Hanna
06-27-2013, 18:53
THÔNG TẤN XĂ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Hai, ngày 24/6/2013
(Tạp chí The Economist – số 30/3/2013)
Sự thiếu vắng một văn hóa chiến lược của Ấn Độ cản trở tham vọng của nước này trở thành một thế lực trên thế giới.
Không ai nghi ngờ việc Trung Quốc đă gia nhập hàng ngũ các nước lớn: ư tưởng về một G2 với Mỹ được nêu ra, mặc dù vội vă. Ấn Độ thường được nhắc đến cùng với Trung Quốc v́ nước này có dân số hơn 1 tỷ người, sự hứa hẹn về kinh tế, giá trị với tư cách là đối tác thương mại và các khả năng quân sự ngày càng phát triển. Tất cả 5 thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đều ủng hộ – tuy miễn cưỡng – tuyên bố của Ấn Độ muốn gia nhập với họ. Nhưng trong khi sự nổi lên của Trung Quốc là một điều đă định sẵn, Ấn Độ vẫn được dư luận rộng răi coi như một nước gần như cường quốc chưa hẳn có thể hành động cho tương xứng.
Đó là một điều đáng tiếc, v́ với tư cách là một nước lớn, Ấn Độ sẽ mang lại được nhiều điều. Mặc dù nghèo hơn và ít năng động về kinh tế hơn Trung Quốc, Ấn Độ có thừa sức mạnh mềm. Nước này cam kết với các thể chế dân chủ, sự cai trị của pháp luật và nhân quyền. Là một nạn nhân của bạo lực thánh chiến, nước này đi đầu trong cuộc chiến chống khủng bố. Nước này có một dân số khổng lồ và tài năng. Nước này có thể không muốn được phương Tây kết nạp nhưng chia sẻ nhiều giá trị phương Tây. Ấn Độ tự tin và giàu có về văn hóa. Nếu Ấn Độ có một ghế thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (mà nước này giành được bằng việc là nước đóng góp thường xuyên nhất cho các hoạt động ǵn giữ ḥa b́nh của Liên Hợp Quốc), th́ nước này sẽ không bào chữa và bảo vệ một cách bản năng các chế độ tàn bạo. Không giống Trung Quốc và Nga, nước này hầu như không có bí mật cần che giấu. Với bờ biển rộng lớn và lực lượng hải quân đáng nể trọng của ḿnh (được Hải quân Mỹ, mà nước này thường tổ chức tập trận cùng, đánh giá là đạt tiêu chuẩn của NATO), Ấn Độ có vị trí thuận lợi để đảm bảo an ninh trong một khu vực then chốt của cộng đồng toàn cầu.
Cường quốc khiêm nhựng
Tuy nhiên tiềm năng khổng lồ của Ấn Độ trở thành một lực lượng duy tŕ sự ổn định và là người giữ vững hệ thống quốc tế dựa trên các nguyên tắc c̣n lâu mới trở thành hiện thực. Một nguyên nhân lớn là nước này thiếu nền văn hóa để theo đuổi một chính sách an ninh tích cực. Bất chấp một ngân sách quốc pḥng đang gia tăng nhanh chóng, dự báo là lớn thứ 4 thế giới vào năm 2020, các chính trị gia và quan chức Ấn Độ hầu như không quan tâm đến chiến lược lớn. Ngành ngoại giao yếu kém một cách lố bịch – 1,2 tỷ người Ấn Độ được đại diện bởi số nhà ngoại giao ngang với Xinhgapo 5 triệu dân. Giới lănh đạo các lực lượng vũ trang và tổ chức chính trị-hành chính hoạt động ở những thế giới khác. Bộ Quốc pḥng thường xuyên thiếu sự tinh thông về quân sự.
Những yếu kém này phần nào phản ánh một khát khao thực tế muốn đặt phát triển kinh tế trong nước làm ưu tiên. Ấn Độ cũng đă khôn ngoan không để các tướng lĩnh tham gia hoạt động chính trị (một bài học đă bị phớt lờ đâu đó ở châu Á, nhất là bởi Pakixtan, với những kết quả thường đầy nguy hiểm). Nhưng tư tưởng Nehru cũng đóng một vai tṛ. Trong nước, Ấn Độ đă từ bỏ một cách khoan dung kinh tế học Fabian vào những năm 1990 (và thu được thành quả). Nhưng về mặt ngoại giao, 66 năm sau khi người Anh ra đi, nước này vẫn trung thành với những giáo điều hậu độc lập về chủ nghĩa bán ḥa b́nh và “không liên kết”: không thể tin phương Tây.
Truyền thống kiềm chế chiến lược của Ấn Độ theo một số cách thức đă phục vụ tốt cho đất nước này. Hầu như không có điều ǵ để thể hiện cho một số cuộc chiến tranh có giới hạn với Pakixtan và một cuộc chiến với Trung Quốc, Ấn Độ có xu hướng phản ứng với những khiêu khích bằng sự thận trọng. Nước này có những tranh chấp lănh thổ lâu đời với cả hai nước láng giềng lớn của ḿnh, nhưng thường t́m cách không kích động họ (mặc dù nước này kiểm duyệt bất kỳ tấm bản đồ nào mô tả chính xác vị trí biên giới, điều mà báo chí nước này phải chịu đựng một cách đáng hổ thẹn). Ấn Độ không đi t́m kiếm rắc rối, và điều đó nói chung có lợi cho nước này.
