Hanna
01-11-2014, 10:44
LGT- Đại tướng Henri Navarre, được cử giữ chức Tư lệnh quân viễn chinh Pháp tại Đông dương từ đầu tháng 5-1953, thay thế Trung tướng Salan. Một năm sau ông bị cất chức và triệu hồi về nước sau khi Điện Biên Phủ thất thủ ngày 7-5-1954. Năm 1956 ông viết Đông Dương Hấp Hối, Agonie de l’Indochine kể lại sự thật những năm tháng cuối cùng của cuộc chiến Đông dương lần thứ nhất(1946-1954) và cũng để biện minh cho quân đội và cá nhân ông. Sách gồm 10 chương dầy 335 trang nhà xuất bản Librairie Plon, Paris. Đây là cuốn sách giá trị cho ta nhiều dữ kiện về cuộc chiến Đông dương lần thứ nhất. Giai đoạn cuối của cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất 1953, 1954 cũng tồi tệ bi đát chẳng khác gỉ những năm cuối cùng 1974, 1975 của cuộc chiến Đông dương lần thứ hai.
Cuộc chiến tranh Đông dương lần thứ nhất thường gọi là “tám năm khói lửa” giữa Việt Minh và Pháp cũng là sự đụng độ giữa CS quốc tế và Thế giới tự do. Nhiều người, kể cả Tây phương ca ngợi Việt minh, ông Hồ, ông Giáp tay không dựng nghiệp nhưng nay nhiều tài liệu tiết lộ Việt Minh đă được Trung cộng và Đệ tam quốc tế gây dựng, trợ giúp, chỉ đạo và điều khiển rất nhiều.
———————————————–
http://luyenchuong.com/forum/attachment.php?attachmentid=438595&stc=1&d=1389436850
Tướng Henri Navarrerance. Ảnh Bettmann/CORBIS
Tôi xin lược dịch lần lượt các chương. Bài này gồm chương I và II
Navarre nói trong Lời mở đầu (xin lược dịch)
Một tháng sau khi Điện Biên Phủ mất, Navarra nhận điện tín bị Chính phủ Pháp cất chức Tư lệnh Đông Dương.
Những nhà chính khách điều khiển cuộc chiến không hoàn hảo, những kẻ cầm quyền đă mang lại ḥa b́nh kém. Quốc hội đổ lỗi cho Quân đội, đặc biệt là Navarre , người ta dựng lên một sự thật: Đông Dương tuyệt vọng sau Điện Biên Phủ, chỉ có ḥa b́nh mới cứu văn nổi, thua trận v́ khuyết điểm, sai lầm quân sự.
Trước t́nh trạng đó Navarre gửi văn thư cho Bộ quốc pḥng phản đối thái độ của Chính phủ đối với ông và phản đối khuynh hướng đổ lỗi cho quân đội tại Đông Dương là nguyên nhân chính nếu không nói là độc nhất cho kết thúc bi đát của cuộc chiến. Tướng Navarre kết luận xin lập ngay Ủy ban điều tra có thẩm quyền để đánh giá sự chỉ huy của ông, để biết những đơn vị dưới quyền ông chiến đấu trong những điều kiện thế nào, để khảo sát tổng quát diễn tiến cuộc chiến Đông Dương, về lúc Navarre được cử giữ chức Tư Lệnh để chấm dứt chiến tranh
Navarre bị áp lực chính trị quân sự buộc ông rút yêu cầu kể trên, Chính phủ cũng như thượng cấp không muốn mở cuộc điều tra. Ba tháng sau Chính phủ trả lời từ chối yêu cầu củaTướng Tư Lệnh. Đầu tháng 1 năm 1955, một tờ báo đề cập tới Điện Biên Phủ rất sai lạc khiến Navarre không nhịn được, ông cho biết nếu không thành lập Ủy ban điều tra trong ṿng mấy ngày ông sẽ cho đăng trên một tờ báo lớn toàn bộ sự thật về trận Điện Biên Phủ.
Ông tưởng lần này sẽ thánh công nhưng họ lại cho ch́m xuồng. Măi tới ba tháng sau mới thành lập Ủy ban, quyền hạn của họ rất yếu so với yêu cầu của ông. Đấu tháng 5 họ làm việc, tới tháng 12 mới báo cáo, Navarre muốn coi báo cáo nhưng họ từ chối lấy cớ để giữ bí mật. Họ phủ nhận giả thuyết cho quân đội là nguyên nhấn chính làm mất Đông Dương. Mặc dù không đầy đủ và cẩn thận, kết luận của Ủy ban mở ra một lỗ hổng lớn trong việc công bố chính thức sự thật.
