Hanna
09-18-2013, 22:10
“Đảng… vĩ đại… tài t́nh… sáng suốt… lănh đạo Nhân dân… giáo dục Nhân dân…”
Nói măi, nghe măi thành quen, nên bao người coi đó là chân lư. Hễ nghe nói khác, lại cho là nghịch nhĩ.
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=517379&stc=1&d=1379542149
Điệp khúc ngân vang hơn nửa thế kỷ, khiến giới cầm quyền càng thêm tin rằng quyền lănh đạo của họ là một thứ đương nhiên – như thể được Tạo hóa ban cho; là một vị thế độc tôn – có thể thừa kế nội bộ từ thế hệ này sang thế hệ khác, theo kiểu “cha truyền con nối” như thời vua chúa phong kiến. Dưới con mắt cường quyền, Nhân dân hiện ra như bầy cừu chỉ có khả năng biểu cảm bằng tiếng “be be”, suốt đời cần được bề trên “chăn dắt”; hay như đám học tṛ thiểu năng, “giáo dục” suốt mấy chục năm mà vẫn không khá lên được, thành thử măi vẫn chưa đủ tầm dân trí, để xứng đáng hưởng những quyền tự do dân chủ, mà thế giới vẫn coi là quyền tối thiểu…
Điệp khúc ru ngủ đó cũng gia tăng tư duy nô lệ trong Nhân dân, khiến hàng triệu người an phận, cam chịu mọi điều phi lư. Nhiều người c̣n bị ḷa đến mức không nhận diện nổi ân nhân đích thực: Rơ ràng là bản thân đang nhận quà từ thiện của đồng bào, mà chỉ biết đáp lại bằng câu “ơn đảng ơn chính phủ”.
Một trạng thái xă hội tê liệt, bị đè nén bởi sự lộng hành trong ngộ nhận từ phía thống trị, và bị thôi miên trong cơn u mê ở bên bị trị. Hậu quả tai hại đến mức ta nên dành thời gian để trao đổi cho rơ ngọn ngành.
Trước khi đi vào chi tiết, cần giải thích một chút để người đọc khỏi cho rằng người viết tùy tiện về chính tả. Trong chế độ độc đảng, nhiều khi chỉ cần nhắc một chữ “đảng” cũng đủ để hiểu là Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), nên có thể tạm chấp nhận cách viết tắt như vậy. Bấy lâu nay, thông lệ chính thống là viết hoa chữ “Đảng”. Tại sao? Theo quy tắc ngữ pháp th́ phải viết hoa danh từ riêng. Nhưng từ “đảng” (đơn lẻ) không phải là danh từ riêng. Ngược lại, nó là một danh từ chung của tiếng Việt, dùng để chỉ một đảng bất kỳ trong số nhiều đảng khác nhau đă và sẽ tồn tại. Nếu chiếm dụng từ “đảng” để dành riêng cho ĐCSVN, th́ có thể coi là “tham nhũng tiếng Việt” với động cơ tư lợi. Đó không chỉ là ẩu về mặt ngôn ngữ, mà c̣n tùy tiện về tư duy, vô t́nh hay hữu ư cho rằng: Ở Việt Nam th́ hiển nhiên chỉ có thể tồn tại một đảng duy nhất. Nếu không tán thành với quan điểm “độc tồn” ấy th́ không nhất thiết phải ṭng phạm trong việc “đảng hữu hóa” từ “đảng” – cái thực sự thuộc “sở hữu toàn dân”.
Hiến định thần thánh
Trong Lời nói đầu của Hiến pháp Việt Nam 1992, tiếp theo phần sử ca “từ ngày có đảng” là đoạn sau đây:
“Hiến pháp này quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xă hội, quốc pḥng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước, thể chế hoá mối quan hệ giữa Đảng lănh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lư.”
Tức một trong những mục đích chính của Hiến pháp này là thể chế hoá sự lănh đạo của ĐCSVN đối với Nhân dân và Nhà nước. Qua đó, vị trí trên – dưới trong mối quan hệ “thần thánh” của ĐCSVN đối với Nhân dân và Nhà nước cũng được hiến định. Dẫu phía “thần dân” được gán cho nhăn hiệu “Nhân dân làm chủ”, nhưng thực tế đă quá đủ để chỉ ra rằng: Đó là một trong những thuật ngữ chính trị giả tạo và trớ trêu nhất trong lịch sử tư duy Dân tộc. Cái hư danh “làm chủ” không hóa trang nổi thân phận bị trị.
