vuitoichat
09-10-2013, 19:46
Ông Hoàng Văn Lễ vốn là tổng biên tập có thâm niên lâu năm của Sổ tay Xây dựng đảng – tờ báo được xem là cửa khẩu chính ngạch của Ban Tuyên giáo thành ủy TP.HCM.
Gương mặt có vẻ trầm muộn, dáng đi lặng cúi và không nổi bật trong giới học hàm học vị, viên chức tuyên huấn này đă chỉ được nhiều người biết đến sau khi một blogger của trang mạng Tâm sự Y giáo và vài nhà phê b́nh văn học như Phạm Thị Hoài công bố một “nghiên cứu nhân bản” đột biến: TS Hoàng Văn Lễ, tác giả có bài viết trên báo Sài G̣n Giải Phóng phản kích “âm mưu” thành lập đảng Dân chủ Xă hội của ông Lê Hiếu Đằng, cũng chính là các tác giả “Amari TX tức Mai Hoàng Kiên tức Trung Thành tức Tuyên Trần tức Tường Anh tức Trần Mai tức Hữu Đức tức Trọng Linh tức Khánh Sơn ad libitum” trên các báo Đảng.
Bằng vào phương pháp so sánh và đối chiếu trong nghiên cứu khoa học, sự phát hiện trên đă cho thấy nhóm trị số của các tác giả cùng gốc gác trên là đặc biệt tương hợp.
Với kết quả thú vị như thế, điều mà khoa học so sánh làm được trong trường hợp này không chỉ dẫn ra kết luận về sự giả danh Việt kiều của cán bộ tuyên giáo, mà c̣n lôi ra ánh sáng một sự thật lư thú hơn nhiều: nguồn nhân lực phản tuyên truyền của đảng đă gần như cạn kiệt.
Cân bằng truyền thông
“Phản tuyên truyền”, hay “tuyên truyền theo định hướng”, là thuật ngữ được đại trà phổ biến và triển khai trong toàn bộ hệ thống và công tác tư tưởng văn hóa từ khoảng hai chục năm trước. Ba chủ đề chính mà công tác phản tuyên truyền trọng tâm hóa là bảo vệ an ninh chính trị, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh tôn giáo.
Từ sau năm 2000, Internet bắt đầu bùng nổ và khá nhanh chóng làm cho chính thể khó ngủ. Chỉ trong ṿng một thập niên, mạng thông tin toàn cầu đă khiến những uẩn ức và bất măn trong ḷng dân biến thành mạng thông tin xă hội.
Từ vị thế hoàn toàn manh mún, thông tin xă hội lại dần được chắp vá thành mô h́nh truyền thông xă hội.
Bắt đầu từ những năm 2005-2006, một trong những nhóm bất đồng chính kiến có ảnh hưởng lớn nhất ở Việt Nam là Khối 8406 đă triệt để dùng Internet và truyền thông xă hội để loan tải tư tưởng và nội dung hành động của họ.
Và cũng từ thời điểm đó, công tác phản tuyên truyền trên báo đảng đă bắt buộc phải “thay đổi về lượng và chất”.
Điều ngày càng hiển nhiên là các cơ quan khoa giáo, tư tưởng văn hóa, tuyên huấn và sau này là tuyên giáo của Đảng đă không c̣n chiếm ưu thế trong hoạt động thông tin một chiều.
Đa dạng và đa chiều thông tin luôn có thể gây “xâm hại” đến đa nguyên tư tưởng, kể cả tạo ra tư tưởng đảng phái và thái độ thay thế chính đảng cầm quyền.
Cũng từ năm 2000, một sự kiện không kém “diễn biến” là độ mở trong quan hệ Việt – Mỹ bắt đầu h́nh thành, được chứng thực bởi Hiệp định song phương thương mại giữa hai quốc gia vốn là cựu thù.
Mở lối chính trị lại tiếp sức cho thoáng đạt thông tin. Người dân và nhiều trí thức trong đảng đă dần biết đến những tin tức tổng hợp của các đài báo quốc tế về một số t́nh h́nh được xem là thực chất hơn nhiều so với thông tin một chiều trên báo đảng, liên quan đến “triều chính”, quan điểm đối ngoại, những phong trào và cá nhân bất đồng, đối kháng, kể cả hiện t́nh của văn nghệ nước nhà hoặc nhiều khuất tất về tài chính.
