vuitoichat
01-24-2014, 11:21
Gần đây có ba event liên tiếp ở Sài G̣n. Có một điểm thú vị là các event này (do IPL, Trung nguyên và Trung ương Đoàn tổ chức) đều có các chủ đề khá lớn lao: Đánh thức con rồng ngủ quên, Châu chấu đá voi, Nhân hiệu Việt… Diễn giả ở các event này là những người Việt khá nổi tiếng, từ nước ngoài về như Vũ Minh Khương, Giáp Văn Dương, giới nghệ sỹ như Dương Thụ, Quốc Trung, giới kinh doanh như Vơ Quốc Thắng, Đặng Lê Nguyên Vũ, giới kinh tế như Trần Đ́nh Thiên, Vơ Đại Lược, các học giả như Bùi Văn, Hồ Ngọc Đại, Tôn Thất Khiêm …
Thực sự, có vẻ như nhiều người, ở nhiều thế hệ khác nhau, ở các nhóm xă hội khác nhau, đang xoay xở t́m ṭi sự đột phá, hay một lối thoát ra để vươn lên, không chỉ cho cá nhân ḿnh, mà c̣n cho cả một thế hệ, cả đất nước.
Trong các sự kiện này họ tổ chức rất nhiều các cuộc trao đổi, đối thoại, chia sẻ kinh nghiệm, nhưng suốt mấy buổi kiên nhẫn ngồi theo dơi, vẫn chưa thấy ai đặt ra được các câu hỏi cốt lơi.
<table align="right" border="0" cellpadding="0" cellspacing="2" width="205"> <tbody><tr> <td bgcolor="#eeeeee">http://iyouphim.com/forum/attachment.php?attachmentid=266640&stc=1&d=1390562370</td> </tr> </tbody></table>
Khó mà biết câu hỏi nào là câu hỏi cốt lơi, tuy nhiên nếu nh́n sâu vào thực trạng xă hội hiện nay, nh́n vào thực trạng của các xă hội tương tự trong quá khứ, cũng sẽ nảy ra những câu hỏi mà câu trả lời cần rất nhiều suy nghĩ. Sau đây có thể là một số câu.
Đầu tiên câu hỏi về niềm tin, về tương lai phía trước của đất nước: Liệu Việt Nam có thực sự trở thành Rồng? Hay không thể nào thành Rồng? Nếu niềm tin là Việt Nam sẽ hóa rồng, th́ cách nghĩ và cách làm sẽ khác, nếu niềm tin là không thể hóa rồng, sẽ phải nghĩ hướng khác, làm cách khác.
Để biết Việt Nam có trở thành Rồng hay không, việc đầu tiên là phải quay lại để nh́n về lịch sử, xem chúng ta có thực sự mang trong ḿnh ḍng máu của Rồng hay không? Và quan trọng hơn, để nh́n vào quá khứ, đă có giai đoạn lịch sử nào chúng ta mang h́nh bóng của một chú Rồng con?
Câu hỏi tiếp theo, là hàng triệu người Việt Nam hiện có lư tưởng, chí hướng ǵ chung không? Lư tưởng ở đây không phải là lư tưởng có nguồn gốc từ một chủ nghĩa hay triết thuyết nào đó, là những thứ trong suốt lịch sử của ḿnh, cho đến đến tận ngày nay chúng ta vẫn phải đi vay mượn. Phần nhiều những người cùng chí hướng (đồng chí) đi theo những lư tưởng ấy, cho đến nay cũng không c̣n tin vào lư tưởng mà họ đă từng tin, không c̣n tin vào đồng chí của ḿnh, tức là gọi là “đồng chí” mà lại không cùng chí hướng.
Dù Niềm Tin là Việt Nam sẽ hóa rồng, hay Niềm Tin là Việt Nam sẽ chỉ có số phận làng nhàng giun dế, th́ để cứu vớt cái xă hội đang phân ră cao độ này rồi đưa đất nước đi đúng con đường mà nó cần phải đi, để thoát khỏi vũng lầy tăm tối, th́ vẫn cần một hoặc nhiều lư tưởng, một hoặc vài chí hướng. Những lư tưởng và chí hướng ấy phải có cùng: gốc rễ từ chính dân tộc ḿnh và hướng về phía trước là phát triển đất nước. Có cái chung như vậy th́ nỗ lực của mỗi người, dù theo đuổi lư tưởng nào, chí hướng nào, sẽ đều góp phần phụng sự đất nước.
Một câu hỏi nữa, về sự chuyển giao liên tục giữa các thế hệ, đặc biệt là giữa các thế hệ lănh đạo. Bất cứ một sự gián đoạn nào, dù là gián đoạn giữa các thế hệ doanh nhân, tri thức, hay gián đoạn giữa các thế hệ lănh đạo, đều gây ra sự phân ră xă hội. Đặc biệt là sự gián đoạn lănh đạo đất nước, sẽ tàn phá di sản quá khứ, làm thất truyền kinh nghiệm dựng nước, làm vỡ nát nền tảng văn hóa và luân lư của xă hội, dẫn đến xă hội không chỉ phân ră mà có thể sụp đổ từ vật chất đến đạo đức, lối sống.
Một câu hỏi cũng nên đặt ra, không phải là làm thế nào để trở thành Rồng, mà phải định nghĩa Rồng là ǵ rồi từ đó mới biết cách để trở thành Rồng.
Cuối cùng là câu hỏi về cơ hội. Liệu có cơ hội nào để Việt Nam trở thành rồng hay không. Cơ hội ấy không tự ta tạo ra, mà phụ thuộc vào hoàn cảnh thế giới. Nhưng nắm lấy cơ hội, lại là một việc chúng ta phải chủ động.
Bắt đầu từ câu hỏi: Quốc gia Rồng là một quốc gia như thế nào?
Làm Rồng phải chăng là khè lửa dọa dẫm bắt nạt các nước láng giềng, hay là đánh nhau tay bo thắng vài cường quốc? Làm Rồng phải chăng là có thể đánh đu ngang hàng với các quốc gia phát triển? Hay là làm rồng tức là có những doanh nghiệp lớn vươn ra thế giới? Làm rồng có lẽ nào chỉ cần có những tầng lớp ăn trên ngồi chốc giàu có ngang ngửa với giới elite tư bản hàng đầu khu vực hoặc thế giới?
