Hanna
08-05-2013, 18:15
Trong suốt giai đoạn từ năm 1964-1974 trong các khu vực trinh sát các hoạt động tác chiến của Mỹ ở Việt Nam, đơn vị OSNAZ đă có 17 tàu trinh sát của hải đoàn hoạt động, tiến hành 94 chuyến hải hành với thời gian mỗi chuyến từ 3 – 4 tháng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước Việt Nam đă nhận được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô. Gần như mỗi tuần từ các bến tàu của hải cảng Vladivostok hướng đến cảng Hải Pḥng các tàu vận tải của hăng vận tải Viễn Đông chở đầy vũ khí,trang thiết bị quân sự và hàng hóa khác. Việt Nam nhận được các máy bay chiến đấu Liên Xô, các tổ hợp tên lửa pḥng không và tên lửa, pháo pḥng không các loại. Do Liên Xô tuyên bố chính thức không tham gia trực tiếp cuộc chiến nên các tàu vận tải dân sự Xô Viết không được trang bị vũ khí pḥng không, các tàu vận tải chỉ được bảo vệ bằng quốc kỳ Liên Xô, được vẽ rất to trên boong tàu. Tất nhiên, các phi công Mỹ buộc phải nh́n thấy khi tấn công và phong tỏa Hải Pḥng.
Trong t́nh huống chiến tranh phức tạp và nguy hiểm như vậy, hiệp đồng tác chiến với lực lượng pḥng không Việt Nam là lực lượng trinh sát điện tử trên biển của Hải quân Liên Xô, nhiệm vụ nặng nề này được giao cho lực lượng Hạm đội Thái B́nh Dương. Trước khi không quân Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại, hệ thống trinh sát ven biển và hệ thống trinh sát hạm đội nhận nhiệm vụ chung là nắm bắt t́nh h́nh chiến sự tại khu vực Vịnh Bắc Bộ, tập trung chủ yếu vào mục đích phát hiện kịp thời những hoạt động chuẩn bị chiến tranh của Mỹ chống Việt Nam. Từ những tin tức t́nh báo thu được, Bộ tổng tham mưu lực lượng vũ trang Xô Viết quyết định triển khai sớm lực lượng trinh sát trên biển của Hạm đội Thái B́nh Dương. Quyết định này đă đóng góp một phần rất lớn cho việc làm rơ các t́nh huống sự kiện Vịnh Bắc bộ đồng thời cung cấp kịp thời những thông tin trinh sát các hoạt động của hạm đội 7 Mỹ trên biển Đông.
Thời gian này, các tàu trinh sát đang nằm trong biên chế của tiểu đoàn trinh sát điện tử số 169 OSNAZ và neo đậu tại bến tàu số 37 tại Vladivostok, gần tượng đài Nevelsky. Tiểu đoàn trường đại úy hạng II A.I. Procenko, sau đó là đại úy hạng II Plotkin. Đây là những chiếc tàu đánh cá loại nhỏ và vừa, được lắp đặt dày đặc bên trong đủ các loại trang thiết bị khí tài trinh sát điện tử. Tiến hành các hoạt động trinh sát là các chiến sĩ đặc nhiệm của đơn vị hải quân tác chiến điện tử (OMRTO).
Nhóm trinh sát điện tử trên biển có khoảng 20 người với các bộ khí tài biên chế có khả năng bắt được hầu hết tất cả các loại phương tiện và các phương pháp thông tin liên lạc, theo dơi các đường dây thông tin liên lạc, tiến hành trinh sát và phát hiện các đài thu phát radars đối phương. Các chuyên gia trinh sát điện tử phải nh́n và phát hiện chính xác bằng mắt thường tất cả các mục tiêu di động trên biển và trên không theo h́nh dáng của nó. Trong biên chế, các tàu trinh sát điện tử này trực thuộc lực lượng hải quân Xô Viết, quân nhân được mặc thường phục. Điều đó đă làm lên huyền thoại của đơn vị trinh sát. Các tàu trinh sát thường ra khơi rất bí mật, vào những đêm tối trời và quay về căn cứ cũng tương tự như vậy. Các tàu neo đậu yên lặng ở bến tàu số 37 và không gây bất kỳ một sự chú ư nào của mọi người.
