Romano
02-18-2014, 19:34
Nguyễn Ngọc Ngạn
Cách đây mấy năm tôi làm M.C. cho Hội Chợ Tết cộng đồng. Nhân lúc nhường lại sân khấu cho các chính khách Canada thay nhau lên phát biểu, tôi đi lang thang thăm các gian hàng. Lúc ghé vào Làng Việt Nam th́ có mấy cô gái chạy lại chào tôi. Một cô đang cầm tờ Đặc San TUỔI HẠC hăm hở nói với tôi:
- May quá cháu gặp chú… Tuổi Hạc là tuổi ǵ chú Ngạn?
V́ không có th́ giờ nên tôi trả lời vắn tắt:
- Cháu chỉ cần hiểu một cách đơn giản: Tuổi Hạc tức là tuổi già. Như vậy là đủ rồi!
- Con nhỏ này nó căi với cháu là tuổi Hạc cũng giống như tuổi Ngọ, tuổi Mùi. Cháu nói không phải, v́ cháu t́m trong mục Tử Vi Trọn Năm trên tờ Thời Báo th́ không thấy có tuổi Hạc!
Đến lượt tôi ph́ cười v́ lần đầu tiên nghe một chuyện lạ. Các cháu lớn lên ở bên này không biết nhiều về văn hóa Việt, nên có cháu lầm tưởng con Hạc cũng nằm trong 12 con Giáp: Tư, Sửu, Dần, Măo… và khi cầm tờ Đặc San TUỔI HẠC th́ cháu yên trí đó là sách đoán vận mạng trọn năm dành riêng cho những người tuổi Hạc! Cũng có thể do một “người lớn” nào đó nói đùa với các cháu như vậy và các cháu tưởng thật nên hỏi tôi cho chắc. Tôi nói:
- Theo tử vi của Tàu th́ trong 12 con Giáp không có con Mèo nên họ thay bằng con Thỏ, nhưng cả Tàu lẫn Ta đều không có con Hạc!
Các cô cám ơn tôi rồi hân hoan kéo nhau đi.
Nhớ lại câu chuyện vui năm ấy, tôi muốn viết đôi ḍng về con Hạc, bởi v́ nếu cứ theo cách nói của môn tử vi nhân gian th́ tất cả những người già như tôi đều đang “cầm tinh con Hạc”, và rồi thế hệ này nối tiếp thế hệ khác, ai ai cũng sẽ cầm tinh con Hạc, không có ngoại lệ.
Ở Mỹ và ở Canada, tuổi cao niên thường được gọi bằng một cái tên rất đẹp là “golden age” (tuổi vàng), nhằm bày tỏ ḷng quư trọng đối với lớp người đă một đời đóng góp tài năng và công sức cho xă hội. Hồi mới qua đây, tôi coi cuốn TV Guide, thấy có show “Golden Girls” tôi cứ tưởng diễn viên trong show này phải gồm nhiều cô gái trẻ đẹp v́ nội cái tên show đă đủ hấp dẫn rồi nên tôi háo hức đón xem. Buổi tối bật TV lên mới thấy Golden Girls chỉ toàn là bà già, nghĩa là những phụ nữ đă bước vào cái thế hệ mà người ta âu yếm gọi là “tuổi vàng”.
Người Việt chúng ta sang đây cũng bắt đầu dùng hai chữ “Tuổi Vàng” để chỉ người già giống như Mỹ, nhưng từ trước đến nay hễ nhắc đến các bậc lăo thành, chúng ta vẫn quen gọi là “Tuổi Hạc”, chẳng hạn như Đặc San Tuổi Hạc của Hội Cao Niên Toronto, hoặc Nhà Dưỡng Lăo Tuổi Hạc đang được vận động xây cất ở thành phố này.
Tại sao lại gọi tuổi già là tuổi hạc?
Có thể trả lời ngay: V́ đặc tính của con chim hạc cùng những truyền thuyết liên quan đến loài chim này.
Trước hết, Hạc là một loài chim có màu lông trắng toát, cho nên xét về h́nh ảnh, nó rất gần gũi với mái tóc bạc phơ của người trọng tuổi. Dĩ nhiên thời bây giờ nhiều người đă cao tuổi mà vẫn phải nhuộm tóc v́ lư do này hoặc lư do khác – trong đó có lư do chính là nghề nghiệp. Những ngày trước, hễ lớn tuổi là cứ để mái tóc bạc tự nhiên, như câu thơ của Đoàn Văn Cừ tả phiên chợ Tết:
Bà cụ già bán hàng bên miếu cổ
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau
Xă hội Việt Nam xưa có truyền thống trọng người già, mà “tóc trắng phau phau” chính là biểu tượng của người tuổi già, nên chẳng ai dại ǵ mà nhuộm đen! Ở nhiều làng xă, mới 50 tuổi đă được “lên lăo” mà “lên lăo” là một vinh dự lớn lao trong làng… Người ta mong đợi “Sống lâu lên lăo làng”, bởi từ đây sẽ được miễn tạp dịch, miễn công việc làng, thậm chí có nơi cho miễn cả sưu thuế. Rồi hễ có cỗ đám trong làng th́ được mời ngồi lên chiếu trên, trong hàng ngũ những vị trưởng thượng hay tiên chỉ. Xóm làng xưa có câu “Triều đ́nh trọng tước, hương đảng trọng xỉ”. Xỉ là cái răng, ở đây nói về tuổi tác, bởi càng già th́ càng rụng răng. Hoàn cảnh xă hội ngày xưa của cha ông ta, ít người có cơ hội đi học, nên bằng cấp quá hiếm quư, được cộng đồng trọng vọng tối đa. V́ vậy mà lệ làng ấn định rằng, người 60 tuổi th́ được ngồi ăn chung chiếu với tú tài. Bảy mươi tuổi được xếp ngang hàng với cử nhân và tám mươi th́ đồng hàng với tiến sĩ! (Lục thập dữ tú tài đồng, thất thập dữ cử nhân đồng, bát thập dữ tiến sĩ đồng). V́ những đặc ân dành cho tuổi tác một cách ưu đăi như thế, ai ai cũng mong cho mau già chứ tội ǵ mà nhuộm tóc cho trẻ lại! Ngay cả những cụ già như Nguyễn Trăi, Nguyễn Công Trứ, cưới vợ trẻ mười mấy tuổi, cũng vẫn để đầu bạc, không cần phải khổ sở nhuộm tóc đen như những cụ Việt kiều ngày nay về Việt Nam t́m đào trẻ!