Làm Rồng, thực ra hiền lành hơn nhiều. Một quốc gia hóa rồng là một quốc gia hội nhập và có đóng góp cho văn minh nhân loại. Một quốc gia có đóng góp cho văn minh nhân loại, th́ tự khắc sẽ có vị thế và được thế giới chia cho phần lợi lớn. Như Anh-Mỹ mấy trăm năm nay, như Nhật cả trăm năm nay. Và như Hàn Quốc rất gần đây. Một quốc gia chỉ thụ hưởng hay vay mượn của văn minh nhân loại, th́ phần của cải mà nó được thế giới chia cho, sẽ chỉ là canh thừa cơm cặn, quá lắm là chỉ đủ thoát chết đói, thoát nghèo hay giàu xổi. C̣n lâu mới đạt đến đẳng cấp thịnh vượng bền vững. Ở những quốc gia vay mượn, có rất nhiều trên thế giới này, chỉ có một lớp người giàu có nhờ lèo lái đặc quyền để kiếm ăn trên lưng đồng bào hoặc tài nguyên của đất nước.
Đấy mới là điều kiện đủ để được coi là Rồng.
Điều kiện cần chính là Độc Lập, Thống Nhất bờ cơi và có chung Một Ngôn Ngữ.
Một con rồng chỉ là con Rồng khi nó thực sự làm chủ được vận mệnh của ḿnh và có giang sơn của riêng nó. Một đất nước muốn hóa rồng, đầu tiên cần phải là một quốc gia, có chủ quyền, và nhân dân của quốc gia ấy có những người lănh đạo của chính ḿnh.
Với những điều kiện như vậy th́ mầm mống của nước Việt Nam hiện nay mới thực sự hiện hữu, hay nói cách khác là con rồng sơ sinh xuất hiện trên mảnh đất chữ S này, chỉ hơn 10 thế kỷ. Đó là khi Khúc Thừa Dụ khéo léo đưa nước ta thoát khỏi 1000 năm bắc thuộc. Một ngàn năm là quăng thời gian rất dài. Dài đến mức khi nước ta thoát khỏi sự kiểm soát của người Hán phương Bắc th́ kể từ đấy lănh đạo đất nước Tàu luôn coi nước chúng ta là mảnh đất ly khai. Kể từ bấy đến nay, họ đă mang quân toan cướp nước ta khoảng 9 lần. Trong đó đáng kể nhất có thời kỳ bắc thuộc lần IV và người giải phóng đất nước lần đấy là Lê Lợi, đă mở ra một kỷ nguyên lớn cho dân tộc, đất nước. Những lần cướp nước khác, không tính Nguyên Mông, th́ trận thua tơi bời của nhà Thanh trước quân Tây Sơn, cũng gây ra biến động lớn cho xă hội và chỉ hơn 10 năm sau chiến thắng Đống Đa, Việt Nam hiện h́nh thực sự là một con rồng nhỏ trong khu vực.
Ở thời điểm sơ sinh của nước Việt, sau khi Khúc Thừa Dụ khéo léo đỡ đầu cho rồng ra đời, th́ Ngô Quyền chính là vị vua phục quốc đầu tiên. Sau chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền không chỉ chính thức tái thành lập nước Âu Lạc mà c̣n dựng nên hoàng gia đầu tiên, tức là những người lănh đạo thực sự của đất nước, tức là Nhà Ngô.
Đây cũng là thời kỳ nước Việt thoát khỏi Trung Hoa mạnh mẽ nhất. Nếu như sự phát triển thần kỳ của Nhật Bảnsuốt 100 năm qua vẫn được coi là do họ Thoát Á Nhập Âu (Thoát Á Luận, rời bỏ văn minh Châu Á, ảnh hưởng mạnh của Trung Hoa, để thu nhập văn minh Châu Âu), th́ trong lịch sử Việt Nam chỉ có một lần duy nhất là Ngô Quyền thoát khỏi cái bóng Trung Hoa. Điều kỳ quặc là sau rất nhiều lần biến động lịch sử, mỗi lần đất nước sang trang mới, th́ chính quyền Đại Việt/Đại Nam có xu hướng ngả về mô h́nh Trung Hoa và thần phục (ít nhất là trên mặt ngoại giao) cái nước này. Chỉ có hai lần hiếm hoi có dự định bật lại thiên triều mà bất thành, một là Lư Thường Kiệt, hai là Quang Trung. Cũng có thể tính thêm thời Tổng Bí Thư Lê Duẩn.
Con rồng Việt sơ sinh bắt đầu lớn, rất chậm nhưng chắc chắn. Khi nhà Lư dời đô về Thăng Long, con rồng ấy bắt đầu chuyển ḿnh. Từ thế kỷ 11 (nhà Lư) đến thế kỷ 15 (nhà Lê), nước Việt non trẻ ấy đă trở thành Đại Việt, liên tục tiến hành các cuộc chiến tranh trong 400 năm để mở rộng bờ cơi gần gấp đôi (từ Thanh Hóa, xuốngphía Nam). Thời nhà Lư bắt đầu mở cơi vào Quảng Trị. Đến thời của ông vua tài năng nhất lịch sử Việt Nam, Lê Thánh Tông, nước Việt đă mở rộng đất đến tận Phú Yên. Lê Thánh Tông không chỉ xây dựng một đất nước có kỷ cương, luật pháp, văn hóa phát triển mà c̣n cải cách quân đội cực giỏi, đích thân cầm quân đi chinh phạt các vương quốc xung quanh, chiếm đất, mở mang bờ cơi.
Sự liền mạch của các gia tộc lănh đạo, hay c̣n gọi là Hoàng Gia, kéo dài liên tục trong quăng thời gian gần 8 thế kỷ, có lúc thịnh lúc suy, nhưng về cơ bản là đất nước phát triển cả về văn hóa, kinh tế và đặc biệt là mở rộng diện tích đất nước.
