Romano
04-08-2014, 16:30
Tôi Sinh trưởng tại miền Nam, quê tôi tỉnh Mỹ Tho trồng nhiều dừa nên cũng gọi là tỉnh dừa. Năm lên 11 tuổi tôi học đệ thất trường Gia Long, tôi có mấy “cô bé” bạn học người Huế. Không thân lắm nhưng tôi để ư đến giọng nói “trọ trẹ”. Lần đầu tiên tiếp xúc với bạn mới, phải để ư lắng tai nghe mới hiểu được bạn tôi đang nói ǵ. Nhưng đến khi các “cô bé’” xúm lại nói chuyện với nhau th́ tôi đành chịu, không làm sao xen vô câu chuyện với họ được.
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=596974&stc=1&d=1396974451
Năm lên đệ tam, tôi có thêm mấy người bạn miền Trung khác. Tuy quen lần với giọng Huế lơ lớ, nhưng thú thật khi bạn tôi lên trả bài, tôi nghe tiếng được tiếng mất.
Qua bạn bè cùng lớp, bắt đầu biết đôi chút về miền Trung, về Huế, tôi tưởng tượng nững cô gái ngoài kia với mái tóc thề xơa bờ vai trong một thành phố thơ mộng, cổ kính. Bao nhiêu đó đă kích thích trí ṭ ṃ của tôi về xứ Huế với tâm t́nh lắng sâu nhưng nhậy cảm của những cô gái Huế. Bạn bè tôi thường tả là Huế đẹp, Huế thơ. Tôi thích hát những bạn có âm hưởng miền Trung. Không những thích, tôi thấy h́nh như có ǵ hợp với tâm hồn ḿnh lúc đó. Những bài ca Huế tôi hát dễ dàng, hồn nhạc thấm vào hồn tôi tự nhiên mà tôi không nhận ra.
Cơ hội tốt lành đă đến khi hăng đĩa Việt Nam mời tôi thu băng bài “Ai Ra Xứ Huế” của Duy Khánh. Tôi nhận lời ngay, không do dự. Dường như với tuổi trẻ mộng mơ, trong ḷng tôi có sẵn cảm t́nh với Huế, hôm đó tôi hát “Ai Ra Xứ Huế” với tâm hồn ḿnh, với ḷng tha thiết, mến yêu như một ca sĩ hát cho quê hương chôn nhau cắt rún. Anh Duy Khánh nghe xong rất vui thích v́ theo lời anh tôi diễn tả đúng lời nhạc, ư nhạc anh muốn gởi gắm cho thành phố thân yêu anh vừa từ giă. Anh Duy Khánh nhường tôi thâu bản nhạc này, một hân hạnh đối với tôi, cô nữ sinh đang tập tễnh vào ngưỡng cửa “nghiệp cầm ca”. Đĩa hát thâu băng đầu tiên của tôi được phổ biến, được nhiều thính giả gởi lời khen ngợi, khuyến khích, cô nữ-sinh-ca-sĩ có mặt với sân khấu kể từ “buổi đầu lưu luyến”.
czzSA3C4BgwNhững đóm mắt hỏa châu - Hoàng Oanh, Trung Chỉnh Không bao giờ tôi quên được hôm đó, ngày 6 tháng 11 năm 1964 tại pḥng thâu băng đường Vơ Duy Nguy (Chợ Cũ); trong lúc tôi đang “dợt” với ban nhạc của nhạc sư Nghiêm Phú Phi, nhà văn Lê Thanh Thái chụp mấy “bô” h́nh tặng tôi kèm theo bài thơ lâu ngày tôi quên tuốt luốt, chỉ c̣n nhớ được mỗi hai câu:
“Vượt núi tiếng ḥ ra xứ Huế…
Oanh vàng d́u dặt gợn ḍng Hương…”
Cũng vào năm đó tôi được mời đi tŕnh diễn đại nhạc hội ở Huế. C̣n ǵ vui hơn, c̣n ǵ thỏa thích hơn, tôi nhận lời liền, mặc dù lúc ấy tôi rất bận rộn chuyện học hành thi cử liên miên.