Mặc dù Navarre đ̣i hỏi nhiều lần nhưng họ không công bố công khai, đó là chứng cớ họ muốn nhận ch́m xuồng măi măi sự thật. Mặc dù Chính phủ miễn cưỡng thỏa măn tự ái của ông ta để chấm dứt việc lấy ông làm vật tế thần, cái bung xung , Navarre quyết định rời quân ngũ. Nếu c̣n tại ngũ ông phải giữ im lặng, coi như mặc nhiên thừa nhận những sự kiện đánh lừa dư luận về những điều kiện đưa tới thảm bại mà Pháp đă chịu tại Viễn Đông, nó đè nặng trên số phận của đất nước không được biết sự thật.
Có thể người ta sẽ cho là Navarre , vai chính của thảm kịch không tránh khỏi chủ quan. Độc giả sẽ phán xét, ông nói sẽ viết cái mà ông ta cho là sự thật, chỉ quả quyết cái mà ông chứng minh nhưng không dấu diếm những cái mà ông tin là cần và có thể nói. Nếu ông thách thức bằng những sự cải chính, củng cố bằng những chứng cớ, nó sẽ được hoan nghênh, v́ nó sẽ giúp đem lại sự thật từ dưới đáy giếng sâu
Đó là mục đích của cuốn sách này
Chương Một: Tôi giữ chức Tư lệnh.
Tháng 5-1953, Navarre ở Tây Đức, giữ chức Tham mưu trưởng cho Tướng Juin tại NATO, Đức quốc, được lệnh về Paris gấp. Ông được biết Chính phủ cử làm Tư lệnh quân viễn chinh tại Đông Dương
Ngày 8-5 ông thực sự được được bổ nhiệm, Réné Mayer, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (Thủ tướng) cho biết t́nh h́nh Đông Dương rất xấu, khó mà Navarre có giải pháp tốt đẹp
Navarre được lệnh đi Đông Dương nghiên cứu t́nh h́nh một tháng để tường tŕnh Chính phủ một chương tŕnh hành động, René Mayer cho biết sẽ không có tăng viện, tác giả nhận chỉ thị tái tổ chức Đông dương . Tới Sài G̣n 18-5-1953 ông ra Hà Nội, phải tổ chức lại, thay tướng Linares trong chức vụ chỉ huy tại Bắc Việt, Bộ tham mưu của Tổng tư lệnh cũng phải cũng phải thay đổi v́ nhiều sĩ quan cao cấp hồi hương như Tổng tham mưu trưởng, Chánh văn pḥng. Trước khi về lại Pháp ông cử tướng Gambiez làm Tham mưu trưởng
Chương Hai: T́nh h́nh Đông Dương khi tôi tới.
Quá Khứ
Navarre lược thuật quá lịch sử VN từ Thế chiến thứ hai cho tới 1952.
Người Pháp trở lại Đông dương sau Thế chiến
Thập niên 30 tại Bắc kỳ phong trào chống Pháp lên mạnh, năm 1940 Pháp bại trận, Nhật vào Đông dương , Pháp bị lép vế, đa số các đảng phái Quốc gia chống Pháp, Nhật. Các thủ lănh bị truy nă trốn sang Tầu, mới đầu chia rẽ, sau họ hợp lại dưới mặt trận nhân dân gọi là Việt Minh năm 1941 (Việt Nam độc lập đồng minh ), những người quá khích nắm chính quyền. Nguyễn Ái Quốc (Hồ chí Minh) làm chủ tịch đảng Cộng Sản Đông dương. Chương tŕnh hành động của họ nhằm đánh đuổi thực dân dân chủ hóa Đông Dương, họ liên minh với Quốc dân đảng Trung hoa và Mỹ.
Một tổ chức bí mật của Việt Minh được thành lập tại Thái Nguyên (100 km, phía bắc Hà nội) gồm nhiều chi bộ rải rác trong nước, hàng ngh́n du kích, nhất là tại Thượng du Bắc kỳ. Mỹ đă tiếp xúc với Việt Minh thả dù vũ khí cho họ, ngày 9-3-1945 Nhật đảo chính, chính quyền Pháp sụp đổ tại Đông Dương. Số th́ bị giết, bị bắt giam, c̣n laị khoảng 5,000 người chạy sang Tầu. Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố độc lập thống nhất ba kỳ (Bắc, Trung , Nam ), hủy bỏ tàn tích thực dân Pháp.
