vuitoichat
08-17-2013, 19:35
Chuyến công du Trung Quốc tháng Sáu 2013 của Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang, do lời “mời” của Chủ tịch Tập Cận B́nh đă rơ ràng là một chuyến đi bất đắc dĩ, với kết quả là Hà Nôi bị ép phải cam kết “nhất trí” với Bắc Kinh trên mọi lĩnh vực hợp tác, song phương và đa phương.
>Việt Nam phải làm ǵ sau hai cuộc hội đàm thượng đỉnh Việt - Trung và Việt - Mỹ (1) (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=676 135)
Dù khác với chuyến “mật du” sang Thảnh Đô năm 1990 của các ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng, nỗi đau “bị ép” của Bộ Chính trị Việt Nam ngày nay không khác ǵ nỗi đau “bị lừa” của Bộ Chính trị Việt Nam ngày trước. Bởi thế, Bộ Ngoại giao Việt Nam lại phải vội vă thu xếp chuyến công du Hoa Kỳ của Chủ tịch Trương Tấn Sang vào tháng Bảy để cùng với Tổng thống Obama bàn việc gia tăng quan hệ hợp tác giữa Washington và Hà Nội.
Khác với quan hệ Việt Nam-Trung Quốc là “hợp tác chiến lược toàn diện”, quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ được xác lập là “đối tác toàn diện.” (đă được định nghiă rơ ở đầu phần 1). Đây là kết quả của một tiến tŕnh hoà giải giữa hai kẻ cựu thù nay có một số mục tiêu chung về an ninh, hoà b́nh và phát triển, cần có sự hợp tác để đôi bên cùng có lợi. Do quá khứ chiến tranh và thể chế khác nhau, Việt Nam c̣n nhiều thành kiến và nghi ngờ sai lầm về chính sách của Hoa Kỳ đối với Việt Nam. Ai cũng biết lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ là củng cố vai tṛ “cường quốc Thái B́nh Dương” của mỉnh, v́ vậy muốn có sự hợp tác của các nước ASEAN để cùng ngăn chặn tham vọng bá quyền của Trung Quốc trong khu vực. Việt Nam, v́ có một vị trí chiến lược quan trọng và một lịch sử lâu dài đánh bại mọi chiến tranh xâm lược của Trung Quốc, nên Hoa Kỳ càng mong muốn thấy Việt Nam thoát ra khỏi ṿng khống chế của Trung Quốc. Cũng v́ hiểu được những nỗi khó khăn, tế nhị của Hà Nội trong quan hệ với Bắc Kinh từ 1990 nên Hoa Kỳ đă kiên nhẫn hợp tác và giúp đỡ Việt Nam một cách chừng mực trong suốt 18 năm qua.
Cũng trong quá tŕnh 18 năm quan hệ hợp tác nhiều mặt với Hoa Kỳ, dù chưa mang tính chiến lược, lănh đạo Việt Nam đă có thừa hiểu biết để so sánh Hoa Kỳ và Trung Quốc về mặt lợi ích cho đất nước. Tuy nhiên, dù đă có sự đồng thuận về chuyển hướng đối ngoại, lănh đạo Đảng vẫn chưa sẵn sàng cải cách về chính trị. Chuyến đi Washington của Chủ tịch Trương Tấn Sang có mục đích chính là xác nhận với Hoa Kỳ về ư định “thoát Trung” của Việt Nam. Về cải cách chính trị, có lẽ ông Sang trong buổi thảo luận riêng với ông Obama đă có một món quà nhỏ về nhân quyền, sẽ công bố vào một ngày thuận tiện gần nhất (2/9/2013?). Ông Obama chắc cũng đă nêu lên trường hợp của blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải đang tuyệt thực v́ năm ngoái ông đă lên tiếng phản đối bản án 12 năm của toà án Việt Nam xử Điếu Cày, và có thể ông Sang cũng đă hứa là sẽ giải quyết vụ này. Với những “tiến bộ” ấy, Chủ tịch Sang hi vọng chính quyền Obama đủ thấy vừa ḷng để phát triển quan hệ hợp tác toàn diện, nhất là hoàn tất đàm phán về Hiệp định Đối tác Xuyên Thái B́nh Dương (TPP).
Dưới đây là sự phân tích bản TBC Việt- Mỹ và những nhận định về quan hệ đối tác và hợp tác giữa hai nước. V́ đây mới chỉ là thoả thuận về một khuôn khổ tổng thể nhằm tạo ra các cơ chế hợp tác quy mô và bền vững cho chín lĩnh vực, nên không có ǵ nhiều để phân tích và nhận xét. Ngoài ra, do tính chất ṣng phẳng và minh bạch trong quan hệ đối tác Việt-Mỹ, TBC Việt-Mỹ không có những cam kết một chiều hay những cái bẫy như trong TBC Việt-Trung. V́ hai lư do này, khi phân tích TBC Việt-Mỹ, tôi sẽ đối chiếu với TBC Việt-Trung, để từ đó rút ra những nhận định và đề nghị về những điều Việt Nam cần phải làm để có thể bảo vệ độc lập và chủ quyền, xây dựng một nước Việt Nam giàu, mạnh, dân chủ, văn minh.