Để bảo vệ quyền tự do tư tưởng và tự do tín ngưỡng, Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa kỳ quy định:
“Quốc hội không được ban hành luật nhằm thiết lập quốc đạo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, hay hạn chế tự do ngôn luận, hoặc tự do báo chí, hoặc quyền của Nhân dân về hội họp ôn ḥa và kiến nghị Chính phủ sửa chữa những điều gây bất b́nh.” (Tu chính án I)
C̣n Hiến pháp Việt Nam th́ ngược lại: Thiết lập “quốc đạo” thông qua hiến định “quốc kinh”:
“Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội, nhân dân Việt Nam nguyện đoàn kết một ḷng, … thực hiện đường lối…” (Đoạn cuối của Lời nói đầu Hiến pháp 1992)
Vậy là toàn thể Nhân dân Việt Nam buộc phải theo chủ nghĩa ấy, tư tưởng ấy và cương lĩnh ấy, dù những thứ ấy mới h́nh thành và luôn biến dạng theo năm tháng, chứ không nhất quán và ổn định lâu đời như kinh thánh của các ḍng đạo truyền thống. Ai không muốn cũng phải chấp nhận, “không được phép nảy sinh ḷng khác” – Y chang nét đặc trưng của một số tôn giáo: “Các ngươi không được thờ các thần khác!” Chỉ chênh lệch “chút xíu” là: Người theo đạo thông thường được quyền lựa chọn, c̣n “đạo đảng” th́ toàn thể Nhân dân Việt Nam buộc phải theo. Cái thông điệp “không được chệch hướng” mang tính “tối hậu thư” được ẩn chứa trong thuật ngữ mĩ miều nồng hương đạo đức, ấy là “đoàn kết một ḷng”, tất nhiên là “dưới ánh sáng” ấy để “thực hiện Cương lĩnh” và “thực hiện đường lối” của ĐCSVN. Sự độc tài cũng dậy mùi từ chữ “nguyện” – vốn được dùng để mô tả ư chí của người tự do. Than ôi, kể cả ư nguyện của Nhân dân cũng do “đảng định”. Họ không thèm hỏi ư kiến của toàn Dân, thậm chí cố t́nh lờ đi hay bóp méo ư nguyện của Nhân dân, rồi độc quyền áp đặt cho Nhân dân cái ư nguyện “đảng tạo”, thông qua thủ thuật hiến định… Chỉ riêng điều đó cũng đủ để khắc họa trạng thái “tự do” của cộng đồng Nhân dân mang hư danh “làm chủ”.
So với nhiều hiến pháp khác, như Hiến pháp Mỹ và Hiến pháp Đức, th́ Hiến pháp Việt Nam 1992 quy định thêm nhiều thứ, ví dụ như “Chế độ kinh tế” và “Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ”. Tại sao như vậy? Đơn giản là: Hiến pháp 1992 không thể hiện ư nguyện của Nhân dân Việt Nam, mà nhằm “thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội” của ĐCSVN, như đă viết trong Lời nói đầu của Hiến pháp. “Chủ nghĩa xă hội” là ǵ? Trong số những người thường rao giảng về nó, phần th́ thao thao bất tuyệt về những điều mà bản thân không hề hiểu, phần khác cũng biết là nó dở, nhưng vẫn “bán hàng giả” nhằm “vinh thân ph́ gia”. Ấy vậy mà nhà cầm quyền lại áp đặt trong Hiến pháp 1992 rằng:
“Điều 31 Nhà nước … giáo dục ư thức công dân … yêu chế độ xă hội chủ nghĩa…”
Đỉnh cao huyền bí của Hiến pháp 1992 là:
“Điều 4 Đảng cộng sản Việt Nam, … theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lănh đạo Nhà nước và xă hội…”
Huyền bí bởi hiến định cho ĐCSVN một vị thế “thần thánh”. “Thần thánh” không chỉ ở xuất xứ khó hiểu, mà c̣n ở chỗ quyền lực tối thượng được áp đặt đương nhiên và vĩnh viễn lên cả Dân tộc Việt Nam, bất luận “thần thánh” có tử tế và tài năng hay không.
Với Điều 4, Nhân dân bị mất quyền tự do tư tưởng, quyền tự lựa chọn con đường ḿnh đi. Cũng không c̣n quyền cử ra những người thay mặt ḿnh điều hành, quản lư đất nước và xă hội, tức là mất cả quyền tự do bầu cử, ứng cử một cách thực chất.
