho muôn dân, những người vốn chỉ lo làm ăn kiếm sống, chứ chẳng quan tâm đến chủ nghĩa này hay chủ nghĩa khác.
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2013/05/ban-do-VN.jpg
1. Tiêu chí cho quốc hiệu
Để nội dung thảo luận không quá tản mạn, xin đề xuất bốn tiêu chí, mà quốc hiệu cần thỏa măn.
Tiêu chí 1: Quốc hiệu không được chứa đựng những khái niệm trái ngược với thực trạng của Đất nước. Yêu cầu tưởng chừng hiển nhiên này thường bị vi phạm, khi người ta muốn dùng quốc hiệu để trang điểm cho chế độ. Chọn tên thế nào cho hay là một chuyện thường t́nh, nhưng khi tên hay đến mức… trái ngược hẳn với thực trạng th́ lại trở thành trớ trêu. Cũng giống như việc bố mẹ đặt tên con là “Thiên Tài” hay “Hoa Hậu”, trong khi đứa trẻ lại không may bị thiểu năng trí tuệ, hay bị dị tật giữa mặt, th́ cái tên quá hay kia chỉ khiến nó càng hay bị người đời châm chọc mà thôi. Hai mĩ từ được ưa dùng để đưa vào tên nước là “Dân chủ” và “Nhân dân”. Oái oăm thay, ở những quốc gia mà dân chủ đă trở thành hiển nhiên và Nhà nước thực sự là “của Nhân dân, do Nhân dân, v́ Nhân dân”, th́ hai từ “Dân chủ” và “Nhân dân” không xuất hiện trong quốc hiệu – Điều đó cũng chẳng cần thiết v́ “hữu xạ tự nhiên hương”. Ngược lại, ở nhiều quốc gia mà tính từ “Dân chủ” hay danh từ “Nhân dân” được gán vào quốc hiệu, th́ dân chủ hay bị chà đạp và Nhân dân hay bị coi thường, mà một trong những ví dụ điển h́nh là chế độ diệt chủng mang tên “Camphuchia Dân chủ“ của Khmer Đỏ. Những mĩ từ kiểu ấy không lừa được ai, không thể ngụy trang để che lấp thực tế phũ phàng. Chúng không chỉ gây cảm giác mỉa mai, mà c̣n làm cho người dân cảm thấy bị xúc phạm, như thể bị nhà cầm quyền coi thường và thách thức. Đưa vào tên nước những giá trị không tồn tại trên thực tế là giả dối. Khi giả dối tràn lan đến mức phơi ra cả tên nước, th́ đạo đức càng dễ lụn bại, giáo dục càng dễ suy đồi, và Đất nước càng khó phát triển lành mạnh.
Tiêu chí 2: Quốc hiệu không được gây ảnh hưởng xấu cho lợi ích của Dân tộc, của Nhân dân. Tiêu chuẩn này rơ ràng đến mức không cần phải giải thích thêm. Chỉ xin nhấn mạnh rằng: Để sớm đạt được mục tiêu Dân giàu, Nước mạnh, th́ phải thực tâm đoàn kết toàn Dân, nhằm huy động sức mạnh của toàn thể cộng đồng người Việt. Chính v́ vậy, quốc hiệu không được gây cản trở cho quá tŕnh ḥa giải và ḥa hợp Dân tộc.
Tiêu chí 3: Quốc hiệu cần tránh gây phản cảm. Phản cảm không phải do nó chứa đựng những từ có nghĩa xấu, v́ thông thường chỉ những khái niệm được coi là tốt đẹp mới được lựa chọn để đưa vào quốc hiệu. Thế nhưng, nếu khái niệm đẹp đẽ nào đó đă bị gắn với một giai đoạn lịch sử bi thương, th́ nó gợi lại những kỷ niệm buồn. Mặc dù “Nhân dân” là một trong những danh từ được trân trọng nhất, nhưng người dân các nước Ba Lan, Bun-ga-ri, Hung-ga-ri… chẳng muốn tiếp tục lưu giữ nó trong tên nước, sau khi đă xóa bỏ các chế độ mang tên Cộng ḥa Nhân dân Ba Lan, Cộng ḥa Nhân dân Bun-ga-ri, Cộng ḥa Nhân dân Hung-ga-ri… Mặc dù “Dân chủ” là một trong những tính từ đẹp nhất, nhưng người Camphuchia khó có thể chấp nhận để nó tái xuất hiện trong tên nước của họ, sau khi đă trải qua thảm họa diệt chủng dưới chế độ Khmer Đỏ man rợ mang tên “Camphuchia Dân chủ“. “Xă hội chủ nghĩa” vốn là một từ đẹp, thể hiện giấc mơ về một xă hội công bằng, nhưng trên thực tế th́ nó lại bị bôi nhọ bởi các chế độ độc tài chuyên chế, và bị nhuốm máu của hàng chục triệu người đă chết oan ức dưới thời Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot… Trải qua những cơn ác mộng như vậy, các nạn nhân sẽ cảm thấy rùng ḿnh khi phải nghe lại những mĩ từ đă từng bị lạm dụng để hóa trang cho tội ác. V́ vậy, cần tránh dùng những từ đă trở nên phản cảm để đặt tên nước.