Chương tŕnh lưu diễn gồm cả Đà Nẵng, Qui Nhơn, nhưng tôi chỉ nôn nao chờ đợi chuyến đi Huế, thành phố tôi biết nhiều bằng tưởng tượng của tuổi trẻ mới lớn lên. Trong đoàn lưu diễn có chị Bạch Yến và Phương Dung. Chúng tôi không đi một ḿnh mà có má đi theo. Việc này đă tạo cơ hội cho một số bạn bè lớn tuổi trong nghề thích vui đùa, chọc phá hay chế nhạo. Họ đùa nghịch dỡn chơi bằng cách thêm vào chữ “má” trước tên ca sĩ. C̣n nhỏ, chưa quen với lối đùa nghịch của lớp bạn bè lớn tuổi, tôi hơi mắc cỡ nhưng không biết làm thế nào, nghĩ rằng có má đi cùng tôi đỡ lo nhiều chuyện, người sẽ lo lắng cho tôi, lỡ có đau ốm hay chuyện ǵ xẩy ra bất thần.
Và Huế không phải bằng tưởng tượng, mà Huế thật sự với ḍng sông Hương thơm mát, với cảnh đẹp thiên nhiên đă ở trước mắt tôi. Có ra đến đây nh́n cảnh, nh́n người mới thấy Huế gợi cảm có sức thu hút, quyến rũ du khách. Nh́n cầu Tràng Tiền bắt ngang sông Hương, nh́n những đoàn học sinh đồng phục trắng, từng bước nhẹ nhàng thanh thoát như chim, nh́n phong cảnh Huế, không phải “ai” ra xứ Huế nữa, mà chính tôi, tôi đang sống, đang có mặt trên thành phố nên thơ này.
Người Huế hiếu khách và rất t́nh cảm. Trong suốt thời gian ở Huế, ngày nào tôi và má tôi cũng được hướng dẫn đi thăm thành phố, di tích và thắng cảnh. Chưa được đi thăm lăng tẩm nghe nói đẹp lắm, nhưng chúng tôi được đưa đi đèo Hải Vân. Rất tiếc hôm đó v́ đi nhiều nơi, vừa đến chân đèo th́ trời sụp tối phải trở về cho kịp giờ tŕnh diễn. Bù lại chúng tôi được đi đ̣ trên sông Hương một buổi tối. Huế có những quán hàng rong đặc biệt, không những hàng quà trên bờ, mà cả dưới nước. Đ̣ chúng tôi thả trôi theo ḍng nước, không xa cầu Trường Tiền lắm, bỗng nghe những tiếng rao dài từ trên những chiếc thuyền nhỏ không mui. Món ăn cũng đặc biệt: cơm hến. Người Nam ăn hủ tiếu, người Bắc ăn phở, người Trung ăn bún ḅ, món ăn “quốc hồn, quốc túy” của ba miền; ra Huế tôi biết thêm một điều, ngoài bún ḅ Huế có thêm cơm hến. Gồm đủ mùi vị cay, mặn, nồng, the the v́ co khế chua, nhưng dư vị sau cùng là “mặn mà t́nh quê”.
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=596975&stc=1&d=1396974451
Có một kỷ niệm làm tôi nhớ măi là hôm đầu tiên mới đến Huế, đang từ của sổ khách sạn nh́n ra ngoài chờ đợi ban tổ chức có hẹn th́ một nhóm mấy chị nữ sinh Đồng Khánh đến thăm. Sáu cô nữ sinh tha thướt trong áo dài màu trắng, nón bài thơ, cặp sách cầm tay; mặc dù chưa gặp nhau, lần nào nhưng chúng tôi vui vẻ chuyện tṛ như những người bạn quen từ lâu, chuyện trời mưa trời nắng, chuyện Sài g̣n, chuyện Huế, chuyện hát ḥ … vui thật là vui.
H́nh ảnh áo dài trắng, nón lá, cặp sách đối với tôi chẳng có ǵ xa lạ v́ tôi cũng mang những thứ ấy ngày ngày hai buổi đến trường, nhưng hôm ấy tự nhiên tôi thấy nôn nao “chi lạ”, vừa bạn, vừa khách, vừa xa, vừa gần. Lần gặp gỡ đầu tiên này với mấy chị nữ sinh Đồng Khánh làm tôi nhớ măi.