Cũng vào thời gian này, trong lực lượng phản tuyên truyền đă xuất hiện dấu hiệu “mỏng” dần, dù mức nhuận bút được cải thiện đáng kể.
Một số đánh giá không chính thức từ những người làm công ăn lương đă cho thấy các bài viết phản tuyên truyền không c̣n nhất quán về lập trường và theo phương châm triệt để dùng lư lẽ để phản bác các “luận điệu sai trái” như trước đây.
Thay vào đó là tính tư tưởng và lư luận trở nên trung dung và có vẻ ôn ḥa hơn, các luận điểm nêu ra cũng xa rời thực tế đời sống hơn, hiệu ứng lan tỏa và tác động của bài viết thấp hơn.
Khi những cuộc biểu t́nh đầu tiên chống Trung Quốc can thiệp vào Biển Đông chớm nở ở Hà Nội, cũng là lần đầu tiên dư luận chú tâm đến đến một sắc thái mới: nội dung phản tuyên truyền trên báo đảng đă bắt đầu phải đề cập nhiều hơn hẳn những thông tin “không chính thống”, thay cho thái độ bỏ qua hoặc rất ít nhắc tới những thông tin này trong giai đoạn trước đây.
Vào lúc này, chủ đích phản tuyên truyền đă được xem như một trọng điểm nặng gánh đối với ngành tuyên giáo.
Cũng vào lúc này, “lề đảng” đă bắt buộc phải tích cực “nhân bản” đối tượng tuyên truyền viên và dư luận viên, trong đó đặc biệt quan tâm “bồi dưỡng” những cây viết phản tuyên truyền được xem là “cao cấp”.
Đặc biệt từ đầu năm 2013 đến nay, mối tương tác giữa truyền thông nhà nước với truyền thông xă hội càng có tính song ánh. Hàng loạt sự kiện đă xảy ra và đánh dấu quan hệ “môi răng” như thế: “Kiến nghị 72” của một nhóm nhân sĩ, trí thức; hai vụ tuyệt thực của các ông Cù Huy Hà Vũ và Điếu Cày Nguyễn Văn Hải; hoặc gần đây nhất là hiện tượng Lê Hiếu Đằng với tư tưởng “tính sổ” với Đảng.
Càng về sau này, “độ trễ” trong phản ứng của hoạt động phản tuyên truyền càng được thu ngắn. Nếu như trước đây, độ trễ ấy có thể đến cả tháng, th́ về sau này đă chỉ c̣n vài tuần lễ.
Thậm chí, liên quan đến vụ việc giáo dân giáo xứ Mỹ Yên ở Nghệ An bị chính quyền và công an địa phương trấn áp vào đầu tháng 9/2013, đă có đến hơn mười bài phản tuyên truyền được tung lên trên mặt báo Nghệ An chỉ vài ngày sau đó – một hiện tượng rất gần với khái niệm “Cơn lên đồng tập thể” mà ông Lê Hiếu Đằng đă dùng để điềm chỉ giới báo chí quốc doanh “đánh hội đồng” ḿnh.
Cùng với độ mở chính trị đối ngoại giữa Nhà nước Việt Nam trong thế bắt buộc phải tương tác với Mỹ và phương Tây, năm 2013 đang chứng kiến một h́nh ảnh chưa có tiền lệ: thế tạm thời cân bằng giữa truyền thông xă hội với báo chí nhà nước, không chỉ trên phương diện tuyên truyền mà c̣n cả về các tin tức kinh tế - xă hội – văn hóa.
Đây cũng là thời điểm mà yêu cầu phản tuyên truyền được “nâng cao thêm một mức”, làm mọi cách để có được những Amari TX từ việc “nhân bản” những dư luận viên cao cấp như TS. Hoàng Văn Lễ mà người ta đă có dịp xâu chuỗi và cười cợt.