Tuy Điều 4 Hiến pháp 1992 không quy định ĐCSVN là lực lượng lănh đạo duy nhất, càng không quy định ĐCSVN là đảng duy nhất được phép tồn tại, nhưng trên thực tế, nó bị lạm dụng để cấm đoán các đảng phái khác h́nh thành và hoạt động, nghĩa là tước đi cả quyền tự do lập hội được quy định tại Điều 69 Hiến pháp 1992.
Việc hiến định quyền “lănh đạo Nhà nước, lănh đạo xă hội” của ĐCSVN đă xảy ra trong Hiến pháp 1980, theo khuôn mẫu của Điều 6 trong Hiến pháp Liên Xô 1977. Tuy nhiên, về bản chất th́ có lẽ vai tṛ của việc hiến định ấy trong Hiến pháp 1980 khác hẳn so với trong Hiến pháp 1992 và Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.
Vào năm 1980, sau khi dành thắng lợi trong bốn cuộc chiến tranh ác liệt, lănh đạo ĐCSVN rất tự tin, cảm thấy quyền “lănh đạo Nhà nước và xă hội” của ḿnh là đương nhiên, không phải bàn căi. Việc ghi quyền lănh đạo ấy vào Hiến pháp có lẽ nhằm ca ngợi đảng. Tính hùng ca tràn đầy trong Hiến pháp 1980, đến mức “hiến định” cả độ tuổi “bốn ngh́n năm lịch sử” của Dân tộc Việt Nam, rồi dùng hơn ngh́n chữ để ngợi ca sự nghiệp của ĐCSVN, đặc biệt là các thành tựu trong bốn cuộc chiến tranh, và kể tội kẻ thù. Thậm chí, c̣n “hiến định” cả “kẻ thù truyền kiếp”. Hơn nữa, c̣n trích cả một đoạn dài 205 chữ từ “Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của ĐCSVN” để tŕnh bày đường lối mà Đại hội đă đề ra. Trong không khí đó, có lẽ lănh đạo thuở ấy của ĐCSVN không có nhu cầu bức thiết là phải hiến định quyền lănh đạo của đảng để rồi bấu víu.
Với Hiến pháp 1992 th́ ngược lại, nó ra đời trong hoàn cảnh nền kinh tế đất nước trải qua một thời kỳ kiệt quệ kéo dài, uy tín của ĐCSVN bị giảm sút nghiêm trọng, trong lúc Liên Xô và phe xă hội chủ nghĩa ở Đông Âu đă đồng loạt sụp đổ, khiến đảng mất chỗ dựa quốc tế, kể cả về tinh thần lẫn vật chất. Trước t́nh h́nh nguy kịch ấy, Điều 4 của Hiến pháp 1992 không c̣n là ṿng nguyệt quế ngợi ca đảng và chế độ, mà được giới cầm quyền tận dụng như cái phao cứu sinh, để bám giữ vị thế lănh đạo trước nguy cơ bị đợt sóng thần lịch sử nhấn ch́m, và dùng nó làm cái gông pháp lư để chụp lên cổ những ai dám lên tiếng phủ nhận quyền lănh đạo của ĐCSVN. Một điều hiến định với mục đích như vậy có chính đáng hay không?
Nếu cho rằng đảng ḿnh không c̣n đủ uy tín để được đa số Nhân dân chấp nhận trao quyền lănh đạo, nên đành lạm dụng Hiến pháp làm vũ khí pháp lư nhằm bám giữ quyền lực, th́ có tử tế và vinh quang hay không?
Ngược lại, nếu tin tưởng rằng đảng ḿnh vẫn được đa số Nhân dân tín nhiệm trao quyền lănh đạo, th́ việc ǵ phải cố ghi bằng được vào Hiến pháp những điều phi lư không cần thiết cho thêm tai tiếng?
Hiện thân thần thánh
ĐCSVN là ǵ mà được hiến định một quyền lực siêu phàm như vậy? Tố Hữu, nhà thơ đầu đàn của ĐCSVN và từng tham gia bộ sậu lănh đạo tối cao của chế độ, đă mô tả rằng:
“Đảng ta đó, trăm tay ngh́n mắt
Đảng ta đây, da sắt xương đồng.”