Cầm tay nhau sắp ra về, một cô bé có lẽ cũng trạc tuổi tôi, 15 tuổi, không hiểu sao rất mến tôi, hẹn sẽ viết thơ cho tôi. Trở về Sài g̣n, rất nhiều lần tôi nhận được thơ của người bạn mới, lần nào thơ viết cũng thật dài, hai ba tờ giấy đôi. Mến thương nhất là lần nào cũng vậy, ba tờ giấy được nhuộm thành màu tím rất đẹp, màu tím Huế, thật dễ thương và viết lên trên bằng loại chữ màu trắng nguyên cả bức thơ. Vừa vui mừng, vừa ngạc nhiên thích thú, tôi biên thơ hỏi thăm cách làm để cố gắng đáp lại ḷng mến thương của người bạn Huế. Mặc dù đă đựoc chỉ dẫn cẩn thận, tôi thí nghiệm nhiều lần nhưng lần nào cũng vụng về không làm sao có được màu trắng trong và màu tím trinh nguyên như bức thơ tôi nhận được. Không đáp được tâm t́nh người bạn mới, tôi đành tự an ủi rằng không phải là cô nữ sinh t́nh tứ sông Hương núi Ngự, không ai đủ nhẫn nại làm được.
Không biết bây giờ “cô bé” ấy ở đâu, trong nước hay tỵ nạn xứ người: Hoàng Oanh vẫn nhớ chị măi, nhớ những bức thơ màu tím, mực trắng, nhớ măi kỷ niệm xưa của chị.
Chỉ đến thăm Huế một lần và một lần thôi v́ sau đó phải bỏ nước ra đi, tưởng tượng nếu có dịp ra Huế thêm nhiều lần sẽ c̣n chồng chất bao nhiêu kỷ niệm khó quên khác.
Tiếng hát mật ngọt Hoàng Oanh trải qua nhiều năm tháng, không thể lẫn lộn với bất cứ giọng ca nào. Nó đi sâu vào ḷng người, ngất ngây như uống phải thứ men say và gợi nhớ muôn trùng một vùng trời kỷ niệm, đầy ắp thương yêu.
Đă một thời tiếng hát Hoàng Oanh làm say mê hàng triệu thính giả trên làn sóng điện ở quê nhà, và bây giờ vẫn được trân quư. Sau đây là bài viết về Hoàng Oanh, tiếng hát không đối thủ của ḍng nhạc giao quyên.
Ngôi trường Gia Long áo tím huyền thoại, với khuôn viên nhiều lối đi rợp bóng mát là nơi đă ướp bao chất thơ, chất nhạc trong tâm hồn mới lớn của cô nữ sinh Huỳnh Kim Chi. Dưới mái trường “Phượng vĩ dâng hoa” đó, Kim Chi đă trải qua bảy năm học với mảnh bằng Tú Tài toàn phần hạng b́nh thứ. Vừa đi hát vừa đi học: đi học th́ Kim Chi, đi hát th́ Hoàng Oanh, tiếng hát của một loài chim quư. Bạn bè cùng trường cùng lớp đă xem là thần tượng, nhà trường th́ hơi lo âu nhưng Kim Chi đă chu toàn được cả học lẫn hát, làm vừa ḷng gia đ́nh và thầy cô, đánh tan dư luận của nhà trường. Kim Chi là một nữ sinh nhu ḿ, ngoan hiền và chăm học… Rời trung học, Kim Chi tiếp tục vào ngưỡng cửa đại học Văn Khoa và cũng đă kết thúc với văn bằng Cử nhân văn chương. Kim Chi cũng có dự tính nối nghiệp thầy cô để “gơ đầu trẻ”, nhưng v́ bận rộn với t́nh nhạc và thơ lai láng nên giấc mộng mô phạm đó được tạm xếp một bên. Bởi đó, Hoàng Oanh đă mượn lời thơ tiếng nhạc trong một băng nhạc đầy ắp kỷ niệm thuở học tṛ mang chủ đề “Tuổi Học Tṛ” do chính cô thực hiện, để trải tấm ḷng với thầy cô, với bạn bè và mái trường xưa thân ái. Hoàng Oanh nói: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư… huống hồ Hoàng Oanh đă thọ giáo các ‘sư phụ’ mười lăm năm trời từ trường tiểu học Phú Nhuận, đến trường Gia Long và Đại học Văn Khoa Sàig̣n. Ơn của thầy cô lớn lắm, Hoàng Oanh nhớ măi. Đó là đạo thầy tṛ của phương Đông mà Tấy phương ít có được.”