Sự bội phản của họ Mạc với nhà Lê là biến cố đầu tiên gây ra các biến loạn xă hội lớn lao sau này, có ảnh hưởng sâu đậm đến tận ngày nay. Nhưng cũng qua cơn biến loạn ấy mà con rồng thiếu nhi Đại Việt chuyển ḿnh trở thành con rồng thiếu niên Đại Nam dưới thời vuaMinh Mạng. Sự chuyển ḿnh qua biến loạn ấy, có lẽ cũng sẽ lặp lại trong tương lai gần.
Gia đ́nh họ Trịnh, hiểu rơ giá trị của việc liền mạch của lănh đạo đất nước, sau khi dẹp nhà Mạc tuy đủ sức lật nhà Lê, họ Trịnh vẫn nép ḿnh đứng sau một bước. Nhờ thế mà Nhà Lê tồn tại thêm cả hai trăm năm mà nhà Trịnh thực chất nắm kinh tế và quân sự điều hành cả nước. Cũng nhờ nấp sau bóng của Nhà Lê mà gia đ́nh Trịnh phần nào đó thoát khỏi thể chế nhà nước phong kiếnTrung Hoa mà các triều đ́nh phong kiến Việt kiên tŕ nhắm mắt sao chép suốt hàng trăm năm trước đó.
Khi Tây Sơn tiến quân vào Thăng Long, không chỉ dinh thự nguy nga của Trịnh Sâm bị đốt tan hoang, gia tài văn hóa bỗng dưng bị xóa sổ, gia đ́nh Trịnh bị tận diệt mà cả kho kiến thức và kinh nghiệm trị quốc của nhà Trịnh tan thành mây khói. Để lại một xă hội miền bắc thời Mạt Lê thật điêu tàn, một xă hội là bản sao mờ nhạt của Trung Hoa, một bản sao với người dân kém cỏi hơn, xấu xí hơn, cay nghiệt hơn.
Kinh nghiệm trị nước, dựng nước, xây dựng quân đội, kinh thương của nhà Trịnh là sự kế thừa của nhiều trăm năm trước, kể từ thời Ngô Quyền, cộng với trải nghiệm hai trăm năm pḥ Lê của họ. Kho kinh nghiệm ấy bỗng dưng một ngày biến mất trong tao loạn. Trong những kinh nghiệm trị nước bị mất đi, đáng tiếc nhất là những bài học “thoát khỏi hệ tư tưởng Trung Hoa, tức là Thoát Á”.
Tài năng trị nước, nấp đằng sau bóng hoàng gia Lê, của họ Trịnh cũng không được ai nh́n nhận. Ngay cả ông chúa Trịnh Sâm, người làm tan nát ḍng họ của ḿnh, ở những lúc xuất thần vẫn cử tướng cầm quân vào Nam, vô t́nh gây ra biến cố lớn lao ảnh hưởng sâu sắc đến nước Việt Nam hiện đại sau này.
Một bài học lớn về sự thủ tiêu thế hệ lănh đạo và di sản của họ, khiến cho kiến thức và kinh nghiệm trị nước và dựng nước bị thất truyền, vậy mà không ai chịu nh́n nhận để sau này lặp lại đến mấy lần. Mới chỉ vài chục năm trước đây, vẫn c̣n lặp lại.
Giai đoạn gia đ́nh họ Trịnh bị tiêu diệt cũng là thời kỳ mà người Việt giết chóc nhau thảm khốc. Quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long, kiêu binh Thanh Nghệ của chúa Trịnh bỏ trốn về quê, trên đường về phải giả câm, mở miệng ra nói giọng Thanh Nghệ là bị dân địa phương giết. Sau này đến lượt vua quan nhà Tây Sơn bị quân Nguyễn Ánh quây, rút chạy đến Nông Cống Thanh Hóa, lại bị dân ở đây bắt trói đem nộp. Dấu ấn kỳ thị vùng miền và chà đạp lẫn nhau, dù cùng là người Việt, đă bắt đầu xuất hiện và đi sâu vào gene của người Việt như một thứ gene cừu hận (feud), không ai chịu chữa mà c̣n làm cho nó nặng thêm.
Di sản trị quốc, dựng nước, di sản văn hóa đỉnh cao … của những người Việt đồng bằng bắc bộ, tích lũy hàng mấy trăm năm, kể từ thời Ngô Quyền đánh trận Bạch Đằng (938) đến thời Trịnh Sâm (1787) bị xóa sạch trơn bởi cơn cuồng phong nội chiến kéo dài 30 năm mà Tây Sơn là kẻ chiến thắng.
Thế nhưng cái may mắn là nhà Trịnh (Trịnh Kiểm) nổi lên mà nhà Nguyễn (Nguyễn Hoàng con trai của Nguyễn Kim) phải đối kháng đến mức phải bỏ xứ mà đi. Cái phần đất mà suốt mấy trăm năm người Việt chiến đấu để mở rộng, lúc đó mới chỉ đến Phú Yên, là bàn đạp để chúa Nguyễn mở mang bờ cơi vào đến đất Đồng Nai rồi mở qua miền tây đến tận Cà Mau, mở rộng bờ cơi lên gấp ba, so với những năm nước Việt sơ sinh đầu nhà Lư.
Cái may mắn thứ hai là trước khi suy tàn, Trịnh Sâm cầm quân đánh vào đất Thuận Hóa của Chúa Nguyễn. Làm sụp đổ ḍng họ này và làm quân Tây Sơn mạnh lên, hùa với quân Trịnh mà truy sát quân Nguyễn. Nhờ đấy mà đẩy chúa Nguyễn đi qua đất Tiền Giang, Bassac rồi xuống tận Cà Mau.