Lực lượng đặc nhiệm trên Biển Đông
Những năm đầu của cuộc chiến tranh chống Mỹ ở Việt Nam đă khẳng định tính ưu việt và hiệu quả rất cao của trinh sát điện tử trên biển. Những thông tin nhận được của trinh sát điện tử trên biển rất đầy đủ và có giá trị rất cao, vượt xa các nguồn thông tin trinh sát t́nh báo khác. Hơn nữa, các thông tin t́nh báo và trinh sát điện tử thu được rất kịp thời. Hoàn toàn trong thời gian thực, hàng ngày Bộ tham mưu hạm đội Thái B́nh Dương, Cục t́nh báo lực lượng vũ trang Liên Xô nhận được các tin tức trinh sát ngay trong vùng chiến sự trên biển Đông.
Tương tự như ngày nay chúng ta xem chương tŕnh TV “Vremia – Time”. Tất cả có được là nhờ công sức và sự cố gắng vô tận của đại úy hạng 1 N.P.Sotnhicov (sau này là chuẩn đô đốc hải quân Liên bang) chỉ huy trưởng lực lượng trinh sát và t́nh báo hạm đội Thái B́nh Dương. Ông đă nỗ lực rất nhiều để tăng cường năng lực hoạt động của đơn vị t́nh báo – trinh sát trên biển, theo yêu cầu bức thiết của t́nh h́nh. Trong những t́nh huống đó, kể cả có va chạm với các lănh đạo quân sự cao cấp của Liên bang, ông cũng kiên quyết đấu tranh để đạt được quyết định biên chế tổ chức trong lực lượng Hải quân Xô viết cụm tàu t́nh báo – trinh sát đặc nhiệm trên biển.
Ngày 1.10.1969 tại căn cứ của đơn vị hải quân tác chiến điện tử (OMRTO) số 19, trong biên chế có tiểu đoàn độc lập 169 OSNAZ đă thành lập hải đoàn trinh sát điện tử OSNAZ thuộc hạm đội Thái B́nh Dương, trong biên chế của Hải đoàn có 15 tàu trinh sát biển, 19 phân đội trinh sát điện tử và radar với 10 nhóm trinh sát cơ động OSNAZ và 203 căn cứ bí mật trên bờ biển. Trong biên chế củgy", "Aneroid", "Kursograf", "Izmeritel", "Protractor", "Ammeter", "Barograph", "Hydrophone", "Deflector" "Kirby" "Ungo" "Usach".
Theo tên gọi th́ đó hoàn toàn là các tàu đo đạc, theo dơi thủy văn môi trường. Chỉ huy trưởng của hải đoàn là đại úy – thuyền trưởng hạng 1 Dmitry Timofeevich Lukash, đă từng tham gia Chiến tranh thế giới thứ II. Nhờ những nỗ lực và sự cố gắng của ông, hải đoàn trở thành trường học nghiêm khắc và tài năng thật sự cho các sĩ quan chỉ huy lực lượng t́nh báo – trinh sát của Hải quân và Hạm đội, các hải đoàn trưởng, các thuyền trưởng và các phân đội trinh sát. Nhiều người đă trải qua các thử thách khốc liệt trong chiến tranh Việt Nam.Trong giai đoạn từ ngày 4/1964 đến 31/12/1974, các tàu trinh sát hải quân Xô Viết hoạt động chủ yếu trong khu vực biển Đông, Vịnh Bắc bộ và khu vực quanh căn cứ Guam của Mỹ, ngoài những nhiệm vụ t́nh báo quân sự, các tàu trinh sát đă tiến hành các hoạt động trinh sát nhằm cung cấp thông tin chiến dịch, chiến thuật của không quân hải quân Mỹ cho các lực lượng pḥng không Việt Nam và lực lượng pḥng thủ bờ biển Miền Bắc Việt Nam. Những nhiệm vụ chủ yếu là:
- Trực tiếp theo dơi các cụm máy bay tấn công của không quân hải quân Mỹ, xác định khu vực máy bay Mỹ sẽ tiến hành các hoạt động tập kích đường không;
- Cảnh báo sớm bộ tổng tư lệnh lực lượng Hải quân Liên Xô và hạm đội Thái B́nh Dương về sự chuẩn bị các đợt không kích, thời gian cất cánh của các không đoàn máy bay hải quân Mỹ trên tàu sân bay vào miền Bắc Việt Nam.
- Phát hiện và làm rơ các thủ đoạn chiến thuật mà các không đoàn hải quân Mỹ sẽ sử dụng để không kích miền Bắc cũng như các tuyến đường cơ động của các chiến hạm Mỹ khi tiến hành phong tỏa Vịnh Bắc Bộ.