Ấn Độ không thể thiếu
Nhưng sự thiếu vắng một văn hóa chiến lược cũng có cái giá của nó. Pakixtan nguy hiểm và bất ổn, sẵn sàng sử dụng vũ khí hạt nhân, bị xé thành từng mảnh bởi bạo lực thánh chiến và dễ tổn thương trước một bộ tư lệnh quân sự bị các sĩ quan cấp thấp cấp tiến đe dọa. Tuy nhiên Ấn Độ không suy tính một cách mạch lạc về cách thức đối phó. Chính phủ hy vọng rằng thương mại gia tăng sẽ cải thiện quan hệ, ngay cả khi quân đội lập kế hoạch cho một cuộc tấn công kiểu chớp nhoáng qua biên giới. Nước này cần phải hành động tích cực hơn trong việc chữa lành sự nhức nhối không dứt về Casơmia và ủng hộ chính phủ dân sự của Pakixtan. Chẳng hạn, ngay lúc này Pakixtan đang trải qua điều sẽ là sự chuyển giao đầu tiên của nước này từ một chính phủ dân sự được bầu lên sang chính phủ tiếp theo. Thủ tướng Ấn Độ, Manmohan Singh, nên ủng hộ tiến tŕnh này bằng cách sắp xếp để tới thăm nhà lănh đạo mới của Pakixtan.
Trung Quốc, nước ngày càng sẵn sàng và có khả năng triển khai sức mạnh quân sự, kể cả ở Ấn Độ Dương, đặt ra mối đe dọa theo một kiểu khác. Không ai có thể chắc chắn Trung Quốc sẽ sử dụng sức mạnh quân sự và kinh tế của ḿnh như thế nào để đẩy mạnh những lợi ích của riêng ḿnh và, có lẽ, để đặt Ấn Độ vào thế nguy hiểm. Nhưng Ấn Độ, giống như các nước láng giềng lân cận khác của Trung Quốc, có mọi lư do để lo lắng. Nước này đặc biệt dễ bị tổn thương trước bất kỳ sự can thiệp nào vào các nguồn cung cấp năng lượng (Ấn Độ chiếm 17% dân số thế giới nhưng chỉ chiếm 0,8% trữ lượng dầu mỏ và khí đốt đă được biết đến).
Ấn Độ nên bắt đầu định h́nh số phận của riêng ḿnh và vận mệnh của khu vực ḿnh. Nước này cần phải thực hiện chiến lược nghiêm túc hơn và xây dựng một ngành ngoại giao phù hợp với một cường quốc – ít nhất lớn hơn gấp 3 lần. Nước này cần một Bộ Quốc pḥng chuyên nghiệp hơn và một đội ngũ quốc pḥng thống nhất có thể làm việc với giới lănh đạo chính trị của đất nước. Nước này cần phải để các công ty tư nhân và nước ngoài tham gia ngành công nghiệp quốc pḥng đang hấp hối do nhà nước điều hành của ḿnh. Và nước nàv cần một lực lượng hải quân được tài trợ tốt có thể vừa trở thành một nhà bảo đảm an ninh hàng hải trên một số tuyến đường biên tấp nập nhất thế giới lẫn thể hiện sự sẵn sàng của Ấn Độ gánh vác những trách nhiệm của một nước lớn.
Tuy vậy, trên hết Ấn Độ cần phải từ bỏ triết lư lỗi thời của nước này là không liên kết. Kể từ thỏa thuận hạt nhân với Mỹ năm 2005, nước này đă phải hướng về phương Tây – nước này có xu hướng bỏ phiếu cho biện pháp của Mỹ tại Liên Hợp Quốc, nước này đă cắt giảm việc mua dầu mỏ của Iran, cộng tác với NATO ở Ápganixtan và phối hợp với phương Tây trong việc đối phó với các vấn đề của khu vực như sự đàn áp ở Xri Lanca và chuyển giao ở Mianma – nhưng đă làm vậy một cách rất bí mật. Việc làm cho sự chuyển đổi của Ấn Độ trở nên công khai hơn, bằng cách tham gia các liên minh an ninh do phương Tây ủng hộ, sẽ tốt cho khu vực, và thế giới. Điều đó sẽ thúc đẩy dân chủ ở châu Á và ràng buộc Trung Quốc vào các tiêu chuẩn quốc tế. Đó có thể không phải là lợi ích ngắn hạn của Ấn Độ, v́ nó sẽ mạo hiểm gây nên mối thù địch với Trung Quốc. Nhưng nh́n vượt ra ngoài lợi ích bản thân ngắn hạn là một kiểu việc mà một cường quốc phải làm.
Việc Ấn Độ có thể trở thành một nước lớn không phải nghi ngờ. Câu hỏi thực sự là liệu nước này có muốn hay không.
***
Ấn Độ sẵn sàng trở thành một trong 4 cường quốc quân sự lớn nhất thế giới vào cuối thập kỷ. Nước này cần phải suy nghĩ về ư nghĩa của điều đó.
Không giống nhiều nước châu Á khác – và trái ngược hoàn toàn với nước láng giềng Pakixtan – Ấn Độ chưa bao giờ được các tướng lĩnh điều hành. Những quan chức cấp cao thuộc ngành dân chính đầy quyền lực của thuộc địa Raj phần lớn là người Hindu, trong khi người Hồi giáo có đại diện không tương xứng trong quân đội. Trong quá tŕnh giành độc lập, giới tinh hoa chính trị Ấn Độ, vốn có một xu hướng ḥa b́nh mạnh mẽ, quyết tâm giữ các tướng lĩnh ở vị trí của họ. Trong điều này họ đă thành công một cách vui vẻ.
Nhưng đă có những cái giá phải trả. Một cái giá là Ấn Độ bộc lộ sự thiếu vắng đáng chú ư cái có thể gọi là văn hóa chiến lược. Nước này đă tiến hành một số cuộc chiến tranh có giới hạn – một cuộc chiến với Trung Quốc, mà nước này thất bại, và vài cuộc chiến với Pakixtan, mà phần lớn là chiến thắng, nếu không muốn nói là luôn đáng thuyết phục – và nước này phải đối mặt với một loạt mối đe dọa, bao gồm chủ nghĩa khủng bố thánh chiến và sự nổi dậy dai dẳng của chủ nghĩa Maoít. Tuy nhiên tầng lớp chính trị của nước này hầu như không cho thấy dấu hiệu hiểu biết hay quan tâm đến cách sức mạnh quân sự của đất nước nên được triển khai như thế nào.
