vuitoichat
07-10-2013, 20:24
Quyền sử dụng đất đai là một hình thức sở hữu hạn chế đối với đất đai
> Quá trình phát triển chế độ sở hữu chung về đất đai (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=663 764)
Sự hình thành và phát triển chế độ sở hữu tư nhân về đất đai.
http://iyouphim.com/forum/attachment.php?attac hmentid=230020&stc=1&d=1373487755
Cưỡng chế, cướp đoạt bằng những hình thức khác nhau là nguồn gốc của chế độ sở hữu tư nhân về đất đai. (Ảnh minh họa)
Chế độ sở hữu tư nhân hình thành từ sự chiếm đoạt, bóc lột tài sản thuộc sở hữu chung của cộng đồng. Có thể dẫn ra ba giai đoạn chủ yếu :
- Đến giai đoạn tan rã của xã hội cộng đồng nguyên thủy, các chức sắc được cộng đồng bầu ra để thực hiện việc quản lý một số công việc chung của cộng đồng đã lạm dụng quyền lực được giao để chiếm đoạt tài sản chung của cộng đồng, hình thành chế độ sở hữu tư nhân. Quá trình này đã được F. Ăng ghen mô tả trong tác phẩm CHỐNG DUHRING (phần thứ hai, mục II-IV) chỉ ra quá trình thay đổi vị thế của các chức sắc này là quá trình “biến người đày tớ thành người chủ của cộng đồng”.
- Liên hệ đến lịch sử cận đại thì cũng có thể khẳng định là chế độ sở hữu tư nhân về đất đai hiện nay tại Châu Mỹ có nguồn gốc từ việc chế độ thực dân của các nước châu Âu đã cướp bóc đất thuộc sở hữu cộng đồng của các bộ tộc thổ dân châu Mỹ để chuyển thành đất thuộc sở hữu tư nhân của người da trắng.
- Tại Việt nam, lịch sử cận đại cũng cho thấy rõ việc hình thành chế độ sở hữu tư nhân về đất đai của các thực dân Pháp cũng như của các địa chủ, cường hào bắt nguồn từ sự cưỡng bức, cướp đoạt bằng nhiều hình thức khác nhau.
Nhìn chung lại, có thể khẳng định cưỡng chế, cướp đoạt bằng những hình thức khác nhau là nguồn gốc của chế độ sở hữu tư nhân về đất đai. Đất đai mà dân tộc chúng ta đang hưởng là thành quả đấu tranh khai phá và bảo vệ của hàng ngàn thế hệ, tuy đã bị giai cấp thống trị chiếm đoạt dưới nhiều hình thức khác nhau để hình thành chế độ sở hữu tư nhân nhưng vẫn duy trì hình thức sở hữu công, tuy chiếm một tỷ trọng nhỏ, như đã trình bày ở trên. Do đó, việc thu hồi đất đã bị giai cấp thống trị chiếm đoạt suốt cả một thời kỳ lịch sử dài để khôi phục lại chế độ sở hữu chung, xác lập chế độ sở hữu toàn dân là một điều có cơ sở lịch sử của nó chứ không phải là hành vi kiên cưỡng.
Quyền sử dụng đất đai là một hình thức sở hữu hạn chế đối với đất đai
Đất, cũng như các tài sản khác, phải được giao cho những đối tượng cụ thể quản lý, sử dụng và khai thác. Từ đó hình thành việc giao quyền sử dụng đất cho nông dân (gắn với một số quyền định đoạt) đã được xác lập từ năm 1988, qua việc thực hiện Nghị quyết 10/NQ/TƯ (được quen gọi là khoán 10). Vấn đề này liên quan đến nhận thức về hàng hóa-quyền sử dụng đất nói riêng, quyền sử dụng tài sản nói chung. Lần đầu tiên vấn đề coi quyền sử dụng đất là một loại hàng hóa được ĐH IX ghi nhận khi xác định Hình thành và phát triển thị trường bất động sản, bao gồm cả quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật (Văn kiện ĐH IX, tr 101, 192, 324). Về phương diện này cần lưu ý là:
- Hàng hóa-quyền sử dụng tài sản đã xuất hiện từ dưới chế độ xã hội nô lệ, tối thiểu dưới hình thức tín dụng với việc mua-bán quyền sử dụng tiền chứ không phải mua-bán quyền sở hữu tiền. Lãi suất là giá cả là giá mua bán quyền sử dụng tiền và đến nay, việc mua bán quyền sử dụng tiền vẫn là một hoạt động kinh doanh phổ biến trên thế giới. Từ chế độ nô lệ tới này, hàng hóa-quyền sử dụng tài sản đã ngày càng mở rộng về diện và quy mô. Trên thị trường lao động, hàng hóa được lưu hành đã chuyển từ mua bán sức lao động của chế độ nô lệ thành mua bán quyền sử dụng sức lao động, thông qua hình thức thuê mướn lao động. Tiền lương, tiền công là giá cả của quyền sử dụng sử dụng sức lao động. Trên thị trường lao động, hàng hóa quyền sử dụng lao động trí óc cũng là một quyền được pháp luật bảo hộ qua việc ký kết các hợp động sử dụng tác phẩm.