Các tàu trinh sát hoạt động trên khoảng 3 dặm cách vịnh Apra thuộc đảo Guam, nơi có căn cứ đóng quân của hải đoàn tàu ngầm hạt nhân Mỹ mang tên lửa đạn đạo "Polaris-Poseidon", ngoài những nhiệm vụ chính là theo dơi hoạt động của các tàu ngầm chiến lược mang tên lửa, c̣n thực hiện nhiệm vụ phát hiện các chuyến bay của máy bay B-52, mục tiêu tác chiến của chúng từ căn cứ không quân Andersen và theo dơi các đợt không kích của B-52 vào các mục tiêu đang nằm trên lănh thổ Việt Nam. Thời gian bay của các máy bay B-52 thông thường kéo dài 6 giờ bay, đến thời điểm đó, các hệ thống pḥng không Việt Nam đă được cảnh báo theo đường thông tin liên lạc khẩn cấp và trực 24/24 từ tàu trinh sát thông qua Bộ tổng tham mưu quân đội Xô Viết và truyền đến các đơn vị pḥng không – không quân Việt Nam.Trong suốt giai đoạn từ năm 1964-1974 trong các khu vực trinh sát các hoạt động tác chiến của Mỹ ở Việt Nam, đơn vị OSNAZ đă có 17 tàu trinh sát của hải đoàn hoạt động, tiến hành 94 chuyến hải hành với thời gian mỗi chuyến từ 3 – 4 tháng.
Nhiệm vụ thành công đầu tiên của các tàu trinh sát thực hiện là vào ngày 2/8/1964 trong cái gọi là “sự kiện Vịnh Bắc bộ”. Trong sự kiện này, các chiến hạm của hạm đội 7 đă xâm phạm vùng lănh hải của nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa với mục đích khiêu khích, nhằm đánh lừa dư luận nước Mỹ và thế giới, đồng thời tạo cớ mở rộng cuộc chiến, tiến hành các hoạt động đánh phá miền Bắc Việt Nam. Để lừa dối công luận, Mỹ đă đưa ra những bằng chứng khẳng định rằng các tàu phóng ngư lôi của Việt Nam đă tấn công tàu khu trục Maddox của Mỹ trên vùng biển quốc tế. Việt Nam kiên quyết bác bỏ lời cáo buộc này. Bộ tổng tham mưu liên quân Mỹ và bộ tư lệnh hải quân Mỹ cũng nghi ngờ về điều này.
Lúc đó từ tàu trinh sát "Protraktorv" (thuyền trưởng đại úy hạng 3 N.P. Fadeev, chỉ huy trưởng nhóm OSNAZ trung úy V.I. Levushkin) đă gửi báo cáo chính xác tọa độ và quỹ đạo hoạt động của tàu Maddox, chứng minh tàu khu trục của Mỹ trong hoạt động trinh sát đă xâm phạm lănh hải Việt Nam. Mặc dù vậy, không quân Mỹ ngày 5.08.1964 vẫn tiến hành cuộc ném bom bắn phá lănh thổ Việt Nam. Ngày 10.10.1964, Quốc hội Mỹ đă thông qua Nghị quyết “Vịnh Bắc bộ” mở đường cho sự can thiệp bằng lực lượng vũ trang. Nghị quyết đă cho phép Tổng thống Lyndon Johnson được quyền sử dụng lực lượng vũ trang Mỹ ở Đông Nam Á, chính thức bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược chống miền Bắc Việt Nam. Nhà nước Liên bang Xô viết dựa trên các bằng chứng đă khẳng định các hoạt động của Mỹ chính xác là một cuộc xâm lược, các bằng chứng sau này đă được công luận Mỹ sử dụng trong các hoạt động chống chiến tranh ở Miền Nam Việt Nam.
Từ thời điểm đó, các tàu trinh sát điện tử đă tiến hành trực chiến trên biển Đông trong suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ của miền Bắc Việt Nam. Khu vực trinh sát chủ yếu là trung tâm các hoạt động tác chiến đường không của cụm tàu sân bay chiến thuật số 77 ( tập đoàn không quân tiến công chủ lực của hạm đội 7 Mỹ), hoặc như lính Mỹ vẫn gọi là "Yankee Station". Các tàu trinh sát của hạm đội Thái B́nh Dương hoạt động ngay gần các tàu chiến Mỹ, thay đổi các tàu trực chiến cũng được thực hiện ngay trong khu vực.