H́nh ảnh đó nó lên điều ǵ? Có người nh́n nhận đảng như một cơ thể thống nhất, b́nh luận rằng “trăm tay ngh́n mắt” th́ là quái vật. Người khác quan niệm đảng là một tập thể của nhiều cá thể, th́ lư giải rằng trong đảng cứ 50 người làm (trăm tay) th́ có 500 người nḥm ngó (ngh́n mắt) để phán và phá, thành thử làm ǵ cũng khó. Lại có ư kiến cho rằng “da sắt xương đồng” th́ là bất động vật, một thứ vô hồn. Chắc hẳn cả ba ư đó không phải là điều mà Tố Hữu muốn nói. Hai câu thơ của ông thể hiện một thủ pháp truyền thống, được áp dụng suốt mấy chục năm qua để đề cao đảng. Đó là: Làm lạ hóa, trừu tượng hóa để tuyệt đối hóa đảng, nhằm có được một h́nh tượng cực kỳ siêu phàm, vô cùng sáng suốt và tài giỏi toàn năng. Từ đó mà thuyết phục hay bắt buộc muôn dân ngoan ngoăn đi theo, một ḷng tuân thủ sự điều khiển và sai khiến của lănh đạo đảng.
Có điều ngộ nghĩnh là những người đứng đầu đảng rất hay ca ngợi đảng, mà hóa ra là ca ngợi chính ḿnh. “Đảng vĩ đại” phải chọn ḿnh làm “đầu đảng”, th́ ḿnh vĩ đại biết nhường nào? “Đảng tài t́nh sáng suốt”, mà chính ḿnh là người quyết định đảng “nghĩ ǵ nói ǵ làm ǵ”, th́ có nghĩa là ḿnh tài t́nh sáng suốt, chứ c̣n ai? V́ chẳng mấy ai ngờ rằng họ đang tự khen bản thân, nên không ai chê là tự phụ, mà ngược lại c̣n khen là họ khiêm tốn. Đó là một ví dụ về hiệu quả diệu kỳ của phương pháp “lạ hóa”, không những có thể biến không thành có, mà c̣n có thể biết âm thành dương, biến xấu thành tốt.
Đảng linh thiêng nhờ ẩn khuất siêu h́nh. Song trên thực tế đảng chỉ có thể hiện thân vào những cá thể bằng xương, bằng thịt. Dù lănh đạo cấp nào th́ cũng thấm đẫm trong ḿnh những cái sang hèn, tốt xấu của trần gian.
Nhiều vị khi đi học th́ lạch bạch dưới trung b́nh, lớp nào cũng phải nương tựa bạn bè. Lư lịch thuộc diện ưu tiên, song vẫn không vào thẳng được đại học, mà phải ṿng qua lối “cử tuyển”, “liên thông”, “tại chức” hay “từ xa”. Đă hạ chất lượng đến tột cùng, mà nhiều “đại nhân” vẫn phải cậy người học hộ, thi hộ. Ấy vậy mà nhờ “sự phân công của đảng” cũng leo lên được ghế lănh đạo, rồi cho ḿnh cái quyền sai khiến muôn dân, lên mặt dạy bảo cả những bậc thầy. Cứ như thể đảng là một thứ hồn, thiêng đến mức chỉ cần nhập vào hạng yếu bóng vía cũng khiến kẻ ngây ngô có thể phát ngôn ra những chân lư cao siêu của thế giới xa lạ.
Đảng lănh đạo thông qua chủ trương, đường lối, chính sách và mệnh lệnh. Tất cả những thứ đó đều là sản phẩm của những con người cụ thể. Không phải của toàn thể mấy triệu đảng viên, cũng không phải của mấy vạn đảng viên cốt cán, mà của rất rất ít “siêu đảng viên”. Đó là mười mấy vị trong Bộ Chính trị, mà thường th́ tập thể ấy cũng bị chi phối bởi chỉ mấy người. Hăn hữu, quyền lực bao trùm thiên hạ được mở rộng ra ṿng Ban Chấp hành Trung ương Đảng với khoảng hai trăm ủy viên. Về lư thuyết th́ Ban Chấp hành Trung ương và Đại hội đại biểu đảng toàn quốc có tiếng nói quyết định trong việc hoạch định chủ trương và đường lối của ĐCSVN. Nhưng Ban Chấp hành Trung ương th́ do Đại hội đảng bầu ra, mà thành phần cốt cán tham gia Đại hội đảng lại do Bộ Chính trị của khóa trước lựa chọn. Và nói chung, cả hai thành phần ấy thường tỏ ra rất biết thân biết phận, nên chẳng mấy khi dám làm trái ư lănh đạo tối cao.
Vậy là số phận của gần trăm triệu người hiện sống trên đất Việt, thậm chí cả số phận của những thế hệ mai sau, được đặt vào tay một số “siêu nhân”. Câu hỏi tự nhiên là: Những “siêu nhân” đó có xứng đáng được trao trọng trách to lớn như vậy hay không? Bạn hăy rút thăm chọn ngẫu nhiên vài vị trên “thiên đ́nh”, rồi thử trả lời câu hỏi này xem sao!