Chuyển lề
Dù đă có nhiều cố gắng, nhưng điều đáng tiếc cho các báo đảng là họ ngày càng khó xử và mất sĩ diện trong việc lôi kéo các tờ báo quốc doanh khác tham gia vào mặt trận phản tuyên truyền.
Trong những vụ việc “nhạy cảm” như Đoàn Văn Vươn, Phương Uyên hay các nhân vật “lệch lạc về quan điểm”, những tờ báo có tiếng tăm nhất ở Việt Nam như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Vietnamnet đă chỉ tham gia một cách miễn cưỡng trong khuôn khổ định hướng cầm tay chỉ việc của Ban Tuyên giáo trung ương.
http://younhac.com/forum/attachment.php?attac hmentid=86533&stc=1&d=1378842305
Hiện có phân hóa sâu sắc giữa nhóm báo “kiên định” như Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân...với số c̣n lại của hơn 700 tờ báo Việt Nam
T́nh h́nh này cũng khiến nảy sinh một đặc thù mới mẻ và đầy hấp dẫn trong nội bộ truyền thông nhà nước: phân hóa sâu sắc giữa nhóm báo “kiên định” như Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân, Đại Đoàn Kết, Sài G̣n Giải Phóng với số c̣n lại của hơn 700 tờ báo được phép phát hành.
Mặt báo Đảng vẫn loang lổ những từ ngữ “chống đối, thù địch, vu cáo, vu khống, bịa đặt, xuyên tạc, đội lốt…” không thay đổi trên mặt báo Đảng sau hai mươi năm qua, được ưu ái dành cho những người và những tổ chức cần phải “quay đầu là bờ”.
Vẫn là ư thức hệ độc đoán được mặc định trong tư tưởng bài viết, lối hành văn khuôn cứng, giáo điều không chỉ về văn phạm và cấu trúc mà c̣n rơi vào cơn khủng hoảng hiếm muộn từ ngữ. Không khá hơn, ngoài mảng thông tin “công an hóa”, những thông tin “lề trái” được báo đảng trích dẫn cũng thường được triệt để vận dụng thủ pháp “tuyên truyền xám” như đă được chính những tờ báo này chỉ trích giới truyền thông phương Tây.
Một nhân viên an ninh có thâm niên, tất nhiên giấu tên, đă b́nh luận về chất lượng phản tuyên truyền trên báo đảng: “Họ vẫn viết như ngày nào… Cứ viết thế này th́ sẽ chẳng có ai đọc nữa.”
Cũng có một dư luận viên ngán ngẩm: “Nói quay đầu là bờ, nhưng coi chừng đến bờ lại quay đầu.”
Phải chăng những lời trần t́nh ruột rà trên là thực trạng đau khổ của giới lănh đạo tuyên giáo Việt Nam? Trong khung cảnh thê thảm về thực tồn xă hội cùng sự thăng hoa bất chấp của các nhóm lợi ích tài phiệt lẫn chính trị, một xu thế không thể tránh khỏi trong tương lai gần là những tay viết “lề phải” đang rơi vào tâm thế im lặng.
Sự im lặng này được giải thích xuất phát từ hai nguồn cơn chính: phản tuyên truyền như thế nào và để làm ǵ nếu như trong tâm khảm họ không c̣n trung trinh tính chính nghĩa? Và làm sao để bắt bẻ “lề trái” bằng những lư lẽ trái ngược với ḷng dân?
Hoặc như lời một phụ nữ ở Văn Giang, Hưng Yên thốt lên với lực lượng công an trong ngày chống cưỡng chế thu hồi đất phi pháp vào năm 2012:
“Các cậu đuổi dân để bảo vệ ai? Bảo vệ những đứa đang chà đạp chính gia đ́nh của các cậu à?”.
Độ mở đối ngoại cũng hiển nhiên mang tính bắt buộc đối với độ mở dân chủ nội trị. Rất không loại trừ trong vài ba năm tới, những cây viết “lề phải” sẽ dần chuyển sang “lề trái”, và cái sự thật cay đắng đó lại càng làm cho cơn sốt rét khan hiếm nguồn lực phản tuyên truyền của báo đảng và giới tuyên giáo “mensêvích” trở nên cấp tính hơn.