Hoàng Oanh sinh ở Mỹ Tho nhưng trường thành ở Sàig̣n trong một gia đ́nh sáu chị em, ngoan đạo và có một sự giáo dục nề nếp nghiêm khắc, nhưng cũng có môi trường để cô phát triển tài ca ngâm. Hoàng Oanh từ năm lên năm đă học hát với thân phụ cũng là một nghệ sĩ. Năm tám tuổi, Hoàng Oanh được phép thân phụ cho lên sân khấu lần đầu tiên tại Liên trường Vơ khoa Thủ Đức với hai bản nhạc “Hương Lúa Miền Nam” và “Có Một Đàn Chim”. Ngoài ra, cô cũng có khiếu ngâm thơ nên đă nghe các cô chú, anh chị nổi tiếng ngâm thơ như Hồ Điệp, Quách Đàm, Tồ Kiều Ngân để học theo. Hoàng Oanh kể lại một kỷ niệm: Trong giờ Việt văn, sau khi b́nh giảng bài thơ “Tiếng Sáo Thiên Thai” của Thế Lữ, cô giáo hỏi ai biết ngâm thơ và cả lớp đồng thanh trả lời: Kim Chi. Thế là Kim Chi được cô giáo gọi lên diễn ngâm bài thơ đó và đă làm cho giờ học sống động hơn. Na7m đó Hoàng Oanh mười hai tuổi, học lớp Đệ Lục. Không bao lâu, Hoàng Oanh đă nổi tiếng “đủ mùi ca ngâm”.
Thế là tuy c̣n đi học, Hoàng Oanh đă được mời cộng tác với các ban: Thiếu Nhi đài phát thanh Quân Đội do Lê Đô phụ trách, ban Tuổi Xanh của nữ nghệ sĩ Kiều Hạnh và ban Việt Nhi của nhạc sĩ Nguyễn Đức ở đài phát thanh Sàig̣n. Hoàng Oanh là một trong những ca sĩ nổi tiếng nhất do sự dẫn dắt của nhạc sĩ Nguyễn Đức trên con đường ca hát.
Rồi thời gian qua… trở thành một thiếu nữ xinh đẹp dịu dàng, lại có một tài ca ngâm vững vàng, cánh cửa lớn rộng mở, Hoàng Oanh đă bước vào sinh hoạt ca nhạc thực thụ, Cô đă góp tiếng hát tiếng ngâm tràn ngập t́nh cảm cũng như đă góp h́nh ảnh xinh tươi trong các chương tŕnh nhạc và thơ uy tín của đài phát thanh cũng như đài truyền h́nh: Tiếng Tơ Đồng của Hoàng Trọng, chương tŕnh Phạm Mạnh Cương, Tiếng Hát Đôi Mươi của Nhật Trường, Trường Sơn của Duy Khánh, Nhạc Vàng của Phó Quốc Lân, Tiếng Thùy Dương của Châu Kỳ, Tao Đàn của Đinh Hùng, Tiếng Thơ của Thanh Nam, Ly Tao của Thái Thủy… Và tư khi có phong trào thâu dĩa hát và băng nhạc, Hoàng Oanh là một trong những nữ ca sĩ được mời thâu dĩa nhiều nhất. Riêng địa hạt thâu dĩa, Hoàng Oanh đă thâu khoảng hơn hai trăm dĩa với các hăng Asia, Sóng Nhạc, Việt Nam, Sơn Ca, Thiên Thai, Continental v.v… Đĩa hát đầu tiên của Hoàng Oanh gồm hai bài hát “Nếu Một Mai Anh Biệt Kinh Kỳ” và “Về Đâu Mái Tóc Người Thương”. Có một điều làm ta hơi ngạc nhiên là không thấy Hoàng Oanh xuất hiện trong các pḥng trà và vũ trường. Cô giải thích: “Hồi nhỏ, Oanh ở với ông cậu rất nghiêm khắc nên ông không cho Oanh hát pḥng trà hay vũ trường, thỉnh thoảng chỉ cho hát Đại nhạc hội mà thôi.”