Nói măi, nghe măi thành quen, nên bao người coi đó là chân lư. Hễ nghe nói khác, lại cho là nghịch nhĩ.
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=517379&stc=1&d=1379542149
Điệp khúc ngân vang hơn nửa thế kỷ, khiến giới cầm quyền càng thêm tin rằng quyền lănh đạo của họ là một thứ đương nhiên – như thể được Tạo hóa ban cho; là một vị thế độc tôn – có thể thừa kế nội bộ từ thế hệ này sang thế hệ khác, theo kiểu “cha truyền con nối” như thời vua chúa phong kiến. Dưới con mắt cường quyền, Nhân dân hiện ra như bầy cừu chỉ có khả năng biểu cảm bằng tiếng “be be”, suốt đời cần được bề trên “chăn dắt”; hay như đám học tṛ thiểu năng, “giáo dục” suốt mấy chục năm mà vẫn không khá lên được, thành thử măi vẫn chưa đủ tầm dân trí, để xứng đáng hưởng những quyền tự do dân chủ, mà thế giới vẫn coi là quyền tối thiểu…
Điệp khúc ru ngủ đó cũng gia tăng tư duy nô lệ trong Nhân dân, khiến hàng triệu người an phận, cam chịu mọi điều phi lư. Nhiều người c̣n bị ḷa đến mức không nhận diện nổi ân nhân đích thực: Rơ ràng là bản thân đang nhận quà từ thiện của đồng bào, mà chỉ biết đáp lại bằng câu “ơn đảng ơn chính phủ”.
Một trạng thái xă hội tê liệt, bị đè nén bởi sự lộng hành trong ngộ nhận từ phía thống trị, và bị thôi miên trong cơn u mê ở bên bị trị. Hậu quả tai hại đến mức ta nên dành thời gian để trao đổi cho rơ ngọn ngành.
Trước khi đi vào chi tiết, cần giải thích một chút để người đọc khỏi cho rằng người viết tùy tiện về chính tả. Trong chế độ độc đảng, nhiều khi chỉ cần nhắc một chữ “đảng” cũng đủ để hiểu là Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), nên có thể tạm chấp nhận cách viết tắt như vậy. Bấy lâu nay, thông lệ chính thống là viết hoa chữ “Đảng”. Tại sao? Theo quy tắc ngữ pháp th́ phải viết hoa danh từ riêng. Nhưng từ “đảng” (đơn lẻ) không phải là danh từ riêng. Ngược lại, nó là một danh từ chung của tiếng Việt, dùng để chỉ một đảng bất kỳ trong số nhiều đảng khác nhau đă và sẽ tồn tại. Nếu chiếm dụng từ “đảng” để dành riêng cho ĐCSVN, th́ có thể coi là “tham nhũng tiếng Việt” với động cơ tư lợi. Đó không chỉ là ẩu về mặt ngôn ngữ, mà c̣n tùy tiện về tư duy, vô t́nh hay hữu ư cho rằng: Ở Việt Nam th́ hiển nhiên chỉ có thể tồn tại một đảng duy nhất. Nếu không tán thành với quan điểm “độc tồn” ấy th́ không nhất thiết phải ṭng phạm trong việc “đảng hữu hóa” từ “đảng” – cái thực sự thuộc “sở hữu toàn dân”.
Hiến định thần thánh
Trong Lời nói đầu của Hiến pháp Việt Nam 1992, tiếp theo phần sử ca “từ ngày có đảng” là đoạn sau đây:
“Hiến pháp này quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xă hội, quốc pḥng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước, thể chế hoá mối quan hệ giữa Đảng lănh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lư.”
Tức một trong những mục đích chính của Hiến pháp này là thể chế hoá sự lănh đạo của ĐCSVN đối với Nhân dân và Nhà nước. Qua đó, vị trí trên – dưới trong mối quan hệ “thần thánh” của ĐCSVN đối với Nhân dân và Nhà nước cũng được hiến định. Dẫu phía “thần dân” được gán cho nhăn hiệu “Nhân dân làm chủ”, nhưng thực tế đă quá đủ để chỉ ra rằng: Đó là một trong những thuật ngữ chính trị giả tạo và trớ trêu nhất trong lịch sử tư duy Dân tộc. Cái hư danh “làm chủ” không hóa trang nổi thân phận bị trị.