Nguồn: Phạm Chí Dũng/BBC
Gương mặt có vẻ trầm muộn, dáng đi lặng cúi và không nổi bật trong giới học hàm học vị, viên chức tuyên huấn này đă chỉ được nhiều người biết đến sau khi một blogger của trang mạng Tâm sự Y giáo và vài nhà phê b́nh văn học như Phạm Thị Hoài công bố một “nghiên cứu nhân bản” đột biến: TS Hoàng Văn Lễ, tác giả có bài viết trên báo Sài G̣n Giải Phóng phản kích “âm mưu” thành lập đảng Dân chủ Xă hội của ông Lê Hiếu Đằng, cũng chính là các tác giả “Amari TX tức Mai Hoàng Kiên tức Trung Thành tức Tuyên Trần tức Tường Anh tức Trần Mai tức Hữu Đức tức Trọng Linh tức Khánh Sơn ad libitum” trên các báo Đảng.
Bằng vào phương pháp so sánh và đối chiếu trong nghiên cứu khoa học, sự phát hiện trên đă cho thấy nhóm trị số của các tác giả cùng gốc gác trên là đặc biệt tương hợp.
Với kết quả thú vị như thế, điều mà khoa học so sánh làm được trong trường hợp này không chỉ dẫn ra kết luận về sự giả danh Việt kiều của cán bộ tuyên giáo, mà c̣n lôi ra ánh sáng một sự thật lư thú hơn nhiều: nguồn nhân lực phản tuyên truyền của đảng đă gần như cạn kiệt.
Cân bằng truyền thông
“Phản tuyên truyền”, hay “tuyên truyền theo định hướng”, là thuật ngữ được đại trà phổ biến và triển khai trong toàn bộ hệ thống và công tác tư tưởng văn hóa từ khoảng hai chục năm trước. Ba chủ đề chính mà công tác phản tuyên truyền trọng tâm hóa là bảo vệ an ninh chính trị, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh tôn giáo.
Từ sau năm 2000, Internet bắt đầu bùng nổ và khá nhanh chóng làm cho chính thể khó ngủ. Chỉ trong ṿng một thập niên, mạng thông tin toàn cầu đă khiến những uẩn ức và bất măn trong ḷng dân biến thành mạng thông tin xă hội.
Từ vị thế hoàn toàn manh mún, thông tin xă hội lại dần được chắp vá thành mô h́nh truyền thông xă hội.
Bắt đầu từ những năm 2005-2006, một trong những nhóm bất đồng chính kiến có ảnh hưởng lớn nhất ở Việt Nam là Khối 8406 đă triệt để dùng Internet và truyền thông xă hội để loan tải tư tưởng và nội dung hành động của họ.
Và cũng từ thời điểm đó, công tác phản tuyên truyền trên báo đảng đă bắt buộc phải “thay đổi về lượng và chất”.
Điều ngày càng hiển nhiên là các cơ quan khoa giáo, tư tưởng văn hóa, tuyên huấn và sau này là tuyên giáo của Đảng đă không c̣n chiếm ưu thế trong hoạt động thông tin một chiều.
Đa dạng và đa chiều thông tin luôn có thể gây “xâm hại” đến đa nguyên tư tưởng, kể cả tạo ra tư tưởng đảng phái và thái độ thay thế chính đảng cầm quyền.
Cũng từ năm 2000, một sự kiện không kém “diễn biến” là độ mở trong quan hệ Việt – Mỹ bắt đầu h́nh thành, được chứng thực bởi Hiệp định song phương thương mại giữa hai quốc gia vốn là cựu thù.
Mở lối chính trị lại tiếp sức cho thoáng đạt thông tin. Người dân và nhiều trí thức trong đảng đă dần biết đến những tin tức tổng hợp của các đài báo quốc tế về một số t́nh h́nh được xem là thực chất hơn nhiều so với thông tin một chiều trên báo đảng, liên quan đến “triều chính”, quan điểm đối ngoại, những phong trào và cá nhân bất đồng, đối kháng, kể cả hiện t́nh của văn nghệ nước nhà hoặc nhiều khuất tất về tài chính.