Sức mạnh đó đang phát triển nhanh. Trong 5 năm qua Ấn Độ đă trở thành nhà nhập khẩu vũ khí lớn nhất thế giới. Một thỏa thuận trị giá không dưới 12 tỷ USD để mua 126 máy bay chiến đấu Rafale từ Pháp đang dần hoàn tất. Ấn Độ có quân nhân tại ngũ nhiều hơn bất kỳ nước châu Á nào khác ngoại trừ Trung Quốc, và ngân sách quốc pḥng của nước này đă tăng lên 46,8 tỷ USD. Hiện nay nưóc này là nước chi tiêu quân sự lớn thứ 7 thế giới; IHS Jane’s, một cơ quan tư vấn, cho rằng vào năm 2020 nước này sẽ vượt qua Nhật Bản, Pháp và Anh để vươn lên vị trí thứ 4. Nước này có một kho dự trữ hạt nhân chứa không dưới 80 đầu đạn có thể dễ dàng bổ sung, và các tên lửa đạn đạo có thể mang theo đầu đạn hạt nhân tới bất kỳ điểm nào ở Pakixtan. Nước này gần đây đă thử nghiệm một tên lửa với tầm bắn 5.000 km, sẽ vươn tới phần lớn Trung Quốc.
Phải đối măt với con đường nào?
Ngoài giới báo chí luôn lớn tiếng và các tổ chức tư vấn chiến lược hăng hái của Niu Đêli, Ấn Độ và các nhà lănh đạo của nước này hầu như không tỏ ra quan tâm đến các vấn đề quân sự hay chiến lược. Những đánh giá quốc pḥng chiến lược như đă diễn ra ở Mỹ, Anh và Pháp, được các sĩ quan tại ngũ và các viên chức thông báo nhưng do các chính trị gia chỉ đạo, không được biết đến ở Ấn Độ. Các lực lượng vũ trang coi Bộ Quốc pḥng là dốt nát một cách tồi tệ về các vấn đề quân sự, có ít kĩ năng cần thiết để cung cấp hỗ trợ trong các lĩnh vực như hoạt động hậu cần và mua sắm (họ cũng tức giận về sự kiểm soát của bộ này đối với những sự thăng tiến cấp cao). Các công chức chỉ ghé qua bộ này thay v́ tạo dựng sự nghiệp tại đó. Bộ Ngoại vụ, vốn nên đóng vai tṛ quan trọng trong việc thông báo tầm nh́n chiến lược của đất nước, rất yếu kém. Xinhgapo, với dân số 5 triệu người, có ngành ngoại giao với quy mô tương tự như của Ấn Độ. Ngành ngoại giao Trung Quốc lớn hơn gấp 8 lần.
Những mối đe dọa chủ yếu đối với Ấn Độ là rơ ràng: một Pakixtan bất ổn, suy yếu nhưng nguy hiểm; một Trung Quốc huênh hoang và đáng sợ. Một nước tạo ra những cảm giác về sự vượt trội gần như khinh miệt, nước c̣n lại là sự thấp kém hơn và ḷng đố kỵ, về địa vị khu vực của Ấn Độ và những triển vọng tương lai là một “nước lớn”, Trung Quốc có ư nghĩa nhất; nhưng mối quan hệ gây phiền phức với Pakixtan vẫn chi phối tư duy quân sự.
Một nỗ lực gần đây nhằm tăng cường quan hệ giữa hai nước đang có một số thành công. Những căng thẳng dọc “đường kiểm soát” phân chia hai bên trong khi không có một biên giới được thỏa thuận ở Casơmia có thể bùng phát bất cứ lúc nào. Phức tạp hơn, Trung Quốc và Pakixtan lại thân thiết, và Trung Quốc không ngại khuyến khích người đồng minh dễ chịu của ḿnh trở thành một cái gai trong mắt Ấn Độ. Theo những người Ấn Độ đầy phẫn nộ, Pakixtan cũng sử dụng những kẻ khủng bố thánh chiến để thực hiện một cuộc chiến tranh mượn tay kẻ khác nhằm vào Ấn Độ “dưới chiếc ô hạt nhân của nước này”. Cuộc tấn cống vào Quốc hội Ấn Độ năm 2001 của Jaish-e- Mohammed, một nhóm khủng bố có liên hệ chặt chẽ với cơ quan t́nh báo của Pakixían, đă đưa hai nước đến bờ vực chiến tranh. Kí ức về cuộc tấn công bất ngờ của lính biệt kích vào Mumbai bởi Lashkar-e-Taiba, một tổ chức khủng bố khác, vẫn c̣n mới nguyên.
Những khả năng hạt nhân của Pakixtan là một mối lo ngại thường xuyên. Kho đầu đạn của nước này, được phát triển với sự hỗ trợ của Trung Quốc, ít nhất lớn bằng của Ấn Độ và gần như chắc chắn là lớn hơn. Nước này có các tên lửa chủ yếu do Trung Quốc thiết kế có thể vươn tới hầu hết các thành phố của Ấn Độ và, không giống Ấn Độ, nước này không có chính sách “không sử dụng trước”. Quả thực, để bù đắp sự vượt trội ngày càng tăng của các lực lượng thông thường Ấn Độ, nước này đang phát triển các vũ khí hạt nhân cho chiến trường có thể được đặt dưới sự kiểm soát của các chỉ huy chiến trường.