Nhờ quá tŕnh Nam tiến ấy mà kinh nghiệm mở cơi, trị nước, kinh thương và xây dựng quân đội của người Việt không bị mất đi. Và c̣n hơn thế, kiến thức và kinh nghiệm trị nước của các chúa Nguyễn lại được áp dụng trên những vùng đất xưa kia thuộc về các vương quốc chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, thay v́ Trung Hoa. Đó là Chàm, Khmer. Hay những vùng đất mới chịu ảnh hưởng khai phá của những người Hoa ưu tú, ly khai kháng chiến, phản Thanh phục Minh ở phía cực nam của vùng đất h́nh chữ S.
Tây Sơn diệt được Trịnh mà không diệt được Nguyễn. Quang Trung đánh thắng mọi kẻ thù cả nội lẫn ngoại xâm. Về cơ bản có công lớn thống nhất bờ cơi. Nhưng lại để xổng một kẻ duy nhất ḍng dơi hoàng gia là Nguyễn Ánh. Sau này Nguyễn Ánh quay lại không chỉ diệt nhà Tây Sơn, củng cố lại giang sơn bờ cơi mà c̣n đem di sản kinh nghiệm lănh đạo mấy trăm năm để lănh đạo một nước Việt mới mà ông đặt tên là Việt Nam, lên ngôi lấy tên Gia Long (Gia Định + Thăng Long).
Nguyễn Ánh lên ngôi rồi sau này là Minh Mạng nối ngôi, hai vị vua lừng danh này mang kinh nghiệm dựng nước của cha ông ḿnh vào việc thống nhất hệ thống chính trị và quân đội, kinh tế cho cả ba miền. Đây là một bước tiến lớn so với thời Quang Trung, ba miền cát cứ ba vương, quân đội riêng, ngân sách riêng. Việc quyền lực và nguồn lực, đặc biệt là kinh tế và quân sự thu về một mối khiến cho Việt Nam trở nên hùng mạnh hơn các nước xung quanh (vốn yếu kém hơn hẳn về thể chế/nhà nước, quân sự, nông nghiệp và ngoại thương). Các khu vực chư hầu phía nam bị bắt sát nhập vào nước Việt Nam (đến thời Minh Mạng đổi thành Đại Nam), các vùng đất tự chủ của người Hoa cũng bị sát nhập. Bờ cơi phía nam mở rộng tối đa về tây nam bộ và kéo dài đến tận biển cực nam của tổ quốc.
Đó là lúc rồng non trở thành thiếu niên.
Đó cũng là thời kỳ Việt Nam có bờ cơi rộng nhất (rộng hơn cả bây giờ)
Đó cũng là thời kỳ Việt Nam được các nước xung quanh kinh sợ nhất. Nhà Thanh, quân Xiêm sợ chết khiếp từ thời Tây Sơn. Miến Điện chỉ chứng kiến vài lần xuất quân của Tây Sơn ở Lào mà c̣n phát hăi. Vua Khmer (Chân Lạp) và Lào thần phục Việt Nam mà chịu làm chư hầu.
Đại Nam cũng là quốc gia Đông Nam Á đầu tiên mà Mỹ để ư đến và Tổng thống Mỹ cử người mang thư đến đặt quan hệ giao thương.
Có độc lập tự chủ rồi, điều kiện cần để thành con Rồng đă có. Nhưng điều kiện đủ, là phải ḥa ḿnh vào thế giới, th́ tiếc thay lănh đạo của Đế quốc Đại Nam ấy đă tự ḿnh để mất.
Các nhà lănh đạo của con Rồng thiếu niên ấy, đă quá tự tin vào sức mạnh của đất nước ḿnh, quá tự tin vào tài năng và kiến thức lănh đạo của ḿnh, quá sùng bái mô h́nh nhà nước phong kiến và thể chế cai trị của nó, đă đóng cánh cửa không cho con rồng thiếu niên tiếp cận với thế giới phương tây. Cơ hội rất lớn để con rồng thiếu niên Việt Nam quẫy ḿnh thành con rồng trưởng thành, đă bị bỏ lỡ một cách cực kỳ đáng tiếc.
Những nhà lănh đạo ấy là Vua Minh Mạng và các hậu duệ của ông ta.
Minh Mạng là vị vua tài giỏi có nhiều cải cách mạnh mẽ. Ông cải cách hành chính để cai trị, cải cách quân đội, cải cách chế độ làm quan (chấm dứt cha truyền con nối, luân chuyển quan chức). Cải cách giáo dục, thi cử, bổ nhiệm quan chức.
Minh Mạng cũng là người bỏ tên nước Việt Nam và thay bằng Đại Nam (1820). Cái tên Việt Nam biến mất hơn một thế kỷ cho đến năm 1927 mới xuất hiện trở lại nhờ Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông sử dụng tên Việt Nam để đặt tên cho đảng của ḿnh là Việt Nam Quốc Dân Đảng. Sau khởi nghĩa Yên Bái, Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ḿnh bị Pháp chặt đầu (tháng 6, 1930). Ở pháp trường Nguyễn Thái Học đă hô: Việt Nam Muôn Năm (Việt Nam Vạn Tuế). Kể từ hôm đấy, cái tên Việt Nam tái sinh và trỗi dậy trong ḷng dân Việt.
Dưới thời Minh Mạng, tiếng Việt là tiếng bắt buộc, thay thế cho tiếng Hoa và Khmer ở Gia Định (bao gồm cả miền tây). Đây là sự kiện cực kỳ quan trọng bởi kể từ đây, nước Việt Nam rộng lớn, có bờ cơi, có hệ thống lănh đạo riêng của ḿnh, và sử dụng chỉ một tiếng nói, và là tiếng riêng của ḿnh trên toàn lănh thổ.
Gần một trăm năm sau khi Minh Mạng cưỡng bức sử dụng tiếng Việt (ngôn ngữ nói) ở Nam Kỳ, tới tận những năm 191x-192x, các nhà hoạt động chính trị phản đế hàng đầu của Việt Nam ở hải ngoại như NAQ, PBC, PCT vẫn c̣n viết thư (ngôn ngữ viết) cho nhau bằng chữ Hán. Để thấy rằng, để lănh đạo cao nhất của đất nước có thể nói chuyện với mọi tầng lớp nhân dân, cần một tiếng nói chung, một chữ quốc ngữ đến như thế nào.
