vuitoichat
09-18-2013, 19:39
Trong nhiều cuốn sử viết về Việt Nam, có một giai đoạn được gọi là “thời Bắc thuộc”. Khái niệm này hàm nghĩa chỉ giai đoạn từ năm 111 trước Công nguyên đến năm 939 sau Công nguyên khi vùng đất ngày nay là đồng bằng sông Hồng và những phần của Bắc Trung Bộ Việt Nam là một vùng lănh thổ thuộc các đế chế “Trung Hoa” khác nhau.
Khái niệm này được sử dụng rộng răi đến nỗi tôi không nghĩ nhiều người có khi nào đó lại đặt câu hỏi về tính ích dụng của nó, nhưng chúng ta nên làm như vậy. Cái ǵ về “thời Bắc thuộc” quan trọng đến nỗi người ta thấy cần phải chỉ rơ quăng thời gian ngàn năm ấy là một giai đoạn riêng biệt?
Các cuốn sử Việt tiền hiện đại như Việt sử lược và Đại Việt sử kí toàn thư đă tạo ra một ḍng mạch tưởng tượng kết nối các thể chế tự trị ở khu vực này, bắt đầu từ vương quốc Nam Việt/Nanyue mà Triệu Đà/Zhao Tuo đă thiết lập ở thế kỉ III BC, hay thậm chí là sớm hơn từ các vua Hùng (tưởng tượng). Sự thôn tính Nam Việt/Nanyue của nhà Hán đă đặt khu vực này “dưới sự lệ thuộc” (thuộc) nhà Hán, và những cuốn sử này sau đó cùng góp nhặt lại những thông tin từ các nguồn Trung Hoa về các viên quan khác nhau đă từng đến cai trị ở đồng bằng sông Hồng trong ngàn năm tiếp theo.
Đó là một lịch sử chính trị tưởng tượng. Chúng ta không có nổi 1 chứng cứ, chẳng hạn, để chứng minh rằng vương quốc Nam Việt/Nanyue, vốn đóng ở vùng ngày nay thuộc tỉnh Quảng Đông, [có lănh thổ] mở rộng đến tận đồng bằng sông Hồng. V́ vậy, sự sáng tạo một lịch sử – kết nối vương quốc Nam Việt với vương quốc ở thế kỉ X của Ngô Quyền, với một thời ḱ xen ngang, khi khu vực này nằm “dưới sự cai trị” của các triều đại khác nhau đến từ phương bắc, rơ ràng là một sự tạo tác. Và nó là sự tạo tác dựa trên mục đích chính trị.
Ở thế kỉ XX, các học giả Pháp thời thực dân như Henri Maspero xem thời ḱ 1000 năm Bắc thuộc là một thời ḱ rất quan trọng khi “người Trung Hoa” đă giới thiệu cho “người Việt Nam” một cấp độ văn minh cao hơn. Điều này đương nhiên thích hợp một cách tinh vi với những ǵ người Pháp đang làm thông qua sự cai trị thuộc địa của họ, và v́ vậy đó là một tuyên ngôn chính trị, dù Maspero có ư thức về điều đó hay không.
Rồi ở thời hậu thực dân, các học giả Việt Nam đă làm vô số việc hệt như những học giả theo chủ nghĩa dân tộc chống thực dân trên toàn thế giới đă làm cùng lúc đó – họ nắm lấy kiểu tự sự mà những kẻ thực dân đă tạo ra và đảo ngược chúng, [tức] đặt người bị thuộc địa hoá lên trên.
Ở trường hợp kiểu tự sự về “thời ḱ [lệ thuộc] Trung Hoa”, điều này hàm ư lập luận rằng “thời Bắc thuộc” đă chẳng quan trọng đến thế [trong lịch sử Việt Nam]. Các học giả cho rằng đă từng có một thể chế và một nền văn hoá phức tạp ở đồng bằng sông Hồng trước thời ḱ Bắc thuộc và rằng con người và nền văn hoá từ thời ḱ đó đă được duy tŕ thông qua sự kế tục suốt một ngh́n năm mặc dù Trung Hoa cố gắng “đồng hoá” họ.