Lớn hơn và giàu có hơn nhiều, Ấn Độ thường chiến thắng Pakixtan. Các kế hoạch của nước này nhằm thực hiện lại điều đó, nếu nước này cảm thấy bị khiêu khích, là đáng lo ngại. Trong phần lớn thập kỷ qua, quân đội đă theo đuổi một học thuyết được biết đến là “Khởi đầu Lạnh” sẽ chứng kiến những cuộc đột kích nhanh chóng bằng xe bọc thép vào Pakixtan với sự hỗ trợ bám sát từ trên không. Ư tưởng là gây thiệt hại cho các lực lượng của Pakixtan mà chỉ thông báo trước 72 giờ, chiếm lấy lănh thổ đủ nhanh để không phải hứng chịu một sự đáp trả hạt nhân, ở cấp độ chiến thuật, điều này thừa nhận một khả năng chiến tranh vũ trang phối hợp công nghệ cao mà Ấn Độ có thể không có. Ở cấp độ chiến lược, nó giả định rằng Pakixtan sẽ do dự trước khi sử dụng các vũ khí hạt nhân, và khó chịu với truyền thống kiềm chế chiến lược của Ấn Độ. Các quan chức dân sự và các chính trị gia phủ nhận một cách không thuyết phục rằng Khởi đầu Lạnh thậm chí có tồn tại.
Bharat Karnat thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chính sách, một tổ chức tư vấn chiến lược, tin rằng mối nguy hiểm chủ yếu của Pakixtan đối với Ấn Độ với tư cách là một nhà nước thất bại, chứ không phải một kẻ thù quân sự. Ông coi Khởi đầu Lạnh là một “ngơ cụt” phí phạm các nguồn lực quân sự và tài chính vốn nên được sử dụng để ngăn chặn “kẻ bá chủ nguyên thủy”, Trung Quốc. Các nước khác đồng ư. Năm 2009 A. K. Antony, Bộ trưởng Quốc pḥng, nói với các lực lượng vũ trang rằng họ nên coi Trung Quốc thay v́ Pakixtan là mối đe dọa chính đối với an ninh của Ấn Độ và tự triển khai theo đó. Nhưng không nhiều việc đă diễn ra, Ông Karnad nhận thấy đường lối chiến lược dân sự yếu kém kết hợp với chủ nghĩa bảo thủ bẩm sinh của quân đội ngăn Ấn Độ làm những việc mà nước này cần phải thực hiện.
“Đường kiểm soát thực tế” giữa Trung Quốc và Ấn Độ ở Arunachal Pradesh, nơi Trung Quốc gọi là Nam Tây Tạng, không căng thẳng như ở Casơmia. Các cuộc đối thoại giữa hai nước nhằm giải quyết vấn đề biên giới đă diễn ra trong 10 năm và trải qua 15 ṿng. Trong các tuyên bố chính thức, cả hai bên nhấn mạnh rằng tranh chấp không ngăn cản mối quan hệ đối tác nhằm theo đuổi các mục tiêu khác.
Nhưng khó có thể phớt lờ tốc độ đầu tư quân sự ở phía Trung Quốc của đường kiểm soát. Thiếu tướng Gurmeet Kanwal thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến tranh Mặt đất chỉ rơ việc xây dựng các đường ray mới, 58.000 km đường dùng trong mọi thời tiết, 5 căn cứ không quân, các trung tâm tiếp tế và các điêm liên lạc. Theo ông Karnad, Trung Quốc sẽ có thể tấn công bằng sức mạnh và tốc độ nếu họ quyết định chiếm phần lănh thổ do Ấn Độ kiểm soát mà họ tuyên bố là của ḿnh. Ông cho rằng quân đội Ấn Độ, quen với kế hoạch “phản ứng thụ động” khi đối phó với Trung Quốc, đă tự tước đi của ḿnh những phương tiện để phát động một cuộc phản công.
Không thể sánh được với sức mạnh của Trung Quốc trên đất liền, một lựa chọn thay thế có thể là đáp trả trên biển. Một đ̣n đáp trả như vậy đă được lưu truyền trong một tài liệu chiến lược bán chính thức gọi là “Không liên kết 2.0”, do một số cựu cố vấn an ninh quốc gia thúc đẩy vào năm 2012 và được cố vấn an ninh đương nhiệm, Shivshankar Menon, ủng hộ. Chẳng hạn, lợi thế hải quân của Ấn Độ có thể cho phép nước này ngăn cản vận chuyển dầu mỏ đến Trung Quốc qua Eo biển Malacca.
Trung Quốc và Ấn Độ đều đang nhanh chóng phát triển hải quân của ḿnh từ các lực lượng pḥng thủ bờ biển thành những công cụ có thể triển khai sức mạnh xa hơn ngoài mặt trận; trong thập kỷ này, mỗi nước mong đợi sẽ có 3 nhóm tàu sân bay tác chiến. Một số chiến lược gia Ấn Độ tin rằng khi Trung Quốc mở rộng tầm với của ḿnh ra Ấn Độ Dương để bảo vệ quyền tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên, hải quân của hai nước có khả năng đụng độ như lục quân của họ.
Trên biển
Hải quân Trung Quốc đang mở rộng với tốc độ rất nhanh mà Ấn Độ không thể sánh kịp – vào năm 2020 nước này được cho là sẽ có 73 tàu chiến lớn và 78 tàu ngầm, 12 trong số đó là tàu hạt nhân – nhưng các thủy thủ của Ấn Độ có tŕnh độ cao. Họ đă vận hành một tàu sân bay kể từ những năm 1960, trong khi Trung Quốc hiện giờ mới chỉ bắt đầu tham gia cuộc chơi. Ấn Độ lo sợ việc Trung Quốc phát triển các cơ sở tại những cảng biển ở Pakixtan, Xri Lanca, Bănglađét và Mianma – cái gọi là “chuỗi ngọc trai” xung quanh đại dương mang tên của Ấn Độ; ông Antony đă gọi thông báo vào tháng 2/2013 rằng một công ty Trung Quốc sẽ điều hành cảng Gwadar của Pakixtan là “một vấn đề đáng lo ngại”. Trung Quốc nhận thấy một mối đe dọa trong các mối quan hệ hải quân đang phát triển của Ấn Độ với Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản và nhất là Mỹ. Ấn Độ hiện tiến hành nhiều cuộc tập trận hải quân với Mỹ hơn bất kỳ nước nào khác.
