vuitoichat
08-20-2013, 12:46
“…Và từ 1990 đến nay VN “hợp tác toàn diện” với TQ và bị đàn anh chèn ép nặng nề, nay ông Trương Tấn Sang phải bày tỏ mong muốn hợp tác với Mỹ…”
Tại Diễn đàn Đối thoại Sangri-La ở Singapore thảo luận về vấn đề An ninh khu vực ChâuÁ –Thái B́nh Dương hồi cuối tháng 5 vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng được mời làm diễn giả chính của hội nghị. Ông đă nhận định:“Trong thế kỷ 20, Đông Nam Á nói riêng và châu Á-Thái B́nh Dương nói chung vốn là chiến trường ác liệt, bị chia rẽ sâu sắc trong nhiều thập kỷ. Có thể nói cả khu vực này luôn cháy bỏng khát vọng ḥa b́nh. Muốn có ḥa b́nh, phát triển và thịnh vượng th́ phải tăng cường xây dựng và củng cố ḷng tin chiến lược. Nói cách khác, chúng ta cần cùng nhau chung tay xây dựng ḷng tin chiến lược, v́ ḥa b́nh, hợp tác, thịnh vượng của châu Á – Thái B́nh Dương”.
Đối với Việt Nam -một quốc gia “đă chịu nhiều đau thương, mất mác do chiến tranh gây ra”. V́ thế, theo ông Dũng th́“Việt Nam luôn khao khát ḥa b́nh và mong muốn đóng góp vào việc củng cố ḥa b́nh, tăng cường hữu nghị, hợp tác phát triển trong khu vực và trên thế giới” và “kỳ vọng nhiều vào vai tṛ của các nước lớn, nhất là Mỹ và Trung Quốc, hai cường quốc có vai tṛ và trách nhiệm lớn nhất đối với tương lai quan hệ của chính ḿnh cũng như của cả khu vực”. Ông Dũngcho biết lập trườngcủa VN là“kiên định nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa. Chính sách quốc pḥng của Việt Nam là ḥa b́nh và tự vệ. Việt Nam không là đồng minh quân sự của nước nào và không để nước ngoài nào đặt căn cứ quân sự trên lănh thổ Việt Nam. Việt Nam không liên minh với nước này để chống lại nước khác. Việt Nam khẳng định tuân thủ nhất quán Tuyên bố nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về biển Đông; nổ lực làm hết ḿnh cùng ASEAN và Trung Quốc nghiêm túc thực hiện DOC và sớm đạt được COC. Là quốc gia ven biển, Việt Nam khẳng định và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của ḿnh theo đúng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước LHQ về Luật Biển 1982”.
Để thực hiện mục tiêu trên, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đă đến Bắc Kinh gặp lănh tụ Trung Quốc Tập Cận B́nh trong hai ngày 19 và 20 tháng 6, 2013. Hai bên đă kư 10 văn kiện hợp tác và bản Tuyên bố chung. Blooger Bùi Tín nhận xét: “Đọc thật kỹ bản Tuyên bố chung, có thể dễ dàng nhận ra nó được phía Trung Quốc khởi thảo và phía Việt Nam hoàn toàn không được đóng góp hay thay đổi ǵ hết. Bản Tuyên bố chung hoàn toàn phản ánh tham vọng bành trướng và xâm lược của Đế quốc Cộng sản Đại Hán Trung Hoa đối với đất nước Việt Nam, phục vụ dă tâm biến nhà nước Việt Nam Cộng sản thành một chư hầu của Trung Quốc, biến Việt Nam thành một thuộc địa kiểu mới của Trung Quốc”.