Việt Minh bành trướng mạnh khắp Việt Nam nhất là miền Thượng du Bắc kỳ. Biết Nhật sắp thua, họ chuẩn bị cướp chính quyền. Rất giảo quyệt, không những được Mỹ giúp đỡ, họ c̣n dựa vào chính phủ lâm thời Pháp. Để chiếm cảm t́nh của Mỹ, họ chống Nhật, chống thực dân Pháp. Họ kết thân với Pháp mới, họ lừa gạt hết chỗ này, người nọ
Ngày 15-8-1945, Nhật đầu hàng đồng minh, Hồ chí Minh về Hà Nội, ít ngày sau họ chiếm chính quyền toàn quốc. Vua Bảo Đại thoái vị làm cố vấn cho chính phủ VN Dân chủ Cộng ḥa. Quân Anh giải giới vũ khí quân Nhật dưới vĩ tuyến thứ 16, trên đó là quân Tầu, kế đó Pháp đến tiếp thu. Tại miền nam Tướng Leclerc chỉ huy, tiếp thu dễ dàng, VM bỏ trốn, Pháp chiếm lại các thành phố quan trọng, VM rút vào rừng núi kháng chiến.
Phía Bắc, quân Tầu muốn đóng đô như xưa, khuyến khích Việt Minh giành độc lập. Trong nhiều tháng, Pháp không lấy lại được chủ quyền Bắc kỳ . Tầu, VM dựa vào Mỹ chống thực dân. Cao ủy Sainteny tới Hà Nội mấy ngày sau khi Nhật đầu hàng không được ai đón tiếp. Quân Nhật bị giải giới thích trao quyền cho Việt Minh v́ họ cùng là da vàng, nhiều lính Nhật theo VM, huấn luyện cho VM. Tầu, Mỹ, Nhật, VM kết hợp chống Pháp.
Pháp hối lộ Tầu và thương thuyết với Việt Minh để ra Bắc, ngày 6-3-1946, kư Hiệp ước công nhận VN độc lập có Quốc hội, quân đội, tài chính trong Liên bang Đông dương và Liên hiệp Pháp. Người Pháp với 15,000 quân được phép thay thế 200,000 quân Tầu
Ngày 18-3 thi hành Hiệp định, Tướng Leclerc vào Hà Nội sau khi đă xử dụng đại bác để đổ bộ lên Hải pḥng. Pháp cần thay đổi thái dộ, không thể như trước 1939 được. Hai bên thảo luận từ Đà lạt rồi qua Fontainebleau , ngày 14-9-1946 kư tạm ước, hai bên căng thẳng. Tới 19-12-1946 Việt Minh tấn công Pháp mở đầu cuộc chiến Đông Dương
Cuộc chiến.
Tác giả kể sơ những giai đoạn chính của cuộc chiến. Những năm 1947, 1948, 1949 chiếm những tỉnh của VM. Nếu có chỉ huy thống nhất, phương tiện quân sự đầy đủ th́ đă thành công. Không khí chính trị tại Pháp không thuận lợi, người Pháp không ủng hộ cuộc chiến, coi đó là cuộc chiến bẩn thỉu, cuộc chiến ô nhục.
Quân đội Pháp được tiếp viện lén lút, động viên vội vă, từ từ chiếm được châu thổ Bắc phần nhưng không tiêu diệt được du kích. Tại Thượng du, Trung du Pháp chiếm được những vị trí chiến lược then chốt Móng cáy, Lạng Sơn, Cao bằng, Lào kay. Nhưng chiếm đóng lỏng lẻo, Việt Minh vẫn xâm nhập được. Tại Pháp cánh tả ủng hộ VM, cánh hữu bác bỏ. Pháp thương thuyết với Bảo Đại đang ở Hồng Kông, ông cũng đ̣i độc lập như Hồ chí Minh. Năm 1949 ông đồng ư về nước làm Quốc trưởng, người Pháp ngầm công nhận nền dộc lập, trong 3 năm này VM chưa mạnh, Pháp chưa có sự dứt khoát về chính trị quân sự, cơ hội qua đi.
Cuối năm 1949 bên Tầu Mao thắng Tưởng, họ dàn ra biên giới, cuộc chiến qua giai đoạn khác. Trước đây thiếu vũ khí nặng VM chỉ đánh du kích, nay được Trung Cộng viện trợ nhiều, cục diện thay đổi, Pháp phải lựa chọn thắng trận bằng trang bị mạnh trước khi Tầu viện trợ ồ ạt cho VM hoặc thương thuyết.
Tuy thế có một cách lưng chừng, Tướng Revers, Tham mưu trưởng quân đội Pháp, thay mặt chính phủ tới quan sát trận địa, quyết định bỏ biên giới về giữ châu thổ Bắc phần. Mấy tháng sau thực hiện kế hoạch này đưa tới thất bại quân sự tại Cao bằng. Bỏ ngỏ biên giới Tầu khiến họ ăn thông màng lưới vận chuyển ngày một nhiều hơn để VM nhận được nhiều viện trợ thành lập quân đội chính qui. Tại châu thổ, Pháp phải đóng đồn, thiếu quân di động.