Quan hệ b́nh đẳng và minh bạch
TBC Việt-Mỹ khẳng định quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước được thiết lập trên cơ sở “tôn trọng Hiến chương Liên Hợp Quốc, luật pháp quốc tế, tôn trọng thể chế chính trị, độc lập chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ của nhau.” Có hai điều đặc biệt thuận lợi cho Việt Nam:
· Điều quan trọng nhất đối với Việt Nam là được Hoa Kỳ nh́n nhận và tôn trọng thể chế chính trị của ḿnh. Đây là lần đầu tiên điều này được Hoa Kỳ xác nhận trên một văn kiện chính thức, nhằm giải toả nỗi nghi ngại của Việt Nam là sẽ bị Hoa Kỳ lật đổ. Điều này cũng chứng tỏ là Hoa Kỳ không quan tâm đến thể chế của một quốc gia đối tác, mà chỉ thật sự quan tâm về mức độ tôn trọng nhân quyền của dối tác ấy. Đây là một lĩnh vực c̣n có “nhiểu khác biệt” (theo Chủ tịch Sang), “nhiều thử thách” (theo Thủ tướng Obama), nhưng hai bên sẽ tiếp tục đối thoại nhằm “thu hẹp khác biệt.”
· Điều thuận lợi thứ nh́ cho Việt Nam là được Hoa Kỳ tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ. Bản TBC Việt-Trung không hề nhắc đến điều này. Như vậy, đây chính là cái thông điệp mà Việt Nam muốn cùng Hoa Kỳ gửi cho Trung Quốc. Cũng cần nhận xét thêm ở đây là trong quan hệ đối tác Việt-Mỹ cũng như giữa mọi quốc gia tôn trọng độc lập và chủ quyền của nhau, không thể có những cơ chế can dự vào chính sách của nhau như Ủy ban Chỉ đạo song phương hay Hội thảo Lư luận Đảng, chỉ có giữa Trung Quốc và Việt Nam.
TBC cho biết trong “giai đoạn mới” của quan hệ song phương Việt-Mỹ, “(Q)uan hệ đối tác toàn diện mới sẽ tạo ra các cơ chế hợp tác trên nhiều lĩnh vực.” Cụ thể đây là chín lĩnh vực đă có quan hệ đối tác trong đó phần lớn cũng đă có ít nhiều hợp tác nhưng chưa có cơ chế quy mô và bền vững, gồm có: Hợp tác chính trị và ngoại giao, Quan hệ kinh tế và thương mại, Hợp tác khoa học và công nghệ, Hợp tác giào dục, Môi trường và y tế, Các vấn đề hậu quả chiến tranh, Quốc pḥng và an ninh, Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, Văn hóa, du lịch và thể thao. Tất cả chín lĩnh vực này đều có lợi cho Việt Nam rất nhiều (ngay cả lĩnh vực nhân quyền) khi đă có cơ chế hợp tác. Riêng hai lĩnh vực dưới đây có một số điểm mới đáng lưu ư trong quan hệ đối tác toàn diện Việt-Mỹ.
Chính trị và ngoại giao:
TBC cho hay “(H)ai nhà Lănh đạo hoan nghênh việc thiết lập cơ chế đối thoại thường kỳ giữa hai Bộ trưởng Ngoại giao và khuyến khích các cuộc đối thoại và trao đổi giữa các cơ quan liên kết với các đảng phái chính trị của hai nước.” [Phần sau của câu này trong bản gốc tiếng Anh là “…encouraged dialogues and exchanges between entities associated with political parties in both countries” đă được dịch như sau trong bản dịch chính thức: “…khuyến khích các cuộc đối thoại và trao đổi giữa các cơ quan đảng của hai nước.” Dịch như vậy là không đúng với ư nghĩa trong câu tiếng Anh, do thói quen nghĩ đến quan hệ giữa các cơ quan đảng của Việt Nam và Trung Quốc. Thật ra, câu tiếng Anh ở đây muốn nói đến những cuộc đối thoại, trao đổi giữa các cơ quan đầu năo trong đảng CS Việt Nam với những cơ cấu hay định chế liên kết với hai đảng Cộng hoà và Dân chủ ở Hoa Kỳ, trong hay ngoài chính quyền, chẳng hạn các Uỷ ban trong Quốc hội hay các think tanks hoạt động độc lập.]
Những cuộc đối thoại đều đặn giữa hai Bộ trưởng Ngoại giao, giữa Quốc hội hai nước và giữa những ban ngành chủ đạo trong đảng CSVN và những tổ chức có uy tín liên kết với hai đảng chính trị lớn của Mỹ chắc chắn sẽ gia tăng hiểu biết giữa đôi bên, thúc đẩy quan hệ hợp tác song phương trên mọi lĩnh vực càng ngày càng sâu sắc và đầy đủ hơn. Đó là tầm nh́n chiến lược của lănh đạo và những ngưới làm chính sách.
Kinh tế và thương mại:
Lĩnh vực này được TBC tập trung vào TPP đang c̣n trong ṿng đàm phán giữa 12 quốc gia, được dự tính kết thúc ở ṿng thứ 19 sẽ diễn ra tại Brunei vào ngày 24 tháng Tám 2013. Trong số 10 quốc gia ASEAN, cho đến nay, mới chỉ có Singapore là một trong bốn thành viên chính thức của TPP và Việt Nam là thành viên đàm phán. Bốn nước ASEAN khác có thể sẽ gia nhập TPP là Thái Lan, Lào, Philippines và Indonesia. Trung Quốc không được mời tham gia.
