Romano
09-16-2013, 20:21
Trong nửa thứ hai của thế kỷ XX, trống đồng đă trở thành một biểu tượng về “thời cổ nước Việt”.
Tuy nhiên, từ thời điểm người dân mà chúng ta gọi là Việt bắt đầu ghi chép thông tin về ḿnh cho đến nay – một quăng thời gian đại khái tương ứng với một ngh́n năm thuộc thiên niên kỷ thứ 2 sau Công lịch – trống đồng chưa bao giờ là một bộ phận của đời sống văn hóa người Việt. Thay vào đó là những người mà người Việt xem là khác với bản thân họ, và những người người Việt tỏ thái độ kẻ cả, những người dùng trống đồng trong đời sống văn hóa của họ.
Hiểu đơn giản, không người Việt nào trước thế kỷ XX từng xem trống đồng là một biểu tượng về “thời cổ nước Việt”. Thực vậy, trong nhiều thế kỷ, hầu hết người Việt có lẽ đă sống và chết mà chưa từng nh́n thấy, hay nghe nói về một chiếc trống đồng.
Đối với người Việt đă viết về trống đồng trước thế kỷ XX, họ cũng không hề biết tí ǵ về chúng. Trong nhiều trường hợp, khi họ viết về trống đồng, họ thực hiện việc này bằng cách trích dẫn những nguồn tư liệu “Trung Hoa” hiện có lúc bấy giờ. Đó là bởi bản thân họ không biết ǵ về trống đồng.
Chẳng hạn, hăy xem xét việc Lê Tắc phải nói về trống đồng trong cuốn An Nam chí lược (安南志略) ở thế kỉ XIV. Trong công tŕnh này, Lê Tắc kết nối trống đồng với một nhóm sắc tộc khác, nhóm Lăo/Liêu Tử 獠子, một nhóm người mà Lê Tắc nhắc đến bằng khái niệm có tính miệt thị là “người mọi” (man tử 蠻子). Đây là điều mà ông viết :
“Lăo/Liêu Tử là tên khác của người mọi. Họ có nhiều ở Hồ Quảng và Vân Nam. Một số phục tùng Giao Chỉ. Cũng có một số dân xăm lên trán và khoan lỗ vào răng. Có một ít kiểu người man khác nhau. Người xưa chép rằng cho loại người Lăo/Liêu h́nh đầu người (頭形獠子 đầu h́nh Lạo Tử – có lẽ là chép sai từ Lạo Tử đầu bay 飛頭獠子 – phi đầu Lạo tử), Liêu Tử khố đỏ (赤裸獠子 – Xích lơa) và Lăo/Liêu Tử uống bằng mũi (鼻飲獠子 – tị ẩm Lạo tử). Họ đều sống ở hang động hoặc ở ổ, hốc. Họ thường uống rượu bằng ống sậy. Họ thích đánh nhau với kẻ thù [thạo bắn nỏ] và họ đánh trống đồng. Họ đánh giá cao những chiếc trống lớn. Khi một chiếc trống mới được hoàn thành, họ đặt nó ở ngoài sân cùng với rượu rồi mời đồng loại đến [ăn mừng]. Họ đến đứng chật cửa [sân]. Con cái của một nhà quư tộc lấy chiếc thoa bằng vàng hoặc bạc đánh vào trống, sau đó cô ta để lại nó cho chủ nhà”(1).
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=516697&stc=1&d=1379362857
Vậy là trong văn bản này, trống đồng được liên hệ với một nhóm người khác với người Việt – tức người Lăo/Liêu Tử, được Lê Tắc gọi một cách miệt thị là “người mọi”. Dễ dàng nói rằng cái tên này chỉ nhóm người mà ngày nay chúng ta gọi là “Lào”, nhưng điều đó có lẽ không chính xác, khi mà việc sử dụng trống đồng dường như không giới hạn ở tổ tiên của nhóm người mà ngày nay chúng ta gọi là Lào.
Dù thế nào, không có chi tiết nào Lê Tắc cung cấp là của bản thân ông. Thay vào đó, chúng có thể được t́m thấy trong những nguồn tư liệu “Trung Hoa” sớm hơn. Một số người sẽ lập luận rằng Lê Tắc có lẽ đă viết bằng cách này bởi ông viết sách này khi ông đang ở “Trung Quốc”, nhưng một văn bản địa dư ở thế kỷ XIX, cuốn Đại Nam nhất thống chí (大南一統志), cũng dẫn các nguồn tư liệu “Trung Hoa” để giải thích thế nào là trống đồng.