Người Việt vốn có nhiều gốc gác từ Mường, Thái, Khmer, Chăm, và Hoa, người Kinh thậm chí c̣n có nhiều họ gốc Tàu, cho đến thời điểm này ít nhất có hai cái chung: một là tiếng Việt, hai là thần dân nước Việt, một sự bắt đầu của một quốc gia hiện đại với các công dân và lănh thổ của nó.
Thực sự, có vẻ như nhiều người, ở nhiều thế hệ khác nhau, ở các nhóm xă hội khác nhau, đang xoay xở t́m ṭi sự đột phá, hay một lối thoát ra để vươn lên, không chỉ cho cá nhân ḿnh, mà c̣n cho cả một thế hệ, cả đất nước.
Trong các sự kiện này họ tổ chức rất nhiều các cuộc trao đổi, đối thoại, chia sẻ kinh nghiệm, nhưng suốt mấy buổi kiên nhẫn ngồi theo dơi, vẫn chưa thấy ai đặt ra được các câu hỏi cốt lơi.
<table align="right" border="0" cellpadding="0" cellspacing="2" width="205"> <tbody><tr> <td bgcolor="#eeeeee">http://iyouphim.com/forum/attachment.php?attachmentid=266640&stc=1&d=1390562370</td> </tr> </tbody></table>
Khó mà biết câu hỏi nào là câu hỏi cốt lơi, tuy nhiên nếu nh́n sâu vào thực trạng xă hội hiện nay, nh́n vào thực trạng của các xă hội tương tự trong quá khứ, cũng sẽ nảy ra những câu hỏi mà câu trả lời cần rất nhiều suy nghĩ. Sau đây có thể là một số câu.
Đầu tiên câu hỏi về niềm tin, về tương lai phía trước của đất nước: Liệu Việt Nam có thực sự trở thành Rồng? Hay không thể nào thành Rồng? Nếu niềm tin là Việt Nam sẽ hóa rồng, th́ cách nghĩ và cách làm sẽ khác, nếu niềm tin là không thể hóa rồng, sẽ phải nghĩ hướng khác, làm cách khác.
Để biết Việt Nam có trở thành Rồng hay không, việc đầu tiên là phải quay lại để nh́n về lịch sử, xem chúng ta có thực sự mang trong ḿnh ḍng máu của Rồng hay không? Và quan trọng hơn, để nh́n vào quá khứ, đă có giai đoạn lịch sử nào chúng ta mang h́nh bóng của một chú Rồng con?
Câu hỏi tiếp theo, là hàng triệu người Việt Nam hiện có lư tưởng, chí hướng ǵ chung không? Lư tưởng ở đây không phải là lư tưởng có nguồn gốc từ một chủ nghĩa hay triết thuyết nào đó, là những thứ trong suốt lịch sử của ḿnh, cho đến đến tận ngày nay chúng ta vẫn phải đi vay mượn. Phần nhiều những người cùng chí hướng (đồng chí) đi theo những lư tưởng ấy, cho đến nay cũng không c̣n tin vào lư tưởng mà họ đă từng tin, không c̣n tin vào đồng chí của ḿnh, tức là gọi là “đồng chí” mà lại không cùng chí hướng.
Dù Niềm Tin là Việt Nam sẽ hóa rồng, hay Niềm Tin là Việt Nam sẽ chỉ có số phận làng nhàng giun dế, th́ để cứu vớt cái xă hội đang phân ră cao độ này rồi đưa đất nước đi đúng con đường mà nó cần phải đi, để thoát khỏi vũng lầy tăm tối, th́ vẫn cần một hoặc nhiều lư tưởng, một hoặc vài chí hướng. Những lư tưởng và chí hướng ấy phải có cùng: gốc rễ từ chính dân tộc ḿnh và hướng về phía trước là phát triển đất nước. Có cái chung như vậy th́ nỗ lực của mỗi người, dù theo đuổi lư tưởng nào, chí hướng nào, sẽ đều góp phần phụng sự đất nước.
Một câu hỏi nữa, về sự chuyển giao liên tục giữa các thế hệ, đặc biệt là giữa các thế hệ lănh đạo. Bất cứ một sự gián đoạn nào, dù là gián đoạn giữa các thế hệ doanh nhân, tri thức, hay gián đoạn giữa các thế hệ lănh đạo, đều gây ra sự phân ră xă hội. Đặc biệt là sự gián đoạn lănh đạo đất nước, sẽ tàn phá di sản quá khứ, làm thất truyền kinh nghiệm dựng nước, làm vỡ nát nền tảng văn hóa và luân lư của xă hội, dẫn đến xă hội không chỉ phân ră mà có thể sụp đổ từ vật chất đến đạo đức, lối sống.
Một câu hỏi cũng nên đặt ra, không phải là làm thế nào để trở thành Rồng, mà phải định nghĩa Rồng là ǵ rồi từ đó mới biết cách để trở thành Rồng.
Cuối cùng là câu hỏi về cơ hội. Liệu có cơ hội nào để Việt Nam trở thành rồng hay không. Cơ hội ấy không tự ta tạo ra, mà phụ thuộc vào hoàn cảnh thế giới. Nhưng nắm lấy cơ hội, lại là một việc chúng ta phải chủ động.
Bắt đầu từ câu hỏi: Quốc gia Rồng là một quốc gia như thế nào?
Làm Rồng phải chăng là khè lửa dọa dẫm bắt nạt các nước láng giềng, hay là đánh nhau tay bo thắng vài cường quốc? Làm Rồng phải chăng là có thể đánh đu ngang hàng với các quốc gia phát triển? Hay là làm rồng tức là có những doanh nghiệp lớn vươn ra thế giới? Làm rồng có lẽ nào chỉ cần có những tầng lớp ăn trên ngồi chốc giàu có ngang ngửa với giới elite tư bản hàng đầu khu vực hoặc thế giới?