Hoàng Oanh là một tài năng đa diện. Với một làn hơi ngọt ngào, nồng nàn t́nh cảm, Hoàng Oanh đă có khả năng tŕnh bày tất cả các loại nhạc cũng như lối ngâm. Từ những nét sang trọng, dịu dàng, quư phái của nhạc tiền chiến đến những bản dân ca ba miền, những bài t́nh tứ quê hương, từ những câu Ḥ mái đẩy miền Trung đến bài vọng cổ miền Nam hay câu Sa mạc, hát ví của miền Bắc… Hoàng Oanh đă tiếp nối những giọng ngâm thơ ba miền nổi tiếng như Hồ Điệp, Quách Đàm, Bích Thuận, Giáng Hương, Tô Kiều Ngân… Tiếng hát cũng như giọng ngâm của Hoàng Oanh có chút ǵ thật sâu đậm, buốn man mác nhưng thật t́nh tứ, đă chinh phục được đa số thính giả.
Một cuộc đời nghệ sĩ không sóng gió. Hoàng Oanh đi hát, đi học, sống êm đềm trong hạnh phúc gia đ́nh, trong t́nh thân bằng hữu và trong cảm t́nh nồng hậu của thính giả. Cho đến năm 1972, cô nữ ca sĩ dịu dàng khả ái đó sang ngang, vui duyên cầm sắt với một chàng dược sĩ trẻ và cũng là một nhạc sĩ, xây dựng một tổ ấm với t́nh yêu và sự hiểu biết.
Rời Sàig̣n ngày 28-4-75, ban đầu Hoàng Oanh định cư ở New Jersey, một thành phố gần với New York chọc trời và nay cũng đă t́m đường về Cali nắng ấm. Tại hải ngoại, Hoàng Oanh bắt đầu “tự biên tự diễn”, phát hành băng nhạc. Băng nhạc của Hoàng Oanh không bạo phát, bạo tàn, cứ đều đều nhưng bền bỉ vững vàng và được thính giả đón tiếp về lâu về dài. Ở nơi tha hương này, nghe Hoàgn Oanh hát là nghe tiếng ru về những kỷ niệm của một quê hương đă ngh́n trùng xa cách. Người miền Trung nhớ Huế da diết với giọng hát thật Huế của Hoàng Oanh trong Ai Ra Xứ Huế; người miền Nam nhớ sông Tiền sông Hậu với Tiềng Ḥ Miền Nam, người Bắc nhớ về Hồ Gươm, tháp Rùa qua câu ngâm sa mạc hay câu hát ví… Đó Hoàng Oanh là một ngôi sao lấp lánh muôn mặt của trời thơ ca nhạc hải ngoại hiện nay. Ở đâu, khán thính giả cũng đón tiếp Hoàng Oanh như một sứ giả của mối t́nh “thi nhạc giao duyên”, như một h́nh ảnh đẹp của nghệ sĩ, một đóa hoa muôn màu chan chứ t́nh tự quê hương dân tộc.
Hoàng Oanh đă tự vạch cho ḿnh một lối đi: Làm sao để bảo tồn văn hóa cổ truyền và nuôi dưỡng tâm hồn Việt Nam trong cộng đồng người Việt cũng như trong lớp ca nhạc sĩ trưởng thành ở hải ngoại.
hn
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=596974&stc=1&d=1396974451
Năm lên đệ tam, tôi có thêm mấy người bạn miền Trung khác. Tuy quen lần với giọng Huế lơ lớ, nhưng thú thật khi bạn tôi lên trả bài, tôi nghe tiếng được tiếng mất.
Qua bạn bè cùng lớp, bắt đầu biết đôi chút về miền Trung, về Huế, tôi tưởng tượng nững cô gái ngoài kia với mái tóc thề xơa bờ vai trong một thành phố thơ mộng, cổ kính. Bao nhiêu đó đă kích thích trí ṭ ṃ của tôi về xứ Huế với tâm t́nh lắng sâu nhưng nhậy cảm của những cô gái Huế. Bạn bè tôi thường tả là Huế đẹp, Huế thơ. Tôi thích hát những bạn có âm hưởng miền Trung. Không những thích, tôi thấy h́nh như có ǵ hợp với tâm hồn ḿnh lúc đó. Những bài ca Huế tôi hát dễ dàng, hồn nhạc thấm vào hồn tôi tự nhiên mà tôi không nhận ra.