Kính lăo đắc thọ, bảy mươi học bảy mốt, Hội nghị Diên Hồng vua nhà Trần ân cần hỏi ư kiến các bô lăo, nói chung, đó là nét văn hóa trọng người lớn tuổi của xă hội Việt Nam, cho nên các cụ cứ để râu tóc bạc phơ, tạo h́nh ảnh đẹp như các vị tiên ông! Ở những bộ tộc của các sắc dân miền núi xưa nay mỗi làng đều có “hội đồng già làng” gồm các bậc cao niên là những người thật sự được nắm giữ quyền hành trong làng, bởi dân chúng quan niệm rằng muốn sống c̣n bằng nghề nông hay đi săn, chủ yếu phải học kinh nghiệm của người già! Ngay ở miền xuôi, làng xă vẫn có hội đồng kỳ mục hoặc Hương cả gồm toàn người già giữ vai tṛ cố vấn để duy tŕ những tập tục của làng xă.
Tựu trung lại, nét văn hóa truyền thống của Việt Nam là kính nể người lớn tuổi, nên h́nh ảnh con chim hạc trắng toát rất gần gũi với mái đầu bạc phơ của các cụ.
V́ chim hạc màu trắng nên đôi khi sách vở cũng thường nhấn mạnh bằng cách gọi rơ là “Bạch Hạc”. Ở Phong Châu, kinh đô nước Văn Lang thời vua Hùng dựng nước, có làng Bạch Hạc c̣n tồn tại đến hôm nay ở tỉnh Vĩnh Phú, được mô tả trong sách Quốc sử Diễn ca:
Hùng Vương đô ở Châu phong
Ấy nơi Bạch Hạc hợp ḍng Thao giang
Đặt tên là nước Văn Lang
Chín mươi lăm bộ bản chương cũng liền.
Sông Thao là tên gọi một đoạn song Lô và làng Bạch Hạc cách Hà Nội vào khoảng 70 cây số, giờ này vẫn c̣n giữ được truyền thống mở hội Xuân hằng năm mà quan trọng nhất là tục đua thuyền trên sông Lô. Theo các cụ tại đây th́ đua thuyền không hẳn chỉ là vui chơi mà có mục đích sâu xa là luyện tập thủy quân pḥng khi chống giặc xâm lăng.
Không thấy có sách nào ghi rơ tại sao làng ấy có tên là Bạch Hạc, nhưng ai cũng đoán rằng, thời đó, nơi vua Hùng lập kinh đô chắc đă phải xuất hiện nhiều chim hạc nên mới gọi là làng Bạch Hạc. Nó cũng giống như một vùng đất trũng ở Biên Ḥa, có rất nhiều nai tụ tập về nên người ta đặt tên vùng đó là Hố Nai. Phong Châu tuy là kinh đô, nhưng đừng quên khi vua Hùng dựng nước Văn Lang th́ chung quanh chỉ toàn là núi rừng chập chùng, chứ đâu đă được đô thị hóa như ngày nay. Chim hạc tập trung từng đàn trắng toát bay về nên mới có tên làng Bạch Hạc trên bờ sông Lô c̣n truyền đến hôm nay. Như vậy th́ Bạch Hạc chắc hẳn là một trong những làng thành h́nh lâu đời nhất của nước ta, bởi theo các tài liệu cập nhật khả tín nhất hiện nay th́ vua Hùng đầu tiên lập quốc vào khoảng 700 năm trước Công nguyên, lúc ấy là đời vua Chu Trang Vương bên Tàu. Vô t́nh con chim hạc gắn liền với lịch sử lập quốc của nước ta. Hay nói cách khác, từng đàn hạc trắng khắp bốn phương đă bay về Phong Châu để chứng kiến việc tạo dựng kinh đô nước Văn Lang các đây khoảng 2700 năm!
Một vài tài liệu sử mới đây c̣n cho rằng sở dĩ ḍng Lạc Việt lấy họ Hồng Bàng v́ Hồng Bàng có nghĩa là “chim hạc lớn”. Trong chuyện dân gian, ta hay gặp chữ “chim đại bàng”. Nhưng chữ “hồng” có nghĩa bao la, vĩ đại hơn cả chữ “đại”, chẳng hạn ai cũng c̣n nhớ “trận hồng thủy” làm ngập lụt toàn cầu, được ghi lại trong Kinh Thánh.
Như vậy th́ ngay từ buổi ban sơ, tổ tiên ta đă lấy biểu tượng “con chim hạc lớn” để dùng làm họ cho triều đại đầu tiên của nước ta, đó là họ Hồng Bàng.
Thi sĩ Thôi Hiệu bên Trung Hoa có bài thơ nổi tiếng tựa đề là Hoàng Hạc Lâu, tức là lầu hay tháp chim hạc vàng. Bài này đă được rất nhiều người dịch sang tiếng Việt, phổ biến nhất là bản dịch của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu:
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà đây Hoàng Hạc mái lầu c̣n trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Ngàn năm mây trắng bây giờ c̣n bay! Cái ư hoàng hạc (hạc vàng) chắc chỉ để nhấn mạnh đến một con chim quư chứ chưa hẳn con chim hạc ấy đă có lông màu vàng. Bởi v́ nguồn gốc con hạc vàng phát xuất từ một truyền thuyết: Phí Vân Vi, một nhà tu đắc đạo đă biến thành tiên, thường cưỡi hạc vàng ngao du sơn thủy. Người đời sau mới xây tháp Hoàng Hạc Lâu ở tỉnh Hồ Bắc bên bờ sông Dương Tử vào thời Tam Quốc, khoảng năm 223, để nhớ tới sự tích này. Vài trăm năm sau đến đời Đường, thi sĩ Thôi Hiệu ghé thăm Hoàng Hạc Lâu, bâng khuâng nhớ chuyện xưa, nhớ con hạc vàng không c̣n nữa, nên để bài thơ thất ngôn bát cú trên vách, ai đọc cũng khen là tuyệt tác như tôi vừa trích dẫn ở trên:
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà nay Hoàng Hạc mái lầu c̣n trơ!