Nếu TPP được kết thúc vào đầu tháng Chín 2013 th́ những vướng mắc c̣n lại về thuế quan và tiếp cận thị trường giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ phải được giải quyết mau chóng, dù cho ngày hiệu lực của TPP đối với mỗi nước thành viên tuỳ theo thời gian hoàn tất thủ tục chấp thuận của mỗi nước. Khi Việt Nam và Hoa Kỳ đă giải quyết xong những vấn đề riêng trước cuối năm, Tổng thống Obama có thể yêu cầu Quốc hội tái áp dụng “đường tốc hành” tức thể thức nhanh về thẩm quyền thúc đẩy thương mại của chính phủ (“fast-track” Trade Promotion Authority) trong Đạo luật vể Thưong mại 1974. Nếu Quốc hội đồng ư th́ Dự luật về thi hành TPP sẽ được Quốc hội thông qua trong ṿng 90 ngày kể từ ngày nhận Dự luật của Hành pháp.
Mặc dù TPP bị tranh căi và chống đối bởi nhiều tổ chức bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, Việt Nam sẽ được hưởng nhiều thuận lợi về hàng hoá dịch vụ và gia tăng việc làm khi tiếp cận thị trường các nước đối tác, nhất là Hoa Kỳ, v́ được cắt giảm thuế quan có thể xuống mức số 0 và băi bỏ các điều kiện đối với đầu tư dịch vụ. Tất nhiên, khi kư TPP, Việt Nam cũng phải chấp thuận mở rộng thị trường của ḿnh cho hàng hoá dịch vụ nước ngoài, nhưng đó chính là thử thách và cơ hội để Việt Nam cải thiện chất lượng hàng hoá sản xuất, làm tốt hơn vấn đề bảo vệ môi trường và bảo vệ người lao động nội địa.
Két quả tích cực đáng lưu ư trong chuyến đi này là một số thoả thuận đă được kư kết giữa Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam và Ngân hàng Xuất Nhập khẩu Hoa Kỳ, giữa Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam và Công ty Exxon Mobil, giữa Tổng Công ty thăm ḍ, khai thác dầu khí (PVEP) và Công ty dầu khí Murphy. Những thoả thuận này, dù c̣n sơ khởi, đă khẳng định chủ quyền biển của Việt Nam đối với “đường chín đoạn” (c̣n gọi là “đường lưỡi ḅ”) do Trung Quốc vẽ ra trên Biển Đông, phù hợp với câu trả lời chắc nịch của Chủ tịch Trương Tấn Sang khi được hỏi về vấn đề này trong buổi nói chuyện tại Trung tâm Nghiên cưú Chiến lược và Quốc tế (CSIS): “Chúng tôi luôn luôn phản đối ‘đường chín đoạn’ do Trung Quốc tuyên bố có chủ quyền v́ chúng tôi không thấy có cơ sở pháp lư hay kỹ thuật nào cho sự đ̣i hỏi ấy. Lập trường trước sau như một của chúng tôi là chống lại ‘đường chin đoạn’ mà Trung Quốc đ̣i hỏi.”
Thành công hay thất bại?
Đă có nhiều đánh giá khác nhau ở trong và ngoài nước về chuyến công du Hoa Kỳ của Chủ tịch Trương Tấn Sang tùy theo lập trường chính trị chống đối hay ủng hộ chính quyền, nhưng cũng có một số người phân tích sự kiện một cách khách quan, dù không tránh khỏi thiếu sót hay sai lầm v́ không có thông tin về những văn bản c̣n giữ kín hay về những vấn đề được hai bên thảo luận riêng. Tôi nghĩ rằng tôi thuộc về nhóm thứ hai này. Dù sao chăng nữa, những nhận định và đề nghị trong bài này đều không v́ một mục tiêu cá nhân nào mà xuất phát từ mối quan tâm chung cuả những người c̣n mang ḍng máu Việt trước t́nh trạng sống c̣n của đất nước và dân tộc. Tôi thành thật tin rằng những quan điểm và cách tiếp cận khác nhau sẽ hỗ trợ cho nhau nếu cùng nhắm vào mục tiêu chung là bảo vệ độc lập, chù quyền của tổ quốc và xây dựng một nước Việt Nam giàu, mạnh và dân chủ. Trên căn bản đó, tôi sẽ thẳng thắn tŕnh bày những suy nghĩ của tôi về chính sách của Hoa Kỳ đối với Việt Nam và về những hành động mà chính phủ Việt Nam cần phải làm để có lợi ích cho đất nước, đúng với ư nguyện của toàn dân.
Trước hết, chuyến công du Hoa Kỳ của Chủ tịch Trương Tấn Sang có thể được đánh giá là thành công v́, dù c̣n hạn chế, đă đem lại cho Việt Nam một số kết quả tích cực, so với những kết quả của chuyến công du Trung Quốc bất lợi và nguy hiểm cho Việt Nam. Dưới đây là mười điểm đối chiếu giữa hai bản TBC:
1. Hoa Kỳ xác nhận tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ của Việt Nam. Trong TBC Việt Nam-Trung Quốc, không có một câu nào nói đến độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ của Việt Nam.