Cơ hội tốt lành đă đến khi hăng đĩa Việt Nam mời tôi thu băng bài “Ai Ra Xứ Huế” của Duy Khánh. Tôi nhận lời ngay, không do dự. Dường như với tuổi trẻ mộng mơ, trong ḷng tôi có sẵn cảm t́nh với Huế, hôm đó tôi hát “Ai Ra Xứ Huế” với tâm hồn ḿnh, với ḷng tha thiết, mến yêu như một ca sĩ hát cho quê hương chôn nhau cắt rún. Anh Duy Khánh nghe xong rất vui thích v́ theo lời anh tôi diễn tả đúng lời nhạc, ư nhạc anh muốn gởi gắm cho thành phố thân yêu anh vừa từ giă. Anh Duy Khánh nhường tôi thâu bản nhạc này, một hân hạnh đối với tôi, cô nữ sinh đang tập tễnh vào ngưỡng cửa “nghiệp cầm ca”. Đĩa hát thâu băng đầu tiên của tôi được phổ biến, được nhiều thính giả gởi lời khen ngợi, khuyến khích, cô nữ-sinh-ca-sĩ có mặt với sân khấu kể từ “buổi đầu lưu luyến”.
czzSA3C4BgwNhững đóm mắt hỏa châu - Hoàng Oanh, Trung Chỉnh Không bao giờ tôi quên được hôm đó, ngày 6 tháng 11 năm 1964 tại pḥng thâu băng đường Vơ Duy Nguy (Chợ Cũ); trong lúc tôi đang “dợt” với ban nhạc của nhạc sư Nghiêm Phú Phi, nhà văn Lê Thanh Thái chụp mấy “bô” h́nh tặng tôi kèm theo bài thơ lâu ngày tôi quên tuốt luốt, chỉ c̣n nhớ được mỗi hai câu:
“Vượt núi tiếng ḥ ra xứ Huế…
Oanh vàng d́u dặt gợn ḍng Hương…”
Cũng vào năm đó tôi được mời đi tŕnh diễn đại nhạc hội ở Huế. C̣n ǵ vui hơn, c̣n ǵ thỏa thích hơn, tôi nhận lời liền, mặc dù lúc ấy tôi rất bận rộn chuyện học hành thi cử liên miên.
Chương tŕnh lưu diễn gồm cả Đà Nẵng, Qui Nhơn, nhưng tôi chỉ nôn nao chờ đợi chuyến đi Huế, thành phố tôi biết nhiều bằng tưởng tượng của tuổi trẻ mới lớn lên. Trong đoàn lưu diễn có chị Bạch Yến và Phương Dung. Chúng tôi không đi một ḿnh mà có má đi theo. Việc này đă tạo cơ hội cho một số bạn bè lớn tuổi trong nghề thích vui đùa, chọc phá hay chế nhạo. Họ đùa nghịch dỡn chơi bằng cách thêm vào chữ “má” trước tên ca sĩ. C̣n nhỏ, chưa quen với lối đùa nghịch của lớp bạn bè lớn tuổi, tôi hơi mắc cỡ nhưng không biết làm thế nào, nghĩ rằng có má đi cùng tôi đỡ lo nhiều chuyện, người sẽ lo lắng cho tôi, lỡ có đau ốm hay chuyện ǵ xẩy ra bất thần.
Và Huế không phải bằng tưởng tượng, mà Huế thật sự với ḍng sông Hương thơm mát, với cảnh đẹp thiên nhiên đă ở trước mắt tôi. Có ra đến đây nh́n cảnh, nh́n người mới thấy Huế gợi cảm có sức thu hút, quyến rũ du khách. Nh́n cầu Tràng Tiền bắt ngang sông Hương, nh́n những đoàn học sinh đồng phục trắng, từng bước nhẹ nhàng thanh thoát như chim, nh́n phong cảnh Huế, không phải “ai” ra xứ Huế nữa, mà chính tôi, tôi đang sống, đang có mặt trên thành phố nên thơ này.