Trên thị trường bất động sản, việc mua bán quyền sử dụng ruộng đất được thể hiện dưới hình thức phát canh-thu tô. Giá cả của quyền sử dụng đất là mức tô mà người nhận quyền sử dụng ruộng để canh tác phải trả cho chủ ruộng. Hình thức thuê nhà cũng là biểu hiện cụ thể của việc mua bán quyền sử dụng nhà và giá thuê nhà chính là giá mua bán quyền sử dụng nhà. Thực tế đó đã dẫn đến việc luật hóa mối quan hệ giao dịch mua-bán quyền sử dụng tài sản trong các Bộ Luật dân sự của tất cả các nước, trong đó có Luật dân sự Việt nam.
- Quan điểm đòi coi việc giao quyền sử dụng tài sản là sự đồng nhất với việc giao quyền sở hữu tài sản có nguyên nhân xuất phát từ vận dụng Luật La mã trong đó xác định quyền sở hữu tài sản gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Cách lập luận đó đã bỏ qua một thực tế cũng đã xuất hiện ngay từ dưới chế độ xã hội nô lệ là quan hệ mua-bán hàng hóa quyền sử dụng tài sản cũng bao hàm việc chuyển giao quyền định đoạt kèm theo, tổi thiểu là quyền thừa kế. ….
Do đó trong việc mua-bán quyền sử dụng tiền nếu người vay tiền chết trước khi trả nợ thì người thừa kế vẫn phải chịu trách nhiệm thanh toán số tiền vay đó cho chủ nợ. Trong thực tế đời sống kinh tế, mối quan hệ giữa hàng hóa quyền sử dụng tài sản vẫn gắn liền với một số quyền định đoạt và, trong chừng mực nhất định, được thể hiện trong nội dung các bản hợp đồng giao dịch mua-bán quyền sử dụng tài sản. Nói cách khác, người chủ sở hữu, khi thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, có quyền giao quyền sử dụng tài sản của mình bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hình thức giao bán quyền sử dụng tài sản đó. Trong hoàn cảnh đó, người mua quyền sử dụng trở thành ngưới có quyền chiếm hữu loại tài sản đặc biệt là quyền sử dụng tài sản đã mua được. Từ thực tế đó, ngay giới luật gia trên thế giới cũng xác nhận việc người mua quyền sử dụng tài sản cũng có một số quyền định đoạt là thể hiện chế độ sở hữu hạn chế.
- Trong dự thảo hiến pháp 2013, chế độ sở hữu hạn chế được gián tiếp thể hiện tại điều 58, khoản 2 với quy định Quyền sử dụng đất là quyền tải sản được pháp luật bảo hộ. Do đó, chế độ đa sở hữu, cụ thể là chế độ sở hữu tư nhân đối với đất đai được thể hiện dưới hình thức sở hữu hạn chế đối với quyền sử dụng đất chứ không phải đối với quyền sở hữu tư nhân đối với đất. Do đó, phải chăng việc xuất hiện quan điểm đòi phải giao quyền sở hữu đất cho tư nhân còn mang tính chất thể hiện một khía cạnh cụ thể của xu thế phản đối chế độ sở hữu toàn dân.