Báo Tổ Quốc nhận xét: “Ai cũng biết quan hệ hiện nay giữa Trung Quốc và Việt Nam là một quan hệ lệ thuộc nhưng sự lệ thuộc đó đă trở thành toàn diện và triệt để sau những ǵ mà ông Sang vừa kư, bởi v́ nó c̣n được “thúc đẩy”, “mở rộng”, “tăng cường” và “làm sâu sắc thêm”. Đặc biệt nghiêm trọng là VN đă cam kết “điều phối” và “phối hợp” với TQ, nói cách khác, nhận mệnh lệnh của TQ trong các quan hệ đối với thế giới, kể cả với Liên Hiệp Quốc. Chúng ta mất chủ quyền. Và chúng ta cũng có nguy cơ mất cả lănh thổ bởi v́ chính quyền CSVN đă chấp nhận để bảy tỉnh biên giới VN “hợp tác” và “cùng phát triển” với các khu tự trị của TQ ở biên giới...”. (Thanh Quang, Phóng viên RFA, 2013-07-08)
Sau khi đến Bắc Kinh gặp Tập Cận B́nh, Chủ tịch Trương Tấn Sang đến Washington gặp TT Obama để thiết lập mối quan hệ đối tác chiến lược với Hoa Kỳ. Sau cuộc thảo luận riêng với ông Sang ngày 25-7-2013, TT Obama cho báo chí biết Chủ tịch nước VN đă tặng ông một món quà. Đó là bản sao lá thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gởi cho TT Harry Truman hồi năm 1946. Và “Chúng tôi đă thảo luận về một thực tế rằng Hồ Chí Minh đă thực sự lấy cảm hứng từ bản Tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp Mỹ và những lời của Thomas Jefferson. Hồ Chí Minh đă nói ông muốn hợp tác với Mỹ. Và Chủ tịch Sang bày tỏ rằng ngay cả nếu trễ đến 67 năm th́ việc quan hệ chúng ta đang tiến triển cũng là điều tốt đẹp”. (And we discussed the fact that Ho Chi Minh was actually inspired by the U.S . Declaration of Independence and Constitution, and the words of Thomas Jefferson. Ho Chi Minh talks about his interest in cooperation with the United Stated. And President Sang indicated that even if it’s 67 years, it’s good that we’re still making progress”)
Nhà báo kỳ cựu Đinh Từ Thức có trong tay cuốn “Letters To the Oval Office From the files of the National Archieves: Dear Mr. President” do Dwight Young soạn, National Geographic Society xuất bản năm 2005. Theo tài liệu này, năm 1946, ông Hồ cầu cứu sự giúp đỡ của TT Truman, nhưng không được đáp ứng. Nơi trang 116 cuốn sách nói trên, có chụp văn kiện ông Hồ Chí Minh gửi TT Truman. Thật ra đây không phải là “bức thư” mà chỉ là một “bức điện tín” (telegram) đề ngày 28 tháng 02 năm 1946. Măi đến ngày 11 tháng 03, Bạch Ốc mới nhận được và cho vào hồ sơ, không có phúc đáp cho ông Hồ.
Ông Đinh Từ Thức đă dịch sang Việt ngữ nội dung điện tín này, nguyên văn như sau: Chủ tịch Hồ Chí Minh Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa gởi Tổng thống Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ Washington DC. Thay mặt Chính phủ và Nhân dân VN tôi xin báo Ngài rằng trong cuộc đối thoại giữa Chính phủ Việt Nam và các đại diện Pháp, phía Pháp đă đ̣i tách rời Nam Việt và quân Pháp trở lại Hà Nội. Stop. Trong khi ấy dân và quân Pháp đang tích cực sửa soạn cho một cuộc tấn công bất ngờ tại Hà Nội và để quân lính xâm lấn. Stop. V́ thế tôi khẩn thiết đích thân kêu gọi Ngài và nhân dân Hoa Kỳ cấp bách can thiệp ủng hộ nền độc lập của chúng tôi và giúp làm cho việc thương thảo phù hợp hơn với những nguyên tắc của các Hiến chương Đại Tây Dương và San Francisco. Trân trọng Hồ Chí Minh.
Đề cập về món quà đặc biệt này, cả ông Sang và TT Obama đều thừa nhận sự việc HCM cầu cứu sự giúp đỡ của TT Truman, xuất phát từ sự ngưỡng phục HK. Trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, ông HCM đă trích nguyên văn những lời lẽ của Thomas Jefferson -tác giả chính của Tuyên ngôn Độc lập HK năm 1776. Nay, mang tặng TT Obama lá thư của HCM 67 năm về trước, cho thấy ông Trương Tấn Sang vẫn muốn theo gương ông HCM: hợp tác với HK, dù có trể một thời gian dài, song cũng là điều tốt đẹp. Vấn đề cần t́m hiểu là bản văn của ông HCM gởi tổng thống Mỹ hồi năm 1946 diễn ra trong bối cảnh nào? Tại sao HK không đáp ứng? Mối quan hệ giữa HK và CSVN diễn tiến ra sao? Và hậu quả là thảm trạng đất nước có nguy cơ bị Hán hóa hiện nay. Giải đáp các câu hỏi trên, mới có thể kỳ vọng giới lănh đạo CSVN sẽ có những quyết định sáng suốt, thích hợp trong những ngày sắp tới để mang lại lợi ích cho dân tộc.