Trong khi VM ngày càng mạnh, đông, di động, tại Pháp chính phủ không tăng viện đủ để đối phó t́nh trạng nghiêm trọng, ngày càng sa lầy v́ thụ động. VM lên tinh thần trong khi Pháp xuống tinh thần, chủ bại, cán cân dần dần nghiêng về phía địch.
Tiếng vang trận Cao Bằng khiến chính phủ cử Tướng De Lattre sang làm Toàn quyền tại Đông Dương tháng 12-1950, ông vừa giữ chức Cao ủy (Toàn quyền) và Tư lệnh quân đội. T́nh h́nh chính trị sáng sủa hơn từ tháng 6-1950, Hiệp ước kư tại Pau chấp nhận ba nước Đông dương trong Liên hiệp Pháp. T́nh h́nh quân sự không sáng sủa hơn. Thượng du, Trung du di tản, các lực lượng Pháp rút về châu thổ, đa số đóng một chỗ. Quân trừ bị có khoảng 12 tiểu đoàn trong đó chỉ có 6 tiểu đoàn tổ chức thành hai Liên đoàn lưu động (1). Châu thổ bị VM xâm nhập không thể bảo vệ được.
Trái lại phía VM thành lập một Quân đoàn gồm 3 sư đoàn trong khi 2 sư đoàn nữa vừa lập xong, toàn Đông dương VM lập những đơn vị địa phương quân cấp đại đội, tiểu đoàn. De Lattre mang lại niềm tin cho quân đội, ông quan tâm đặc biệt sự quan trọng của đồng bằng Bắc phần, nó là cái then cửa của Đông nam Á, đúng vậy nên VM cố chiếm đồng bằng. De Lattre trích ra trên toàn lănh thổ những phương tiện có thể và được bên Pháp tăng cường, ông thành lập thêm 4 Liên đoàn lưu động. Trong mấy tuần ông ta đă khiến cho lực lượng viễn chinh tại Bắc phần ngang với Quân đoàn Việt Minh. Pháp đẩy lui hai cuộc tấn công lớn một ở Hà Nội (Vĩnh Yên, tháng 1-1951) và Hải Pḥng (Đông triều, 5-1951).
De Lattre cho lập tuyến pḥng thủ tại đồng bằng, trước hết đương đầu với cuộc tấn công lớn vào Châu thổ của VM hay của Trung cộng, ngăn chận VM liên lạc giữa Châu thổ và bên ngoài. Pḥng tuyến De Lattre không bao giờ ngăn được cuộc tấn công lớn và cũng không ngăn chận được các đơn vị lớn VM ra vào. Việc đóng quân mất 20 tiểu đoàn khiến Pháp thiếu những đơn vị di động. Mùa xuân 1951, Pháp mở những cuộc hành quân tại Châu thổ, kết quả khả quan. De Lattre đồng thời tăng cường lập thêm các đơn vị mới, ông tuyển thêm lính bản xứ, De Lattre phát triển quân đội các Quốc gia liên kết (Việt, Mên, Lào) nhất là quân đội Việt Nam .
B́nh định xong, mùa thu 1951, tướng Tư lệnh quyết định tấn công với tham vọng tiêu diệt Quân đoàn VM, biết là địch di động luôn, ông chọn Ḥa b́nh nới VM sẽ đánh. Một trận đánh cam go bốn tháng diễn ra, De Lattre bị bệnh phải về Pháp, sau nhiều thăng trầm, Pháp rút vào Châu thổ tháng 2-1952. Pháp đă giáng cho địch nhiều tổn thất nặng và Pháp cũng bị thiệt hại . Về chiến lược, không đạt được kết quả nào ngoài ngăn chận địch tấn công Hà Nội. Đáng tiếc trận Ḥa b́nh khiến quân lưu động Pháp ra khỏi Châu thổ, VM xâm nhập nhiều, Châu thổ ngày càng bị ung thối, dần dần Pháp phải đóng một chỗ, VM thắng về cơ bản, De Lattre đă vực dậy được t́nh h́nh.