Làm ǵ có hạc vàng mà cưỡi? Mà dù có đi chăng nữa th́ con chim gầy guộc ấy làm sao đủ sức cho người ta ngồi trên lưng rồi cất cánh bay lên! Việc tiên ông Phí Vân Vi cưỡi hạc đi tham quan đây đó th́ cũng giống như Thái thú Cao Biền đời Đường cưỡi diều bay trên thành Đại La để yểm bùa dân Việt, hoặc bà Thiên Hậu cưỡi chiếu bay trên mặt biển để cứu vớt các ghe thuyền gặp nạn, hay Phù Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa sắt đi đánh giặc Ân. Tất cả đều chỉ là những mẩu chuyện thêu dệt, hoang đường, kể cho nhau nghe để mua vui mà thôi.
Hạc là một loài chim cao quư, có người c̣n cho là linh thiêng, nên cha ông ta mới có câu tục ngữ “Đĩa đeo chân hạc” để chỉ những người không tự biết thân, cứ cố leo cao, vượt quá địa vị và khả năng của ḿnh.
Về h́nh dáng th́ hạc là loài chim gầy, thanh nhă, nên mới có câu “ḿnh hạc vóc mai”. Ngày xưa, người ta thường treo tranh vẽ h́nh hai con hạc đứng bên nhau, ngước nh́n lên cao. Cái nền chung quanh chim hạc thường là tùng bách hoặc hồ sen, là những thứ biểu tượng cho sự thanh cao. Có những gia đ́nh cũng trưng bày đôi chim hạc bằng đồng đặt trên tủ thờ, ngày Tết ngày lễ đem xuống lau chùi sáng bóng.
Một đặc điểm nữa là hạc bay rất cao, tiếng hót trong suốt, nên khi Nguyễn Du tả tiếng đàn của Thúy Kiều mới có câu:
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.
Trước năm 1975 ở Sàig̣n, nhiều người cũng đă từng xem vở tuồng cải lương “Tiếng Hạc Trong Trăng”, gợi cái ư xa thăm thẳm của tiếng hót con chim hạc bay lưng trời.
Nhưng cái ư chính mà người ta dành hai chữ “Tuổi Hạc” cho các bậc cao niên là bởi v́ chim hạc biểu tượng cho sự trường thọ và may mắn, đồng thời chim hạc cũng dính liền với cơi tiên. “Cưỡi hạc về trời” hoặc “Cưỡi hạc lên tiên” là những câu quen thuộc mà ta có thể t́m thấy dễ dàng trong truyện, trong thơ ngày trước. Nói cách khác, chim hạc chính là nhịp cầu kết nối giữa cơi tiên và cơi tục. Có lẽ cũng v́ thế mà kinh đô của vua Hùng mới có làng Bạch Hạc để phù hợp với truyền thuyết con Rồng cháu Tiên. Bài Tống Biệt của Tản Đà đă nói lên cái ư chim hạc đưa người trần lên cơi tiên bằng h́nh ảnh rất đẹp:
Đá ṃn, rêu nhạt, nước chảy, hoa trôi
Cái hạc bay vút lên tận trời
Trời đất từ nay xa cách măi
Ngàn năm lơ lửng bóng trăng trôi.
Sau đó Thế Lữ viết bài Tiếng Sáo Thiên Thai lại có câu:
Trời cao xanh ngắt. Ô ḱa!
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai.
Chuyện hai chàng Lưu, Nguyễn đời nhà Hán bên Trung Hoa, đi hái thuốc vào dịp Tết Đoan Ngọ, rồi lạc vào động Thiên Thai và lấy vợ tiên, chắc hẳn ai cũng nhớ. Nhắc đến Bồng Lai tức là cơi tiên, th́ không thể không liên tưởng đến loài chim hạc, bởi chỉ có chim hạc mới đủ sức bay xa, bay cao lên đến tận cơi tiên. Cũng giống như chỉ có cá chép mới đưa nổi Ông Táo lên trời ngày 23 tháng Chạp mỗi năm, v́ theo truyền thuyết, chỉ có cá chép mới vượt được vũ môn để biến thành rồng.
Như vậy tổng kết lại, chúng ta thấy chắc được một điều khá rơ ràng là người ta dùng hai chữ “Tuổi Hạc” vừa để chúc thọ các cụ, vừa nhân tiện cũng để nhắc các cụ nhớ rằng ḿnh có thể cưỡi hạc lên tiên bất cứ lúc nào!
Duy có điều tôi xin lặp lại là ngày xưa lúc Lưu Thần, Nguyễn Triệu đi lạc vào chốn Thiên Thai, rồi lấy vợ tiên. Vợ tiên th́ chắc chắn phải rất đẹp v́ ai cũng bảo “đẹp như tiên”! Thế mà hai chàng may mắn ấy chỉ lưu lại trên cơi tiên được có nửa năm rồi dứt khoát từ giă vợ tiên để quay về với vợ tục, dù hai nàng vợ tiên hết lời năn nỉ. Tại sao lại như vậy? Là v́ các bà vợ trần gian tuy hay nói nhiều và có thể lâu lâu lấn át chồng, nhưng lại có sức hấp dẫn mănh liệt khiến ông chồng nào đi xa cũng nhớ, dù đang ở ngay bên cạnh những nàng tiên! Điều đó chứng tỏ cơi tiên không hơn ǵ cơi trần.