Điều đó trở lên quen thuộc đến nỗi thủy thủ đoàn của Mỹ đưa tàu trinh sát của Liên Xô trở thành một phần không thay đổi của cụm tàu tác chiến chủ lực. Nhiệm vụ chủ yếu của tàu trinh sát lúc này là kịp thời thông báo cho Pḥng không Việt Nam về các đợt tập kích ồ ạt của không quân hải quân Mỹ từ tàu sân bay, theo những thông tin thu thập được từ những kênh thông tin liên lạc của Hải quân Mỹ. Trong thời gian này, trên Biển Đông có khoảng 8 tàu sân bay hoạt động, cụm không quân hải quân công kích chủ lực này có khoảng 150 chiến hạm và tàu hỗ trợ hậu cần kỹ thuật đi cùng.Theo sự mở rộng hoạt động và tăng cường quân số của các tập đoàn quân đội Mỹ trong chiến tranh, nhiệm vụ của lực lượng trinh sát trên biển cũng được mở rộng. Các hải cảng quân sự như Đà Nẵng, Cam Ranh, Nha Trang trở thành những căn cứ quân sự trung chuyển, từ đó các lực lượng bộ binh và lính thủy đánh bộ Mỹ đổ bộ lên lănh thổ miền Nam Việt Nam. V́ vậy, các lực lượng trinh sát điện tử trên biển được tăng cường nhiệm vụ theo dơi các hoạt động triển khai lực lượng của quân đội Mỹ và những chiến dịch do quân đội Mỹ triển khai trên các khu vực thuộc miền Nam Việt Nam.
Đến tháng 2 năm 1968, trên lănh thổ Việt Nam bao gồm cả vùng nước và đất liền tham gia hoạt động tác chiến có 543.000 quân nhân Mỹ tham chiến (hơn 30% quân số của toàn bộ LLVT Mỹ , 40% máy bay cấp chiến thuật, gần 70% lực lượng lĩnh thủy đánh bộ…). Tổng số lực lượng tham chiến của Hạm đội 7 (35.000 người.) lực lượng không quân Mỹ có mặt ở Thái Lan và Guam (45.000 người), quân số của quân đội Mỹ ở khu vực Đông Nam Á lên đến hơn 600.000 người. Cũng theo yêu cầu hiệp đồng tác chiến, trong chiến trường Miền Nam Việt Nam đă lôi kéo thêm các đồng minh khu vực như (Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Australia và New Zealand). Với số lượng không lớn, những cũng tăng cường thêm nhiều năng lực tác chiến của quân đội Mỹ.
Hiệu quả tác chiến cao của lực lượng trinh sát trên biển trong vùng Vịnh Bắc Bộ đă có được một kết quả vô cùng quan trọng. Ngày 28/2/1965 trong thời gian thăm chính thức Việt Nam của Chủ tịch hội đồng Xô Viết tối cao toàn Liên bang ông A.N.Kosygin, phía Việt Nam đă bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc Liên Xô đă cũng cấp kịp thời và chuẩn xác những thông tin cảnh bảo sớm về các cuộc không kích của lực lượng không quân Hải quân và lực lượng Không quân chiến lược – chiến thuật Mỹ. Nhờ có những thông tin cảnh báo sớm mà lực lượng pḥng không Việt Nam có thời gian chuẩn bị, sẵn sàng đánh chặn và phản kích mọi cuộc tập kích đường không. Điều đó giúp cho nhân dân Việt Nam giảm thiểu những tổn thất và lực lượng vũ trang giáng những đ̣n chí mạng vào kẻ thù. Khi A.N.Kosygin quay về sau chuyến thăm, tại Vladivostok đă quan tâm đến vấn đề, bằng cách nào mà lực lượng trinh sát điện tử hạm đội Thái B́nh Dương có thể chi viện thông tin t́nh báo kịp thời cho Việt Nam.
Cục trưởng trinh sát điện tử, chuẩn đô đốc A.N.Sotnikov đă báo cáo chi tiết thống kê các hoạt động và kết quả đạt được của các tàu trực chiến trinh sát điện tử trên Biển Đông và khu vực đảo Guam. Cùng với thời gian tàu trinh sát điện tử "Gidrofon" quay trở về căn cứ ngày 28.02.1965. A.N.Kosygin đă trực tiếp lắng nghe báo cáo của thuyền trưởng trung úy hải quân A.A. Plotnhicov và chỉ huy trưởng nhóm trinh sát điện tử thượng úy V. Danhilov. Lắng nghe báo cáo đồng thời nghe được điều kiện sống và làm việc của thủy thủ đoàn trong thời gian trực tác chiến dài ngày trên biển, A.N.Kosygin đă chỉ thị cho các cơ quan chức năng chuẩn bị Nghị quyết của Hội đồng bộ trưởng Xô viết về hoạt động của các tàu trinh sát điện tử và khẩu phần – quyền lợi đặc biệt của lực lượng khi tiến hành các hoạt động tác chiến trên biển lớn ( Nghị quyết số №433).