De Lattre chết bệnh, cuộc chiến sang giai đoạn khác, t́nh h́nh tồi tệ hơn. Quyền hành chính trị quân sự tách rời: ông Letourneau làm Cao Ủy, tướng Salan thành Tư lệnh. Tại Châu thổ, quân Pháp khó khăn, VM lưu động ngày càng mạnh, quân lưu động Pháp ngày càng hạn chế, đạo quân cố định nay chỉ để chống du kích và địa phương quân. Tinh thần xuống nhiều, mặc cảm tự ty trước kẻ địch tự do hoành hành, nhất là ban đêm nó làm chúa tể. VM như vết dầu loang, chiếm đóng dần dần miền Trung, nam VN tương đối cải thiện, nay Quân đoàn VM lên tới 6 sư đoàn, từ trận Ḥa b́nh VM chưa đánh lớn, Tướng lănh Pháp cho là VM sẽ đánh Châu thổ.
Cuộc chiến tranh Đông dương lần thứ nhất thường gọi là “tám năm khói lửa” giữa Việt Minh và Pháp cũng là sự đụng độ giữa CS quốc tế và Thế giới tự do. Nhiều người, kể cả Tây phương ca ngợi Việt minh, ông Hồ, ông Giáp tay không dựng nghiệp nhưng nay nhiều tài liệu tiết lộ Việt Minh đă được Trung cộng và Đệ tam quốc tế gây dựng, trợ giúp, chỉ đạo và điều khiển rất nhiều.
———————————————–
http://luyenchuong.com/forum/attachment.php?attachmentid=438595&stc=1&d=1389436850
Tướng Henri Navarrerance. Ảnh Bettmann/CORBIS
Tôi xin lược dịch lần lượt các chương. Bài này gồm chương I và II
Navarre nói trong Lời mở đầu (xin lược dịch)
Một tháng sau khi Điện Biên Phủ mất, Navarra nhận điện tín bị Chính phủ Pháp cất chức Tư lệnh Đông Dương.
Những nhà chính khách điều khiển cuộc chiến không hoàn hảo, những kẻ cầm quyền đă mang lại ḥa b́nh kém. Quốc hội đổ lỗi cho Quân đội, đặc biệt là Navarre , người ta dựng lên một sự thật: Đông Dương tuyệt vọng sau Điện Biên Phủ, chỉ có ḥa b́nh mới cứu văn nổi, thua trận v́ khuyết điểm, sai lầm quân sự.
Trước t́nh trạng đó Navarre gửi văn thư cho Bộ quốc pḥng phản đối thái độ của Chính phủ đối với ông và phản đối khuynh hướng đổ lỗi cho quân đội tại Đông Dương là nguyên nhân chính nếu không nói là độc nhất cho kết thúc bi đát của cuộc chiến. Tướng Navarre kết luận xin lập ngay Ủy ban điều tra có thẩm quyền để đánh giá sự chỉ huy của ông, để biết những đơn vị dưới quyền ông chiến đấu trong những điều kiện thế nào, để khảo sát tổng quát diễn tiến cuộc chiến Đông Dương, về lúc Navarre được cử giữ chức Tư Lệnh để chấm dứt chiến tranh
Navarre bị áp lực chính trị quân sự buộc ông rút yêu cầu kể trên, Chính phủ cũng như thượng cấp không muốn mở cuộc điều tra. Ba tháng sau Chính phủ trả lời từ chối yêu cầu củaTướng Tư Lệnh. Đầu tháng 1 năm 1955, một tờ báo đề cập tới Điện Biên Phủ rất sai lạc khiến Navarre không nhịn được, ông cho biết nếu không thành lập Ủy ban điều tra trong ṿng mấy ngày ông sẽ cho đăng trên một tờ báo lớn toàn bộ sự thật về trận Điện Biên Phủ.
Ông tưởng lần này sẽ thánh công nhưng họ lại cho ch́m xuồng. Măi tới ba tháng sau mới thành lập Ủy ban, quyền hạn của họ rất yếu so với yêu cầu của ông. Đấu tháng 5 họ làm việc, tới tháng 12 mới báo cáo, Navarre muốn coi báo cáo nhưng họ từ chối lấy cớ để giữ bí mật. Họ phủ nhận giả thuyết cho quân đội là nguyên nhấn chính làm mất Đông Dương. Mặc dù không đầy đủ và cẩn thận, kết luận của Ủy ban mở ra một lỗ hổng lớn trong việc công bố chính thức sự thật.
Mặc dù Navarre đ̣i hỏi nhiều lần nhưng họ không công bố công khai, đó là chứng cớ họ muốn nhận ch́m xuồng măi măi sự thật. Mặc dù Chính phủ miễn cưỡng thỏa măn tự ái của ông ta để chấm dứt việc lấy ông làm vật tế thần, cái bung xung , Navarre quyết định rời quân ngũ. Nếu c̣n tại ngũ ông phải giữ im lặng, coi như mặc nhiên thừa nhận những sự kiện đánh lừa dư luận về những điều kiện đưa tới thảm bại mà Pháp đă chịu tại Viễn Đông, nó đè nặng trên số phận của đất nước không được biết sự thật.