Nguồn: N.Lang/ Tamnhin
> Quá trình phát triển chế độ sở hữu chung về đất đai (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=663 764)
Sự hình thành và phát triển chế độ sở hữu tư nhân về đất đai.
http://iyouphim.com/forum/attachment.php?attac hmentid=230020&stc=1&d=1373487755
Cưỡng chế, cướp đoạt bằng những hình thức khác nhau là nguồn gốc của chế độ sở hữu tư nhân về đất đai. (Ảnh minh họa)
Chế độ sở hữu tư nhân hình thành từ sự chiếm đoạt, bóc lột tài sản thuộc sở hữu chung của cộng đồng. Có thể dẫn ra ba giai đoạn chủ yếu :
- Đến giai đoạn tan rã của xã hội cộng đồng nguyên thủy, các chức sắc được cộng đồng bầu ra để thực hiện việc quản lý một số công việc chung của cộng đồng đã lạm dụng quyền lực được giao để chiếm đoạt tài sản chung của cộng đồng, hình thành chế độ sở hữu tư nhân. Quá trình này đã được F. Ăng ghen mô tả trong tác phẩm CHỐNG DUHRING (phần thứ hai, mục II-IV) chỉ ra quá trình thay đổi vị thế của các chức sắc này là quá trình “biến người đày tớ thành người chủ của cộng đồng”.
- Liên hệ đến lịch sử cận đại thì cũng có thể khẳng định là chế độ sở hữu tư nhân về đất đai hiện nay tại Châu Mỹ có nguồn gốc từ việc chế độ thực dân của các nước châu Âu đã cướp bóc đất thuộc sở hữu cộng đồng của các bộ tộc thổ dân châu Mỹ để chuyển thành đất thuộc sở hữu tư nhân của người da trắng.
- Tại Việt nam, lịch sử cận đại cũng cho thấy rõ việc hình thành chế độ sở hữu tư nhân về đất đai của các thực dân Pháp cũng như của các địa chủ, cường hào bắt nguồn từ sự cưỡng bức, cướp đoạt bằng nhiều hình thức khác nhau.
Nhìn chung lại, có thể khẳng định cưỡng chế, cướp đoạt bằng những hình thức khác nhau là nguồn gốc của chế độ sở hữu tư nhân về đất đai. Đất đai mà dân tộc chúng ta đang hưởng là thành quả đấu tranh khai phá và bảo vệ của hàng ngàn thế hệ, tuy đã bị giai cấp thống trị chiếm đoạt dưới nhiều hình thức khác nhau để hình thành chế độ sở hữu tư nhân nhưng vẫn duy trì hình thức sở hữu công, tuy chiếm một tỷ trọng nhỏ, như đã trình bày ở trên. Do đó, việc thu hồi đất đã bị giai cấp thống trị chiếm đoạt suốt cả một thời kỳ lịch sử dài để khôi phục lại chế độ sở hữu chung, xác lập chế độ sở hữu toàn dân là một điều có cơ sở lịch sử của nó chứ không phải là hành vi kiên cưỡng.
Quyền sử dụng đất đai là một hình thức sở hữu hạn chế đối với đất đai
Đất, cũng như các tài sản khác, phải được giao cho những đối tượng cụ thể quản lý, sử dụng và khai thác. Từ đó hình thành việc giao quyền sử dụng đất cho nông dân (gắn với một số quyền định đoạt) đã được xác lập từ năm 1988, qua việc thực hiện Nghị quyết 10/NQ/TƯ (được quen gọi là khoán 10). Vấn đề này liên quan đến nhận thức về hàng hóa-quyền sử dụng đất nói riêng, quyền sử dụng tài sản nói chung. Lần đầu tiên vấn đề coi quyền sử dụng đất là một loại hàng hóa được ĐH IX ghi nhận khi xác định Hình thành và phát triển thị trường bất động sản, bao gồm cả quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật (Văn kiện ĐH IX, tr 101, 192, 324). Về phương diện này cần lưu ý là:
- Hàng hóa-quyền sử dụng tài sản đã xuất hiện từ dưới chế độ xã hội nô lệ, tối thiểu dưới hình thức tín dụng với việc mua-bán quyền sử dụng tiền chứ không phải mua-bán quyền sở hữu tiền. Lãi suất là giá cả là giá mua bán quyền sử dụng tiền và đến nay, việc mua bán quyền sử dụng tiền vẫn là một hoạt động kinh doanh phổ biến trên thế giới. Từ chế độ nô lệ tới này, hàng hóa-quyền sử dụng tài sản đã ngày càng mở rộng về diện và quy mô. Trên thị trường lao động, hàng hóa được lưu hành đã chuyển từ mua bán sức lao động của chế độ nô lệ thành mua bán quyền sử dụng sức lao động, thông qua hình thức thuê mướn lao động. Tiền lương, tiền công là giá cả của quyền sử dụng sử dụng sức lao động. Trên thị trường lao động, hàng hóa quyền sử dụng lao động trí óc cũng là một quyền được pháp luật bảo hộ qua việc ký kết các hợp động sử dụng tác phẩm.