Để bảo vệ quyền tự do tư tưởng và tự do tín ngưỡng, Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa kỳ quy định:
“Quốc hội không được ban hành luật nhằm thiết lập quốc đạo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, hay hạn chế tự do ngôn luận, hoặc tự do báo chí, hoặc quyền của Nhân dân về hội họp ôn ḥa và kiến nghị Chính phủ sửa chữa những điều gây bất b́nh.” (Tu chính án I)
C̣n Hiến pháp Việt Nam th́ ngược lại: Thiết lập “quốc đạo” thông qua hiến định “quốc kinh”:
“Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội, nhân dân Việt Nam nguyện đoàn kết một ḷng, … thực hiện đường lối…” (Đoạn cuối của Lời nói đầu Hiến pháp 1992)
Vậy là toàn thể Nhân dân Việt Nam buộc phải theo chủ nghĩa ấy, tư tưởng ấy và cương lĩnh ấy, dù những thứ ấy mới h́nh thành và luôn biến dạng theo năm tháng, chứ không nhất quán và ổn định lâu đời như kinh thánh của các ḍng đạo truyền thống. Ai không muốn cũng phải chấp nhận, “không được phép nảy sinh ḷng khác” – Y chang nét đặc trưng của một số tôn giáo: “Các ngươi không được thờ các thần khác!” Chỉ chênh lệch “chút xíu” là: Người theo đạo thông thường được quyền lựa chọn, c̣n “đạo đảng” th́ toàn thể Nhân dân Việt Nam buộc phải theo. Cái thông điệp “không được chệch hướng” mang tính “tối hậu thư” được ẩn chứa trong thuật ngữ mĩ miều nồng hương đạo đức, ấy là “đoàn kết một ḷng”, tất nhiên là “dưới ánh sáng” ấy để “thực hiện Cương lĩnh” và “thực hiện đường lối” của ĐCSVN. Sự độc tài cũng dậy mùi từ chữ “nguyện” – vốn được dùng để mô tả ư chí của người tự do. Than ôi, kể cả ư nguyện của Nhân dân cũng do “đảng định”. Họ không thèm hỏi ư kiến của toàn Dân, thậm chí cố t́nh lờ đi hay bóp méo ư nguyện của Nhân dân, rồi độc quyền áp đặt cho Nhân dân cái ư nguyện “đảng tạo”, thông qua thủ thuật hiến định… Chỉ riêng điều đó cũng đủ để khắc họa trạng thái “tự do” của cộng đồng Nhân dân mang hư danh “làm chủ”.
So với nhiều hiến pháp khác, như Hiến pháp Mỹ và Hiến pháp Đức, th́ Hiến pháp Việt Nam 1992 quy định thêm nhiều thứ, ví dụ như “Chế độ kinh tế” và “Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ”. Tại sao như vậy? Đơn giản là: Hiến pháp 1992 không thể hiện ư nguyện của Nhân dân Việt Nam, mà nhằm “thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội” của ĐCSVN, như đă viết trong Lời nói đầu của Hiến pháp. “Chủ nghĩa xă hội” là ǵ? Trong số những người thường rao giảng về nó, phần th́ thao thao bất tuyệt về những điều mà bản thân không hề hiểu, phần khác cũng biết là nó dở, nhưng vẫn “bán hàng giả” nhằm “vinh thân ph́ gia”. Ấy vậy mà nhà cầm quyền lại áp đặt trong Hiến pháp 1992 rằng:
“Điều 31 Nhà nước … giáo dục ư thức công dân … yêu chế độ xă hội chủ nghĩa…”
Đỉnh cao huyền bí của Hiến pháp 1992 là:
“Điều 4 Đảng cộng sản Việt Nam, … theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lănh đạo Nhà nước và xă hội…”
Huyền bí bởi hiến định cho ĐCSVN một vị thế “thần thánh”. “Thần thánh” không chỉ ở xuất xứ khó hiểu, mà c̣n ở chỗ quyền lực tối thượng được áp đặt đương nhiên và vĩnh viễn lên cả Dân tộc Việt Nam, bất luận “thần thánh” có tử tế và tài năng hay không.
Với Điều 4, Nhân dân bị mất quyền tự do tư tưởng, quyền tự lựa chọn con đường ḿnh đi. Cũng không c̣n quyền cử ra những người thay mặt ḿnh điều hành, quản lư đất nước và xă hội, tức là mất cả quyền tự do bầu cử, ứng cử một cách thực chất.
Tuy Điều 4 Hiến pháp 1992 không quy định ĐCSVN là lực lượng lănh đạo duy nhất, càng không quy định ĐCSVN là đảng duy nhất được phép tồn tại, nhưng trên thực tế, nó bị lạm dụng để cấm đoán các đảng phái khác h́nh thành và hoạt động, nghĩa là tước đi cả quyền tự do lập hội được quy định tại Điều 69 Hiến pháp 1992.