Thứ Hai, ngày 24/6/2013
(Tạp chí The Economist – số 30/3/2013)
Sự thiếu vắng một văn hóa chiến lược của Ấn Độ cản trở tham vọng của nước này trở thành một thế lực trên thế giới.
Không ai nghi ngờ việc Trung Quốc đă gia nhập hàng ngũ các nước lớn: ư tưởng về một G2 với Mỹ được nêu ra, mặc dù vội vă. Ấn Độ thường được nhắc đến cùng với Trung Quốc v́ nước này có dân số hơn 1 tỷ người, sự hứa hẹn về kinh tế, giá trị với tư cách là đối tác thương mại và các khả năng quân sự ngày càng phát triển. Tất cả 5 thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đều ủng hộ – tuy miễn cưỡng – tuyên bố của Ấn Độ muốn gia nhập với họ. Nhưng trong khi sự nổi lên của Trung Quốc là một điều đă định sẵn, Ấn Độ vẫn được dư luận rộng răi coi như một nước gần như cường quốc chưa hẳn có thể hành động cho tương xứng.
Đó là một điều đáng tiếc, v́ với tư cách là một nước lớn, Ấn Độ sẽ mang lại được nhiều điều. Mặc dù nghèo hơn và ít năng động về kinh tế hơn Trung Quốc, Ấn Độ có thừa sức mạnh mềm. Nước này cam kết với các thể chế dân chủ, sự cai trị của pháp luật và nhân quyền. Là một nạn nhân của bạo lực thánh chiến, nước này đi đầu trong cuộc chiến chống khủng bố. Nước này có một dân số khổng lồ và tài năng. Nước này có thể không muốn được phương Tây kết nạp nhưng chia sẻ nhiều giá trị phương Tây. Ấn Độ tự tin và giàu có về văn hóa. Nếu Ấn Độ có một ghế thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (mà nước này giành được bằng việc là nước đóng góp thường xuyên nhất cho các hoạt động ǵn giữ ḥa b́nh của Liên Hợp Quốc), th́ nước này sẽ không bào chữa và bảo vệ một cách bản năng các chế độ tàn bạo. Không giống Trung Quốc và Nga, nước này hầu như không có bí mật cần che giấu. Với bờ biển rộng lớn và lực lượng hải quân đáng nể trọng của ḿnh (được Hải quân Mỹ, mà nước này thường tổ chức tập trận cùng, đánh giá là đạt tiêu chuẩn của NATO), Ấn Độ có vị trí thuận lợi để đảm bảo an ninh trong một khu vực then chốt của cộng đồng toàn cầu.
Cường quốc khiêm nhựng
Tuy nhiên tiềm năng khổng lồ của Ấn Độ trở thành một lực lượng duy tŕ sự ổn định và là người giữ vững hệ thống quốc tế dựa trên các nguyên tắc c̣n lâu mới trở thành hiện thực. Một nguyên nhân lớn là nước này thiếu nền văn hóa để theo đuổi một chính sách an ninh tích cực. Bất chấp một ngân sách quốc pḥng đang gia tăng nhanh chóng, dự báo là lớn thứ 4 thế giới vào năm 2020, các chính trị gia và quan chức Ấn Độ hầu như không quan tâm đến chiến lược lớn. Ngành ngoại giao yếu kém một cách lố bịch – 1,2 tỷ người Ấn Độ được đại diện bởi số nhà ngoại giao ngang với Xinhgapo 5 triệu dân. Giới lănh đạo các lực lượng vũ trang và tổ chức chính trị-hành chính hoạt động ở những thế giới khác. Bộ Quốc pḥng thường xuyên thiếu sự tinh thông về quân sự.
Những yếu kém này phần nào phản ánh một khát khao thực tế muốn đặt phát triển kinh tế trong nước làm ưu tiên. Ấn Độ cũng đă khôn ngoan không để các tướng lĩnh tham gia hoạt động chính trị (một bài học đă bị phớt lờ đâu đó ở châu Á, nhất là bởi Pakixtan, với những kết quả thường đầy nguy hiểm). Nhưng tư tưởng Nehru cũng đóng một vai tṛ. Trong nước, Ấn Độ đă từ bỏ một cách khoan dung kinh tế học Fabian vào những năm 1990 (và thu được thành quả). Nhưng về mặt ngoại giao, 66 năm sau khi người Anh ra đi, nước này vẫn trung thành với những giáo điều hậu độc lập về chủ nghĩa bán ḥa b́nh và “không liên kết”: không thể tin phương Tây.
Truyền thống kiềm chế chiến lược của Ấn Độ theo một số cách thức đă phục vụ tốt cho đất nước này. Hầu như không có điều ǵ để thể hiện cho một số cuộc chiến tranh có giới hạn với Pakixtan và một cuộc chiến với Trung Quốc, Ấn Độ có xu hướng phản ứng với những khiêu khích bằng sự thận trọng. Nước này có những tranh chấp lănh thổ lâu đời với cả hai nước láng giềng lớn của ḿnh, nhưng thường t́m cách không kích động họ (mặc dù nước này kiểm duyệt bất kỳ tấm bản đồ nào mô tả chính xác vị trí biên giới, điều mà báo chí nước này phải chịu đựng một cách đáng hổ thẹn). Ấn Độ không đi t́m kiếm rắc rối, và điều đó nói chung có lợi cho nước này.