2. Hoa Kỳ và Việt Nam cùng xác nhận tôn trọng Hiến chương Liên Hiệp Quốc và luật pháp quốc tế. Đây là cơ sở b́nh đẳng của quan hệ song phương, khác với những cam kết chỉ áp dụng cho Việt Nam qua phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt, do Trung Quốc áp đặt.
3. Hoa Kỳ và Việt Nam mở một giai đoạn mới của quan hệ song phương bằng việc thiết lập những cơ chế cho sự hợp tác quy mô và bền vững trên mọi lĩnh vực. Trung Quốc kư với Việt Nam một Chương tŕnh chủ đạo và chín văn kiện hợp tác trong đó, như đă phân tích ở phần đầu, có nhiều điểm đáng nghi ngờ và nhiều cái bẫy rất nguy hiểm.
4. Hoa Kỳ ủng hộ Việt Nam và các nước ASEAN thảo luận với Trung Quốc về việc sớm hoàn tất bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC). Trung Quốc chỉ nói đến bản Tuyên bố về Ứng xử (DOC) mà không nói ǵ về COC.
5. Hoa Kỳ muốn Việt Nam kết thúc việc gia nhập TPP trước cuối năm nay. Nếu mọi chuyện diễn ra như dự liệu, Việt Nam sẽ được hưởng nhiều lợi ích giúp cho các hoạt động sản xuất và kim ngạch thương mại gia tăng mau chóng. Những bản thoả thuận Việt-Nam kư với Trung Quốc như Quy hoạch phát triển 5 năm, các Dự án hợp tác trọng điểm và hợp tác khu vực “hai hành lang, một vành đai” đều được giữ kín, không biết Việt Nam bị những thiệt hại ǵ.
6. Việt Nam kư thoả thuận với Trung Quốc mở rộng diện tích khu vực và kéo dài thời hạn hợp tác thăm ḍ dầu khí ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ, gồm có hoạt động thăm ḍ chung đối với cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định (mà Việt Nam đă chịu thiệt), khó có thể là một thoả thuận công bằng, minh bạch so với những hợp đồng mà Việt Nam kư với những công ty dầu khí Mỹ và Ấn Độ.
7. Trên các lĩnh vực khoa học, công nghệ, giáo dục đào tạo và giao lưu văn hóa, những hoạt động hợp tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, đào tạo nhân tài, chuyển giao công nghệ giữa Trung Quốc và Việt Nam chắc chắn không thể so sánh về số lượng và chất lượng với những hoạt động tương tự giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Về giao lưu văn hoá th́ khỏi phải nói, ai cũng thấy rơ hoạt động này chỉ có lợi cho mưu đồ Hán hoá của Trung Quốc. Hoa Kỷ tất nhiên cũng có mục đích quảng cáo cho các giá trị văn học, nghệ thuật của ḿnh trong các chương tŕnh trao đổi văn hoá với Việt Nam cũng như với bất cứ nước nào khác, nhưng không có mục đích đồng hoá một dân tộc nào. Ảnh hưởng của Hoa Kỳ, nếu có, là do sự chọn lọc và thâu thái tự do của mỗi dân tộc.
8. Hoa Kỳ không có chủ trương đưa người lao động đi theo các dự án thực hiện ở Việt Nam như Trung Quốc. Số người lao động có gia đ́nh hay độc thân được cấp giấy phép và số người nhập cảnh lậu từ Trung Quốc tiếp tục gia tăng, nay lại được TBC Việt-Trung làm cho dễ dàng hơn trong việc “cải thiện điều kiện và nâng cao hiệu quả thông hành cho người, hàng hoá, phương tiện qua cửa khẩu nhằm phục vụ việc qua lại và phát triển kinh tế-thương mại giữa hai nước” và nhấn mạnh là “đặc biệt làm dễ dàng việc qua lại tự do giữa đôi bên.” Những di dân mới người Hoa đă thành lập cộng đồng, thậm chí “làng” của họ, tại nhiều tỉnh ở Việt Nam. Ai dám bảo rằng đây không phải là bằng chứng xâm lược bằng quyền lực mềm của Trung Quốc?
9. Hoa Kỳ có dự án “Sáng kiến Hạ lưu sông Mekong” (LMI) giúp đỡ cho năm quốc gia ở hạ lưu sông Mekong giải quyết những vấn đề về môi trường, sức khoẻ, giáo dục và phát triển hạ tầng, do hệ quả của 14 con đập thuỷ điện mà Trung Quốc đă và đang xây cất ở thượng nguồn nhằm kiểm soát đời sống những nước ở hạ lưu. Đồng bằng sông Cửu long ở cuối nguồn, vựa lúa nuôi sống cả nước và xuất khẩu gạo nhất nh́ thế giới phải chịu nhiều hậu quả tai hại nhất.
10. Trong những cuộc đối thoại thường kỳ với những nhân vật cao cấp của Việt Nam, Hoa Kỳ không bao giờ nghĩ đến việc cần phải có những cơ quan hay cơ chế can dự vào chính sách nội bộ của nhau như Ủy ban Chỉ đạo song phương hay Hội thảo Lư luận giữa các đảng chính trị của hai nước, như Trung Quốc đă lập ra với Việt Nam.