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước Việt Nam đă nhận được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô. Gần như mỗi tuần từ các bến tàu của hải cảng Vladivostok hướng đến cảng Hải Pḥng các tàu vận tải của hăng vận tải Viễn Đông chở đầy vũ khí,trang thiết bị quân sự và hàng hóa khác. Việt Nam nhận được các máy bay chiến đấu Liên Xô, các tổ hợp tên lửa pḥng không và tên lửa, pháo pḥng không các loại. Do Liên Xô tuyên bố chính thức không tham gia trực tiếp cuộc chiến nên các tàu vận tải dân sự Xô Viết không được trang bị vũ khí pḥng không, các tàu vận tải chỉ được bảo vệ bằng quốc kỳ Liên Xô, được vẽ rất to trên boong tàu. Tất nhiên, các phi công Mỹ buộc phải nh́n thấy khi tấn công và phong tỏa Hải Pḥng.
Trong t́nh huống chiến tranh phức tạp và nguy hiểm như vậy, hiệp đồng tác chiến với lực lượng pḥng không Việt Nam là lực lượng trinh sát điện tử trên biển của Hải quân Liên Xô, nhiệm vụ nặng nề này được giao cho lực lượng Hạm đội Thái B́nh Dương. Trước khi không quân Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại, hệ thống trinh sát ven biển và hệ thống trinh sát hạm đội nhận nhiệm vụ chung là nắm bắt t́nh h́nh chiến sự tại khu vực Vịnh Bắc Bộ, tập trung chủ yếu vào mục đích phát hiện kịp thời những hoạt động chuẩn bị chiến tranh của Mỹ chống Việt Nam. Từ những tin tức t́nh báo thu được, Bộ tổng tham mưu lực lượng vũ trang Xô Viết quyết định triển khai sớm lực lượng trinh sát trên biển của Hạm đội Thái B́nh Dương. Quyết định này đă đóng góp một phần rất lớn cho việc làm rơ các t́nh huống sự kiện Vịnh Bắc bộ đồng thời cung cấp kịp thời những thông tin trinh sát các hoạt động của hạm đội 7 Mỹ trên biển Đông.
Thời gian này, các tàu trinh sát đang nằm trong biên chế của tiểu đoàn trinh sát điện tử số 169 OSNAZ và neo đậu tại bến tàu số 37 tại Vladivostok, gần tượng đài Nevelsky. Tiểu đoàn trường đại úy hạng II A.I. Procenko, sau đó là đại úy hạng II Plotkin. Đây là những chiếc tàu đánh cá loại nhỏ và vừa, được lắp đặt dày đặc bên trong đủ các loại trang thiết bị khí tài trinh sát điện tử. Tiến hành các hoạt động trinh sát là các chiến sĩ đặc nhiệm của đơn vị hải quân tác chiến điện tử (OMRTO).
Nhóm trinh sát điện tử trên biển có khoảng 20 người với các bộ khí tài biên chế có khả năng bắt được hầu hết tất cả các loại phương tiện và các phương pháp thông tin liên lạc, theo dơi các đường dây thông tin liên lạc, tiến hành trinh sát và phát hiện các đài thu phát radars đối phương. Các chuyên gia trinh sát điện tử phải nh́n và phát hiện chính xác bằng mắt thường tất cả các mục tiêu di động trên biển và trên không theo h́nh dáng của nó. Trong biên chế, các tàu trinh sát điện tử này trực thuộc lực lượng hải quân Xô Viết, quân nhân được mặc thường phục. Điều đó đă làm lên huyền thoại của đơn vị trinh sát. Các tàu trinh sát thường ra khơi rất bí mật, vào những đêm tối trời và quay về căn cứ cũng tương tự như vậy. Các tàu neo đậu yên lặng ở bến tàu số 37 và không gây bất kỳ một sự chú ư nào của mọi người.
Lực lượng đặc nhiệm trên Biển Đông
Những năm đầu của cuộc chiến tranh chống Mỹ ở Việt Nam đă khẳng định tính ưu việt và hiệu quả rất cao của trinh sát điện tử trên biển. Những thông tin nhận được của trinh sát điện tử trên biển rất đầy đủ và có giá trị rất cao, vượt xa các nguồn thông tin trinh sát t́nh báo khác. Hơn nữa, các thông tin t́nh báo và trinh sát điện tử thu được rất kịp thời. Hoàn toàn trong thời gian thực, hàng ngày Bộ tham mưu hạm đội Thái B́nh Dương, Cục t́nh báo lực lượng vũ trang Liên Xô nhận được các tin tức trinh sát ngay trong vùng chiến sự trên biển Đông.