Viết đến đây, tôi muốn nhắc thêm một chi tiết: Ít khi nào chúng ta thấy người Tàu mang họ Nguyễn; họ Lưu th́ dĩ nhiên là điển h́nh của Hán tộc, bắt đầu từ Lưu Bang tức là Hán Cao Tổ. Trong chuyện này, Lưu Thần và Nguyễn Triệu, một Hán và một Việt, cùng đi hái thuốc rồi cùng lạc vào động tiên. Người nào nghĩ ra chuyện này kể cũng lạ, v́ trong biết bao nhiêu điển cố, hoặc văn học, hoặc lịch sử Trung Hoa, chúng ta chưa bao giờ bắt gặp một nhân vật họ Nguyễn! Chỉ có câu chuyện này, v́ có họ Nguyễn trong đó mà mỗi lần đọc lại tôi đều cảm thấy ngậm ngùi. Bởi v́ Thiên Thai là tên một ngọn núi ở vùng Chiết Giang mà Chiết Giang là quê hương cũ của Việt tộc, hùng mạnh nhất vào khoảng 500 năm trước Công nguyên, sau khi vua Việt Câu Tiễn dùng mỹ nhân kế Tây Thi đánh bại được nước Ngô và làm bá chủ các chư hầu. Nhưng rồi nước Việt bị nước Sở dẹp tan, bị xóa hẳn trên bản đồ Trung Nguyên. Từ đó dân Việt hoặc bỏ trốn xuống hẳn miền Nam nhập vào ḍng Lạc Việt của nước ta là vua Hùng Vương lúc ấy đă lập quốc được vài trăm năm. Những người dân Việt khác nán lại trên đất Trung Hoa, sống rải rác ở vùng Thiên Thai, lập thành từng nhóm nhỏ, ai cũng tự xưng là “quận trưởng”, cho đến khi Tần Thủy Hoàng thu gồm lục quốc th́ tất cả các nhóm Việt tộc này đều ra hàng.
Chẳng phải riêng Chiết Giang mới là đất cũ của người Việt. Giáo sư La Sĩ Bằng, dạy đại học ở Hương Cảng, có bài nghiên cứu về đại tộc Bách Việt và khẳng định rằng: “Từ đời Thượng cổ cho đến đời Tần Hán, những dải đất hiện nay gọi là Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam xuống tới Bắc Việt và Trung Việt đều là lănh thổ của người Việt”. Riêng trong bài này, tôi chỉ nhấn mạnh đến Chiết Giang bởi v́ sau khi nước Việt cuối cùng trên đất Trung Hoa bị nước Sở đánh tan, th́ người Việt định cư rải rác đông đảo nhất ở vùng Chiết Giang, quanh chân núi Thiên Thai, dần dần bị đồng hóa, quên hết cả cội nguồn Việt tộc của ḿnh.
Chuyện Lưu Thần và Nguyễn Triệu gặp tiên ở Thiên Thai tuy là chuyện Tàu, nhưng đây là chuyện duy nhất có nhân vật mang ḍng họ Nguyễn như tôi vừa nói ở trên, có thể v́ chuyện xảy ra tại quê cũ của Việt tộc. V́ cuộc sống lầm than, nên con người hay mơ ước và tưởng tượng. Nh́n ngọn núi Thiên Thai kỳ bí họ cho rằng trên núi ấy có động tiên, kỳ thực trên thế gian này làm ǵ có tiên!
Câu chuyện Lưu, Nguyễn đang sống với tiên mà cứ nằng nặc đ̣i về, cho chúng ta một thông điệp rằng: Đừng mơ ước những thứ quá cao xa, bởi những thứ ấy chưa chắc ǵ đă hơn những thứ mà hiện tại chúng ta đang có!
Nh́n một cách thực tế, Tuổi Hạc chính là tuổi giao thời giữa cơi tiên và cơi tục. Đó là giai đoạn cuối đời ở trần gian mà ai cũng cần giữ cho tâm hồn thư thái, bỏ lại sau lưng tất cả những phiền muộn cơm áo của bao nhiêu tháng năm lăn lộn trong cuộc sống vật chất. Cổ nhân đă nhắc nhở: “Ngũ thập tri thiên mệnh. Lục thập nhi nhuần nhĩ”. Năm mươi tuổi là biết rơ mệnh trời an bài cho đời ḿnh như thế nào rồi. Sáu mươi tuổi th́ nghe chuyện ǵ cũng thấy xuôi tai, chẳng c̣n bận tâm tranh căi nữa. Cái thuyết hưởng nhàn xa lánh ṿng lợi danh của Trạng Tŕnh và bao nhiêu nhà Nho thuở trước, thực ra chỉ là lời đề nghị tuổi già nên tránh mọi ưu phiền tục lụy v́ địa vị hay tiền bạc có hay không th́ cũng đă xong rồi. Hăy để những vướng bận của thời bồng bột qua đi, gạt hết mọi căng thẳng vốn đă dày đặc trong cuộc sống. Hăy như cánh chim hạc bay cao, rũ sạch bụi trần. Người nặng niềm tin tôn giáo thường t́m đến chùa, đến nhà thờ, hoặc làm việc phúc thiện, bởi chính những hoạt động tinh thần ấy sẽ giúp người ta tự cảm thấy hạnh phúc hơn, tâm hồn b́nh yên hơn.
Đời người không ai có thể tự hào ḿnh không có lần lầm lỗi. Tuổi già chính là lúc để nh́n lại để suy nghiệm và chuẩn bị cho một hành tŕnh mới, không biết sẽ xảy đến lúc nào!
Tôi sinh năm 1945. Mất miền Nam khi đúng 30. Lưu lạc 10 năm qua vài trại cải tạo, vượt biên đến Mă Lai, tạm cư ở vài thành phố Miền Tây, rồi đúng 40 tuổi th́ qua Toronto và dừng chân luôn cho đến nay. Nếu tính theo tuổi ta th́ năm nay (2014), tôi hân hoan bước vào cái tuổi mà người xưa gọi là “thất thập cổ lai hy”!
Nhân sinh như bạch câu quá khích! Quả đúng như vậy! Đời người lướt nhanh như vó ngựa vút qua cửa sổ. Mới hôm nào về đây nh́n tờ Tuổi Hạc bằng cặp mắt xa lạ v́ nó chưa dính dáng tới ḿnh! Bây giờ th́ chính ḿnh đang “cầm tinh con hạc” đă cả chục năm nay!
Tôi thường nói trên Paris by Night: Con người vừa sinh ra đă phải đối diện biết bao nhiêu bất công: giàu, nghèo, đẹp, xấu, cao, thấp, khôn, dại, trời định sẵn cho từng người không chọn lựa hay thay đổi được. Chỉ có một điều công bằng là ai cũng sẽ già, không ai có thể trẻ măi! Hăy đón nhận tuổi già như một món quà tặng Trời ban cho để nghỉ ngơi an nhàn.
Trước thềm năm Giáp Ngọ 2014, xin kính chúc quư vị cao niên vui hưởng tuổi già, tâm hồn thư thái, đầm ấm bên con cháu và hăy khoan cưỡi hạc lên tiên!