Việc hiến định quyền “lănh đạo Nhà nước, lănh đạo xă hội” của ĐCSVN đă xảy ra trong Hiến pháp 1980, theo khuôn mẫu của Điều 6 trong Hiến pháp Liên Xô 1977. Tuy nhiên, về bản chất th́ có lẽ vai tṛ của việc hiến định ấy trong Hiến pháp 1980 khác hẳn so với trong Hiến pháp 1992 và Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.
Vào năm 1980, sau khi dành thắng lợi trong bốn cuộc chiến tranh ác liệt, lănh đạo ĐCSVN rất tự tin, cảm thấy quyền “lănh đạo Nhà nước và xă hội” của ḿnh là đương nhiên, không phải bàn căi. Việc ghi quyền lănh đạo ấy vào Hiến pháp có lẽ nhằm ca ngợi đảng. Tính hùng ca tràn đầy trong Hiến pháp 1980, đến mức “hiến định” cả độ tuổi “bốn ngh́n năm lịch sử” của Dân tộc Việt Nam, rồi dùng hơn ngh́n chữ để ngợi ca sự nghiệp của ĐCSVN, đặc biệt là các thành tựu trong bốn cuộc chiến tranh, và kể tội kẻ thù. Thậm chí, c̣n “hiến định” cả “kẻ thù truyền kiếp”. Hơn nữa, c̣n trích cả một đoạn dài 205 chữ từ “Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của ĐCSVN” để tŕnh bày đường lối mà Đại hội đă đề ra. Trong không khí đó, có lẽ lănh đạo thuở ấy của ĐCSVN không có nhu cầu bức thiết là phải hiến định quyền lănh đạo của đảng để rồi bấu víu.
Với Hiến pháp 1992 th́ ngược lại, nó ra đời trong hoàn cảnh nền kinh tế đất nước trải qua một thời kỳ kiệt quệ kéo dài, uy tín của ĐCSVN bị giảm sút nghiêm trọng, trong lúc Liên Xô và phe xă hội chủ nghĩa ở Đông Âu đă đồng loạt sụp đổ, khiến đảng mất chỗ dựa quốc tế, kể cả về tinh thần lẫn vật chất. Trước t́nh h́nh nguy kịch ấy, Điều 4 của Hiến pháp 1992 không c̣n là ṿng nguyệt quế ngợi ca đảng và chế độ, mà được giới cầm quyền tận dụng như cái phao cứu sinh, để bám giữ vị thế lănh đạo trước nguy cơ bị đợt sóng thần lịch sử nhấn ch́m, và dùng nó làm cái gông pháp lư để chụp lên cổ những ai dám lên tiếng phủ nhận quyền lănh đạo của ĐCSVN. Một điều hiến định với mục đích như vậy có chính đáng hay không?
Nếu cho rằng đảng ḿnh không c̣n đủ uy tín để được đa số Nhân dân chấp nhận trao quyền lănh đạo, nên đành lạm dụng Hiến pháp làm vũ khí pháp lư nhằm bám giữ quyền lực, th́ có tử tế và vinh quang hay không?
Ngược lại, nếu tin tưởng rằng đảng ḿnh vẫn được đa số Nhân dân tín nhiệm trao quyền lănh đạo, th́ việc ǵ phải cố ghi bằng được vào Hiến pháp những điều phi lư không cần thiết cho thêm tai tiếng?
Hiện thân thần thánh
ĐCSVN là ǵ mà được hiến định một quyền lực siêu phàm như vậy? Tố Hữu, nhà thơ đầu đàn của ĐCSVN và từng tham gia bộ sậu lănh đạo tối cao của chế độ, đă mô tả rằng:
“Đảng ta đó, trăm tay ngh́n mắt
Đảng ta đây, da sắt xương đồng.”