>Việt Nam phải làm ǵ sau hai cuộc hội đàm thượng đỉnh Việt - Trung và Việt - Mỹ (1) (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=676 135)
Dù khác với chuyến “mật du” sang Thảnh Đô năm 1990 của các ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng, nỗi đau “bị ép” của Bộ Chính trị Việt Nam ngày nay không khác ǵ nỗi đau “bị lừa” của Bộ Chính trị Việt Nam ngày trước. Bởi thế, Bộ Ngoại giao Việt Nam lại phải vội vă thu xếp chuyến công du Hoa Kỳ của Chủ tịch Trương Tấn Sang vào tháng Bảy để cùng với Tổng thống Obama bàn việc gia tăng quan hệ hợp tác giữa Washington và Hà Nội.
Khác với quan hệ Việt Nam-Trung Quốc là “hợp tác chiến lược toàn diện”, quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ được xác lập là “đối tác toàn diện.” (đă được định nghiă rơ ở đầu phần 1). Đây là kết quả của một tiến tŕnh hoà giải giữa hai kẻ cựu thù nay có một số mục tiêu chung về an ninh, hoà b́nh và phát triển, cần có sự hợp tác để đôi bên cùng có lợi. Do quá khứ chiến tranh và thể chế khác nhau, Việt Nam c̣n nhiều thành kiến và nghi ngờ sai lầm về chính sách của Hoa Kỳ đối với Việt Nam. Ai cũng biết lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ là củng cố vai tṛ “cường quốc Thái B́nh Dương” của mỉnh, v́ vậy muốn có sự hợp tác của các nước ASEAN để cùng ngăn chặn tham vọng bá quyền của Trung Quốc trong khu vực. Việt Nam, v́ có một vị trí chiến lược quan trọng và một lịch sử lâu dài đánh bại mọi chiến tranh xâm lược của Trung Quốc, nên Hoa Kỳ càng mong muốn thấy Việt Nam thoát ra khỏi ṿng khống chế của Trung Quốc. Cũng v́ hiểu được những nỗi khó khăn, tế nhị của Hà Nội trong quan hệ với Bắc Kinh từ 1990 nên Hoa Kỳ đă kiên nhẫn hợp tác và giúp đỡ Việt Nam một cách chừng mực trong suốt 18 năm qua.
Cũng trong quá tŕnh 18 năm quan hệ hợp tác nhiều mặt với Hoa Kỳ, dù chưa mang tính chiến lược, lănh đạo Việt Nam đă có thừa hiểu biết để so sánh Hoa Kỳ và Trung Quốc về mặt lợi ích cho đất nước. Tuy nhiên, dù đă có sự đồng thuận về chuyển hướng đối ngoại, lănh đạo Đảng vẫn chưa sẵn sàng cải cách về chính trị. Chuyến đi Washington của Chủ tịch Trương Tấn Sang có mục đích chính là xác nhận với Hoa Kỳ về ư định “thoát Trung” của Việt Nam. Về cải cách chính trị, có lẽ ông Sang trong buổi thảo luận riêng với ông Obama đă có một món quà nhỏ về nhân quyền, sẽ công bố vào một ngày thuận tiện gần nhất (2/9/2013?). Ông Obama chắc cũng đă nêu lên trường hợp của blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải đang tuyệt thực v́ năm ngoái ông đă lên tiếng phản đối bản án 12 năm của toà án Việt Nam xử Điếu Cày, và có thể ông Sang cũng đă hứa là sẽ giải quyết vụ này. Với những “tiến bộ” ấy, Chủ tịch Sang hi vọng chính quyền Obama đủ thấy vừa ḷng để phát triển quan hệ hợp tác toàn diện, nhất là hoàn tất đàm phán về Hiệp định Đối tác Xuyên Thái B́nh Dương (TPP).
Dưới đây là sự phân tích bản TBC Việt- Mỹ và những nhận định về quan hệ đối tác và hợp tác giữa hai nước. V́ đây mới chỉ là thoả thuận về một khuôn khổ tổng thể nhằm tạo ra các cơ chế hợp tác quy mô và bền vững cho chín lĩnh vực, nên không có ǵ nhiều để phân tích và nhận xét. Ngoài ra, do tính chất ṣng phẳng và minh bạch trong quan hệ đối tác Việt-Mỹ, TBC Việt-Mỹ không có những cam kết một chiều hay những cái bẫy như trong TBC Việt-Trung. V́ hai lư do này, khi phân tích TBC Việt-Mỹ, tôi sẽ đối chiếu với TBC Việt-Trung, để từ đó rút ra những nhận định và đề nghị về những điều Việt Nam cần phải làm để có thể bảo vệ độc lập và chủ quyền, xây dựng một nước Việt Nam giàu, mạnh, dân chủ, văn minh.