Nh́n lại quá khứ: Trong thế chiến 2, trong khi tiến hành cuộc chiến chống Đức Ư Nhật, lănh tụ các nước Đồng minh (Mỹ, Anh, Pháp, Trung Hoa Dân Quốc) đă thoả thuận: sau khi chiến tranh chấm dứt, họ sẽ trở lại các thuộc địa, thương thảo với người bản xứ và trao trả độc lập cho các thuộc địa để duy tŕ ảnh hưởng của ḿnh, nay đều là Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo An LHQ.
Giữa tháng 8/1945, Nhật đầu hàng. Theo sự thỏa thuận của lănh tụ các nước Đồng minh ở hội nghị Potsdam mấy tháng trước đó, Quân đội Anh vào Đông Dương, giải giới Nhật ở phía Nam vĩ tuyến 16. Anh Quốc đă giúp Pháp trở lại Nam kỳ thuộc địa. Phía Bắc vĩ tuyến 16, giao cho quân đội Trung Hoa Dân Quốc (Tưởng Giới Thạch) giải giới Nhật. Lúc bấy giờ ông HCM đă tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (2-9-1945). Tướng Lư Hán của TH đă yêu cầu ông HCM thành lập chính phủ Liên hiệp có sự tham dự của các đảng phái quốc gia được TH ủng hộ (Việt Quốc và Việt Cách).
Cuối năm 1945, tại trụ sở LHQ, hai phái đoàn Pháp và Trung Hoa thảo luận việc trao trả các nhượng địa mà Triều đ́nh nhà Thanh đă giao cho Pháp hồi thế kỷ trước. Hai bên đă thỏa thuận một sự trao đổi, đưa đến Hiệp ước Pháp Hoa kư ngày 28-02-1946 tại Trùng Khánh. Theo hiệp ước này, Pháp trả lại cho Trung Hoa các tô giới Thượng Hải, Thiên Tân, Quảng Đông, Hán Khẩu... Để đổi lại, quân Pháp sẽ thay quân Trung Hoa ở bắc vĩ tuyến 16, Pháp trở lại vùng đất bảo hộ cũ của ḿnh. Ngày Hiệp ước Pháp Hoa được kư kết, ông HCM đă gởi điện tín đến TT Truman nhờ HK can thiệp. Khi điện tín đến Ṭa Bạch Ốc, th́ trước đó hai ngày ông HCM đă cùng đại diện Pháp là Sainteny kư Hiệp ước (sơ bộ) Mùng 6 tháng 3. Pháp công nhận nước VNDCCH là một nước tự do có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chánh riêng và là một thành phần của Liên bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp. Riêng Nam Kỳ tạm thời do Pháp quản lư để chờ cuộc trưng cầu dân ư ở đây. Pháp hứa sẽ thừa nhận những quyết định của cuộc trưng cầu dân ư này.
Như vậy, HK không c̣n và có lư do ǵ để can thiệp, đó là việc nội bộ của VN và Pháp. Hai bên đă thực hiện đúng thủ tục do các nước Đồng minh quy định và đă thỏa thuận sơ khởi vấn đề độc lập của VN. Sở dĩ ông Hồ vội vă kư Hiệp ước sơ bộ với Pháp, đó là thủ đoạn của ông: muốn Pháp sớm đưa quân đến Hà Nội thay quân Tưởng Giới Thach. Đây là chỗ dựa của hai lực lượng thù địch của HCM là Việt Quốc và Việt Cách. Đồng thời muợn tay Pháp tiêu diệt các thành phần quốc gia có tinh thần yêu nước và chống Pháp. Thực hiện xong thủ đoạn, tiêu diệt các đảng phái đối lập, ông HCM phát động kháng chiến chống Pháp, giành độc quyền lănh đạo dân tộc. Đây là nổi bất hạnh của đất nước. Đáng lẽ VN đă độc lập cùng lúc với Ấn Độ, Miến Điện và Nam Dương trong những năm 1947-1948, nếu ông HCM kiên tŕ thương thảo với Pháp... Nhưng ông HCM là Ủy viên Quốc tế CS, nên theo đúng con đường do Stalin vạch ra: tiến hành chiến tranh chống thực dân đế quốc để giành độc lập cho dân tộc. V́ thế việc thương thảo với Pháp chỉ kéo dài vài tháng, đến cuối năm 1946 ông phát động toàn quốc kháng chiến.