Có thể người ta sẽ cho là Navarre , vai chính của thảm kịch không tránh khỏi chủ quan. Độc giả sẽ phán xét, ông nói sẽ viết cái mà ông ta cho là sự thật, chỉ quả quyết cái mà ông chứng minh nhưng không dấu diếm những cái mà ông tin là cần và có thể nói. Nếu ông thách thức bằng những sự cải chính, củng cố bằng những chứng cớ, nó sẽ được hoan nghênh, v́ nó sẽ giúp đem lại sự thật từ dưới đáy giếng sâu
Đó là mục đích của cuốn sách này
Chương Một: Tôi giữ chức Tư lệnh.
Tháng 5-1953, Navarre ở Tây Đức, giữ chức Tham mưu trưởng cho Tướng Juin tại NATO, Đức quốc, được lệnh về Paris gấp. Ông được biết Chính phủ cử làm Tư lệnh quân viễn chinh tại Đông Dương
Ngày 8-5 ông thực sự được được bổ nhiệm, Réné Mayer, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (Thủ tướng) cho biết t́nh h́nh Đông Dương rất xấu, khó mà Navarre có giải pháp tốt đẹp
Navarre được lệnh đi Đông Dương nghiên cứu t́nh h́nh một tháng để tường tŕnh Chính phủ một chương tŕnh hành động, René Mayer cho biết sẽ không có tăng viện, tác giả nhận chỉ thị tái tổ chức Đông dương . Tới Sài G̣n 18-5-1953 ông ra Hà Nội, phải tổ chức lại, thay tướng Linares trong chức vụ chỉ huy tại Bắc Việt, Bộ tham mưu của Tổng tư lệnh cũng phải cũng phải thay đổi v́ nhiều sĩ quan cao cấp hồi hương như Tổng tham mưu trưởng, Chánh văn pḥng. Trước khi về lại Pháp ông cử tướng Gambiez làm Tham mưu trưởng
Chương Hai: T́nh h́nh Đông Dương khi tôi tới.
Quá Khứ
Navarre lược thuật quá lịch sử VN từ Thế chiến thứ hai cho tới 1952.
Người Pháp trở lại Đông dương sau Thế chiến
Thập niên 30 tại Bắc kỳ phong trào chống Pháp lên mạnh, năm 1940 Pháp bại trận, Nhật vào Đông dương , Pháp bị lép vế, đa số các đảng phái Quốc gia chống Pháp, Nhật. Các thủ lănh bị truy nă trốn sang Tầu, mới đầu chia rẽ, sau họ hợp lại dưới mặt trận nhân dân gọi là Việt Minh năm 1941 (Việt Nam độc lập đồng minh ), những người quá khích nắm chính quyền. Nguyễn Ái Quốc (Hồ chí Minh) làm chủ tịch đảng Cộng Sản Đông dương. Chương tŕnh hành động của họ nhằm đánh đuổi thực dân dân chủ hóa Đông Dương, họ liên minh với Quốc dân đảng Trung hoa và Mỹ.
Một tổ chức bí mật của Việt Minh được thành lập tại Thái Nguyên (100 km, phía bắc Hà nội) gồm nhiều chi bộ rải rác trong nước, hàng ngh́n du kích, nhất là tại Thượng du Bắc kỳ. Mỹ đă tiếp xúc với Việt Minh thả dù vũ khí cho họ, ngày 9-3-1945 Nhật đảo chính, chính quyền Pháp sụp đổ tại Đông Dương. Số th́ bị giết, bị bắt giam, c̣n laị khoảng 5,000 người chạy sang Tầu. Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố độc lập thống nhất ba kỳ (Bắc, Trung , Nam ), hủy bỏ tàn tích thực dân Pháp.
Việt Minh bành trướng mạnh khắp Việt Nam nhất là miền Thượng du Bắc kỳ. Biết Nhật sắp thua, họ chuẩn bị cướp chính quyền. Rất giảo quyệt, không những được Mỹ giúp đỡ, họ c̣n dựa vào chính phủ lâm thời Pháp. Để chiếm cảm t́nh của Mỹ, họ chống Nhật, chống thực dân Pháp. Họ kết thân với Pháp mới, họ lừa gạt hết chỗ này, người nọ
Ngày 15-8-1945, Nhật đầu hàng đồng minh, Hồ chí Minh về Hà Nội, ít ngày sau họ chiếm chính quyền toàn quốc. Vua Bảo Đại thoái vị làm cố vấn cho chính phủ VN Dân chủ Cộng ḥa. Quân Anh giải giới vũ khí quân Nhật dưới vĩ tuyến thứ 16, trên đó là quân Tầu, kế đó Pháp đến tiếp thu. Tại miền nam Tướng Leclerc chỉ huy, tiếp thu dễ dàng, VM bỏ trốn, Pháp chiếm lại các thành phố quan trọng, VM rút vào rừng núi kháng chiến.