Tiêu chí 4: Quốc hiệu cần được Nhân dân chấp thuận. Đất nước là của chung, chứ không phải của riêng ai. V́ vậy không ai có đặc quyền đơn phương quyết định tên nước. Hiển nhiên là khó có thể chọn được một cái tên để tất cả mọi người đều thích, nên không thể cầu toàn. Nhưng nếu chỉ đưa vào quốc hiệu những giá trị phổ cập, những khái niệm mang tính hiển nhiên, th́ dễ được đa số Nhân dân chấp nhận (ít nhất là không phản đối). Ví dụ: Có thể coi “Cộng ḥa” là một khái niệm mang tính hiển nhiên (v́ đa số nhân dân Việt Nam không muốn trở lại chế độ quân chủ), nhưng “Xă hội chủ nghĩa” th́ không thuộc vào phạm trù ấy. Có thể “Xă hội chủ nghĩa” là t́nh yêu chân thành của một số người, nhưng tên nước không phải là nơi để thể hiện tuyên ngôn t́nh yêu của họ. Không nhất thiết phải trưng ra mọi thứ ḿnh yêu, bởi điều đó cũng ngộ nghĩnh như việc in lên danh thiếp danh sách t́nh nhân. Mặt khác, họ yêu ǵ th́ cứ việc yêu, nhưng không thể ép toàn Dân phải cùng yêu thứ đó, bởi điều ấy cũng phi lư như việc họ ép tất cả mọi người phải cùng yêu vợ hay t́nh nhân của riêng họ vậy.
Thiết nghĩ, bốn tiêu chí kể trên là hợp lư, không hề quá cao, mà có thể coi là tiêu chuẩn tối thiểu đối với quốc hiệu. Sau đây, ta sẽ dựa vào chúng để đánh giá quốc hiệu hiện thời và đề xuất quốc hiệu thay thế.
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2013/05/hxphu-392x550.jpg
Hoàng Xuân Phú
2. Quốc hiệu hiện thời
Năm 1976 nước Việt Nam tái thống nhất, lấy quốc hiệu là “Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam”. Từ “Xă hội chủ nghĩa” được sao chép từ tên của một số quốc gia, như Liên bang Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Xô viết, Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Romania, Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Tiệp Khắc… Điều đó không chỉ để phân biệt với ba quốc hiệu đă từng tồn tại trên đất Việt là “Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa”, “Việt Nam Cộng ḥa” và “Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam”, mà c̣n để thể hiện con đường do giới lănh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đă chọn cho Dân tộc.
Có lẽ khi ấy không có nhiều người công khai phản đối sự lựa chọn này. “Bên thắng cuộc” th́ tin tưởng vào sự sáng suốt của những người đă lănh đạo thắng lợi hai cuộc chiến tranh chấn động địa cầu, và cuộc sống no đủ ở Liên Xô và các nước Xă hội chủ nghĩa Đông Âu (như đă được truyền tụng) là niềm mơ ước của hàng triệu người đă phải chịu đói khổ suốt mấy chục năm chiến tranh. “Bên thua cuộc” th́ nghĩ ḿnh buộc phải chấp nhận, chứ không được quyền tham gia lựa chọn.
Cuộc sống khắc nghiệt đằng đẵng những năm 80 của thế kỷ 20 khiến người người bừng tỉnh khỏi giấc mộng, và thảng thốt tự hỏi: Chẳng nhẽ “Xă hội chủ nghĩa” là thế này sao?