Thất bại với ông HCM, Pháp thương thảo với cựu hoàng Bảo Đại, đưa đến Hiệp ước Elysée kư ngày 8-3-1949. Pháp chính thức nh́n nhận VN là một quốc gia đôc lập và thống nhất thuộc khối LHP. Quốc gia VN độc lập vừa ra đời, Mao Trạch Đông chiến thắng Hoa Lục (10-1949). Ngay sau đó ông HCM cầu viện Mao yểm trợ Việt Minh kháng chiến chống Pháp. Đây là cơ hội giúp Mao thu hồi lại phần đất An Nam mà ông ta cho là vốn thuộc TQ, nhưng bị thực dân Pháp cưỡng chiếm hồi thế kỷ trước. Mao c̣n có tham vọng, dùng VN làm bàn đạp xâm chiếm các nước Đông Nam Á (ĐNÁ). Lúc bấy giờ, chiến tranh lạnh đă xăy ra, HK phải giúp Pháp bảo vệ các nước Đông Dương, đồng thời thành lập khối Liên Pḥng Đông Nam Á (SEATO) khi cuộc chiến Đông Dương sắp chấm dứt hồi tháng 4/1954. Dù giúp Việt Minh chiến thắng ở Điện Biên Phủ, nhưng TT Chu Ân Lai đă ép CSVN phải chấp nhận chia cắt VN ở vĩ tuyến 17, c̣n hai nước Miên và Lào trung lập. Giới lănh đạo CSVN tố cáo Chu Ân Lai đă theo Mỹ phản bội họ.
Tháng 12/1960 CSVN triệu tập Đại hội Đảng lần thứ III, đề ra Nghị quyết giải phóng MN, thống nhất đất nước, để tăng cường phe XHCN. Bốn năm sau, (1965) HK dùng hai gọng kềm: dội bom miền Bắc và đưa quân vào miền Nam để áp lực CSVN ngồi vào hội nghị. Chiến tranh VN được kết thúc bằng HĐ Paris 1973 dựa trên cơ sở tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam VN. Đây là quyền “thiêng liêng, bất khả xâm phạm và phải được tất cả các nước tôn trọng”. “Nhân dân MNVN tự quyết định tương lai chính trị của MNVN thông qua tuyển cử thực sự tự do và dân chủ, có giám sát quốc tế” (điều 9)
-Điều 1: HK cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn của nước VN như HĐ Genève 1954 đă công nhận.
-Điều 11: Bảo đảm các quyền tự do của nhân dân (MNVN): tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động chính trị, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm ăn sinh sống, quyền tư hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh.
-Điều 15: Việc thống nhất nước VN sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp ḥa b́nh trên cơ sở bàn bạc và thỏa thuận giữa miền Bắc và Nam VN, không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào.
Điều 21: HK mong rằng Hiệp định này sẽ mang lại một thời kỳ ḥa giải với VNDCCH cũng như với tất cả các dân tộc ở Đông Dương. Theo chính sách truyền thống của ḿnh, HK sẽ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công cuộc xây dựng sau chiến tranh ở VNDCCH và toàn Đông Dương.
Điều 22: Việc chấm dứt chiến tranh, lập lại ḥa b́nh ở VN và việc thực hiện triệt để hiệp định nầy sẽ tạo điều kiện thiết lập quan hệ mới b́nh đẳng và cùng có lợi giữa VNDCCH và HK. Đồng thời, những việc đó sẽ bảo đảm ḥa b́nh vững chắc ở VN và góp phần giữ ǵn ḥa b́nh lâu dài ở Đông Dương và Đông Nam Á.
Trước khi HĐ Paris 1973 ra đời, 5 nước khối ASEAN nguyên thủy là Singapore, Mă Lai, Nam Dương, Thái Lan và Phi Luật Tân, dù có truyền thống thân Mỹ, song các nước này vẫn quyết định biến ĐNÁ thành khu vực ḥa b́nh, tự do và trung lập (1971). Điều nầy phù hợp với chủ trương của TT Nixon: chấm dứt chiến tranh VN và trung lập hóa toàn vùng ĐNÁ.
Tháng 6/1973, TT Chu Ân Lai sang Hà Nội thuyết phục ông Lê Duẩn nên “thư giản”, để Miền Nam VN, Cam Bốt và Lào được trung lập trong một thời gian dài. Ông Duẩn lên án TQ phản bội, thỏa hiệp với đế quốc Mỹ chia cắt VN lâu dài. Ông xé bỏ HĐ Paris 1973, cưỡng chiếm MNVN, đưa cả nước vào quỹ đạo Xă hội chủ nghĩa, đổi tên nước thành Cộng ḥa XHCN Việt Nam, kư Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô (3/11/1978).