Làm Rồng, thực ra hiền lành hơn nhiều. Một quốc gia hóa rồng là một quốc gia hội nhập và có đóng góp cho văn minh nhân loại. Một quốc gia có đóng góp cho văn minh nhân loại, th́ tự khắc sẽ có vị thế và được thế giới chia cho phần lợi lớn. Như Anh-Mỹ mấy trăm năm nay, như Nhật cả trăm năm nay. Và như Hàn Quốc rất gần đây. Một quốc gia chỉ thụ hưởng hay vay mượn của văn minh nhân loại, th́ phần của cải mà nó được thế giới chia cho, sẽ chỉ là canh thừa cơm cặn, quá lắm là chỉ đủ thoát chết đói, thoát nghèo hay giàu xổi. C̣n lâu mới đạt đến đẳng cấp thịnh vượng bền vững. Ở những quốc gia vay mượn, có rất nhiều trên thế giới này, chỉ có một lớp người giàu có nhờ lèo lái đặc quyền để kiếm ăn trên lưng đồng bào hoặc tài nguyên của đất nước.
Đấy mới là điều kiện đủ để được coi là Rồng.
Điều kiện cần chính là Độc Lập, Thống Nhất bờ cơi và có chung Một Ngôn Ngữ.
Một con rồng chỉ là con Rồng khi nó thực sự làm chủ được vận mệnh của ḿnh và có giang sơn của riêng nó. Một đất nước muốn hóa rồng, đầu tiên cần phải là một quốc gia, có chủ quyền, và nhân dân của quốc gia ấy có những người lănh đạo của chính ḿnh.
Với những điều kiện như vậy th́ mầm mống của nước Việt Nam hiện nay mới thực sự hiện hữu, hay nói cách khác là con rồng sơ sinh xuất hiện trên mảnh đất chữ S này, chỉ hơn 10 thế kỷ. Đó là khi Khúc Thừa Dụ khéo léo đưa nước ta thoát khỏi 1000 năm bắc thuộc. Một ngàn năm là quăng thời gian rất dài. Dài đến mức khi nước ta thoát khỏi sự kiểm soát của người Hán phương Bắc th́ kể từ đấy lănh đạo đất nước Tàu luôn coi nước chúng ta là mảnh đất ly khai. Kể từ bấy đến nay, họ đă mang quân toan cướp nước ta khoảng 9 lần. Trong đó đáng kể nhất có thời kỳ bắc thuộc lần IV và người giải phóng đất nước lần đấy là Lê Lợi, đă mở ra một kỷ nguyên lớn cho dân tộc, đất nước. Những lần cướp nước khác, không tính Nguyên Mông, th́ trận thua tơi bời của nhà Thanh trước quân Tây Sơn, cũng gây ra biến động lớn cho xă hội và chỉ hơn 10 năm sau chiến thắng Đống Đa, Việt Nam hiện h́nh thực sự là một con rồng nhỏ trong khu vực.
Ở thời điểm sơ sinh của nước Việt, sau khi Khúc Thừa Dụ khéo léo đỡ đầu cho rồng ra đời, th́ Ngô Quyền chính là vị vua phục quốc đầu tiên. Sau chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền không chỉ chính thức tái thành lập nước Âu Lạc mà c̣n dựng nên hoàng gia đầu tiên, tức là những người lănh đạo thực sự của đất nước, tức là Nhà Ngô.
Đây cũng là thời kỳ nước Việt thoát khỏi Trung Hoa mạnh mẽ nhất. Nếu như sự phát triển thần kỳ của Nhật Bảnsuốt 100 năm qua vẫn được coi là do họ Thoát Á Nhập Âu (Thoát Á Luận, rời bỏ văn minh Châu Á, ảnh hưởng mạnh của Trung Hoa, để thu nhập văn minh Châu Âu), th́ trong lịch sử Việt Nam chỉ có một lần duy nhất là Ngô Quyền thoát khỏi cái bóng Trung Hoa. Điều kỳ quặc là sau rất nhiều lần biến động lịch sử, mỗi lần đất nước sang trang mới, th́ chính quyền Đại Việt/Đại Nam có xu hướng ngả về mô h́nh Trung Hoa và thần phục (ít nhất là trên mặt ngoại giao) cái nước này. Chỉ có hai lần hiếm hoi có dự định bật lại thiên triều mà bất thành, một là Lư Thường Kiệt, hai là Quang Trung. Cũng có thể tính thêm thời Tổng Bí Thư Lê Duẩn.
Con rồng Việt sơ sinh bắt đầu lớn, rất chậm nhưng chắc chắn. Khi nhà Lư dời đô về Thăng Long, con rồng ấy bắt đầu chuyển ḿnh. Từ thế kỷ 11 (nhà Lư) đến thế kỷ 15 (nhà Lê), nước Việt non trẻ ấy đă trở thành Đại Việt, liên tục tiến hành các cuộc chiến tranh trong 400 năm để mở rộng bờ cơi gần gấp đôi (từ Thanh Hóa, xuốngphía Nam). Thời nhà Lư bắt đầu mở cơi vào Quảng Trị. Đến thời của ông vua tài năng nhất lịch sử Việt Nam, Lê Thánh Tông, nước Việt đă mở rộng đất đến tận Phú Yên. Lê Thánh Tông không chỉ xây dựng một đất nước có kỷ cương, luật pháp, văn hóa phát triển mà c̣n cải cách quân đội cực giỏi, đích thân cầm quân đi chinh phạt các vương quốc xung quanh, chiếm đất, mở mang bờ cơi.
Sự liền mạch của các gia tộc lănh đạo, hay c̣n gọi là Hoàng Gia, kéo dài liên tục trong quăng thời gian gần 8 thế kỷ, có lúc thịnh lúc suy, nhưng về cơ bản là đất nước phát triển cả về văn hóa, kinh tế và đặc biệt là mở rộng diện tích đất nước.
Sự bội phản của họ Mạc với nhà Lê là biến cố đầu tiên gây ra các biến loạn xă hội lớn lao sau này, có ảnh hưởng sâu đậm đến tận ngày nay. Nhưng cũng qua cơn biến loạn ấy mà con rồng thiếu nhi Đại Việt chuyển ḿnh trở thành con rồng thiếu niên Đại Nam dưới thời vuaMinh Mạng. Sự chuyển ḿnh qua biến loạn ấy, có lẽ cũng sẽ lặp lại trong tương lai gần.