Quan hệ b́nh đẳng và minh bạch
TBC Việt-Mỹ khẳng định quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước được thiết lập trên cơ sở “tôn trọng Hiến chương Liên Hợp Quốc, luật pháp quốc tế, tôn trọng thể chế chính trị, độc lập chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ của nhau.” Có hai điều đặc biệt thuận lợi cho Việt Nam:
· Điều quan trọng nhất đối với Việt Nam là được Hoa Kỳ nh́n nhận và tôn trọng thể chế chính trị của ḿnh. Đây là lần đầu tiên điều này được Hoa Kỳ xác nhận trên một văn kiện chính thức, nhằm giải toả nỗi nghi ngại của Việt Nam là sẽ bị Hoa Kỳ lật đổ. Điều này cũng chứng tỏ là Hoa Kỳ không quan tâm đến thể chế của một quốc gia đối tác, mà chỉ thật sự quan tâm về mức độ tôn trọng nhân quyền của dối tác ấy. Đây là một lĩnh vực c̣n có “nhiểu khác biệt” (theo Chủ tịch Sang), “nhiều thử thách” (theo Thủ tướng Obama), nhưng hai bên sẽ tiếp tục đối thoại nhằm “thu hẹp khác biệt.”
· Điều thuận lợi thứ nh́ cho Việt Nam là được Hoa Kỳ tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ. Bản TBC Việt-Trung không hề nhắc đến điều này. Như vậy, đây chính là cái thông điệp mà Việt Nam muốn cùng Hoa Kỳ gửi cho Trung Quốc. Cũng cần nhận xét thêm ở đây là trong quan hệ đối tác Việt-Mỹ cũng như giữa mọi quốc gia tôn trọng độc lập và chủ quyền của nhau, không thể có những cơ chế can dự vào chính sách của nhau như Ủy ban Chỉ đạo song phương hay Hội thảo Lư luận Đảng, chỉ có giữa Trung Quốc và Việt Nam.
TBC cho biết trong “giai đoạn mới” của quan hệ song phương Việt-Mỹ, “(Q)uan hệ đối tác toàn diện mới sẽ tạo ra các cơ chế hợp tác trên nhiều lĩnh vực.” Cụ thể đây là chín lĩnh vực đă có quan hệ đối tác trong đó phần lớn cũng đă có ít nhiều hợp tác nhưng chưa có cơ chế quy mô và bền vững, gồm có: Hợp tác chính trị và ngoại giao, Quan hệ kinh tế và thương mại, Hợp tác khoa học và công nghệ, Hợp tác giào dục, Môi trường và y tế, Các vấn đề hậu quả chiến tranh, Quốc pḥng và an ninh, Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, Văn hóa, du lịch và thể thao. Tất cả chín lĩnh vực này đều có lợi cho Việt Nam rất nhiều (ngay cả lĩnh vực nhân quyền) khi đă có cơ chế hợp tác. Riêng hai lĩnh vực dưới đây có một số điểm mới đáng lưu ư trong quan hệ đối tác toàn diện Việt-Mỹ.
Chính trị và ngoại giao:
TBC cho hay “(H)ai nhà Lănh đạo hoan nghênh việc thiết lập cơ chế đối thoại thường kỳ giữa hai Bộ trưởng Ngoại giao và khuyến khích các cuộc đối thoại và trao đổi giữa các cơ quan liên kết với các đảng phái chính trị của hai nước.” [Phần sau của câu này trong bản gốc tiếng Anh là “…encouraged dialogues and exchanges between entities associated with political parties in both countries” đă được dịch như sau trong bản dịch chính thức: “…khuyến khích các cuộc đối thoại và trao đổi giữa các cơ quan đảng của hai nước.” Dịch như vậy là không đúng với ư nghĩa trong câu tiếng Anh, do thói quen nghĩ đến quan hệ giữa các cơ quan đảng của Việt Nam và Trung Quốc. Thật ra, câu tiếng Anh ở đây muốn nói đến những cuộc đối thoại, trao đổi giữa các cơ quan đầu năo trong đảng CS Việt Nam với những cơ cấu hay định chế liên kết với hai đảng Cộng hoà và Dân chủ ở Hoa Kỳ, trong hay ngoài chính quyền, chẳng hạn các Uỷ ban trong Quốc hội hay các think tanks hoạt động độc lập.]
Những cuộc đối thoại đều đặn giữa hai Bộ trưởng Ngoại giao, giữa Quốc hội hai nước và giữa những ban ngành chủ đạo trong đảng CSVN và những tổ chức có uy tín liên kết với hai đảng chính trị lớn của Mỹ chắc chắn sẽ gia tăng hiểu biết giữa đôi bên, thúc đẩy quan hệ hợp tác song phương trên mọi lĩnh vực càng ngày càng sâu sắc và đầy đủ hơn. Đó là tầm nh́n chiến lược của lănh đạo và những ngưới làm chính sách.
Kinh tế và thương mại:
Lĩnh vực này được TBC tập trung vào TPP đang c̣n trong ṿng đàm phán giữa 12 quốc gia, được dự tính kết thúc ở ṿng thứ 19 sẽ diễn ra tại Brunei vào ngày 24 tháng Tám 2013. Trong số 10 quốc gia ASEAN, cho đến nay, mới chỉ có Singapore là một trong bốn thành viên chính thức của TPP và Việt Nam là thành viên đàm phán. Bốn nước ASEAN khác có thể sẽ gia nhập TPP là Thái Lan, Lào, Philippines và Indonesia. Trung Quốc không được mời tham gia.