Rồi Liên Xô và hệ thống các nước Xă hội chủ nghĩa Đông Âu đồng loạt sụp đổ. Chính Nhân dân (của các nước đó) đă đứng lên xóa bỏ cái chế độ mà họ từng kỳ vọng, nhưng rồi quá thất vọng. Đối với hầu hết các nước trên Thế giới, cuộc thí nghiệm quy mô, tốn kém mồ hôi và xương máu có một không hai trong lịch sử nhân loại đă kết thúc. Mấy chế độ mang danh “Xă hội chủ nghĩa” c̣n sót lại bơ vơ với câu hỏi “đi đâu, về đâu”.
Thực tế phũ phàng có sức thuyết phục mạnh hơn mọi lư thuyết, khiến những người bảo thủ nhất trong bộ máy cầm quyền ở Việt Nam cũng phải nhận ra rằng lối thoát duy nhất là phải “đổi mới”, tức là phải dứt khỏi những ràng buộc lư luận quá giáo điều. Như người mới tập bơi, lúc đầu chỉ dám mon men cạnh con tàu đang ch́m dần. Nhưng rồi chới với trong sóng nước, đành phải bám vào bất cứ vật nào trôi nổi trong tầm với, miễn là c̣n có thể lềnh bềnh trên mặt nước. Sau hơn hai mươi năm trôi dạt, giờ đây đă mất hút bóng tàu xưa, chỉ c̣n lại kẻ ngơ ngác kiếm t́m “định hướng”. Tuy điệp khúc “Xă hội chủ nghĩa” vẫn c̣n vang lên đâu đó, nhưng với lư lẽ vu vơ như trong cơn mê sảng. Nếu tỉnh táo t́m kiếm từ Bắc vô Nam, th́ không thể t́m được bất cứ biểu hiện tích cực nào trong thực tế cuộc sống, để chứng tỏ rằng xă hội này cũng có những nét tốt hơn so với xă hội tư bản phát triển. Những giá trị tốt đẹp từng được gán cho “Xă hội chủ nghĩa” ngày càng vắng bóng, dần bị triệt tiêu. Thay vào đó, những biểu hiện vốn được coi là đặc trưng xấu của chế độ phong kiến và của chủ nghĩa tư bản hoang dă ngày càng lấn át: Tham nhũng lộng hành, bất công ngự trị, bóc lột trắng trợn, thất nghiệp tràn lan… Quốc hiệu hiện thời trở nên cô đơn giữa ḷng Dân tộc, v́ nó chứa đựng tính từ “Xă hội chủ nghĩa”, đă trở nên xa lạ và hoàn toàn trái ngược với thực trạng của Đất nước. V́ vậy, theo Tiêu chí 1, đă đến lúc chúng ta phải chia tay với quốc hiệu “Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam”, để sống thật hơn với ḷng ḿnh. Nếu ai đó thực tâm yêu Chủ nghĩa xă hội với tư cách một lư tưởng tốt đẹp, th́ lại càng phải đấu tranh đ̣i bỏ quốc hiệu hiện thời, bởi việc gắn tính từ “Xă hội chủ nghĩa” với t́nh trạng tệ hại hiện nay chỉ có tác dụng bôi nhọ Chủ nghĩa xă hội mà thôi.
Có ư kiến chỉ đạo rằng cần tiếp tục duy tŕ quốc hiệu hiện nay để “thể hiện rơ mục tiêu phấn đấu của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta về con đường đi lên Chủ nghĩa xă hội”. Mục tiêu nào? Nếu là mục tiêu cuối cùng của ĐCSVN th́ là tiến lên Cộng sản chủ nghĩa, vậy th́ tại sao không đổi tên nước thành “Cộng ḥa Cộng sản chủ nghĩa Việt Nam”? Nếu là mục tiêu trước mắt th́ chỉ là “quá độ” hay “định hướng Xă hội chủ nghĩa”, vậy th́ tại sao không đổi tên nước thành “Cộng ḥa Quá độ Xă hội chủ nghĩa Việt Nam” hay “Cộng ḥa Định hướng Xă hội chủ nghĩa Việt Nam”? Thực ra, mục tiêu hiện nay của giới cầm quyền chỉ đơn thuần là duy tŕ chế độ độc đảng bằng mọi cách. Vậy th́, nếu muốn “thể hiện rơ mục tiêu phấn đấu của Đảng”, tại sao không chọn quốc hiệu là “Cộng ḥa Độc đảng Việt Nam” cho trung thực? Đặt các câu hỏi như vậy để thấy rơ hơn sự ngụy biện, khi vin vào mục tiêu phấn đấu để duy tŕ quốc hiệu hiện thời.