Gia đ́nh họ Trịnh, hiểu rơ giá trị của việc liền mạch của lănh đạo đất nước, sau khi dẹp nhà Mạc tuy đủ sức lật nhà Lê, họ Trịnh vẫn nép ḿnh đứng sau một bước. Nhờ thế mà Nhà Lê tồn tại thêm cả hai trăm năm mà nhà Trịnh thực chất nắm kinh tế và quân sự điều hành cả nước. Cũng nhờ nấp sau bóng của Nhà Lê mà gia đ́nh Trịnh phần nào đó thoát khỏi thể chế nhà nước phong kiếnTrung Hoa mà các triều đ́nh phong kiến Việt kiên tŕ nhắm mắt sao chép suốt hàng trăm năm trước đó.
Khi Tây Sơn tiến quân vào Thăng Long, không chỉ dinh thự nguy nga của Trịnh Sâm bị đốt tan hoang, gia tài văn hóa bỗng dưng bị xóa sổ, gia đ́nh Trịnh bị tận diệt mà cả kho kiến thức và kinh nghiệm trị quốc của nhà Trịnh tan thành mây khói. Để lại một xă hội miền bắc thời Mạt Lê thật điêu tàn, một xă hội là bản sao mờ nhạt của Trung Hoa, một bản sao với người dân kém cỏi hơn, xấu xí hơn, cay nghiệt hơn.
Kinh nghiệm trị nước, dựng nước, xây dựng quân đội, kinh thương của nhà Trịnh là sự kế thừa của nhiều trăm năm trước, kể từ thời Ngô Quyền, cộng với trải nghiệm hai trăm năm pḥ Lê của họ. Kho kinh nghiệm ấy bỗng dưng một ngày biến mất trong tao loạn. Trong những kinh nghiệm trị nước bị mất đi, đáng tiếc nhất là những bài học “thoát khỏi hệ tư tưởng Trung Hoa, tức là Thoát Á”.
Tài năng trị nước, nấp đằng sau bóng hoàng gia Lê, của họ Trịnh cũng không được ai nh́n nhận. Ngay cả ông chúa Trịnh Sâm, người làm tan nát ḍng họ của ḿnh, ở những lúc xuất thần vẫn cử tướng cầm quân vào Nam, vô t́nh gây ra biến cố lớn lao ảnh hưởng sâu sắc đến nước Việt Nam hiện đại sau này.
Một bài học lớn về sự thủ tiêu thế hệ lănh đạo và di sản của họ, khiến cho kiến thức và kinh nghiệm trị nước và dựng nước bị thất truyền, vậy mà không ai chịu nh́n nhận để sau này lặp lại đến mấy lần. Mới chỉ vài chục năm trước đây, vẫn c̣n lặp lại.
Giai đoạn gia đ́nh họ Trịnh bị tiêu diệt cũng là thời kỳ mà người Việt giết chóc nhau thảm khốc. Quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long, kiêu binh Thanh Nghệ của chúa Trịnh bỏ trốn về quê, trên đường về phải giả câm, mở miệng ra nói giọng Thanh Nghệ là bị dân địa phương giết. Sau này đến lượt vua quan nhà Tây Sơn bị quân Nguyễn Ánh quây, rút chạy đến Nông Cống Thanh Hóa, lại bị dân ở đây bắt trói đem nộp. Dấu ấn kỳ thị vùng miền và chà đạp lẫn nhau, dù cùng là người Việt, đă bắt đầu xuất hiện và đi sâu vào gene của người Việt như một thứ gene cừu hận (feud), không ai chịu chữa mà c̣n làm cho nó nặng thêm.
Di sản trị quốc, dựng nước, di sản văn hóa đỉnh cao … của những người Việt đồng bằng bắc bộ, tích lũy hàng mấy trăm năm, kể từ thời Ngô Quyền đánh trận Bạch Đằng (938) đến thời Trịnh Sâm (1787) bị xóa sạch trơn bởi cơn cuồng phong nội chiến kéo dài 30 năm mà Tây Sơn là kẻ chiến thắng.
Thế nhưng cái may mắn là nhà Trịnh (Trịnh Kiểm) nổi lên mà nhà Nguyễn (Nguyễn Hoàng con trai của Nguyễn Kim) phải đối kháng đến mức phải bỏ xứ mà đi. Cái phần đất mà suốt mấy trăm năm người Việt chiến đấu để mở rộng, lúc đó mới chỉ đến Phú Yên, là bàn đạp để chúa Nguyễn mở mang bờ cơi vào đến đất Đồng Nai rồi mở qua miền tây đến tận Cà Mau, mở rộng bờ cơi lên gấp ba, so với những năm nước Việt sơ sinh đầu nhà Lư.
Cái may mắn thứ hai là trước khi suy tàn, Trịnh Sâm cầm quân đánh vào đất Thuận Hóa của Chúa Nguyễn. Làm sụp đổ ḍng họ này và làm quân Tây Sơn mạnh lên, hùa với quân Trịnh mà truy sát quân Nguyễn. Nhờ đấy mà đẩy chúa Nguyễn đi qua đất Tiền Giang, Bassac rồi xuống tận Cà Mau.
Nhờ quá tŕnh Nam tiến ấy mà kinh nghiệm mở cơi, trị nước, kinh thương và xây dựng quân đội của người Việt không bị mất đi. Và c̣n hơn thế, kiến thức và kinh nghiệm trị nước của các chúa Nguyễn lại được áp dụng trên những vùng đất xưa kia thuộc về các vương quốc chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, thay v́ Trung Hoa. Đó là Chàm, Khmer. Hay những vùng đất mới chịu ảnh hưởng khai phá của những người Hoa ưu tú, ly khai kháng chiến, phản Thanh phục Minh ở phía cực nam của vùng đất h́nh chữ S.