Nếu TPP được kết thúc vào đầu tháng Chín 2013 th́ những vướng mắc c̣n lại về thuế quan và tiếp cận thị trường giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ phải được giải quyết mau chóng, dù cho ngày hiệu lực của TPP đối với mỗi nước thành viên tuỳ theo thời gian hoàn tất thủ tục chấp thuận của mỗi nước. Khi Việt Nam và Hoa Kỳ đă giải quyết xong những vấn đề riêng trước cuối năm, Tổng thống Obama có thể yêu cầu Quốc hội tái áp dụng “đường tốc hành” tức thể thức nhanh về thẩm quyền thúc đẩy thương mại của chính phủ (“fast-track” Trade Promotion Authority) trong Đạo luật vể Thưong mại 1974. Nếu Quốc hội đồng ư th́ Dự luật về thi hành TPP sẽ được Quốc hội thông qua trong ṿng 90 ngày kể từ ngày nhận Dự luật của Hành pháp.
Mặc dù TPP bị tranh căi và chống đối bởi nhiều tổ chức bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, Việt Nam sẽ được hưởng nhiều thuận lợi về hàng hoá dịch vụ và gia tăng việc làm khi tiếp cận thị trường các nước đối tác, nhất là Hoa Kỳ, v́ được cắt giảm thuế quan có thể xuống mức số 0 và băi bỏ các điều kiện đối với đầu tư dịch vụ. Tất nhiên, khi kư TPP, Việt Nam cũng phải chấp thuận mở rộng thị trường của ḿnh cho hàng hoá dịch vụ nước ngoài, nhưng đó chính là thử thách và cơ hội để Việt Nam cải thiện chất lượng hàng hoá sản xuất, làm tốt hơn vấn đề bảo vệ môi trường và bảo vệ người lao động nội địa.
Két quả tích cực đáng lưu ư trong chuyến đi này là một số thoả thuận đă được kư kết giữa Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam và Ngân hàng Xuất Nhập khẩu Hoa Kỳ, giữa Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam và Công ty Exxon Mobil, giữa Tổng Công ty thăm ḍ, khai thác dầu khí (PVEP) và Công ty dầu khí Murphy. Những thoả thuận này, dù c̣n sơ khởi, đă khẳng định chủ quyền biển của Việt Nam đối với “đường chín đoạn” (c̣n gọi là “đường lưỡi ḅ”) do Trung Quốc vẽ ra trên Biển Đông, phù hợp với câu trả lời chắc nịch của Chủ tịch Trương Tấn Sang khi được hỏi về vấn đề này trong buổi nói chuyện tại Trung tâm Nghiên cưú Chiến lược và Quốc tế (CSIS): “Chúng tôi luôn luôn phản đối ‘đường chín đoạn’ do Trung Quốc tuyên bố có chủ quyền v́ chúng tôi không thấy có cơ sở pháp lư hay kỹ thuật nào cho sự đ̣i hỏi ấy. Lập trường trước sau như một của chúng tôi là chống lại ‘đường chin đoạn’ mà Trung Quốc đ̣i hỏi.”
Thành công hay thất bại?
Đă có nhiều đánh giá khác nhau ở trong và ngoài nước về chuyến công du Hoa Kỳ của Chủ tịch Trương Tấn Sang tùy theo lập trường chính trị chống đối hay ủng hộ chính quyền, nhưng cũng có một số người phân tích sự kiện một cách khách quan, dù không tránh khỏi thiếu sót hay sai lầm v́ không có thông tin về những văn bản c̣n giữ kín hay về những vấn đề được hai bên thảo luận riêng. Tôi nghĩ rằng tôi thuộc về nhóm thứ hai này. Dù sao chăng nữa, những nhận định và đề nghị trong bài này đều không v́ một mục tiêu cá nhân nào mà xuất phát từ mối quan tâm chung cuả những người c̣n mang ḍng máu Việt trước t́nh trạng sống c̣n của đất nước và dân tộc. Tôi thành thật tin rằng những quan điểm và cách tiếp cận khác nhau sẽ hỗ trợ cho nhau nếu cùng nhắm vào mục tiêu chung là bảo vệ độc lập, chù quyền của tổ quốc và xây dựng một nước Việt Nam giàu, mạnh và dân chủ. Trên căn bản đó, tôi sẽ thẳng thắn tŕnh bày những suy nghĩ của tôi về chính sách của Hoa Kỳ đối với Việt Nam và về những hành động mà chính phủ Việt Nam cần phải làm để có lợi ích cho đất nước, đúng với ư nguyện của toàn dân.
Trước hết, chuyến công du Hoa Kỳ của Chủ tịch Trương Tấn Sang có thể được đánh giá là thành công v́, dù c̣n hạn chế, đă đem lại cho Việt Nam một số kết quả tích cực, so với những kết quả của chuyến công du Trung Quốc bất lợi và nguy hiểm cho Việt Nam. Dưới đây là mười điểm đối chiếu giữa hai bản TBC:
1. Hoa Kỳ xác nhận tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ của Việt Nam. Trong TBC Việt Nam-Trung Quốc, không có một câu nào nói đến độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ của Việt Nam.