Sử gia Mỹ Keith Taylor tán thành công tŕnh của các học giả Việt Nam và đă viết một bài báo bằng tiếng Anh vào năm 1980 có nhan đề: “Một đánh giá về thời ḱ Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam” với một lập luận tương tự. Tuy nhiên, không giống như nhiều học giả Việt Nam lúc bấy giờ, Taylor đă tự phản tỉnh về những ǵ ông đang làm và đă viết những ḍng sau ở cuối bài báo:
“Tôi hiểu rằng, bằng cách thay thế giả định của Maspero về tác động của đế quốc thương dân thuộc địa bằng giả thiết phổ biến hiện nay về sự tiếp nối cái bản địa, tôi, không ít hơn ông ấy, cũng chỉ làm cái việc minh họa cho quan điểm hiện hành. Nhưng, tôi tin rằng, khi quan tâm đến chủ đề này, quan điểm của thế hệ tôi rộng hơn quan điểm của thế hệ Maspero”.
Khoảng hơn 3 thập kỉ sau, tôi muốn nói rằng thế hệ hiện tại cần có một quan điểm c̣n rộng hơn thế. Tại sao lại c̣n nói về “thời ḱ Bắc thuộc” ở vị trí đầu?
Nếu chúng ta biến sách lịch sử trở thành công tŕnh nghiên cứu về các xă hội loài người trong quá khứ, th́ làm thế nào việc chỉ rơ một thời ḱ dài đến ngh́n năm và gọi nó là “thời Bắc thuộc” có thể giúp chúng ta hiểu được các xă hội quá khứ? Nó giúp chúng ta hiểu được xă hội (hay các xă hội) nào?
Khi tôi nh́n vào quá khứ, tôi thấy một “nền văn hoá trống đồng” mở rộng từ vùng phía Bắc Thanh Hoá ngày nay cho đến các tỉnh như Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Đông ngày nay. Vâng, sự xuất hiện của những đại diện của các đế chế “Trung Hoa” khác nhau ở đó lẽ ra phải đem lại sự cáo chung cho thế giới văn hoá ấy, nhưng rốt cuộc, tôi chẳng thấy “sự cai trị Trung Hoa” làm ǵ nhiều.
Thay vào đó, khi chúng ta nh́n vào 1000 năm đầu sau CN, tôi thấy nhiều hơn những sự phát triển đă xảy ra vượt ra khỏi phạm vi cai trị của Trung Hoa, dọc theo bờ biển mà ngày ngay gọi là Nam Trung Bộ Việt Nam. Ở đó, sự hiện diện của liên bang các thể chế mà chúng ta gọi chung là “Champa” đối với tôi dường như là chỗ có những chứng cớ rơ nhất để nói về sự phát triển của các xă hội người ở khu vực rộng lớn hơn đó, trong giai đoạn đó.
Đối với sự cai trị của Trung Hoa, có một thời điểm mà đối với tôi có vẻ quan trọng là khi nó tan ră. Mặc dù ở đây một lần nữa, giống như nền văn hoá trống đồng, nó là một sự phát triển bị giới hạn trong phạm vi đồng bằng sông Hồng. Thay v́, sau khi nhà Đường trở nên suy yếu bởi cuộc nổi dậy của An Lộc Sơn năm 755-763, một bộ phận lớn của nhà Đường bắt đầu phát triển bằng những cách thức độc lập và mang tính địa phương khi các Tiết độ sứ – những người điều hành phần lớn đế chế này đă đi theo con đường của riêng họ và tạo ra nhiều “bản sắc” địa phương hoá hơn.
Cũng như vậy, một khu vực văn hoá trống đồng rộng lớn, hay sự hiện diện của thế giới Chăm (Champa), và sự tan ră của nhà Đường cũng như sự hiện diện của các thủ lĩnh địa phương – đây là 3 sự phát triển chính mà tôi nghĩ một công tŕnh lịch sử về khu vực ven biển của phần phía Đông khu vực Đông Nam Á nên quan tâm.
Vậy th́ khái niệm “thời Bắc thuộc” có vai tṛ ǵ đối với bất ḱ nhân tố nào trong hiện tượng này? Nó giúp chúng ta thế nào trong việc hiểu được sự phát triển của các xă hội con người ở một phần của thế giới này?
Tôi chẳng thể thừa nhận là nó giúp nhiều cho chúng ta chút nào. Nó là một khái niệm xuất hiện v́ những nguyên nhân chính trị, và nó đă được sử dụng cho các mục đích chính trị. Như một công cụ giúp chúng ta hiểu được xă hội con người trong quá khứ, tôi không thể xem là nó có nhiều ích dụng.