Có một đoạn văn trong cuốn sách đó nói về một ngôi đền có tên là đền thần Đồng Cổ (Đồng Cổ thần từ 銅鼓神祠) mà tôi sẽ viết về nó sau này, và ở cuối đoạn văn, một số văn bản “Trung Hoa” được trích dẫn để giải thích thế nào là trống đồng. Và tôi nghĩ có một điều có ư nghĩa cần lưu ư là bản dịch tiếng Việt của văn bản này đă bỏ qua thông tin này (vâng, một ví dụ nữa về việc v́ sao phiên bản quốc ngữ của các văn bản Hán khiếm khuyết một cách vô vọng).
Đây là điều văn bản đó viết :
“Theo sách Hậu Hán thư (Hou Hanshu 後漢書), Mă Viện chiếm được những trống đồng Lạc Việt ở Giao Chỉ. Sách Quảng Châu kư [Guangzhouji 廣州記chép rằng] dân Lị và Liêu đă đúc trống bằng đồng, chỉ những chiếc cao lớn mới được đánh giá cao, và nó rộng hơn 1 mét. Khi trống đồng mới được đúc xong, nó được treo giữa một cái sân. Rượu được bày ở đó và họ mời đồng loại đến. Con gái của một vị hào phú lấy một chiếc thoa vàng hoặc bạc đánh vào trống, sau đó cô ta để lại nó cho chủ nhân của trống. Sách Tùy thư [Suishu 隋書] cũng [chép] các tộc mọi khác đều đúc trống đồng lớn. Khi có việc ǵ đó, họ sẽ đánh trống và mọi người kéo đến như mây tụ…”(2).
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=516698&stc=1&d=1379362878
Vậy là trước thế kỷ XX, trống đồng, cái ngày nay là biểu tượng của “thời cổ nước Việt”, về cơ bản không được người Việt biết đến.
Vậy tại sao chỉ sau khi người châu Âu khai quật được trống đồng từ dưới đất ở thế kỷ XX và giới thiệu khái niệm dân tộc chủ nghĩa cho người Việt, người Việt mới bắt đầu xem trống đồng là biểu tượng quan trọng ?
Ồ, tôi nghĩ tôi vừa trả lời câu hỏi của chính ḿnh…
———————————————————— —-
Chú thích của người dịch :
(1) Đoạn này sách An Nam chí lược (bản dịch của Viện đại học Huế, 1961) dịch như sau :
Liêu-Tử : là một tên khác của giống man, di, phần đông thống thuộc về các tỉnh Hồ-Nam, Lưỡng-Quảng và Vân-Nam, nhưng có một số phục-tùng nước Giao-Chỉ. Lại có bọn khắc chữ nơi trán, cà răng, chủng loại rất nhiều. Sách cổ chép có thứ Liêu-tử “đầu-h́nh”, thứ Liêu-Tử xích-côn (váy đỏ), thứ Liêu-Tử tỷ-ẩm (uống bằng mũi), đều ởtrong hang đá, hầm đất, hoặc ở chuồng, ở ổ, hay uống rượu sậy, thích đánh giặc, phần đông biết dùng cung nỏ, và đánh trống đồng. Thứ trống nào cao lớn là quư. Cái trống mới đúc xong, th́ đặt giữa sân, thết tiệc, mời cả người đồng loại cùng tới đầy cửa. Con gái nhà hào phú lấy những chiếc soa bằng vàng bạc, đánh vào trống, xong, để chiếc soa ấy lại cho chủ nhà. Có kẻ nói : trống đồng là chiêng của Gia-Cát-Lượng lúc đi đánh giặc mọi.
Đúng là nguyên bản viết “xích côn” (quần ngắn màu đỏ 赤裩) không phải “xích lơa” (trần truồng).
(2) Đoạn này tôi chưa kiểm tra được phiên bản quốc ngữ. Theo nguyên bản Hán văn có thể dịch như sau :
“Theo sách Hậu Hán thư (Hou Hanshu 後漢書), Mă Viện bắt được những trống Lạc Việt ở Giao Chỉ. Sách Quảng Châu kư [Guangzhouji 廣州記 chép rằng] dân Lị và Liêu đă đúc trống bằng đồng, chỉ những chiếc cao lớn là được xem là quư, và nó rộng hơn 1 trượng. Khi trống đồng mới được làm xong, nó được treo ở sân. Rượu được bày ở đó và họ mời đồng loại đến. Con gái của một vị hào phú dùng vàng bạc làm chiếc thoa lớn gơ vào trống, sau đó cô ta để lại nó cho chủ nhân. Lại sách Tùy thư [Suishu 隋書] [chép rằng] : các tộc mọi đều đúc trống đồng lớn. Khi có việc ǵ đó, họ sẽ đánh trống và, người kéo đến như mây tụ…”.
ttxva
Tuy nhiên, từ thời điểm người dân mà chúng ta gọi là Việt bắt đầu ghi chép thông tin về ḿnh cho đến nay – một quăng thời gian đại khái tương ứng với một ngh́n năm thuộc thiên niên kỷ thứ 2 sau Công lịch – trống đồng chưa bao giờ là một bộ phận của đời sống văn hóa người Việt. Thay vào đó là những người mà người Việt xem là khác với bản thân họ, và những người người Việt tỏ thái độ kẻ cả, những người dùng trống đồng trong đời sống văn hóa của họ.