2. Hoa Kỳ và Việt Nam cùng xác nhận tôn trọng Hiến chương Liên Hiệp Quốc và luật pháp quốc tế. Đây là cơ sở b́nh đẳng của quan hệ song phương, khác với những cam kết chỉ áp dụng cho Việt Nam qua phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt, do Trung Quốc áp đặt.
3. Hoa Kỳ và Việt Nam mở một giai đoạn mới của quan hệ song phương bằng việc thiết lập những cơ chế cho sự hợp tác quy mô và bền vững trên mọi lĩnh vực. Trung Quốc kư với Việt Nam một Chương tŕnh chủ đạo và chín văn kiện hợp tác trong đó, như đă phân tích ở phần đầu, có nhiều điểm đáng nghi ngờ và nhiều cái bẫy rất nguy hiểm.
4. Hoa Kỳ ủng hộ Việt Nam và các nước ASEAN thảo luận với Trung Quốc về việc sớm hoàn tất bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC). Trung Quốc chỉ nói đến bản Tuyên bố về Ứng xử (DOC) mà không nói ǵ về COC.
5. Hoa Kỳ muốn Việt Nam kết thúc việc gia nhập TPP trước cuối năm nay. Nếu mọi chuyện diễn ra như dự liệu, Việt Nam sẽ được hưởng nhiều lợi ích giúp cho các hoạt động sản xuất và kim ngạch thương mại gia tăng mau chóng. Những bản thoả thuận Việt-Nam kư với Trung Quốc như Quy hoạch phát triển 5 năm, các Dự án hợp tác trọng điểm và hợp tác khu vực “hai hành lang, một vành đai” đều được giữ kín, không biết Việt Nam bị những thiệt hại ǵ.
6. Việt Nam kư thoả thuận với Trung Quốc mở rộng diện tích khu vực và kéo dài thời hạn hợp tác thăm ḍ dầu khí ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ, gồm có hoạt động thăm ḍ chung đối với cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định (mà Việt Nam đă chịu thiệt), khó có thể là một thoả thuận công bằng, minh bạch so với những hợp đồng mà Việt Nam kư với những công ty dầu khí Mỹ và Ấn Độ.
7. Trên các lĩnh vực khoa học, công nghệ, giáo dục đào tạo và giao lưu văn hóa, những hoạt động hợp tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, đào tạo nhân tài, chuyển giao công nghệ giữa Trung Quốc và Việt Nam chắc chắn không thể so sánh về số lượng và chất lượng với những hoạt động tương tự giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Về giao lưu văn hoá th́ khỏi phải nói, ai cũng thấy rơ hoạt động này chỉ có lợi cho mưu đồ Hán hoá của Trung Quốc. Hoa Kỷ tất nhiên cũng có mục đích quảng cáo cho các giá trị văn học, nghệ thuật của ḿnh trong các chương tŕnh trao đổi văn hoá với Việt Nam cũng như với bất cứ nước nào khác, nhưng không có mục đích đồng hoá một dân tộc nào. Ảnh hưởng của Hoa Kỳ, nếu có, là do sự chọn lọc và thâu thái tự do của mỗi dân tộc.
8. Hoa Kỳ không có chủ trương đưa người lao động đi theo các dự án thực hiện ở Việt Nam như Trung Quốc. Số người lao động có gia đ́nh hay độc thân được cấp giấy phép và số người nhập cảnh lậu từ Trung Quốc tiếp tục gia tăng, nay lại được TBC Việt-Trung làm cho dễ dàng hơn trong việc “cải thiện điều kiện và nâng cao hiệu quả thông hành cho người, hàng hoá, phương tiện qua cửa khẩu nhằm phục vụ việc qua lại và phát triển kinh tế-thương mại giữa hai nước” và nhấn mạnh là “đặc biệt làm dễ dàng việc qua lại tự do giữa đôi bên.” Những di dân mới người Hoa đă thành lập cộng đồng, thậm chí “làng” của họ, tại nhiều tỉnh ở Việt Nam. Ai dám bảo rằng đây không phải là bằng chứng xâm lược bằng quyền lực mềm của Trung Quốc?
9. Hoa Kỳ có dự án “Sáng kiến Hạ lưu sông Mekong” (LMI) giúp đỡ cho năm quốc gia ở hạ lưu sông Mekong giải quyết những vấn đề về môi trường, sức khoẻ, giáo dục và phát triển hạ tầng, do hệ quả của 14 con đập thuỷ điện mà Trung Quốc đă và đang xây cất ở thượng nguồn nhằm kiểm soát đời sống những nước ở hạ lưu. Đồng bằng sông Cửu long ở cuối nguồn, vựa lúa nuôi sống cả nước và xuất khẩu gạo nhất nh́ thế giới phải chịu nhiều hậu quả tai hại nhất.
10. Trong những cuộc đối thoại thường kỳ với những nhân vật cao cấp của Việt Nam, Hoa Kỳ không bao giờ nghĩ đến việc cần phải có những cơ quan hay cơ chế can dự vào chính sách nội bộ của nhau như Ủy ban Chỉ đạo song phương hay Hội thảo Lư luận giữa các đảng chính trị của hai nước, như Trung Quốc đă lập ra với Việt Nam.