Mục tiêu càng cao xa th́ càng có thể sai, có thể nhầm. Nếu muốn th́ cứ việc âm thầm mà theo đuổi, như người lính ra trận giữ bí mật mục tiêu. Tại sao cứ phải bô bô, nói thay làm, rồi gán cái mục tiêu đă lộ rơ là vô vọng vào cả tên nước, tạo cớ trói buộc quyền t́m ṭi, lựa chọn và khả năng sáng tạo của Nhân dân, cản trở bước tiến của Dân tộc?
Chủ nghĩa xă hội chỉ là mục tiêu phấn đấu của ĐCSVN, nhưng lại được gán bừa cho nguyện vọng của Nhân dân. Đó là một sự xúc phạm, thể hiện tập quán coi thường Nhân dân. Khi cuộc thử sức đă ngă ngũ trên phạm vi Thế giới, mà vẫn dai dẳng bám lấy ảo vọng “Xă hội chủ nghĩa” được cóp nhặt từ con tàu đă ch́m nghỉm mang tên Liên Xô, th́ chẳng thể hiện được ḷng trung thành, mà chỉ chứng tỏ sự tŕ trệ, bảo thủ và khả năng nhận thức thời cuộc quá kém cỏi. Điều đó chỉ khiến Dân thêm xa và càng coi thường giới lănh đạo, ảnh hưởng xấu tới hiệu quả điều hành của chính quyền.
Giờ đây, bao người sinh ra, lớn lên và được đào tạo trong chế độ này đă mất hẳn niềm tin vào Chủ nghĩa xă hội. Những người từng ở bên kia chiến tuyến và con em họ lại càng khó chia sẻ với lư tưởng “Xă hội chủ nghĩa”. Do đó, việc duy tŕ quốc hiệu hiện nay chỉ làm cho ḷng người thêm li tán, gây cản trở cho quá tŕnh ḥa giải và ḥa hợp Dân tộc.
Khi “Xă hội chủ nghĩa” đă trở nên tai tiếng, cả Thế giới chỉ có hai nước Việt Nam và Sri Lanka c̣n giữ tính từ ấy trong quốc hiệu, th́ sự kiên định duy tŕ quốc hiệu hiện thời chỉ làm cho Đất nước thêm cô đơn trên trường quốc tế, và chứng tỏ rằng chính quyền này thuộc loại “khó hội nhập”.
Trong thuyết minh về ư kiến đề nghị lấy lại tên gọi “Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa“, Báo cáo của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 gửi Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 11 tháng 4 năm 2013 viết rằng:
“Tên gọi này có khả năng lôi cuốn, tập hợp đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự đồng thuận chung trong xă hội, đồng thời thuận lợi hơn cho ta trong quan hệ hợp tác với các nước trên Thế giới, góp phần phát huy và tranh thủ được các nguồn lực trong công cuộc kiến thiết và phát triển đất nước.”
Đánh giá như vậy, trong mối so sánh với phương án tiếp tục duy tŕ tên nước là “Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam”, th́ có nghĩa là thừa nhận rằng quốc hiệu hiện thời không có những tác dụng ấy. Vậy th́, chiếu theo Tiêu chí 2, c̣n chần chừ ǵ nữa mà không chia tay với quốc hiệu “Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam”, để “đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự đồng thuận chung trong xă hội”, để “thuận lợi hơn cho ta trong quan hệ hợp tác với các nước trên Thế giới”, và để “phát huy và tranh thủ được các nguồn lực trong công cuộc kiến thiết và phát triển đất nước”?