Tại Diễn đàn Đối thoại Sangri-La ở Singapore thảo luận về vấn đề An ninh khu vực ChâuÁ –Thái B́nh Dương hồi cuối tháng 5 vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng được mời làm diễn giả chính của hội nghị. Ông đă nhận định:“Trong thế kỷ 20, Đông Nam Á nói riêng và châu Á-Thái B́nh Dương nói chung vốn là chiến trường ác liệt, bị chia rẽ sâu sắc trong nhiều thập kỷ. Có thể nói cả khu vực này luôn cháy bỏng khát vọng ḥa b́nh. Muốn có ḥa b́nh, phát triển và thịnh vượng th́ phải tăng cường xây dựng và củng cố ḷng tin chiến lược. Nói cách khác, chúng ta cần cùng nhau chung tay xây dựng ḷng tin chiến lược, v́ ḥa b́nh, hợp tác, thịnh vượng của châu Á – Thái B́nh Dương”.
Đối với Việt Nam -một quốc gia “đă chịu nhiều đau thương, mất mác do chiến tranh gây ra”. V́ thế, theo ông Dũng th́“Việt Nam luôn khao khát ḥa b́nh và mong muốn đóng góp vào việc củng cố ḥa b́nh, tăng cường hữu nghị, hợp tác phát triển trong khu vực và trên thế giới” và “kỳ vọng nhiều vào vai tṛ của các nước lớn, nhất là Mỹ và Trung Quốc, hai cường quốc có vai tṛ và trách nhiệm lớn nhất đối với tương lai quan hệ của chính ḿnh cũng như của cả khu vực”. Ông Dũngcho biết lập trườngcủa VN là“kiên định nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa. Chính sách quốc pḥng của Việt Nam là ḥa b́nh và tự vệ. Việt Nam không là đồng minh quân sự của nước nào và không để nước ngoài nào đặt căn cứ quân sự trên lănh thổ Việt Nam. Việt Nam không liên minh với nước này để chống lại nước khác. Việt Nam khẳng định tuân thủ nhất quán Tuyên bố nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về biển Đông; nổ lực làm hết ḿnh cùng ASEAN và Trung Quốc nghiêm túc thực hiện DOC và sớm đạt được COC. Là quốc gia ven biển, Việt Nam khẳng định và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của ḿnh theo đúng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước LHQ về Luật Biển 1982”.
Để thực hiện mục tiêu trên, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đă đến Bắc Kinh gặp lănh tụ Trung Quốc Tập Cận B́nh trong hai ngày 19 và 20 tháng 6, 2013. Hai bên đă kư 10 văn kiện hợp tác và bản Tuyên bố chung. Blooger Bùi Tín nhận xét: “Đọc thật kỹ bản Tuyên bố chung, có thể dễ dàng nhận ra nó được phía Trung Quốc khởi thảo và phía Việt Nam hoàn toàn không được đóng góp hay thay đổi ǵ hết. Bản Tuyên bố chung hoàn toàn phản ánh tham vọng bành trướng và xâm lược của Đế quốc Cộng sản Đại Hán Trung Hoa đối với đất nước Việt Nam, phục vụ dă tâm biến nhà nước Việt Nam Cộng sản thành một chư hầu của Trung Quốc, biến Việt Nam thành một thuộc địa kiểu mới của Trung Quốc”.