Ấn Độ không thể thiếu
Nhưng sự thiếu vắng một văn hóa chiến lược cũng có cái giá của nó. Pakixtan nguy hiểm và bất ổn, sẵn sàng sử dụng vũ khí hạt nhân, bị xé thành từng mảnh bởi bạo lực thánh chiến và dễ tổn thương trước một bộ tư lệnh quân sự bị các sĩ quan cấp thấp cấp tiến đe dọa. Tuy nhiên Ấn Độ không suy tính một cách mạch lạc về cách thức đối phó. Chính phủ hy vọng rằng thương mại gia tăng sẽ cải thiện quan hệ, ngay cả khi quân đội lập kế hoạch cho một cuộc tấn công kiểu chớp nhoáng qua biên giới. Nước này cần phải hành động tích cực hơn trong việc chữa lành sự nhức nhối không dứt về Casơmia và ủng hộ chính phủ dân sự của Pakixtan. Chẳng hạn, ngay lúc này Pakixtan đang trải qua điều sẽ là sự chuyển giao đầu tiên của nước này từ một chính phủ dân sự được bầu lên sang chính phủ tiếp theo. Thủ tướng Ấn Độ, Manmohan Singh, nên ủng hộ tiến tŕnh này bằng cách sắp xếp để tới thăm nhà lănh đạo mới của Pakixtan.
Trung Quốc, nước ngày càng sẵn sàng và có khả năng triển khai sức mạnh quân sự, kể cả ở Ấn Độ Dương, đặt ra mối đe dọa theo một kiểu khác. Không ai có thể chắc chắn Trung Quốc sẽ sử dụng sức mạnh quân sự và kinh tế của ḿnh như thế nào để đẩy mạnh những lợi ích của riêng ḿnh và, có lẽ, để đặt Ấn Độ vào thế nguy hiểm. Nhưng Ấn Độ, giống như các nước láng giềng lân cận khác của Trung Quốc, có mọi lư do để lo lắng. Nước này đặc biệt dễ bị tổn thương trước bất kỳ sự can thiệp nào vào các nguồn cung cấp năng lượng (Ấn Độ chiếm 17% dân số thế giới nhưng chỉ chiếm 0,8% trữ lượng dầu mỏ và khí đốt đă được biết đến).
Ấn Độ nên bắt đầu định h́nh số phận của riêng ḿnh và vận mệnh của khu vực ḿnh. Nước này cần phải thực hiện chiến lược nghiêm túc hơn và xây dựng một ngành ngoại giao phù hợp với một cường quốc – ít nhất lớn hơn gấp 3 lần. Nước này cần một Bộ Quốc pḥng chuyên nghiệp hơn và một đội ngũ quốc pḥng thống nhất có thể làm việc với giới lănh đạo chính trị của đất nước. Nước này cần phải để các công ty tư nhân và nước ngoài tham gia ngành công nghiệp quốc pḥng đang hấp hối do nhà nước điều hành của ḿnh. Và nước nàv cần một lực lượng hải quân được tài trợ tốt có thể vừa trở thành một nhà bảo đảm an ninh hàng hải trên một số tuyến đường biên tấp nập nhất thế giới lẫn thể hiện sự sẵn sàng của Ấn Độ gánh vác những trách nhiệm của một nước lớn.
Tuy vậy, trên hết Ấn Độ cần phải từ bỏ triết lư lỗi thời của nước này là không liên kết. Kể từ thỏa thuận hạt nhân với Mỹ năm 2005, nước này đă phải hướng về phương Tây – nước này có xu hướng bỏ phiếu cho biện pháp của Mỹ tại Liên Hợp Quốc, nước này đă cắt giảm việc mua dầu mỏ của Iran, cộng tác với NATO ở Ápganixtan và phối hợp với phương Tây trong việc đối phó với các vấn đề của khu vực như sự đàn áp ở Xri Lanca và chuyển giao ở Mianma – nhưng đă làm vậy một cách rất bí mật. Việc làm cho sự chuyển đổi của Ấn Độ trở nên công khai hơn, bằng cách tham gia các liên minh an ninh do phương Tây ủng hộ, sẽ tốt cho khu vực, và thế giới. Điều đó sẽ thúc đẩy dân chủ ở châu Á và ràng buộc Trung Quốc vào các tiêu chuẩn quốc tế. Đó có thể không phải là lợi ích ngắn hạn của Ấn Độ, v́ nó sẽ mạo hiểm gây nên mối thù địch với Trung Quốc. Nhưng nh́n vượt ra ngoài lợi ích bản thân ngắn hạn là một kiểu việc mà một cường quốc phải làm.
Việc Ấn Độ có thể trở thành một nước lớn không phải nghi ngờ. Câu hỏi thực sự là liệu nước này có muốn hay không.
***
Ấn Độ sẵn sàng trở thành một trong 4 cường quốc quân sự lớn nhất thế giới vào cuối thập kỷ. Nước này cần phải suy nghĩ về ư nghĩa của điều đó.
Không giống nhiều nước châu Á khác – và trái ngược hoàn toàn với nước láng giềng Pakixtan – Ấn Độ chưa bao giờ được các tướng lĩnh điều hành. Những quan chức cấp cao thuộc ngành dân chính đầy quyền lực của thuộc địa Raj phần lớn là người Hindu, trong khi người Hồi giáo có đại diện không tương xứng trong quân đội. Trong quá tŕnh giành độc lập, giới tinh hoa chính trị Ấn Độ, vốn có một xu hướng ḥa b́nh mạnh mẽ, quyết tâm giữ các tướng lĩnh ở vị trí của họ. Trong điều này họ đă thành công một cách vui vẻ.
Nhưng đă có những cái giá phải trả. Một cái giá là Ấn Độ bộc lộ sự thiếu vắng đáng chú ư cái có thể gọi là văn hóa chiến lược. Nước này đă tiến hành một số cuộc chiến tranh có giới hạn – một cuộc chiến với Trung Quốc, mà nước này thất bại, và vài cuộc chiến với Pakixtan, mà phần lớn là chiến thắng, nếu không muốn nói là luôn đáng thuyết phục – và nước này phải đối mặt với một loạt mối đe dọa, bao gồm chủ nghĩa khủng bố thánh chiến và sự nổi dậy dai dẳng của chủ nghĩa Maoít. Tuy nhiên tầng lớp chính trị của nước này hầu như không cho thấy dấu hiệu hiểu biết hay quan tâm đến cách sức mạnh quân sự của đất nước nên được triển khai như thế nào.