Cùng với sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống Xă hội chủ nghĩa, khái niệm “Xă hội chủ nghĩa” đă vương phải cái dớp đại bại. Đối với người Việt, từ “Xă hội chủ nghĩa” hay hiện hữu trong kư ức về những sai lầm của cuộc cải tạo tư sản ở miền Nam, về những năm tháng bế tắc và túng quẫn trước thời kỳ “đổi mới”, và đặc biệt hằn sâu trong tâm khảm của bao người đă bị cầm tù không án, v́ từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng ḥa, và những người đă phải mạo hiểm cả mạng sống để vượt biên đi t́m kiếm tự do. Mấy chục năm qua, từ “Xă hội chủ nghĩa” đă bị lạm dụng, để tô vẽ và biện hộ cho chế độ phi dân chủ, bị tham nhũng lộng hành từ trên xuống dưới. “Xă hội chủ nghĩa” bị gán cho một nền kinh tế lâm cảnh “cha chung không ai khóc”, với kinh tế nhà nước giữ vai tṛ chủ đạo trong việc… phung phí của cải của Nhân dân và d́m Đất nước ngập sâu trong nợ nần. “Xă hội chủ nghĩa” vang lên như một lời nói dối trơ trẽn đối với bao số phận bị vùi dập bất công, quanh năm lang thang vật nài công lư… Vậy là bốn chữ “Xă hội chủ nghĩa” không c̣n tạo ra được hưng phấn cho những tâm hồn đă một thời tràn trề hy vọng, mà trở nên phản cảm đối với hàng triệu trái tim. Thế th́, theo Tiêu chí 3, tại sao không tránh nhắc tới nó trong quốc hiệu cho đỡ đau ḷng?
Với những điều đă được tŕnh bày ở trên, có lẽ đa số Nhân dân sẽ không chấp thuận gắn bó măi với quốc hiệu hiện thời, tức là nó không thỏa măn Tiêu chí 4. Nếu nhà cầm quyền muốn chứng minh điều ngược lại, th́ phải tiến hành trưng cầu dân ư một cách thật sự dân chủ, thông qua h́nh thức bỏ phiếu kín, để người dân dám bầy tỏ chính kiến của ḿnh, thay v́ ép buộc họ phải điền hai chữ “đồng ư”, hay làm ngơ trước thực tế rồi kết luận bừa như mấy chục năm qua. Trước khi trưng cầu dân ư, giới lănh đạo và bộ máy lư luận hăy ngồi lại với nhau, thảo luận cho ra nhẽ, để xác định rơ thứ “Xă hội chủ nghĩa” mà họ theo đuổi thực ra là cái ǵ. Chắc hẳn nó không thể là thứ “Xă hội chủ nghĩa quốc gia” (National Socialism, Nationalsozialismus) , cái lư tưởng của tổ chức phát xít mang tên “Đảng Công nhân Xă hội chủ nghĩa quốc gia Đức” (Nationalsozialistis chen Deutschen Arbeiterpartei, mà người Việt quen gọi tắt là “Đức Quốc Xă”), đă gây bao tội ác ngút trời trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Liệu thứ mà họ theo đuổi có phải là kiểu “Xă hội chủ nghĩa” thuần túy lư thuyết của Marx và Engels, hay là kiểu “Xă hội chủ nghĩa” đă được hiện thực hóa bởi trường phái Lenin và Stalin? Tại sao càng phát triển theo định hướng “Xă hội chủ nghĩa” th́ càng khác lạ so với nguyên mẫu? Xét cho cùng th́ điều kiện kinh tế và xă hội Việt Nam có phù hợp với sản phẩm nhập ngoại ấy hay không? Cái gọi là “vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx – Lenin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam” chẳng qua là cố “gọt chân cho vừa giày”. Sư phụ có “chân vừa giày” mà c̣n phải “treo giày”, giữa đường bỏ cuộc, vậy th́ đệ tử “gọt chân” có thể tập tễnh được bao lâu? Khi không c̣n ai thí thân đi trước làm hoa tiêu, th́ kẻ ṃ mẫm cô đơn biết lẫm chẫm về đâu? Lấy đâu ra cái quyền để bắt cả Dân tộc phải lẽo đẽo đi theo trong cuộc t́m kiếm vô định, mịt mù tương lai? Bằng nào các nhà lư luận của ĐCSVN chưa t́m được câu trả lời thuyết phục cho chính bản thân ḿnh, th́ không nên đem câu hỏi lựa chọn hay không con đường “Xă hội chủ nghĩa” để đặt ra cho muôn dân, những người vốn chỉ lo làm ăn kiếm sống, chứ chẳng quan tâm đến chủ nghĩa này hay chủ nghĩa khác.