Báo Tổ Quốc nhận xét: “Ai cũng biết quan hệ hiện nay giữa Trung Quốc và Việt Nam là một quan hệ lệ thuộc nhưng sự lệ thuộc đó đă trở thành toàn diện và triệt để sau những ǵ mà ông Sang vừa kư, bởi v́ nó c̣n được “thúc đẩy”, “mở rộng”, “tăng cường” và “làm sâu sắc thêm”. Đặc biệt nghiêm trọng là VN đă cam kết “điều phối” và “phối hợp” với TQ, nói cách khác, nhận mệnh lệnh của TQ trong các quan hệ đối với thế giới, kể cả với Liên Hiệp Quốc. Chúng ta mất chủ quyền. Và chúng ta cũng có nguy cơ mất cả lănh thổ bởi v́ chính quyền CSVN đă chấp nhận để bảy tỉnh biên giới VN “hợp tác” và “cùng phát triển” với các khu tự trị của TQ ở biên giới...”. (Thanh Quang, Phóng viên RFA, 2013-07-08)
Sau khi đến Bắc Kinh gặp Tập Cận B́nh, Chủ tịch Trương Tấn Sang đến Washington gặp TT Obama để thiết lập mối quan hệ đối tác chiến lược với Hoa Kỳ. Sau cuộc thảo luận riêng với ông Sang ngày 25-7-2013, TT Obama cho báo chí biết Chủ tịch nước VN đă tặng ông một món quà. Đó là bản sao lá thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gởi cho TT Harry Truman hồi năm 1946. Và “Chúng tôi đă thảo luận về một thực tế rằng Hồ Chí Minh đă thực sự lấy cảm hứng từ bản Tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp Mỹ và những lời của Thomas Jefferson. Hồ Chí Minh đă nói ông muốn hợp tác với Mỹ. Và Chủ tịch Sang bày tỏ rằng ngay cả nếu trễ đến 67 năm th́ việc quan hệ chúng ta đang tiến triển cũng là điều tốt đẹp”. (And we discussed the fact that Ho Chi Minh was actually inspired by the U.S . Declaration of Independence and Constitution, and the words of Thomas Jefferson. Ho Chi Minh talks about his interest in cooperation with the United Stated. And President Sang indicated that even if it’s 67 years, it’s good that we’re still making progress”)
Nhà báo kỳ cựu Đinh Từ Thức có trong tay cuốn “Letters To the Oval Office From the files of the National Archieves: Dear Mr. President” do Dwight Young soạn, National Geographic Society xuất bản năm 2005. Theo tài liệu này, năm 1946, ông Hồ cầu cứu sự giúp đỡ của TT Truman, nhưng không được đáp ứng. Nơi trang 116 cuốn sách nói trên, có chụp văn kiện ông Hồ Chí Minh gửi TT Truman. Thật ra đây không phải là “bức thư” mà chỉ là một “bức điện tín” (telegram) đề ngày 28 tháng 02 năm 1946. Măi đến ngày 11 tháng 03, Bạch Ốc mới nhận được và cho vào hồ sơ, không có phúc đáp cho ông Hồ.
Ông Đinh Từ Thức đă dịch sang Việt ngữ nội dung điện tín này, nguyên văn như sau: Chủ tịch Hồ Chí Minh Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa gởi Tổng thống Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ Washington DC. Thay mặt Chính phủ và Nhân dân VN tôi xin báo Ngài rằng trong cuộc đối thoại giữa Chính phủ Việt Nam và các đại diện Pháp, phía Pháp đă đ̣i tách rời Nam Việt và quân Pháp trở lại Hà Nội. Stop. Trong khi ấy dân và quân Pháp đang tích cực sửa soạn cho một cuộc tấn công bất ngờ tại Hà Nội và để quân lính xâm lấn. Stop. V́ thế tôi khẩn thiết đích thân kêu gọi Ngài và nhân dân Hoa Kỳ cấp bách can thiệp ủng hộ nền độc lập của chúng tôi và giúp làm cho việc thương thảo phù hợp hơn với những nguyên tắc của các Hiến chương Đại Tây Dương và San Francisco. Trân trọng Hồ Chí Minh.
Đề cập về món quà đặc biệt này, cả ông Sang và TT Obama đều thừa nhận sự việc HCM cầu cứu sự giúp đỡ của TT Truman, xuất phát từ sự ngưỡng phục HK. Trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, ông HCM đă trích nguyên văn những lời lẽ của Thomas Jefferson -tác giả chính của Tuyên ngôn Độc lập HK năm 1776. Nay, mang tặng TT Obama lá thư của HCM 67 năm về trước, cho thấy ông Trương Tấn Sang vẫn muốn theo gương ông HCM: hợp tác với HK, dù có trể một thời gian dài, song cũng là điều tốt đẹp. Vấn đề cần t́m hiểu là bản văn của ông HCM gởi tổng thống Mỹ hồi năm 1946 diễn ra trong bối cảnh nào? Tại sao HK không đáp ứng? Mối quan hệ giữa HK và CSVN diễn tiến ra sao? Và hậu quả là thảm trạng đất nước có nguy cơ bị Hán hóa hiện nay. Giải đáp các câu hỏi trên, mới có thể kỳ vọng giới lănh đạo CSVN sẽ có những quyết định sáng suốt, thích hợp trong những ngày sắp tới để mang lại lợi ích cho dân tộc.