Phía Bắc, quân Tầu muốn đóng đô như xưa, khuyến khích Việt Minh giành độc lập. Trong nhiều tháng, Pháp không lấy lại được chủ quyền Bắc kỳ . Tầu, VM dựa vào Mỹ chống thực dân. Cao ủy Sainteny tới Hà Nội mấy ngày sau khi Nhật đầu hàng không được ai đón tiếp. Quân Nhật bị giải giới thích trao quyền cho Việt Minh v́ họ cùng là da vàng, nhiều lính Nhật theo VM, huấn luyện cho VM. Tầu, Mỹ, Nhật, VM kết hợp chống Pháp.
Pháp hối lộ Tầu và thương thuyết với Việt Minh để ra Bắc, ngày 6-3-1946, kư Hiệp ước công nhận VN độc lập có Quốc hội, quân đội, tài chính trong Liên bang Đông dương và Liên hiệp Pháp. Người Pháp với 15,000 quân được phép thay thế 200,000 quân Tầu
Ngày 18-3 thi hành Hiệp định, Tướng Leclerc vào Hà Nội sau khi đă xử dụng đại bác để đổ bộ lên Hải pḥng. Pháp cần thay đổi thái dộ, không thể như trước 1939 được. Hai bên thảo luận từ Đà lạt rồi qua Fontainebleau , ngày 14-9-1946 kư tạm ước, hai bên căng thẳng. Tới 19-12-1946 Việt Minh tấn công Pháp mở đầu cuộc chiến Đông Dương
Cuộc chiến.
Tác giả kể sơ những giai đoạn chính của cuộc chiến. Những năm 1947, 1948, 1949 chiếm những tỉnh của VM. Nếu có chỉ huy thống nhất, phương tiện quân sự đầy đủ th́ đă thành công. Không khí chính trị tại Pháp không thuận lợi, người Pháp không ủng hộ cuộc chiến, coi đó là cuộc chiến bẩn thỉu, cuộc chiến ô nhục.
Quân đội Pháp được tiếp viện lén lút, động viên vội vă, từ từ chiếm được châu thổ Bắc phần nhưng không tiêu diệt được du kích. Tại Thượng du, Trung du Pháp chiếm được những vị trí chiến lược then chốt Móng cáy, Lạng Sơn, Cao bằng, Lào kay. Nhưng chiếm đóng lỏng lẻo, Việt Minh vẫn xâm nhập được. Tại Pháp cánh tả ủng hộ VM, cánh hữu bác bỏ. Pháp thương thuyết với Bảo Đại đang ở Hồng Kông, ông cũng đ̣i độc lập như Hồ chí Minh. Năm 1949 ông đồng ư về nước làm Quốc trưởng, người Pháp ngầm công nhận nền dộc lập, trong 3 năm này VM chưa mạnh, Pháp chưa có sự dứt khoát về chính trị quân sự, cơ hội qua đi.
Cuối năm 1949 bên Tầu Mao thắng Tưởng, họ dàn ra biên giới, cuộc chiến qua giai đoạn khác. Trước đây thiếu vũ khí nặng VM chỉ đánh du kích, nay được Trung Cộng viện trợ nhiều, cục diện thay đổi, Pháp phải lựa chọn thắng trận bằng trang bị mạnh trước khi Tầu viện trợ ồ ạt cho VM hoặc thương thuyết.
Tuy thế có một cách lưng chừng, Tướng Revers, Tham mưu trưởng quân đội Pháp, thay mặt chính phủ tới quan sát trận địa, quyết định bỏ biên giới về giữ châu thổ Bắc phần. Mấy tháng sau thực hiện kế hoạch này đưa tới thất bại quân sự tại Cao bằng. Bỏ ngỏ biên giới Tầu khiến họ ăn thông màng lưới vận chuyển ngày một nhiều hơn để VM nhận được nhiều viện trợ thành lập quân đội chính qui. Tại châu thổ, Pháp phải đóng đồn, thiếu quân di động.
Trong khi VM ngày càng mạnh, đông, di động, tại Pháp chính phủ không tăng viện đủ để đối phó t́nh trạng nghiêm trọng, ngày càng sa lầy v́ thụ động. VM lên tinh thần trong khi Pháp xuống tinh thần, chủ bại, cán cân dần dần nghiêng về phía địch.