Sức mạnh đó đang phát triển nhanh. Trong 5 năm qua Ấn Độ đă trở thành nhà nhập khẩu vũ khí lớn nhất thế giới. Một thỏa thuận trị giá không dưới 12 tỷ USD để mua 126 máy bay chiến đấu Rafale từ Pháp đang dần hoàn tất. Ấn Độ có quân nhân tại ngũ nhiều hơn bất kỳ nước châu Á nào khác ngoại trừ Trung Quốc, và ngân sách quốc pḥng của nước này đă tăng lên 46,8 tỷ USD. Hiện nay nưóc này là nước chi tiêu quân sự lớn thứ 7 thế giới; IHS Jane’s, một cơ quan tư vấn, cho rằng vào năm 2020 nước này sẽ vượt qua Nhật Bản, Pháp và Anh để vươn lên vị trí thứ 4. Nước này có một kho dự trữ hạt nhân chứa không dưới 80 đầu đạn có thể dễ dàng bổ sung, và các tên lửa đạn đạo có thể mang theo đầu đạn hạt nhân tới bất kỳ điểm nào ở Pakixtan. Nước này gần đây đă thử nghiệm một tên lửa với tầm bắn 5.000 km, sẽ vươn tới phần lớn Trung Quốc.
Phải đối măt với con đường nào?
Ngoài giới báo chí luôn lớn tiếng và các tổ chức tư vấn chiến lược hăng hái của Niu Đêli, Ấn Độ và các nhà lănh đạo của nước này hầu như không tỏ ra quan tâm đến các vấn đề quân sự hay chiến lược. Những đánh giá quốc pḥng chiến lược như đă diễn ra ở Mỹ, Anh và Pháp, được các sĩ quan tại ngũ và các viên chức thông báo nhưng do các chính trị gia chỉ đạo, không được biết đến ở Ấn Độ. Các lực lượng vũ trang coi Bộ Quốc pḥng là dốt nát một cách tồi tệ về các vấn đề quân sự, có ít kĩ năng cần thiết để cung cấp hỗ trợ trong các lĩnh vực như hoạt động hậu cần và mua sắm (họ cũng tức giận về sự kiểm soát của bộ này đối với những sự thăng tiến cấp cao). Các công chức chỉ ghé qua bộ này thay v́ tạo dựng sự nghiệp tại đó. Bộ Ngoại vụ, vốn nên đóng vai tṛ quan trọng trong việc thông báo tầm nh́n chiến lược của đất nước, rất yếu kém. Xinhgapo, với dân số 5 triệu người, có ngành ngoại giao với quy mô tương tự như của Ấn Độ. Ngành ngoại giao Trung Quốc lớn hơn gấp 8 lần.
Những mối đe dọa chủ yếu đối với Ấn Độ là rơ ràng: một Pakixtan bất ổn, suy yếu nhưng nguy hiểm; một Trung Quốc huênh hoang và đáng sợ. Một nước tạo ra những cảm giác về sự vượt trội gần như khinh miệt, nước c̣n lại là sự thấp kém hơn và ḷng đố kỵ, về địa vị khu vực của Ấn Độ và những triển vọng tương lai là một “nước lớn”, Trung Quốc có ư nghĩa nhất; nhưng mối quan hệ gây phiền phức với Pakixtan vẫn chi phối tư duy quân sự.
Một nỗ lực gần đây nhằm tăng cường quan hệ giữa hai nước đang có một số thành công. Những căng thẳng dọc “đường kiểm soát” phân chia hai bên trong khi không có một biên giới được thỏa thuận ở Casơmia có thể bùng phát bất cứ lúc nào. Phức tạp hơn, Trung Quốc và Pakixtan lại thân thiết, và Trung Quốc không ngại khuyến khích người đồng minh dễ chịu của ḿnh trở thành một cái gai trong mắt Ấn Độ. Theo những người Ấn Độ đầy phẫn nộ, Pakixtan cũng sử dụng những kẻ khủng bố thánh chiến để thực hiện một cuộc chiến tranh mượn tay kẻ khác nhằm vào Ấn Độ “dưới chiếc ô hạt nhân của nước này”. Cuộc tấn cống vào Quốc hội Ấn Độ năm 2001 của Jaish-e- Mohammed, một nhóm khủng bố có liên hệ chặt chẽ với cơ quan t́nh báo của Pakixían, đă đưa hai nước đến bờ vực chiến tranh. Kí ức về cuộc tấn công bất ngờ của lính biệt kích vào Mumbai bởi Lashkar-e-Taiba, một tổ chức khủng bố khác, vẫn c̣n mới nguyên.
Những khả năng hạt nhân của Pakixtan là một mối lo ngại thường xuyên. Kho đầu đạn của nước này, được phát triển với sự hỗ trợ của Trung Quốc, ít nhất lớn bằng của Ấn Độ và gần như chắc chắn là lớn hơn. Nước này có các tên lửa chủ yếu do Trung Quốc thiết kế có thể vươn tới hầu hết các thành phố của Ấn Độ và, không giống Ấn Độ, nước này không có chính sách “không sử dụng trước”. Quả thực, để bù đắp sự vượt trội ngày càng tăng của các lực lượng thông thường Ấn Độ, nước này đang phát triển các vũ khí hạt nhân cho chiến trường có thể được đặt dưới sự kiểm soát của các chỉ huy chiến trường.