Nguyễn Ngọc Ngạn
TB
Cách đây mấy năm tôi làm M.C. cho Hội Chợ Tết cộng đồng. Nhân lúc nhường lại sân khấu cho các chính khách Canada thay nhau lên phát biểu, tôi đi lang thang thăm các gian hàng. Lúc ghé vào Làng Việt Nam th́ có mấy cô gái chạy lại chào tôi. Một cô đang cầm tờ Đặc San TUỔI HẠC hăm hở nói với tôi:
- May quá cháu gặp chú… Tuổi Hạc là tuổi ǵ chú Ngạn?
V́ không có th́ giờ nên tôi trả lời vắn tắt:
- Cháu chỉ cần hiểu một cách đơn giản: Tuổi Hạc tức là tuổi già. Như vậy là đủ rồi!
- Con nhỏ này nó căi với cháu là tuổi Hạc cũng giống như tuổi Ngọ, tuổi Mùi. Cháu nói không phải, v́ cháu t́m trong mục Tử Vi Trọn Năm trên tờ Thời Báo th́ không thấy có tuổi Hạc!
Đến lượt tôi ph́ cười v́ lần đầu tiên nghe một chuyện lạ. Các cháu lớn lên ở bên này không biết nhiều về văn hóa Việt, nên có cháu lầm tưởng con Hạc cũng nằm trong 12 con Giáp: Tư, Sửu, Dần, Măo… và khi cầm tờ Đặc San TUỔI HẠC th́ cháu yên trí đó là sách đoán vận mạng trọn năm dành riêng cho những người tuổi Hạc! Cũng có thể do một “người lớn” nào đó nói đùa với các cháu như vậy và các cháu tưởng thật nên hỏi tôi cho chắc. Tôi nói:
- Theo tử vi của Tàu th́ trong 12 con Giáp không có con Mèo nên họ thay bằng con Thỏ, nhưng cả Tàu lẫn Ta đều không có con Hạc!
Các cô cám ơn tôi rồi hân hoan kéo nhau đi.
Nhớ lại câu chuyện vui năm ấy, tôi muốn viết đôi ḍng về con Hạc, bởi v́ nếu cứ theo cách nói của môn tử vi nhân gian th́ tất cả những người già như tôi đều đang “cầm tinh con Hạc”, và rồi thế hệ này nối tiếp thế hệ khác, ai ai cũng sẽ cầm tinh con Hạc, không có ngoại lệ.
Ở Mỹ và ở Canada, tuổi cao niên thường được gọi bằng một cái tên rất đẹp là “golden age” (tuổi vàng), nhằm bày tỏ ḷng quư trọng đối với lớp người đă một đời đóng góp tài năng và công sức cho xă hội. Hồi mới qua đây, tôi coi cuốn TV Guide, thấy có show “Golden Girls” tôi cứ tưởng diễn viên trong show này phải gồm nhiều cô gái trẻ đẹp v́ nội cái tên show đă đủ hấp dẫn rồi nên tôi háo hức đón xem. Buổi tối bật TV lên mới thấy Golden Girls chỉ toàn là bà già, nghĩa là những phụ nữ đă bước vào cái thế hệ mà người ta âu yếm gọi là “tuổi vàng”.
Người Việt chúng ta sang đây cũng bắt đầu dùng hai chữ “Tuổi Vàng” để chỉ người già giống như Mỹ, nhưng từ trước đến nay hễ nhắc đến các bậc lăo thành, chúng ta vẫn quen gọi là “Tuổi Hạc”, chẳng hạn như Đặc San Tuổi Hạc của Hội Cao Niên Toronto, hoặc Nhà Dưỡng Lăo Tuổi Hạc đang được vận động xây cất ở thành phố này.
Tại sao lại gọi tuổi già là tuổi hạc?
Có thể trả lời ngay: V́ đặc tính của con chim hạc cùng những truyền thuyết liên quan đến loài chim này.
Trước hết, Hạc là một loài chim có màu lông trắng toát, cho nên xét về h́nh ảnh, nó rất gần gũi với mái tóc bạc phơ của người trọng tuổi. Dĩ nhiên thời bây giờ nhiều người đă cao tuổi mà vẫn phải nhuộm tóc v́ lư do này hoặc lư do khác – trong đó có lư do chính là nghề nghiệp. Những ngày trước, hễ lớn tuổi là cứ để mái tóc bạc tự nhiên, như câu thơ của Đoàn Văn Cừ tả phiên chợ Tết:
Bà cụ già bán hàng bên miếu cổ
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau
Xă hội Việt Nam xưa có truyền thống trọng người già, mà “tóc trắng phau phau” chính là biểu tượng của người tuổi già, nên chẳng ai dại ǵ mà nhuộm đen! Ở nhiều làng xă, mới 50 tuổi đă được “lên lăo” mà “lên lăo” là một vinh dự lớn lao trong làng… Người ta mong đợi “Sống lâu lên lăo làng”, bởi từ đây sẽ được miễn tạp dịch, miễn công việc làng, thậm chí có nơi cho miễn cả sưu thuế. Rồi hễ có cỗ đám trong làng th́ được mời ngồi lên chiếu trên, trong hàng ngũ những vị trưởng thượng hay tiên chỉ. Xóm làng xưa có câu “Triều đ́nh trọng tước, hương đảng trọng xỉ”. Xỉ là cái răng, ở đây nói về tuổi tác, bởi càng già th́ càng rụng răng. Hoàn cảnh xă hội ngày xưa của cha ông ta, ít người có cơ hội đi học, nên bằng cấp quá hiếm quư, được cộng đồng trọng vọng tối đa. V́ vậy mà lệ làng ấn định rằng, người 60 tuổi th́ được ngồi ăn chung chiếu với tú tài. Bảy mươi tuổi được xếp ngang hàng với cử nhân và tám mươi th́ đồng hàng với tiến sĩ! (Lục thập dữ tú tài đồng, thất thập dữ cử nhân đồng, bát thập dữ tiến sĩ đồng). V́ những đặc ân dành cho tuổi tác một cách ưu đăi như thế, ai ai cũng mong cho mau già chứ tội ǵ mà nhuộm tóc cho trẻ lại! Ngay cả những cụ già như Nguyễn Trăi, Nguyễn Công Trứ, cưới vợ trẻ mười mấy tuổi, cũng vẫn để đầu bạc, không cần phải khổ sở nhuộm tóc đen như những cụ Việt kiều ngày nay về Việt Nam t́m đào trẻ!