H́nh ảnh đó nó lên điều ǵ? Có người nh́n nhận đảng như một cơ thể thống nhất, b́nh luận rằng “trăm tay ngh́n mắt” th́ là quái vật. Người khác quan niệm đảng là một tập thể của nhiều cá thể, th́ lư giải rằng trong đảng cứ 50 người làm (trăm tay) th́ có 500 người nḥm ngó (ngh́n mắt) để phán và phá, thành thử làm ǵ cũng khó. Lại có ư kiến cho rằng “da sắt xương đồng” th́ là bất động vật, một thứ vô hồn. Chắc hẳn cả ba ư đó không phải là điều mà Tố Hữu muốn nói. Hai câu thơ của ông thể hiện một thủ pháp truyền thống, được áp dụng suốt mấy chục năm qua để đề cao đảng. Đó là: Làm lạ hóa, trừu tượng hóa để tuyệt đối hóa đảng, nhằm có được một h́nh tượng cực kỳ siêu phàm, vô cùng sáng suốt và tài giỏi toàn năng. Từ đó mà thuyết phục hay bắt buộc muôn dân ngoan ngoăn đi theo, một ḷng tuân thủ sự điều khiển và sai khiến của lănh đạo đảng.
Có điều ngộ nghĩnh là những người đứng đầu đảng rất hay ca ngợi đảng, mà hóa ra là ca ngợi chính ḿnh. “Đảng vĩ đại” phải chọn ḿnh làm “đầu đảng”, th́ ḿnh vĩ đại biết nhường nào? “Đảng tài t́nh sáng suốt”, mà chính ḿnh là người quyết định đảng “nghĩ ǵ nói ǵ làm ǵ”, th́ có nghĩa là ḿnh tài t́nh sáng suốt, chứ c̣n ai? V́ chẳng mấy ai ngờ rằng họ đang tự khen bản thân, nên không ai chê là tự phụ, mà ngược lại c̣n khen là họ khiêm tốn. Đó là một ví dụ về hiệu quả diệu kỳ của phương pháp “lạ hóa”, không những có thể biến không thành có, mà c̣n có thể biết âm thành dương, biến xấu thành tốt.
Đảng linh thiêng nhờ ẩn khuất siêu h́nh. Song trên thực tế đảng chỉ có thể hiện thân vào những cá thể bằng xương, bằng thịt. Dù lănh đạo cấp nào th́ cũng thấm đẫm trong ḿnh những cái sang hèn, tốt xấu của trần gian.
Nhiều vị khi đi học th́ lạch bạch dưới trung b́nh, lớp nào cũng phải nương tựa bạn bè. Lư lịch thuộc diện ưu tiên, song vẫn không vào thẳng được đại học, mà phải ṿng qua lối “cử tuyển”, “liên thông”, “tại chức” hay “từ xa”. Đă hạ chất lượng đến tột cùng, mà nhiều “đại nhân” vẫn phải cậy người học hộ, thi hộ. Ấy vậy mà nhờ “sự phân công của đảng” cũng leo lên được ghế lănh đạo, rồi cho ḿnh cái quyền sai khiến muôn dân, lên mặt dạy bảo cả những bậc thầy. Cứ như thể đảng là một thứ hồn, thiêng đến mức chỉ cần nhập vào hạng yếu bóng vía cũng khiến kẻ ngây ngô có thể phát ngôn ra những chân lư cao siêu của thế giới xa lạ.
Đảng lănh đạo thông qua chủ trương, đường lối, chính sách và mệnh lệnh. Tất cả những thứ đó đều là sản phẩm của những con người cụ thể. Không phải của toàn thể mấy triệu đảng viên, cũng không phải của mấy vạn đảng viên cốt cán, mà của rất rất ít “siêu đảng viên”. Đó là mười mấy vị trong Bộ Chính trị, mà thường th́ tập thể ấy cũng bị chi phối bởi chỉ mấy người. Hăn hữu, quyền lực bao trùm thiên hạ được mở rộng ra ṿng Ban Chấp hành Trung ương Đảng với khoảng hai trăm ủy viên. Về lư thuyết th́ Ban Chấp hành Trung ương và Đại hội đại biểu đảng toàn quốc có tiếng nói quyết định trong việc hoạch định chủ trương và đường lối của ĐCSVN. Nhưng Ban Chấp hành Trung ương th́ do Đại hội đảng bầu ra, mà thành phần cốt cán tham gia Đại hội đảng lại do Bộ Chính trị của khóa trước lựa chọn. Và nói chung, cả hai thành phần ấy thường tỏ ra rất biết thân biết phận, nên chẳng mấy khi dám làm trái ư lănh đạo tối cao.
Vậy là số phận của gần trăm triệu người hiện sống trên đất Việt, thậm chí cả số phận của những thế hệ mai sau, được đặt vào tay một số “siêu nhân”. Câu hỏi tự nhiên là: Những “siêu nhân” đó có xứng đáng được trao trọng trách to lớn như vậy hay không? Bạn hăy rút thăm chọn ngẫu nhiên vài vị trên “thiên đ́nh”, rồi thử trả lời câu hỏi này xem sao!