Lớn hơn và giàu có hơn nhiều, Ấn Độ thường chiến thắng Pakixtan. Các kế hoạch của nước này nhằm thực hiện lại điều đó, nếu nước này cảm thấy bị khiêu khích, là đáng lo ngại. Trong phần lớn thập kỷ qua, quân đội đă theo đuổi một học thuyết được biết đến là “Khởi đầu Lạnh” sẽ chứng kiến những cuộc đột kích nhanh chóng bằng xe bọc thép vào Pakixtan với sự hỗ trợ bám sát từ trên không. Ư tưởng là gây thiệt hại cho các lực lượng của Pakixtan mà chỉ thông báo trước 72 giờ, chiếm lấy lănh thổ đủ nhanh để không phải hứng chịu một sự đáp trả hạt nhân, ở cấp độ chiến thuật, điều này thừa nhận một khả năng chiến tranh vũ trang phối hợp công nghệ cao mà Ấn Độ có thể không có. Ở cấp độ chiến lược, nó giả định rằng Pakixtan sẽ do dự trước khi sử dụng các vũ khí hạt nhân, và khó chịu với truyền thống kiềm chế chiến lược của Ấn Độ. Các quan chức dân sự và các chính trị gia phủ nhận một cách không thuyết phục rằng Khởi đầu Lạnh thậm chí có tồn tại.
Bharat Karnat thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chính sách, một tổ chức tư vấn chiến lược, tin rằng mối nguy hiểm chủ yếu của Pakixtan đối với Ấn Độ với tư cách là một nhà nước thất bại, chứ không phải một kẻ thù quân sự. Ông coi Khởi đầu Lạnh là một “ngơ cụt” phí phạm các nguồn lực quân sự và tài chính vốn nên được sử dụng để ngăn chặn “kẻ bá chủ nguyên thủy”, Trung Quốc. Các nước khác đồng ư. Năm 2009 A. K. Antony, Bộ trưởng Quốc pḥng, nói với các lực lượng vũ trang rằng họ nên coi Trung Quốc thay v́ Pakixtan là mối đe dọa chính đối với an ninh của Ấn Độ và tự triển khai theo đó. Nhưng không nhiều việc đă diễn ra, Ông Karnad nhận thấy đường lối chiến lược dân sự yếu kém kết hợp với chủ nghĩa bảo thủ bẩm sinh của quân đội ngăn Ấn Độ làm những việc mà nước này cần phải thực hiện.
“Đường kiểm soát thực tế” giữa Trung Quốc và Ấn Độ ở Arunachal Pradesh, nơi Trung Quốc gọi là Nam Tây Tạng, không căng thẳng như ở Casơmia. Các cuộc đối thoại giữa hai nước nhằm giải quyết vấn đề biên giới đă diễn ra trong 10 năm và trải qua 15 ṿng. Trong các tuyên bố chính thức, cả hai bên nhấn mạnh rằng tranh chấp không ngăn cản mối quan hệ đối tác nhằm theo đuổi các mục tiêu khác.
Nhưng khó có thể phớt lờ tốc độ đầu tư quân sự ở phía Trung Quốc của đường kiểm soát. Thiếu tướng Gurmeet Kanwal thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến tranh Mặt đất chỉ rơ việc xây dựng các đường ray mới, 58.000 km đường dùng trong mọi thời tiết, 5 căn cứ không quân, các trung tâm tiếp tế và các điêm liên lạc. Theo ông Karnad, Trung Quốc sẽ có thể tấn công bằng sức mạnh và tốc độ nếu họ quyết định chiếm phần lănh thổ do Ấn Độ kiểm soát mà họ tuyên bố là của ḿnh. Ông cho rằng quân đội Ấn Độ, quen với kế hoạch “phản ứng thụ động” khi đối phó với Trung Quốc, đă tự tước đi của ḿnh những phương tiện để phát động một cuộc phản công.
Không thể sánh được với sức mạnh của Trung Quốc trên đất liền, một lựa chọn thay thế có thể là đáp trả trên biển. Một đ̣n đáp trả như vậy đă được lưu truyền trong một tài liệu chiến lược bán chính thức gọi là “Không liên kết 2.0”, do một số cựu cố vấn an ninh quốc gia thúc đẩy vào năm 2012 và được cố vấn an ninh đương nhiệm, Shivshankar Menon, ủng hộ. Chẳng hạn, lợi thế hải quân của Ấn Độ có thể cho phép nước này ngăn cản vận chuyển dầu mỏ đến Trung Quốc qua Eo biển Malacca.
Trung Quốc và Ấn Độ đều đang nhanh chóng phát triển hải quân của ḿnh từ các lực lượng pḥng thủ bờ biển thành những công cụ có thể triển khai sức mạnh xa hơn ngoài mặt trận; trong thập kỷ này, mỗi nước mong đợi sẽ có 3 nhóm tàu sân bay tác chiến. Một số chiến lược gia Ấn Độ tin rằng khi Trung Quốc mở rộng tầm với của ḿnh ra Ấn Độ Dương để bảo vệ quyền tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên, hải quân của hai nước có khả năng đụng độ như lục quân của họ.
Trên biển
Hải quân Trung Quốc đang mở rộng với tốc độ rất nhanh mà Ấn Độ không thể sánh kịp – vào năm 2020 nước này được cho là sẽ có 73 tàu chiến lớn và 78 tàu ngầm, 12 trong số đó là tàu hạt nhân – nhưng các thủy thủ của Ấn Độ có tŕnh độ cao. Họ đă vận hành một tàu sân bay kể từ những năm 1960, trong khi Trung Quốc hiện giờ mới chỉ bắt đầu tham gia cuộc chơi. Ấn Độ lo sợ việc Trung Quốc phát triển các cơ sở tại những cảng biển ở Pakixtan, Xri Lanca, Bănglađét và Mianma – cái gọi là “chuỗi ngọc trai” xung quanh đại dương mang tên của Ấn Độ; ông Antony đă gọi thông báo vào tháng 2/2013 rằng một công ty Trung Quốc sẽ điều hành cảng Gwadar của Pakixtan là “một vấn đề đáng lo ngại”. Trung Quốc nhận thấy một mối đe dọa trong các mối quan hệ hải quân đang phát triển của Ấn Độ với Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản và nhất là Mỹ. Ấn Độ hiện tiến hành nhiều cuộc tập trận hải quân với Mỹ hơn bất kỳ nước nào khác.