Kính lăo đắc thọ, bảy mươi học bảy mốt, Hội nghị Diên Hồng vua nhà Trần ân cần hỏi ư kiến các bô lăo, nói chung, đó là nét văn hóa trọng người lớn tuổi của xă hội Việt Nam, cho nên các cụ cứ để râu tóc bạc phơ, tạo h́nh ảnh đẹp như các vị tiên ông! Ở những bộ tộc của các sắc dân miền núi xưa nay mỗi làng đều có “hội đồng già làng” gồm các bậc cao niên là những người thật sự được nắm giữ quyền hành trong làng, bởi dân chúng quan niệm rằng muốn sống c̣n bằng nghề nông hay đi săn, chủ yếu phải học kinh nghiệm của người già! Ngay ở miền xuôi, làng xă vẫn có hội đồng kỳ mục hoặc Hương cả gồm toàn người già giữ vai tṛ cố vấn để duy tŕ những tập tục của làng xă.
Tựu trung lại, nét văn hóa truyền thống của Việt Nam là kính nể người lớn tuổi, nên h́nh ảnh con chim hạc trắng toát rất gần gũi với mái đầu bạc phơ của các cụ.
V́ chim hạc màu trắng nên đôi khi sách vở cũng thường nhấn mạnh bằng cách gọi rơ là “Bạch Hạc”. Ở Phong Châu, kinh đô nước Văn Lang thời vua Hùng dựng nước, có làng Bạch Hạc c̣n tồn tại đến hôm nay ở tỉnh Vĩnh Phú, được mô tả trong sách Quốc sử Diễn ca:
Hùng Vương đô ở Châu phong
Ấy nơi Bạch Hạc hợp ḍng Thao giang
Đặt tên là nước Văn Lang
Chín mươi lăm bộ bản chương cũng liền.
Sông Thao là tên gọi một đoạn song Lô và làng Bạch Hạc cách Hà Nội vào khoảng 70 cây số, giờ này vẫn c̣n giữ được truyền thống mở hội Xuân hằng năm mà quan trọng nhất là tục đua thuyền trên sông Lô. Theo các cụ tại đây th́ đua thuyền không hẳn chỉ là vui chơi mà có mục đích sâu xa là luyện tập thủy quân pḥng khi chống giặc xâm lăng.
Không thấy có sách nào ghi rơ tại sao làng ấy có tên là Bạch Hạc, nhưng ai cũng đoán rằng, thời đó, nơi vua Hùng lập kinh đô chắc đă phải xuất hiện nhiều chim hạc nên mới gọi là làng Bạch Hạc. Nó cũng giống như một vùng đất trũng ở Biên Ḥa, có rất nhiều nai tụ tập về nên người ta đặt tên vùng đó là Hố Nai. Phong Châu tuy là kinh đô, nhưng đừng quên khi vua Hùng dựng nước Văn Lang th́ chung quanh chỉ toàn là núi rừng chập chùng, chứ đâu đă được đô thị hóa như ngày nay. Chim hạc tập trung từng đàn trắng toát bay về nên mới có tên làng Bạch Hạc trên bờ sông Lô c̣n truyền đến hôm nay. Như vậy th́ Bạch Hạc chắc hẳn là một trong những làng thành h́nh lâu đời nhất của nước ta, bởi theo các tài liệu cập nhật khả tín nhất hiện nay th́ vua Hùng đầu tiên lập quốc vào khoảng 700 năm trước Công nguyên, lúc ấy là đời vua Chu Trang Vương bên Tàu. Vô t́nh con chim hạc gắn liền với lịch sử lập quốc của nước ta. Hay nói cách khác, từng đàn hạc trắng khắp bốn phương đă bay về Phong Châu để chứng kiến việc tạo dựng kinh đô nước Văn Lang các đây khoảng 2700 năm!
Một vài tài liệu sử mới đây c̣n cho rằng sở dĩ ḍng Lạc Việt lấy họ Hồng Bàng v́ Hồng Bàng có nghĩa là “chim hạc lớn”. Trong chuyện dân gian, ta hay gặp chữ “chim đại bàng”. Nhưng chữ “hồng” có nghĩa bao la, vĩ đại hơn cả chữ “đại”, chẳng hạn ai cũng c̣n nhớ “trận hồng thủy” làm ngập lụt toàn cầu, được ghi lại trong Kinh Thánh.
Như vậy th́ ngay từ buổi ban sơ, tổ tiên ta đă lấy biểu tượng “con chim hạc lớn” để dùng làm họ cho triều đại đầu tiên của nước ta, đó là họ Hồng Bàng.
Thi sĩ Thôi Hiệu bên Trung Hoa có bài thơ nổi tiếng tựa đề là Hoàng Hạc Lâu, tức là lầu hay tháp chim hạc vàng. Bài này đă được rất nhiều người dịch sang tiếng Việt, phổ biến nhất là bản dịch của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu:
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà đây Hoàng Hạc mái lầu c̣n trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Ngàn năm mây trắng bây giờ c̣n bay! Cái ư hoàng hạc (hạc vàng) chắc chỉ để nhấn mạnh đến một con chim quư chứ chưa hẳn con chim hạc ấy đă có lông màu vàng. Bởi v́ nguồn gốc con hạc vàng phát xuất từ một truyền thuyết: Phí Vân Vi, một nhà tu đắc đạo đă biến thành tiên, thường cưỡi hạc vàng ngao du sơn thủy. Người đời sau mới xây tháp Hoàng Hạc Lâu ở tỉnh Hồ Bắc bên bờ sông Dương Tử vào thời Tam Quốc, khoảng năm 223, để nhớ tới sự tích này. Vài trăm năm sau đến đời Đường, thi sĩ Thôi Hiệu ghé thăm Hoàng Hạc Lâu, bâng khuâng nhớ chuyện xưa, nhớ con hạc vàng không c̣n nữa, nên để bài thơ thất ngôn bát cú trên vách, ai đọc cũng khen là tuyệt tác như tôi vừa trích dẫn ở trên:
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà nay Hoàng Hạc mái lầu c̣n trơ!