Nh́n lại quá khứ: Trong thế chiến 2, trong khi tiến hành cuộc chiến chống Đức Ư Nhật, lănh tụ các nước Đồng minh (Mỹ, Anh, Pháp, Trung Hoa Dân Quốc) đă thoả thuận: sau khi chiến tranh chấm dứt, họ sẽ trở lại các thuộc địa, thương thảo với người bản xứ và trao trả độc lập cho các thuộc địa để duy tŕ ảnh hưởng của ḿnh, nay đều là Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo An LHQ.
Giữa tháng 8/1945, Nhật đầu hàng. Theo sự thỏa thuận của lănh tụ các nước Đồng minh ở hội nghị Potsdam mấy tháng trước đó, Quân đội Anh vào Đông Dương, giải giới Nhật ở phía Nam vĩ tuyến 16. Anh Quốc đă giúp Pháp trở lại Nam kỳ thuộc địa. Phía Bắc vĩ tuyến 16, giao cho quân đội Trung Hoa Dân Quốc (Tưởng Giới Thạch) giải giới Nhật. Lúc bấy giờ ông HCM đă tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (2-9-1945). Tướng Lư Hán của TH đă yêu cầu ông HCM thành lập chính phủ Liên hiệp có sự tham dự của các đảng phái quốc gia được TH ủng hộ (Việt Quốc và Việt Cách).
Cuối năm 1945, tại trụ sở LHQ, hai phái đoàn Pháp và Trung Hoa thảo luận việc trao trả các nhượng địa mà Triều đ́nh nhà Thanh đă giao cho Pháp hồi thế kỷ trước. Hai bên đă thỏa thuận một sự trao đổi, đưa đến Hiệp ước Pháp Hoa kư ngày 28-02-1946 tại Trùng Khánh. Theo hiệp ước này, Pháp trả lại cho Trung Hoa các tô giới Thượng Hải, Thiên Tân, Quảng Đông, Hán Khẩu... Để đổi lại, quân Pháp sẽ thay quân Trung Hoa ở bắc vĩ tuyến 16, Pháp trở lại vùng đất bảo hộ cũ của ḿnh. Ngày Hiệp ước Pháp Hoa được kư kết, ông HCM đă gởi điện tín đến TT Truman nhờ HK can thiệp. Khi điện tín đến Ṭa Bạch Ốc, th́ trước đó hai ngày ông HCM đă cùng đại diện Pháp là Sainteny kư Hiệp ước (sơ bộ) Mùng 6 tháng 3. Pháp công nhận nước VNDCCH là một nước tự do có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chánh riêng và là một thành phần của Liên bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp. Riêng Nam Kỳ tạm thời do Pháp quản lư để chờ cuộc trưng cầu dân ư ở đây. Pháp hứa sẽ thừa nhận những quyết định của cuộc trưng cầu dân ư này.
Như vậy, HK không c̣n và có lư do ǵ để can thiệp, đó là việc nội bộ của VN và Pháp. Hai bên đă thực hiện đúng thủ tục do các nước Đồng minh quy định và đă thỏa thuận sơ khởi vấn đề độc lập của VN. Sở dĩ ông Hồ vội vă kư Hiệp ước sơ bộ với Pháp, đó là thủ đoạn của ông: muốn Pháp sớm đưa quân đến Hà Nội thay quân Tưởng Giới Thach. Đây là chỗ dựa của hai lực lượng thù địch của HCM là Việt Quốc và Việt Cách. Đồng thời muợn tay Pháp tiêu diệt các thành phần quốc gia có tinh thần yêu nước và chống Pháp. Thực hiện xong thủ đoạn, tiêu diệt các đảng phái đối lập, ông HCM phát động kháng chiến chống Pháp, giành độc quyền lănh đạo dân tộc. Đây là nổi bất hạnh của đất nước. Đáng lẽ VN đă độc lập cùng lúc với Ấn Độ, Miến Điện và Nam Dương trong những năm 1947-1948, nếu ông HCM kiên tŕ thương thảo với Pháp... Nhưng ông HCM là Ủy viên Quốc tế CS, nên theo đúng con đường do Stalin vạch ra: tiến hành chiến tranh chống thực dân đế quốc để giành độc lập cho dân tộc. V́ thế việc thương thảo với Pháp chỉ kéo dài vài tháng, đến cuối năm 1946 ông phát động toàn quốc kháng chiến.