Hiểu đơn giản, không người Việt nào trước thế kỷ XX từng xem trống đồng là một biểu tượng về “thời cổ nước Việt”. Thực vậy, trong nhiều thế kỷ, hầu hết người Việt có lẽ đă sống và chết mà chưa từng nh́n thấy, hay nghe nói về một chiếc trống đồng.
Đối với người Việt đă viết về trống đồng trước thế kỷ XX, họ cũng không hề biết tí ǵ về chúng. Trong nhiều trường hợp, khi họ viết về trống đồng, họ thực hiện việc này bằng cách trích dẫn những nguồn tư liệu “Trung Hoa” hiện có lúc bấy giờ. Đó là bởi bản thân họ không biết ǵ về trống đồng.
Chẳng hạn, hăy xem xét việc Lê Tắc phải nói về trống đồng trong cuốn An Nam chí lược (安南志略) ở thế kỉ XIV. Trong công tŕnh này, Lê Tắc kết nối trống đồng với một nhóm sắc tộc khác, nhóm Lăo/Liêu Tử 獠子, một nhóm người mà Lê Tắc nhắc đến bằng khái niệm có tính miệt thị là “người mọi” (man tử 蠻子). Đây là điều mà ông viết :
“Lăo/Liêu Tử là tên khác của người mọi. Họ có nhiều ở Hồ Quảng và Vân Nam. Một số phục tùng Giao Chỉ. Cũng có một số dân xăm lên trán và khoan lỗ vào răng. Có một ít kiểu người man khác nhau. Người xưa chép rằng cho loại người Lăo/Liêu h́nh đầu người (頭形獠子 đầu h́nh Lạo Tử – có lẽ là chép sai từ Lạo Tử đầu bay 飛頭獠子 – phi đầu Lạo tử), Liêu Tử khố đỏ (赤裸獠子 – Xích lơa) và Lăo/Liêu Tử uống bằng mũi (鼻飲獠子 – tị ẩm Lạo tử). Họ đều sống ở hang động hoặc ở ổ, hốc. Họ thường uống rượu bằng ống sậy. Họ thích đánh nhau với kẻ thù [thạo bắn nỏ] và họ đánh trống đồng. Họ đánh giá cao những chiếc trống lớn. Khi một chiếc trống mới được hoàn thành, họ đặt nó ở ngoài sân cùng với rượu rồi mời đồng loại đến [ăn mừng]. Họ đến đứng chật cửa [sân]. Con cái của một nhà quư tộc lấy chiếc thoa bằng vàng hoặc bạc đánh vào trống, sau đó cô ta để lại nó cho chủ nhà”(1).
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=516697&stc=1&d=1379362857
Vậy là trong văn bản này, trống đồng được liên hệ với một nhóm người khác với người Việt – tức người Lăo/Liêu Tử, được Lê Tắc gọi một cách miệt thị là “người mọi”. Dễ dàng nói rằng cái tên này chỉ nhóm người mà ngày nay chúng ta gọi là “Lào”, nhưng điều đó có lẽ không chính xác, khi mà việc sử dụng trống đồng dường như không giới hạn ở tổ tiên của nhóm người mà ngày nay chúng ta gọi là Lào.
Dù thế nào, không có chi tiết nào Lê Tắc cung cấp là của bản thân ông. Thay vào đó, chúng có thể được t́m thấy trong những nguồn tư liệu “Trung Hoa” sớm hơn. Một số người sẽ lập luận rằng Lê Tắc có lẽ đă viết bằng cách này bởi ông viết sách này khi ông đang ở “Trung Quốc”, nhưng một văn bản địa dư ở thế kỷ XIX, cuốn Đại Nam nhất thống chí (大南一統志), cũng dẫn các nguồn tư liệu “Trung Hoa” để giải thích thế nào là trống đồng.