Tương tự như ngày nay chúng ta xem chương tŕnh TV “Vremia – Time”. Tất cả có được là nhờ công sức và sự cố gắng vô tận của đại úy hạng 1 N.P.Sotnhicov (sau này là chuẩn đô đốc hải quân Liên bang) chỉ huy trưởng lực lượng trinh sát và t́nh báo hạm đội Thái B́nh Dương. Ông đă nỗ lực rất nhiều để tăng cường năng lực hoạt động của đơn vị t́nh báo – trinh sát trên biển, theo yêu cầu bức thiết của t́nh h́nh. Trong những t́nh huống đó, kể cả có va chạm với các lănh đạo quân sự cao cấp của Liên bang, ông cũng kiên quyết đấu tranh để đạt được quyết định biên chế tổ chức trong lực lượng Hải quân Xô viết cụm tàu t́nh báo – trinh sát đặc nhiệm trên biển.
Ngày 1.10.1969 tại căn cứ của đơn vị hải quân tác chiến điện tử (OMRTO) số 19, trong biên chế có tiểu đoàn độc lập 169 OSNAZ đă thành lập hải đoàn trinh sát điện tử OSNAZ thuộc hạm đội Thái B́nh Dương, trong biên chế của Hải đoàn có 15 tàu trinh sát biển, 19 phân đội trinh sát điện tử và radar với 10 nhóm trinh sát cơ động OSNAZ và 203 căn cứ bí mật trên bờ biển. Trong biên chế củgy", "Aneroid", "Kursograf", "Izmeritel", "Protractor", "Ammeter", "Barograph", "Hydrophone", "Deflector" "Kirby" "Ungo" "Usach".
Theo tên gọi th́ đó hoàn toàn là các tàu đo đạc, theo dơi thủy văn môi trường. Chỉ huy trưởng của hải đoàn là đại úy – thuyền trưởng hạng 1 Dmitry Timofeevich Lukash, đă từng tham gia Chiến tranh thế giới thứ II. Nhờ những nỗ lực và sự cố gắng của ông, hải đoàn trở thành trường học nghiêm khắc và tài năng thật sự cho các sĩ quan chỉ huy lực lượng t́nh báo – trinh sát của Hải quân và Hạm đội, các hải đoàn trưởng, các thuyền trưởng và các phân đội trinh sát. Nhiều người đă trải qua các thử thách khốc liệt trong chiến tranh Việt Nam.Trong giai đoạn từ ngày 4/1964 đến 31/12/1974, các tàu trinh sát hải quân Xô Viết hoạt động chủ yếu trong khu vực biển Đông, Vịnh Bắc bộ và khu vực quanh căn cứ Guam của Mỹ, ngoài những nhiệm vụ t́nh báo quân sự, các tàu trinh sát đă tiến hành các hoạt động trinh sát nhằm cung cấp thông tin chiến dịch, chiến thuật của không quân hải quân Mỹ cho các lực lượng pḥng không Việt Nam và lực lượng pḥng thủ bờ biển Miền Bắc Việt Nam. Những nhiệm vụ chủ yếu là:
- Trực tiếp theo dơi các cụm máy bay tấn công của không quân hải quân Mỹ, xác định khu vực máy bay Mỹ sẽ tiến hành các hoạt động tập kích đường không;
- Cảnh báo sớm bộ tổng tư lệnh lực lượng Hải quân Liên Xô và hạm đội Thái B́nh Dương về sự chuẩn bị các đợt không kích, thời gian cất cánh của các không đoàn máy bay hải quân Mỹ trên tàu sân bay vào miền Bắc Việt Nam.
- Phát hiện và làm rơ các thủ đoạn chiến thuật mà các không đoàn hải quân Mỹ sẽ sử dụng để không kích miền Bắc cũng như các tuyến đường cơ động của các chiến hạm Mỹ khi tiến hành phong tỏa Vịnh Bắc Bộ.