Cũng vào thời gian này, trong lực lượng phản tuyên truyền đă xuất hiện dấu hiệu “mỏng” dần, dù mức nhuận bút được cải thiện đáng kể.
Một số đánh giá không chính thức từ những người làm công ăn lương đă cho thấy các bài viết phản tuyên truyền không c̣n nhất quán về lập trường và theo phương châm triệt để dùng lư lẽ để phản bác các “luận điệu sai trái” như trước đây.
Thay vào đó là tính tư tưởng và lư luận trở nên trung dung và có vẻ ôn ḥa hơn, các luận điểm nêu ra cũng xa rời thực tế đời sống hơn, hiệu ứng lan tỏa và tác động của bài viết thấp hơn.
Khi những cuộc biểu t́nh đầu tiên chống Trung Quốc can thiệp vào Biển Đông chớm nở ở Hà Nội, cũng là lần đầu tiên dư luận chú tâm đến đến một sắc thái mới: nội dung phản tuyên truyền trên báo đảng đă bắt đầu phải đề cập nhiều hơn hẳn những thông tin “không chính thống”, thay cho thái độ bỏ qua hoặc rất ít nhắc tới những thông tin này trong giai đoạn trước đây.
Vào lúc này, chủ đích phản tuyên truyền đă được xem như một trọng điểm nặng gánh đối với ngành tuyên giáo.
Cũng vào lúc này, “lề đảng” đă bắt buộc phải tích cực “nhân bản” đối tượng tuyên truyền viên và dư luận viên, trong đó đặc biệt quan tâm “bồi dưỡng” những cây viết phản tuyên truyền được xem là “cao cấp”.
Đặc biệt từ đầu năm 2013 đến nay, mối tương tác giữa truyền thông nhà nước với truyền thông xă hội càng có tính song ánh. Hàng loạt sự kiện đă xảy ra và đánh dấu quan hệ “môi răng” như thế: “Kiến nghị 72” của một nhóm nhân sĩ, trí thức; hai vụ tuyệt thực của các ông Cù Huy Hà Vũ và Điếu Cày Nguyễn Văn Hải; hoặc gần đây nhất là hiện tượng Lê Hiếu Đằng với tư tưởng “tính sổ” với Đảng.
Càng về sau này, “độ trễ” trong phản ứng của hoạt động phản tuyên truyền càng được thu ngắn. Nếu như trước đây, độ trễ ấy có thể đến cả tháng, th́ về sau này đă chỉ c̣n vài tuần lễ.
Thậm chí, liên quan đến vụ việc giáo dân giáo xứ Mỹ Yên ở Nghệ An bị chính quyền và công an địa phương trấn áp vào đầu tháng 9/2013, đă có đến hơn mười bài phản tuyên truyền được tung lên trên mặt báo Nghệ An chỉ vài ngày sau đó – một hiện tượng rất gần với khái niệm “Cơn lên đồng tập thể” mà ông Lê Hiếu Đằng đă dùng để điềm chỉ giới báo chí quốc doanh “đánh hội đồng” ḿnh.
Cùng với độ mở chính trị đối ngoại giữa Nhà nước Việt Nam trong thế bắt buộc phải tương tác với Mỹ và phương Tây, năm 2013 đang chứng kiến một h́nh ảnh chưa có tiền lệ: thế tạm thời cân bằng giữa truyền thông xă hội với báo chí nhà nước, không chỉ trên phương diện tuyên truyền mà c̣n cả về các tin tức kinh tế - xă hội – văn hóa.
Đây cũng là thời điểm mà yêu cầu phản tuyên truyền được “nâng cao thêm một mức”, làm mọi cách để có được những Amari TX từ việc “nhân bản” những dư luận viên cao cấp như TS. Hoàng Văn Lễ mà người ta đă có dịp xâu chuỗi và cười cợt.
Chuyển lề
Dù đă có nhiều cố gắng, nhưng điều đáng tiếc cho các báo đảng là họ ngày càng khó xử và mất sĩ diện trong việc lôi kéo các tờ báo quốc doanh khác tham gia vào mặt trận phản tuyên truyền.