Người Huế hiếu khách và rất t́nh cảm. Trong suốt thời gian ở Huế, ngày nào tôi và má tôi cũng được hướng dẫn đi thăm thành phố, di tích và thắng cảnh. Chưa được đi thăm lăng tẩm nghe nói đẹp lắm, nhưng chúng tôi được đưa đi đèo Hải Vân. Rất tiếc hôm đó v́ đi nhiều nơi, vừa đến chân đèo th́ trời sụp tối phải trở về cho kịp giờ tŕnh diễn. Bù lại chúng tôi được đi đ̣ trên sông Hương một buổi tối. Huế có những quán hàng rong đặc biệt, không những hàng quà trên bờ, mà cả dưới nước. Đ̣ chúng tôi thả trôi theo ḍng nước, không xa cầu Trường Tiền lắm, bỗng nghe những tiếng rao dài từ trên những chiếc thuyền nhỏ không mui. Món ăn cũng đặc biệt: cơm hến. Người Nam ăn hủ tiếu, người Bắc ăn phở, người Trung ăn bún ḅ, món ăn “quốc hồn, quốc túy” của ba miền; ra Huế tôi biết thêm một điều, ngoài bún ḅ Huế có thêm cơm hến. Gồm đủ mùi vị cay, mặn, nồng, the the v́ co khế chua, nhưng dư vị sau cùng là “mặn mà t́nh quê”.
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=596975&stc=1&d=1396974451
Có một kỷ niệm làm tôi nhớ măi là hôm đầu tiên mới đến Huế, đang từ của sổ khách sạn nh́n ra ngoài chờ đợi ban tổ chức có hẹn th́ một nhóm mấy chị nữ sinh Đồng Khánh đến thăm. Sáu cô nữ sinh tha thướt trong áo dài màu trắng, nón bài thơ, cặp sách cầm tay; mặc dù chưa gặp nhau, lần nào nhưng chúng tôi vui vẻ chuyện tṛ như những người bạn quen từ lâu, chuyện trời mưa trời nắng, chuyện Sài g̣n, chuyện Huế, chuyện hát ḥ … vui thật là vui.
H́nh ảnh áo dài trắng, nón lá, cặp sách đối với tôi chẳng có ǵ xa lạ v́ tôi cũng mang những thứ ấy ngày ngày hai buổi đến trường, nhưng hôm ấy tự nhiên tôi thấy nôn nao “chi lạ”, vừa bạn, vừa khách, vừa xa, vừa gần. Lần gặp gỡ đầu tiên này với mấy chị nữ sinh Đồng Khánh làm tôi nhớ măi.
Cầm tay nhau sắp ra về, một cô bé có lẽ cũng trạc tuổi tôi, 15 tuổi, không hiểu sao rất mến tôi, hẹn sẽ viết thơ cho tôi. Trở về Sài g̣n, rất nhiều lần tôi nhận được thơ của người bạn mới, lần nào thơ viết cũng thật dài, hai ba tờ giấy đôi. Mến thương nhất là lần nào cũng vậy, ba tờ giấy được nhuộm thành màu tím rất đẹp, màu tím Huế, thật dễ thương và viết lên trên bằng loại chữ màu trắng nguyên cả bức thơ. Vừa vui mừng, vừa ngạc nhiên thích thú, tôi biên thơ hỏi thăm cách làm để cố gắng đáp lại ḷng mến thương của người bạn Huế. Mặc dù đă đựoc chỉ dẫn cẩn thận, tôi thí nghiệm nhiều lần nhưng lần nào cũng vụng về không làm sao có được màu trắng trong và màu tím trinh nguyên như bức thơ tôi nhận được. Không đáp được tâm t́nh người bạn mới, tôi đành tự an ủi rằng không phải là cô nữ sinh t́nh tứ sông Hương núi Ngự, không ai đủ nhẫn nại làm được.
Không biết bây giờ “cô bé” ấy ở đâu, trong nước hay tỵ nạn xứ người: Hoàng Oanh vẫn nhớ chị măi, nhớ những bức thơ màu tím, mực trắng, nhớ măi kỷ niệm xưa của chị.
Chỉ đến thăm Huế một lần và một lần thôi v́ sau đó phải bỏ nước ra đi, tưởng tượng nếu có dịp ra Huế thêm nhiều lần sẽ c̣n chồng chất bao nhiêu kỷ niệm khó quên khác.
Tiếng hát mật ngọt Hoàng Oanh trải qua nhiều năm tháng, không thể lẫn lộn với bất cứ giọng ca nào. Nó đi sâu vào ḷng người, ngất ngây như uống phải thứ men say và gợi nhớ muôn trùng một vùng trời kỷ niệm, đầy ắp thương yêu.
Đă một thời tiếng hát Hoàng Oanh làm say mê hàng triệu thính giả trên làn sóng điện ở quê nhà, và bây giờ vẫn được trân quư. Sau đây là bài viết về Hoàng Oanh, tiếng hát không đối thủ của ḍng nhạc giao quyên.