Làm ǵ có hạc vàng mà cưỡi? Mà dù có đi chăng nữa th́ con chim gầy guộc ấy làm sao đủ sức cho người ta ngồi trên lưng rồi cất cánh bay lên! Việc tiên ông Phí Vân Vi cưỡi hạc đi tham quan đây đó th́ cũng giống như Thái thú Cao Biền đời Đường cưỡi diều bay trên thành Đại La để yểm bùa dân Việt, hoặc bà Thiên Hậu cưỡi chiếu bay trên mặt biển để cứu vớt các ghe thuyền gặp nạn, hay Phù Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa sắt đi đánh giặc Ân. Tất cả đều chỉ là những mẩu chuyện thêu dệt, hoang đường, kể cho nhau nghe để mua vui mà thôi.
Hạc là một loài chim cao quư, có người c̣n cho là linh thiêng, nên cha ông ta mới có câu tục ngữ “Đĩa đeo chân hạc” để chỉ những người không tự biết thân, cứ cố leo cao, vượt quá địa vị và khả năng của ḿnh.
Về h́nh dáng th́ hạc là loài chim gầy, thanh nhă, nên mới có câu “ḿnh hạc vóc mai”. Ngày xưa, người ta thường treo tranh vẽ h́nh hai con hạc đứng bên nhau, ngước nh́n lên cao. Cái nền chung quanh chim hạc thường là tùng bách hoặc hồ sen, là những thứ biểu tượng cho sự thanh cao. Có những gia đ́nh cũng trưng bày đôi chim hạc bằng đồng đặt trên tủ thờ, ngày Tết ngày lễ đem xuống lau chùi sáng bóng.
Một đặc điểm nữa là hạc bay rất cao, tiếng hót trong suốt, nên khi Nguyễn Du tả tiếng đàn của Thúy Kiều mới có câu:
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.
Trước năm 1975 ở Sàig̣n, nhiều người cũng đă từng xem vở tuồng cải lương “Tiếng Hạc Trong Trăng”, gợi cái ư xa thăm thẳm của tiếng hót con chim hạc bay lưng trời.
Nhưng cái ư chính mà người ta dành hai chữ “Tuổi Hạc” cho các bậc cao niên là bởi v́ chim hạc biểu tượng cho sự trường thọ và may mắn, đồng thời chim hạc cũng dính liền với cơi tiên. “Cưỡi hạc về trời” hoặc “Cưỡi hạc lên tiên” là những câu quen thuộc mà ta có thể t́m thấy dễ dàng trong truyện, trong thơ ngày trước. Nói cách khác, chim hạc chính là nhịp cầu kết nối giữa cơi tiên và cơi tục. Có lẽ cũng v́ thế mà kinh đô của vua Hùng mới có làng Bạch Hạc để phù hợp với truyền thuyết con Rồng cháu Tiên. Bài Tống Biệt của Tản Đà đă nói lên cái ư chim hạc đưa người trần lên cơi tiên bằng h́nh ảnh rất đẹp:
Đá ṃn, rêu nhạt, nước chảy, hoa trôi
Cái hạc bay vút lên tận trời
Trời đất từ nay xa cách măi
Ngàn năm lơ lửng bóng trăng trôi.
Sau đó Thế Lữ viết bài Tiếng Sáo Thiên Thai lại có câu:
Trời cao xanh ngắt. Ô ḱa!
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai.
Chuyện hai chàng Lưu, Nguyễn đời nhà Hán bên Trung Hoa, đi hái thuốc vào dịp Tết Đoan Ngọ, rồi lạc vào động Thiên Thai và lấy vợ tiên, chắc hẳn ai cũng nhớ. Nhắc đến Bồng Lai tức là cơi tiên, th́ không thể không liên tưởng đến loài chim hạc, bởi chỉ có chim hạc mới đủ sức bay xa, bay cao lên đến tận cơi tiên. Cũng giống như chỉ có cá chép mới đưa nổi Ông Táo lên trời ngày 23 tháng Chạp mỗi năm, v́ theo truyền thuyết, chỉ có cá chép mới vượt được vũ môn để biến thành rồng.
Như vậy tổng kết lại, chúng ta thấy chắc được một điều khá rơ ràng là người ta dùng hai chữ “Tuổi Hạc” vừa để chúc thọ các cụ, vừa nhân tiện cũng để nhắc các cụ nhớ rằng ḿnh có thể cưỡi hạc lên tiên bất cứ lúc nào!
Duy có điều tôi xin lặp lại là ngày xưa lúc Lưu Thần, Nguyễn Triệu đi lạc vào chốn Thiên Thai, rồi lấy vợ tiên. Vợ tiên th́ chắc chắn phải rất đẹp v́ ai cũng bảo “đẹp như tiên”! Thế mà hai chàng may mắn ấy chỉ lưu lại trên cơi tiên được có nửa năm rồi dứt khoát từ giă vợ tiên để quay về với vợ tục, dù hai nàng vợ tiên hết lời năn nỉ. Tại sao lại như vậy? Là v́ các bà vợ trần gian tuy hay nói nhiều và có thể lâu lâu lấn át chồng, nhưng lại có sức hấp dẫn mănh liệt khiến ông chồng nào đi xa cũng nhớ, dù đang ở ngay bên cạnh những nàng tiên! Điều đó chứng tỏ cơi tiên không hơn ǵ cơi trần.