Tây Sơn diệt được Trịnh mà không diệt được Nguyễn. Quang Trung đánh thắng mọi kẻ thù cả nội lẫn ngoại xâm. Về cơ bản có công lớn thống nhất bờ cơi. Nhưng lại để xổng một kẻ duy nhất ḍng dơi hoàng gia là Nguyễn Ánh. Sau này Nguyễn Ánh quay lại không chỉ diệt nhà Tây Sơn, củng cố lại giang sơn bờ cơi mà c̣n đem di sản kinh nghiệm lănh đạo mấy trăm năm để lănh đạo một nước Việt mới mà ông đặt tên là Việt Nam, lên ngôi lấy tên Gia Long (Gia Định + Thăng Long).
Nguyễn Ánh lên ngôi rồi sau này là Minh Mạng nối ngôi, hai vị vua lừng danh này mang kinh nghiệm dựng nước của cha ông ḿnh vào việc thống nhất hệ thống chính trị và quân đội, kinh tế cho cả ba miền. Đây là một bước tiến lớn so với thời Quang Trung, ba miền cát cứ ba vương, quân đội riêng, ngân sách riêng. Việc quyền lực và nguồn lực, đặc biệt là kinh tế và quân sự thu về một mối khiến cho Việt Nam trở nên hùng mạnh hơn các nước xung quanh (vốn yếu kém hơn hẳn về thể chế/nhà nước, quân sự, nông nghiệp và ngoại thương). Các khu vực chư hầu phía nam bị bắt sát nhập vào nước Việt Nam (đến thời Minh Mạng đổi thành Đại Nam), các vùng đất tự chủ của người Hoa cũng bị sát nhập. Bờ cơi phía nam mở rộng tối đa về tây nam bộ và kéo dài đến tận biển cực nam của tổ quốc.
Đó là lúc rồng non trở thành thiếu niên.
Đó cũng là thời kỳ Việt Nam có bờ cơi rộng nhất (rộng hơn cả bây giờ)
Đó cũng là thời kỳ Việt Nam được các nước xung quanh kinh sợ nhất. Nhà Thanh, quân Xiêm sợ chết khiếp từ thời Tây Sơn. Miến Điện chỉ chứng kiến vài lần xuất quân của Tây Sơn ở Lào mà c̣n phát hăi. Vua Khmer (Chân Lạp) và Lào thần phục Việt Nam mà chịu làm chư hầu.
Đại Nam cũng là quốc gia Đông Nam Á đầu tiên mà Mỹ để ư đến và Tổng thống Mỹ cử người mang thư đến đặt quan hệ giao thương.
Có độc lập tự chủ rồi, điều kiện cần để thành con Rồng đă có. Nhưng điều kiện đủ, là phải ḥa ḿnh vào thế giới, th́ tiếc thay lănh đạo của Đế quốc Đại Nam ấy đă tự ḿnh để mất.
Các nhà lănh đạo của con Rồng thiếu niên ấy, đă quá tự tin vào sức mạnh của đất nước ḿnh, quá tự tin vào tài năng và kiến thức lănh đạo của ḿnh, quá sùng bái mô h́nh nhà nước phong kiến và thể chế cai trị của nó, đă đóng cánh cửa không cho con rồng thiếu niên tiếp cận với thế giới phương tây. Cơ hội rất lớn để con rồng thiếu niên Việt Nam quẫy ḿnh thành con rồng trưởng thành, đă bị bỏ lỡ một cách cực kỳ đáng tiếc.
Những nhà lănh đạo ấy là Vua Minh Mạng và các hậu duệ của ông ta.
Minh Mạng là vị vua tài giỏi có nhiều cải cách mạnh mẽ. Ông cải cách hành chính để cai trị, cải cách quân đội, cải cách chế độ làm quan (chấm dứt cha truyền con nối, luân chuyển quan chức). Cải cách giáo dục, thi cử, bổ nhiệm quan chức.
Minh Mạng cũng là người bỏ tên nước Việt Nam và thay bằng Đại Nam (1820). Cái tên Việt Nam biến mất hơn một thế kỷ cho đến năm 1927 mới xuất hiện trở lại nhờ Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông sử dụng tên Việt Nam để đặt tên cho đảng của ḿnh là Việt Nam Quốc Dân Đảng. Sau khởi nghĩa Yên Bái, Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ḿnh bị Pháp chặt đầu (tháng 6, 1930). Ở pháp trường Nguyễn Thái Học đă hô: Việt Nam Muôn Năm (Việt Nam Vạn Tuế). Kể từ hôm đấy, cái tên Việt Nam tái sinh và trỗi dậy trong ḷng dân Việt.
Dưới thời Minh Mạng, tiếng Việt là tiếng bắt buộc, thay thế cho tiếng Hoa và Khmer ở Gia Định (bao gồm cả miền tây). Đây là sự kiện cực kỳ quan trọng bởi kể từ đây, nước Việt Nam rộng lớn, có bờ cơi, có hệ thống lănh đạo riêng của ḿnh, và sử dụng chỉ một tiếng nói, và là tiếng riêng của ḿnh trên toàn lănh thổ.
Gần một trăm năm sau khi Minh Mạng cưỡng bức sử dụng tiếng Việt (ngôn ngữ nói) ở Nam Kỳ, tới tận những năm 191x-192x, các nhà hoạt động chính trị phản đế hàng đầu của Việt Nam ở hải ngoại như NAQ, PBC, PCT vẫn c̣n viết thư (ngôn ngữ viết) cho nhau bằng chữ Hán. Để thấy rằng, để lănh đạo cao nhất của đất nước có thể nói chuyện với mọi tầng lớp nhân dân, cần một tiếng nói chung, một chữ quốc ngữ đến như thế nào.
Người Việt vốn có nhiều gốc gác từ Mường, Thái, Khmer, Chăm, và Hoa, người Kinh thậm chí c̣n có nhiều họ gốc Tàu, cho đến thời điểm này ít nhất có hai cái chung: một là tiếng Việt, hai là thần dân nước Việt, một sự bắt đầu của một quốc gia hiện đại với các công dân và lănh thổ của nó.