Thất bại với ông HCM, Pháp thương thảo với cựu hoàng Bảo Đại, đưa đến Hiệp ước Elysée kư ngày 8-3-1949. Pháp chính thức nh́n nhận VN là một quốc gia đôc lập và thống nhất thuộc khối LHP. Quốc gia VN độc lập vừa ra đời, Mao Trạch Đông chiến thắng Hoa Lục (10-1949). Ngay sau đó ông HCM cầu viện Mao yểm trợ Việt Minh kháng chiến chống Pháp. Đây là cơ hội giúp Mao thu hồi lại phần đất An Nam mà ông ta cho là vốn thuộc TQ, nhưng bị thực dân Pháp cưỡng chiếm hồi thế kỷ trước. Mao c̣n có tham vọng, dùng VN làm bàn đạp xâm chiếm các nước Đông Nam Á (ĐNÁ). Lúc bấy giờ, chiến tranh lạnh đă xăy ra, HK phải giúp Pháp bảo vệ các nước Đông Dương, đồng thời thành lập khối Liên Pḥng Đông Nam Á (SEATO) khi cuộc chiến Đông Dương sắp chấm dứt hồi tháng 4/1954. Dù giúp Việt Minh chiến thắng ở Điện Biên Phủ, nhưng TT Chu Ân Lai đă ép CSVN phải chấp nhận chia cắt VN ở vĩ tuyến 17, c̣n hai nước Miên và Lào trung lập. Giới lănh đạo CSVN tố cáo Chu Ân Lai đă theo Mỹ phản bội họ.
Tháng 12/1960 CSVN triệu tập Đại hội Đảng lần thứ III, đề ra Nghị quyết giải phóng MN, thống nhất đất nước, để tăng cường phe XHCN. Bốn năm sau, (1965) HK dùng hai gọng kềm: dội bom miền Bắc và đưa quân vào miền Nam để áp lực CSVN ngồi vào hội nghị. Chiến tranh VN được kết thúc bằng HĐ Paris 1973 dựa trên cơ sở tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam VN. Đây là quyền “thiêng liêng, bất khả xâm phạm và phải được tất cả các nước tôn trọng”. “Nhân dân MNVN tự quyết định tương lai chính trị của MNVN thông qua tuyển cử thực sự tự do và dân chủ, có giám sát quốc tế” (điều 9)
-Điều 1: HK cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn của nước VN như HĐ Genève 1954 đă công nhận.
-Điều 11: Bảo đảm các quyền tự do của nhân dân (MNVN): tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động chính trị, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm ăn sinh sống, quyền tư hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh.
-Điều 15: Việc thống nhất nước VN sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp ḥa b́nh trên cơ sở bàn bạc và thỏa thuận giữa miền Bắc và Nam VN, không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào.
Điều 21: HK mong rằng Hiệp định này sẽ mang lại một thời kỳ ḥa giải với VNDCCH cũng như với tất cả các dân tộc ở Đông Dương. Theo chính sách truyền thống của ḿnh, HK sẽ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công cuộc xây dựng sau chiến tranh ở VNDCCH và toàn Đông Dương.
Điều 22: Việc chấm dứt chiến tranh, lập lại ḥa b́nh ở VN và việc thực hiện triệt để hiệp định nầy sẽ tạo điều kiện thiết lập quan hệ mới b́nh đẳng và cùng có lợi giữa VNDCCH và HK. Đồng thời, những việc đó sẽ bảo đảm ḥa b́nh vững chắc ở VN và góp phần giữ ǵn ḥa b́nh lâu dài ở Đông Dương và Đông Nam Á.
Trước khi HĐ Paris 1973 ra đời, 5 nước khối ASEAN nguyên thủy là Singapore, Mă Lai, Nam Dương, Thái Lan và Phi Luật Tân, dù có truyền thống thân Mỹ, song các nước này vẫn quyết định biến ĐNÁ thành khu vực ḥa b́nh, tự do và trung lập (1971). Điều nầy phù hợp với chủ trương của TT Nixon: chấm dứt chiến tranh VN và trung lập hóa toàn vùng ĐNÁ.
Tháng 6/1973, TT Chu Ân Lai sang Hà Nội thuyết phục ông Lê Duẩn nên “thư giản”, để Miền Nam VN, Cam Bốt và Lào được trung lập trong một thời gian dài. Ông Duẩn lên án TQ phản bội, thỏa hiệp với đế quốc Mỹ chia cắt VN lâu dài. Ông xé bỏ HĐ Paris 1973, cưỡng chiếm MNVN, đưa cả nước vào quỹ đạo Xă hội chủ nghĩa, đổi tên nước thành Cộng ḥa XHCN Việt Nam, kư Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô (3/11/1978).