Các tàu trinh sát hoạt động trên khoảng 3 dặm cách vịnh Apra thuộc đảo Guam, nơi có căn cứ đóng quân của hải đoàn tàu ngầm hạt nhân Mỹ mang tên lửa đạn đạo "Polaris-Poseidon", ngoài những nhiệm vụ chính là theo dơi hoạt động của các tàu ngầm chiến lược mang tên lửa, c̣n thực hiện nhiệm vụ phát hiện các chuyến bay của máy bay B-52, mục tiêu tác chiến của chúng từ căn cứ không quân Andersen và theo dơi các đợt không kích của B-52 vào các mục tiêu đang nằm trên lănh thổ Việt Nam. Thời gian bay của các máy bay B-52 thông thường kéo dài 6 giờ bay, đến thời điểm đó, các hệ thống pḥng không Việt Nam đă được cảnh báo theo đường thông tin liên lạc khẩn cấp và trực 24/24 từ tàu trinh sát thông qua Bộ tổng tham mưu quân đội Xô Viết và truyền đến các đơn vị pḥng không – không quân Việt Nam.Trong suốt giai đoạn từ năm 1964-1974 trong các khu vực trinh sát các hoạt động tác chiến của Mỹ ở Việt Nam, đơn vị OSNAZ đă có 17 tàu trinh sát của hải đoàn hoạt động, tiến hành 94 chuyến hải hành với thời gian mỗi chuyến từ 3 – 4 tháng.
Nhiệm vụ thành công đầu tiên của các tàu trinh sát thực hiện là vào ngày 2/8/1964 trong cái gọi là “sự kiện Vịnh Bắc bộ”. Trong sự kiện này, các chiến hạm của hạm đội 7 đă xâm phạm vùng lănh hải của nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa với mục đích khiêu khích, nhằm đánh lừa dư luận nước Mỹ và thế giới, đồng thời tạo cớ mở rộng cuộc chiến, tiến hành các hoạt động đánh phá miền Bắc Việt Nam. Để lừa dối công luận, Mỹ đă đưa ra những bằng chứng khẳng định rằng các tàu phóng ngư lôi của Việt Nam đă tấn công tàu khu trục Maddox của Mỹ trên vùng biển quốc tế. Việt Nam kiên quyết bác bỏ lời cáo buộc này. Bộ tổng tham mưu liên quân Mỹ và bộ tư lệnh hải quân Mỹ cũng nghi ngờ về điều này.
Lúc đó từ tàu trinh sát "Protraktorv" (thuyền trưởng đại úy hạng 3 N.P. Fadeev, chỉ huy trưởng nhóm OSNAZ trung úy V.I. Levushkin) đă gửi báo cáo chính xác tọa độ và quỹ đạo hoạt động của tàu Maddox, chứng minh tàu khu trục của Mỹ trong hoạt động trinh sát đă xâm phạm lănh hải Việt Nam. Mặc dù vậy, không quân Mỹ ngày 5.08.1964 vẫn tiến hành cuộc ném bom bắn phá lănh thổ Việt Nam. Ngày 10.10.1964, Quốc hội Mỹ đă thông qua Nghị quyết “Vịnh Bắc bộ” mở đường cho sự can thiệp bằng lực lượng vũ trang. Nghị quyết đă cho phép Tổng thống Lyndon Johnson được quyền sử dụng lực lượng vũ trang Mỹ ở Đông Nam Á, chính thức bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược chống miền Bắc Việt Nam. Nhà nước Liên bang Xô viết dựa trên các bằng chứng đă khẳng định các hoạt động của Mỹ chính xác là một cuộc xâm lược, các bằng chứng sau này đă được công luận Mỹ sử dụng trong các hoạt động chống chiến tranh ở Miền Nam Việt Nam.
Từ thời điểm đó, các tàu trinh sát điện tử đă tiến hành trực chiến trên biển Đông trong suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ của miền Bắc Việt Nam. Khu vực trinh sát chủ yếu là trung tâm các hoạt động tác chiến đường không của cụm tàu sân bay chiến thuật số 77 ( tập đoàn không quân tiến công chủ lực của hạm đội 7 Mỹ), hoặc như lính Mỹ vẫn gọi là "Yankee Station". Các tàu trinh sát của hạm đội Thái B́nh Dương hoạt động ngay gần các tàu chiến Mỹ, thay đổi các tàu trực chiến cũng được thực hiện ngay trong khu vực.