Trên thị trường bất động sản, việc mua bán quyền sử dụng ruộng đất được thể hiện dưới hình thức phát canh-thu tô. Giá cả của quyền sử dụng đất là mức tô mà người nhận quyền sử dụng ruộng để canh tác phải trả cho chủ ruộng. Hình thức thuê nhà cũng là biểu hiện cụ thể của việc mua bán quyền sử dụng nhà và giá thuê nhà chính là giá mua bán quyền sử dụng nhà. Thực tế đó đã dẫn đến việc luật hóa mối quan hệ giao dịch mua-bán quyền sử dụng tài sản trong các Bộ Luật dân sự của tất cả các nước, trong đó có Luật dân sự Việt nam.
- Quan điểm đòi coi việc giao quyền sử dụng tài sản là sự đồng nhất với việc giao quyền sở hữu tài sản có nguyên nhân xuất phát từ vận dụng Luật La mã trong đó xác định quyền sở hữu tài sản gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Cách lập luận đó đã bỏ qua một thực tế cũng đã xuất hiện ngay từ dưới chế độ xã hội nô lệ là quan hệ mua-bán hàng hóa quyền sử dụng tài sản cũng bao hàm việc chuyển giao quyền định đoạt kèm theo, tổi thiểu là quyền thừa kế. ….
Do đó trong việc mua-bán quyền sử dụng tiền nếu người vay tiền chết trước khi trả nợ thì người thừa kế vẫn phải chịu trách nhiệm thanh toán số tiền vay đó cho chủ nợ. Trong thực tế đời sống kinh tế, mối quan hệ giữa hàng hóa quyền sử dụng tài sản vẫn gắn liền với một số quyền định đoạt và, trong chừng mực nhất định, được thể hiện trong nội dung các bản hợp đồng giao dịch mua-bán quyền sử dụng tài sản. Nói cách khác, người chủ sở hữu, khi thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, có quyền giao quyền sử dụng tài sản của mình bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hình thức giao bán quyền sử dụng tài sản đó. Trong hoàn cảnh đó, người mua quyền sử dụng trở thành ngưới có quyền chiếm hữu loại tài sản đặc biệt là quyền sử dụng tài sản đã mua được. Từ thực tế đó, ngay giới luật gia trên thế giới cũng xác nhận việc người mua quyền sử dụng tài sản cũng có một số quyền định đoạt là thể hiện chế độ sở hữu hạn chế.
- Trong dự thảo hiến pháp 2013, chế độ sở hữu hạn chế được gián tiếp thể hiện tại điều 58, khoản 2 với quy định Quyền sử dụng đất là quyền tải sản được pháp luật bảo hộ. Do đó, chế độ đa sở hữu, cụ thể là chế độ sở hữu tư nhân đối với đất đai được thể hiện dưới hình thức sở hữu hạn chế đối với quyền sử dụng đất chứ không phải đối với quyền sở hữu tư nhân đối với đất. Do đó, phải chăng việc xuất hiện quan điểm đòi phải giao quyền sở hữu đất cho tư nhân còn mang tính chất thể hiện một khía cạnh cụ thể của xu thế phản đối chế độ sở hữu toàn dân.
Nguồn: N.Lang/ Tamnhin