Trong những vụ việc “nhạy cảm” như Đoàn Văn Vươn, Phương Uyên hay các nhân vật “lệch lạc về quan điểm”, những tờ báo có tiếng tăm nhất ở Việt Nam như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Vietnamnet đă chỉ tham gia một cách miễn cưỡng trong khuôn khổ định hướng cầm tay chỉ việc của Ban Tuyên giáo trung ương.
http://younhac.com/forum/attachment.php?attac hmentid=86533&stc=1&d=1378842305
Hiện có phân hóa sâu sắc giữa nhóm báo “kiên định” như Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân...với số c̣n lại của hơn 700 tờ báo Việt Nam
T́nh h́nh này cũng khiến nảy sinh một đặc thù mới mẻ và đầy hấp dẫn trong nội bộ truyền thông nhà nước: phân hóa sâu sắc giữa nhóm báo “kiên định” như Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân, Đại Đoàn Kết, Sài G̣n Giải Phóng với số c̣n lại của hơn 700 tờ báo được phép phát hành.
Mặt báo Đảng vẫn loang lổ những từ ngữ “chống đối, thù địch, vu cáo, vu khống, bịa đặt, xuyên tạc, đội lốt…” không thay đổi trên mặt báo Đảng sau hai mươi năm qua, được ưu ái dành cho những người và những tổ chức cần phải “quay đầu là bờ”.
Vẫn là ư thức hệ độc đoán được mặc định trong tư tưởng bài viết, lối hành văn khuôn cứng, giáo điều không chỉ về văn phạm và cấu trúc mà c̣n rơi vào cơn khủng hoảng hiếm muộn từ ngữ. Không khá hơn, ngoài mảng thông tin “công an hóa”, những thông tin “lề trái” được báo đảng trích dẫn cũng thường được triệt để vận dụng thủ pháp “tuyên truyền xám” như đă được chính những tờ báo này chỉ trích giới truyền thông phương Tây.
Một nhân viên an ninh có thâm niên, tất nhiên giấu tên, đă b́nh luận về chất lượng phản tuyên truyền trên báo đảng: “Họ vẫn viết như ngày nào… Cứ viết thế này th́ sẽ chẳng có ai đọc nữa.”
Cũng có một dư luận viên ngán ngẩm: “Nói quay đầu là bờ, nhưng coi chừng đến bờ lại quay đầu.”
Phải chăng những lời trần t́nh ruột rà trên là thực trạng đau khổ của giới lănh đạo tuyên giáo Việt Nam? Trong khung cảnh thê thảm về thực tồn xă hội cùng sự thăng hoa bất chấp của các nhóm lợi ích tài phiệt lẫn chính trị, một xu thế không thể tránh khỏi trong tương lai gần là những tay viết “lề phải” đang rơi vào tâm thế im lặng.
Sự im lặng này được giải thích xuất phát từ hai nguồn cơn chính: phản tuyên truyền như thế nào và để làm ǵ nếu như trong tâm khảm họ không c̣n trung trinh tính chính nghĩa? Và làm sao để bắt bẻ “lề trái” bằng những lư lẽ trái ngược với ḷng dân?
Hoặc như lời một phụ nữ ở Văn Giang, Hưng Yên thốt lên với lực lượng công an trong ngày chống cưỡng chế thu hồi đất phi pháp vào năm 2012:
“Các cậu đuổi dân để bảo vệ ai? Bảo vệ những đứa đang chà đạp chính gia đ́nh của các cậu à?”.
Độ mở đối ngoại cũng hiển nhiên mang tính bắt buộc đối với độ mở dân chủ nội trị. Rất không loại trừ trong vài ba năm tới, những cây viết “lề phải” sẽ dần chuyển sang “lề trái”, và cái sự thật cay đắng đó lại càng làm cho cơn sốt rét khan hiếm nguồn lực phản tuyên truyền của báo đảng và giới tuyên giáo “mensêvích” trở nên cấp tính hơn.
Nguồn: Phạm Chí Dũng/BBC