Nguồn: Hoa Quốc Vănchuyển ngữ/Leminhkhaiviet Blog
Khái niệm này được sử dụng rộng răi đến nỗi tôi không nghĩ nhiều người có khi nào đó lại đặt câu hỏi về tính ích dụng của nó, nhưng chúng ta nên làm như vậy. Cái ǵ về “thời Bắc thuộc” quan trọng đến nỗi người ta thấy cần phải chỉ rơ quăng thời gian ngàn năm ấy là một giai đoạn riêng biệt?
Các cuốn sử Việt tiền hiện đại như Việt sử lược và Đại Việt sử kí toàn thư đă tạo ra một ḍng mạch tưởng tượng kết nối các thể chế tự trị ở khu vực này, bắt đầu từ vương quốc Nam Việt/Nanyue mà Triệu Đà/Zhao Tuo đă thiết lập ở thế kỉ III BC, hay thậm chí là sớm hơn từ các vua Hùng (tưởng tượng). Sự thôn tính Nam Việt/Nanyue của nhà Hán đă đặt khu vực này “dưới sự lệ thuộc” (thuộc) nhà Hán, và những cuốn sử này sau đó cùng góp nhặt lại những thông tin từ các nguồn Trung Hoa về các viên quan khác nhau đă từng đến cai trị ở đồng bằng sông Hồng trong ngàn năm tiếp theo.
Đó là một lịch sử chính trị tưởng tượng. Chúng ta không có nổi 1 chứng cứ, chẳng hạn, để chứng minh rằng vương quốc Nam Việt/Nanyue, vốn đóng ở vùng ngày nay thuộc tỉnh Quảng Đông, [có lănh thổ] mở rộng đến tận đồng bằng sông Hồng. V́ vậy, sự sáng tạo một lịch sử – kết nối vương quốc Nam Việt với vương quốc ở thế kỉ X của Ngô Quyền, với một thời ḱ xen ngang, khi khu vực này nằm “dưới sự cai trị” của các triều đại khác nhau đến từ phương bắc, rơ ràng là một sự tạo tác. Và nó là sự tạo tác dựa trên mục đích chính trị.
Ở thế kỉ XX, các học giả Pháp thời thực dân như Henri Maspero xem thời ḱ 1000 năm Bắc thuộc là một thời ḱ rất quan trọng khi “người Trung Hoa” đă giới thiệu cho “người Việt Nam” một cấp độ văn minh cao hơn. Điều này đương nhiên thích hợp một cách tinh vi với những ǵ người Pháp đang làm thông qua sự cai trị thuộc địa của họ, và v́ vậy đó là một tuyên ngôn chính trị, dù Maspero có ư thức về điều đó hay không.
Rồi ở thời hậu thực dân, các học giả Việt Nam đă làm vô số việc hệt như những học giả theo chủ nghĩa dân tộc chống thực dân trên toàn thế giới đă làm cùng lúc đó – họ nắm lấy kiểu tự sự mà những kẻ thực dân đă tạo ra và đảo ngược chúng, [tức] đặt người bị thuộc địa hoá lên trên.
Ở trường hợp kiểu tự sự về “thời ḱ [lệ thuộc] Trung Hoa”, điều này hàm ư lập luận rằng “thời Bắc thuộc” đă chẳng quan trọng đến thế [trong lịch sử Việt Nam]. Các học giả cho rằng đă từng có một thể chế và một nền văn hoá phức tạp ở đồng bằng sông Hồng trước thời ḱ Bắc thuộc và rằng con người và nền văn hoá từ thời ḱ đó đă được duy tŕ thông qua sự kế tục suốt một ngh́n năm mặc dù Trung Hoa cố gắng “đồng hoá” họ.