Có một đoạn văn trong cuốn sách đó nói về một ngôi đền có tên là đền thần Đồng Cổ (Đồng Cổ thần từ 銅鼓神祠) mà tôi sẽ viết về nó sau này, và ở cuối đoạn văn, một số văn bản “Trung Hoa” được trích dẫn để giải thích thế nào là trống đồng. Và tôi nghĩ có một điều có ư nghĩa cần lưu ư là bản dịch tiếng Việt của văn bản này đă bỏ qua thông tin này (vâng, một ví dụ nữa về việc v́ sao phiên bản quốc ngữ của các văn bản Hán khiếm khuyết một cách vô vọng).
Đây là điều văn bản đó viết :
“Theo sách Hậu Hán thư (Hou Hanshu 後漢書), Mă Viện chiếm được những trống đồng Lạc Việt ở Giao Chỉ. Sách Quảng Châu kư [Guangzhouji 廣州記chép rằng] dân Lị và Liêu đă đúc trống bằng đồng, chỉ những chiếc cao lớn mới được đánh giá cao, và nó rộng hơn 1 mét. Khi trống đồng mới được đúc xong, nó được treo giữa một cái sân. Rượu được bày ở đó và họ mời đồng loại đến. Con gái của một vị hào phú lấy một chiếc thoa vàng hoặc bạc đánh vào trống, sau đó cô ta để lại nó cho chủ nhân của trống. Sách Tùy thư [Suishu 隋書] cũng [chép] các tộc mọi khác đều đúc trống đồng lớn. Khi có việc ǵ đó, họ sẽ đánh trống và mọi người kéo đến như mây tụ…”(2).
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=516698&stc=1&d=1379362878
Vậy là trước thế kỷ XX, trống đồng, cái ngày nay là biểu tượng của “thời cổ nước Việt”, về cơ bản không được người Việt biết đến.
Vậy tại sao chỉ sau khi người châu Âu khai quật được trống đồng từ dưới đất ở thế kỷ XX và giới thiệu khái niệm dân tộc chủ nghĩa cho người Việt, người Việt mới bắt đầu xem trống đồng là biểu tượng quan trọng ?
Ồ, tôi nghĩ tôi vừa trả lời câu hỏi của chính ḿnh…
———————————————————— —-
Chú thích của người dịch :
(1) Đoạn này sách An Nam chí lược (bản dịch của Viện đại học Huế, 1961) dịch như sau :
Liêu-Tử : là một tên khác của giống man, di, phần đông thống thuộc về các tỉnh Hồ-Nam, Lưỡng-Quảng và Vân-Nam, nhưng có một số phục-tùng nước Giao-Chỉ. Lại có bọn khắc chữ nơi trán, cà răng, chủng loại rất nhiều. Sách cổ chép có thứ Liêu-tử “đầu-h́nh”, thứ Liêu-Tử xích-côn (váy đỏ), thứ Liêu-Tử tỷ-ẩm (uống bằng mũi), đều ởtrong hang đá, hầm đất, hoặc ở chuồng, ở ổ, hay uống rượu sậy, thích đánh giặc, phần đông biết dùng cung nỏ, và đánh trống đồng. Thứ trống nào cao lớn là quư. Cái trống mới đúc xong, th́ đặt giữa sân, thết tiệc, mời cả người đồng loại cùng tới đầy cửa. Con gái nhà hào phú lấy những chiếc soa bằng vàng bạc, đánh vào trống, xong, để chiếc soa ấy lại cho chủ nhà. Có kẻ nói : trống đồng là chiêng của Gia-Cát-Lượng lúc đi đánh giặc mọi.
Đúng là nguyên bản viết “xích côn” (quần ngắn màu đỏ 赤裩) không phải “xích lơa” (trần truồng).
(2) Đoạn này tôi chưa kiểm tra được phiên bản quốc ngữ. Theo nguyên bản Hán văn có thể dịch như sau :
“Theo sách Hậu Hán thư (Hou Hanshu 後漢書), Mă Viện bắt được những trống Lạc Việt ở Giao Chỉ. Sách Quảng Châu kư [Guangzhouji 廣州記 chép rằng] dân Lị và Liêu đă đúc trống bằng đồng, chỉ những chiếc cao lớn là được xem là quư, và nó rộng hơn 1 trượng. Khi trống đồng mới được làm xong, nó được treo ở sân. Rượu được bày ở đó và họ mời đồng loại đến. Con gái của một vị hào phú dùng vàng bạc làm chiếc thoa lớn gơ vào trống, sau đó cô ta để lại nó cho chủ nhân. Lại sách Tùy thư [Suishu 隋書] [chép rằng] : các tộc mọi đều đúc trống đồng lớn. Khi có việc ǵ đó, họ sẽ đánh trống và, người kéo đến như mây tụ…”.
ttxva