Tiếng vang trận Cao Bằng khiến chính phủ cử Tướng De Lattre sang làm Toàn quyền tại Đông Dương tháng 12-1950, ông vừa giữ chức Cao ủy (Toàn quyền) và Tư lệnh quân đội. T́nh h́nh chính trị sáng sủa hơn từ tháng 6-1950, Hiệp ước kư tại Pau chấp nhận ba nước Đông dương trong Liên hiệp Pháp. T́nh h́nh quân sự không sáng sủa hơn. Thượng du, Trung du di tản, các lực lượng Pháp rút về châu thổ, đa số đóng một chỗ. Quân trừ bị có khoảng 12 tiểu đoàn trong đó chỉ có 6 tiểu đoàn tổ chức thành hai Liên đoàn lưu động (1). Châu thổ bị VM xâm nhập không thể bảo vệ được.
Trái lại phía VM thành lập một Quân đoàn gồm 3 sư đoàn trong khi 2 sư đoàn nữa vừa lập xong, toàn Đông dương VM lập những đơn vị địa phương quân cấp đại đội, tiểu đoàn. De Lattre mang lại niềm tin cho quân đội, ông quan tâm đặc biệt sự quan trọng của đồng bằng Bắc phần, nó là cái then cửa của Đông nam Á, đúng vậy nên VM cố chiếm đồng bằng. De Lattre trích ra trên toàn lănh thổ những phương tiện có thể và được bên Pháp tăng cường, ông thành lập thêm 4 Liên đoàn lưu động. Trong mấy tuần ông ta đă khiến cho lực lượng viễn chinh tại Bắc phần ngang với Quân đoàn Việt Minh. Pháp đẩy lui hai cuộc tấn công lớn một ở Hà Nội (Vĩnh Yên, tháng 1-1951) và Hải Pḥng (Đông triều, 5-1951).
De Lattre cho lập tuyến pḥng thủ tại đồng bằng, trước hết đương đầu với cuộc tấn công lớn vào Châu thổ của VM hay của Trung cộng, ngăn chận VM liên lạc giữa Châu thổ và bên ngoài. Pḥng tuyến De Lattre không bao giờ ngăn được cuộc tấn công lớn và cũng không ngăn chận được các đơn vị lớn VM ra vào. Việc đóng quân mất 20 tiểu đoàn khiến Pháp thiếu những đơn vị di động. Mùa xuân 1951, Pháp mở những cuộc hành quân tại Châu thổ, kết quả khả quan. De Lattre đồng thời tăng cường lập thêm các đơn vị mới, ông tuyển thêm lính bản xứ, De Lattre phát triển quân đội các Quốc gia liên kết (Việt, Mên, Lào) nhất là quân đội Việt Nam .
B́nh định xong, mùa thu 1951, tướng Tư lệnh quyết định tấn công với tham vọng tiêu diệt Quân đoàn VM, biết là địch di động luôn, ông chọn Ḥa b́nh nới VM sẽ đánh. Một trận đánh cam go bốn tháng diễn ra, De Lattre bị bệnh phải về Pháp, sau nhiều thăng trầm, Pháp rút vào Châu thổ tháng 2-1952. Pháp đă giáng cho địch nhiều tổn thất nặng và Pháp cũng bị thiệt hại . Về chiến lược, không đạt được kết quả nào ngoài ngăn chận địch tấn công Hà Nội. Đáng tiếc trận Ḥa b́nh khiến quân lưu động Pháp ra khỏi Châu thổ, VM xâm nhập nhiều, Châu thổ ngày càng bị ung thối, dần dần Pháp phải đóng một chỗ, VM thắng về cơ bản, De Lattre đă vực dậy được t́nh h́nh.
De Lattre chết bệnh, cuộc chiến sang giai đoạn khác, t́nh h́nh tồi tệ hơn. Quyền hành chính trị quân sự tách rời: ông Letourneau làm Cao Ủy, tướng Salan thành Tư lệnh. Tại Châu thổ, quân Pháp khó khăn, VM lưu động ngày càng mạnh, quân lưu động Pháp ngày càng hạn chế, đạo quân cố định nay chỉ để chống du kích và địa phương quân. Tinh thần xuống nhiều, mặc cảm tự ty trước kẻ địch tự do hoành hành, nhất là ban đêm nó làm chúa tể. VM như vết dầu loang, chiếm đóng dần dần miền Trung, nam VN tương đối cải thiện, nay Quân đoàn VM lên tới 6 sư đoàn, từ trận Ḥa b́nh VM chưa đánh lớn, Tướng lănh Pháp cho là VM sẽ đánh Châu thổ.