Sử gia Mỹ Keith Taylor tán thành công tŕnh của các học giả Việt Nam và đă viết một bài báo bằng tiếng Anh vào năm 1980 có nhan đề: “Một đánh giá về thời ḱ Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam” với một lập luận tương tự. Tuy nhiên, không giống như nhiều học giả Việt Nam lúc bấy giờ, Taylor đă tự phản tỉnh về những ǵ ông đang làm và đă viết những ḍng sau ở cuối bài báo:
“Tôi hiểu rằng, bằng cách thay thế giả định của Maspero về tác động của đế quốc thương dân thuộc địa bằng giả thiết phổ biến hiện nay về sự tiếp nối cái bản địa, tôi, không ít hơn ông ấy, cũng chỉ làm cái việc minh họa cho quan điểm hiện hành. Nhưng, tôi tin rằng, khi quan tâm đến chủ đề này, quan điểm của thế hệ tôi rộng hơn quan điểm của thế hệ Maspero”.
Khoảng hơn 3 thập kỉ sau, tôi muốn nói rằng thế hệ hiện tại cần có một quan điểm c̣n rộng hơn thế. Tại sao lại c̣n nói về “thời ḱ Bắc thuộc” ở vị trí đầu?
Nếu chúng ta biến sách lịch sử trở thành công tŕnh nghiên cứu về các xă hội loài người trong quá khứ, th́ làm thế nào việc chỉ rơ một thời ḱ dài đến ngh́n năm và gọi nó là “thời Bắc thuộc” có thể giúp chúng ta hiểu được các xă hội quá khứ? Nó giúp chúng ta hiểu được xă hội (hay các xă hội) nào?
Khi tôi nh́n vào quá khứ, tôi thấy một “nền văn hoá trống đồng” mở rộng từ vùng phía Bắc Thanh Hoá ngày nay cho đến các tỉnh như Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Đông ngày nay. Vâng, sự xuất hiện của những đại diện của các đế chế “Trung Hoa” khác nhau ở đó lẽ ra phải đem lại sự cáo chung cho thế giới văn hoá ấy, nhưng rốt cuộc, tôi chẳng thấy “sự cai trị Trung Hoa” làm ǵ nhiều.
Thay vào đó, khi chúng ta nh́n vào 1000 năm đầu sau CN, tôi thấy nhiều hơn những sự phát triển đă xảy ra vượt ra khỏi phạm vi cai trị của Trung Hoa, dọc theo bờ biển mà ngày ngay gọi là Nam Trung Bộ Việt Nam. Ở đó, sự hiện diện của liên bang các thể chế mà chúng ta gọi chung là “Champa” đối với tôi dường như là chỗ có những chứng cớ rơ nhất để nói về sự phát triển của các xă hội người ở khu vực rộng lớn hơn đó, trong giai đoạn đó.
Đối với sự cai trị của Trung Hoa, có một thời điểm mà đối với tôi có vẻ quan trọng là khi nó tan ră. Mặc dù ở đây một lần nữa, giống như nền văn hoá trống đồng, nó là một sự phát triển bị giới hạn trong phạm vi đồng bằng sông Hồng. Thay v́, sau khi nhà Đường trở nên suy yếu bởi cuộc nổi dậy của An Lộc Sơn năm 755-763, một bộ phận lớn của nhà Đường bắt đầu phát triển bằng những cách thức độc lập và mang tính địa phương khi các Tiết độ sứ – những người điều hành phần lớn đế chế này đă đi theo con đường của riêng họ và tạo ra nhiều “bản sắc” địa phương hoá hơn.
Cũng như vậy, một khu vực văn hoá trống đồng rộng lớn, hay sự hiện diện của thế giới Chăm (Champa), và sự tan ră của nhà Đường cũng như sự hiện diện của các thủ lĩnh địa phương – đây là 3 sự phát triển chính mà tôi nghĩ một công tŕnh lịch sử về khu vực ven biển của phần phía Đông khu vực Đông Nam Á nên quan tâm.
Vậy th́ khái niệm “thời Bắc thuộc” có vai tṛ ǵ đối với bất ḱ nhân tố nào trong hiện tượng này? Nó giúp chúng ta thế nào trong việc hiểu được sự phát triển của các xă hội con người ở một phần của thế giới này?
Tôi chẳng thể thừa nhận là nó giúp nhiều cho chúng ta chút nào. Nó là một khái niệm xuất hiện v́ những nguyên nhân chính trị, và nó đă được sử dụng cho các mục đích chính trị. Như một công cụ giúp chúng ta hiểu được xă hội con người trong quá khứ, tôi không thể xem là nó có nhiều ích dụng.
Nguồn: Hoa Quốc Vănchuyển ngữ/Leminhkhaiviet Blog