Điều đó trở lên quen thuộc đến nỗi thủy thủ đoàn của Mỹ đưa tàu trinh sát của Liên Xô trở thành một phần không thay đổi của cụm tàu tác chiến chủ lực. Nhiệm vụ chủ yếu của tàu trinh sát lúc này là kịp thời thông báo cho Pḥng không Việt Nam về các đợt tập kích ồ ạt của không quân hải quân Mỹ từ tàu sân bay, theo những thông tin thu thập được từ những kênh thông tin liên lạc của Hải quân Mỹ. Trong thời gian này, trên Biển Đông có khoảng 8 tàu sân bay hoạt động, cụm không quân hải quân công kích chủ lực này có khoảng 150 chiến hạm và tàu hỗ trợ hậu cần kỹ thuật đi cùng.Theo sự mở rộng hoạt động và tăng cường quân số của các tập đoàn quân đội Mỹ trong chiến tranh, nhiệm vụ của lực lượng trinh sát trên biển cũng được mở rộng. Các hải cảng quân sự như Đà Nẵng, Cam Ranh, Nha Trang trở thành những căn cứ quân sự trung chuyển, từ đó các lực lượng bộ binh và lính thủy đánh bộ Mỹ đổ bộ lên lănh thổ miền Nam Việt Nam. V́ vậy, các lực lượng trinh sát điện tử trên biển được tăng cường nhiệm vụ theo dơi các hoạt động triển khai lực lượng của quân đội Mỹ và những chiến dịch do quân đội Mỹ triển khai trên các khu vực thuộc miền Nam Việt Nam.
Đến tháng 2 năm 1968, trên lănh thổ Việt Nam bao gồm cả vùng nước và đất liền tham gia hoạt động tác chiến có 543.000 quân nhân Mỹ tham chiến (hơn 30% quân số của toàn bộ LLVT Mỹ , 40% máy bay cấp chiến thuật, gần 70% lực lượng lĩnh thủy đánh bộ…). Tổng số lực lượng tham chiến của Hạm đội 7 (35.000 người.) lực lượng không quân Mỹ có mặt ở Thái Lan và Guam (45.000 người), quân số của quân đội Mỹ ở khu vực Đông Nam Á lên đến hơn 600.000 người. Cũng theo yêu cầu hiệp đồng tác chiến, trong chiến trường Miền Nam Việt Nam đă lôi kéo thêm các đồng minh khu vực như (Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Australia và New Zealand). Với số lượng không lớn, những cũng tăng cường thêm nhiều năng lực tác chiến của quân đội Mỹ.
Hiệu quả tác chiến cao của lực lượng trinh sát trên biển trong vùng Vịnh Bắc Bộ đă có được một kết quả vô cùng quan trọng. Ngày 28/2/1965 trong thời gian thăm chính thức Việt Nam của Chủ tịch hội đồng Xô Viết tối cao toàn Liên bang ông A.N.Kosygin, phía Việt Nam đă bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc Liên Xô đă cũng cấp kịp thời và chuẩn xác những thông tin cảnh bảo sớm về các cuộc không kích của lực lượng không quân Hải quân và lực lượng Không quân chiến lược – chiến thuật Mỹ. Nhờ có những thông tin cảnh báo sớm mà lực lượng pḥng không Việt Nam có thời gian chuẩn bị, sẵn sàng đánh chặn và phản kích mọi cuộc tập kích đường không. Điều đó giúp cho nhân dân Việt Nam giảm thiểu những tổn thất và lực lượng vũ trang giáng những đ̣n chí mạng vào kẻ thù. Khi A.N.Kosygin quay về sau chuyến thăm, tại Vladivostok đă quan tâm đến vấn đề, bằng cách nào mà lực lượng trinh sát điện tử hạm đội Thái B́nh Dương có thể chi viện thông tin t́nh báo kịp thời cho Việt Nam.
Cục trưởng trinh sát điện tử, chuẩn đô đốc A.N.Sotnikov đă báo cáo chi tiết thống kê các hoạt động và kết quả đạt được của các tàu trực chiến trinh sát điện tử trên Biển Đông và khu vực đảo Guam. Cùng với thời gian tàu trinh sát điện tử "Gidrofon" quay trở về căn cứ ngày 28.02.1965. A.N.Kosygin đă trực tiếp lắng nghe báo cáo của thuyền trưởng trung úy hải quân A.A. Plotnhicov và chỉ huy trưởng nhóm trinh sát điện tử thượng úy V. Danhilov. Lắng nghe báo cáo đồng thời nghe được điều kiện sống và làm việc của thủy thủ đoàn trong thời gian trực tác chiến dài ngày trên biển, A.N.Kosygin đă chỉ thị cho các cơ quan chức năng chuẩn bị Nghị quyết của Hội đồng bộ trưởng Xô viết về hoạt động của các tàu trinh sát điện tử và khẩu phần – quyền lợi đặc biệt của lực lượng khi tiến hành các hoạt động tác chiến trên biển lớn ( Nghị quyết số №433).