Viết đến đây, tôi muốn nhắc thêm một chi tiết: Ít khi nào chúng ta thấy người Tàu mang họ Nguyễn; họ Lưu th́ dĩ nhiên là điển h́nh của Hán tộc, bắt đầu từ Lưu Bang tức là Hán Cao Tổ. Trong chuyện này, Lưu Thần và Nguyễn Triệu, một Hán và một Việt, cùng đi hái thuốc rồi cùng lạc vào động tiên. Người nào nghĩ ra chuyện này kể cũng lạ, v́ trong biết bao nhiêu điển cố, hoặc văn học, hoặc lịch sử Trung Hoa, chúng ta chưa bao giờ bắt gặp một nhân vật họ Nguyễn! Chỉ có câu chuyện này, v́ có họ Nguyễn trong đó mà mỗi lần đọc lại tôi đều cảm thấy ngậm ngùi. Bởi v́ Thiên Thai là tên một ngọn núi ở vùng Chiết Giang mà Chiết Giang là quê hương cũ của Việt tộc, hùng mạnh nhất vào khoảng 500 năm trước Công nguyên, sau khi vua Việt Câu Tiễn dùng mỹ nhân kế Tây Thi đánh bại được nước Ngô và làm bá chủ các chư hầu. Nhưng rồi nước Việt bị nước Sở dẹp tan, bị xóa hẳn trên bản đồ Trung Nguyên. Từ đó dân Việt hoặc bỏ trốn xuống hẳn miền Nam nhập vào ḍng Lạc Việt của nước ta là vua Hùng Vương lúc ấy đă lập quốc được vài trăm năm. Những người dân Việt khác nán lại trên đất Trung Hoa, sống rải rác ở vùng Thiên Thai, lập thành từng nhóm nhỏ, ai cũng tự xưng là “quận trưởng”, cho đến khi Tần Thủy Hoàng thu gồm lục quốc th́ tất cả các nhóm Việt tộc này đều ra hàng.
Chẳng phải riêng Chiết Giang mới là đất cũ của người Việt. Giáo sư La Sĩ Bằng, dạy đại học ở Hương Cảng, có bài nghiên cứu về đại tộc Bách Việt và khẳng định rằng: “Từ đời Thượng cổ cho đến đời Tần Hán, những dải đất hiện nay gọi là Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam xuống tới Bắc Việt và Trung Việt đều là lănh thổ của người Việt”. Riêng trong bài này, tôi chỉ nhấn mạnh đến Chiết Giang bởi v́ sau khi nước Việt cuối cùng trên đất Trung Hoa bị nước Sở đánh tan, th́ người Việt định cư rải rác đông đảo nhất ở vùng Chiết Giang, quanh chân núi Thiên Thai, dần dần bị đồng hóa, quên hết cả cội nguồn Việt tộc của ḿnh.
Chuyện Lưu Thần và Nguyễn Triệu gặp tiên ở Thiên Thai tuy là chuyện Tàu, nhưng đây là chuyện duy nhất có nhân vật mang ḍng họ Nguyễn như tôi vừa nói ở trên, có thể v́ chuyện xảy ra tại quê cũ của Việt tộc. V́ cuộc sống lầm than, nên con người hay mơ ước và tưởng tượng. Nh́n ngọn núi Thiên Thai kỳ bí họ cho rằng trên núi ấy có động tiên, kỳ thực trên thế gian này làm ǵ có tiên!
Câu chuyện Lưu, Nguyễn đang sống với tiên mà cứ nằng nặc đ̣i về, cho chúng ta một thông điệp rằng: Đừng mơ ước những thứ quá cao xa, bởi những thứ ấy chưa chắc ǵ đă hơn những thứ mà hiện tại chúng ta đang có!
Nh́n một cách thực tế, Tuổi Hạc chính là tuổi giao thời giữa cơi tiên và cơi tục. Đó là giai đoạn cuối đời ở trần gian mà ai cũng cần giữ cho tâm hồn thư thái, bỏ lại sau lưng tất cả những phiền muộn cơm áo của bao nhiêu tháng năm lăn lộn trong cuộc sống vật chất. Cổ nhân đă nhắc nhở: “Ngũ thập tri thiên mệnh. Lục thập nhi nhuần nhĩ”. Năm mươi tuổi là biết rơ mệnh trời an bài cho đời ḿnh như thế nào rồi. Sáu mươi tuổi th́ nghe chuyện ǵ cũng thấy xuôi tai, chẳng c̣n bận tâm tranh căi nữa. Cái thuyết hưởng nhàn xa lánh ṿng lợi danh của Trạng Tŕnh và bao nhiêu nhà Nho thuở trước, thực ra chỉ là lời đề nghị tuổi già nên tránh mọi ưu phiền tục lụy v́ địa vị hay tiền bạc có hay không th́ cũng đă xong rồi. Hăy để những vướng bận của thời bồng bột qua đi, gạt hết mọi căng thẳng vốn đă dày đặc trong cuộc sống. Hăy như cánh chim hạc bay cao, rũ sạch bụi trần. Người nặng niềm tin tôn giáo thường t́m đến chùa, đến nhà thờ, hoặc làm việc phúc thiện, bởi chính những hoạt động tinh thần ấy sẽ giúp người ta tự cảm thấy hạnh phúc hơn, tâm hồn b́nh yên hơn.
Đời người không ai có thể tự hào ḿnh không có lần lầm lỗi. Tuổi già chính là lúc để nh́n lại để suy nghiệm và chuẩn bị cho một hành tŕnh mới, không biết sẽ xảy đến lúc nào!
Tôi sinh năm 1945. Mất miền Nam khi đúng 30. Lưu lạc 10 năm qua vài trại cải tạo, vượt biên đến Mă Lai, tạm cư ở vài thành phố Miền Tây, rồi đúng 40 tuổi th́ qua Toronto và dừng chân luôn cho đến nay. Nếu tính theo tuổi ta th́ năm nay (2014), tôi hân hoan bước vào cái tuổi mà người xưa gọi là “thất thập cổ lai hy”!
Nhân sinh như bạch câu quá khích! Quả đúng như vậy! Đời người lướt nhanh như vó ngựa vút qua cửa sổ. Mới hôm nào về đây nh́n tờ Tuổi Hạc bằng cặp mắt xa lạ v́ nó chưa dính dáng tới ḿnh! Bây giờ th́ chính ḿnh đang “cầm tinh con hạc” đă cả chục năm nay!
Tôi thường nói trên Paris by Night: Con người vừa sinh ra đă phải đối diện biết bao nhiêu bất công: giàu, nghèo, đẹp, xấu, cao, thấp, khôn, dại, trời định sẵn cho từng người không chọn lựa hay thay đổi được. Chỉ có một điều công bằng là ai cũng sẽ già, không ai có thể trẻ măi! Hăy đón nhận tuổi già như một món quà tặng Trời ban cho để nghỉ ngơi an nhàn.
Trước thềm năm Giáp Ngọ 2014, xin kính chúc quư vị cao niên vui hưởng tuổi già, tâm hồn thư thái, đầm ấm bên con cháu và hăy khoan cưỡi hạc lên tiên!
Nguyễn Ngọc Ngạn
TB