Ngôi trường Gia Long áo tím huyền thoại, với khuôn viên nhiều lối đi rợp bóng mát là nơi đă ướp bao chất thơ, chất nhạc trong tâm hồn mới lớn của cô nữ sinh Huỳnh Kim Chi. Dưới mái trường “Phượng vĩ dâng hoa” đó, Kim Chi đă trải qua bảy năm học với mảnh bằng Tú Tài toàn phần hạng b́nh thứ. Vừa đi hát vừa đi học: đi học th́ Kim Chi, đi hát th́ Hoàng Oanh, tiếng hát của một loài chim quư. Bạn bè cùng trường cùng lớp đă xem là thần tượng, nhà trường th́ hơi lo âu nhưng Kim Chi đă chu toàn được cả học lẫn hát, làm vừa ḷng gia đ́nh và thầy cô, đánh tan dư luận của nhà trường. Kim Chi là một nữ sinh nhu ḿ, ngoan hiền và chăm học… Rời trung học, Kim Chi tiếp tục vào ngưỡng cửa đại học Văn Khoa và cũng đă kết thúc với văn bằng Cử nhân văn chương. Kim Chi cũng có dự tính nối nghiệp thầy cô để “gơ đầu trẻ”, nhưng v́ bận rộn với t́nh nhạc và thơ lai láng nên giấc mộng mô phạm đó được tạm xếp một bên. Bởi đó, Hoàng Oanh đă mượn lời thơ tiếng nhạc trong một băng nhạc đầy ắp kỷ niệm thuở học tṛ mang chủ đề “Tuổi Học Tṛ” do chính cô thực hiện, để trải tấm ḷng với thầy cô, với bạn bè và mái trường xưa thân ái. Hoàng Oanh nói: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư… huống hồ Hoàng Oanh đă thọ giáo các ‘sư phụ’ mười lăm năm trời từ trường tiểu học Phú Nhuận, đến trường Gia Long và Đại học Văn Khoa Sàig̣n. Ơn của thầy cô lớn lắm, Hoàng Oanh nhớ măi. Đó là đạo thầy tṛ của phương Đông mà Tấy phương ít có được.”
Hoàng Oanh sinh ở Mỹ Tho nhưng trường thành ở Sàig̣n trong một gia đ́nh sáu chị em, ngoan đạo và có một sự giáo dục nề nếp nghiêm khắc, nhưng cũng có môi trường để cô phát triển tài ca ngâm. Hoàng Oanh từ năm lên năm đă học hát với thân phụ cũng là một nghệ sĩ. Năm tám tuổi, Hoàng Oanh được phép thân phụ cho lên sân khấu lần đầu tiên tại Liên trường Vơ khoa Thủ Đức với hai bản nhạc “Hương Lúa Miền Nam” và “Có Một Đàn Chim”. Ngoài ra, cô cũng có khiếu ngâm thơ nên đă nghe các cô chú, anh chị nổi tiếng ngâm thơ như Hồ Điệp, Quách Đàm, Tồ Kiều Ngân để học theo. Hoàng Oanh kể lại một kỷ niệm: Trong giờ Việt văn, sau khi b́nh giảng bài thơ “Tiếng Sáo Thiên Thai” của Thế Lữ, cô giáo hỏi ai biết ngâm thơ và cả lớp đồng thanh trả lời: Kim Chi. Thế là Kim Chi được cô giáo gọi lên diễn ngâm bài thơ đó và đă làm cho giờ học sống động hơn. Na7m đó Hoàng Oanh mười hai tuổi, học lớp Đệ Lục. Không bao lâu, Hoàng Oanh đă nổi tiếng “đủ mùi ca ngâm”.
Thế là tuy c̣n đi học, Hoàng Oanh đă được mời cộng tác với các ban: Thiếu Nhi đài phát thanh Quân Đội do Lê Đô phụ trách, ban Tuổi Xanh của nữ nghệ sĩ Kiều Hạnh và ban Việt Nhi của nhạc sĩ Nguyễn Đức ở đài phát thanh Sàig̣n. Hoàng Oanh là một trong những ca sĩ nổi tiếng nhất do sự dẫn dắt của nhạc sĩ Nguyễn Đức trên con đường ca hát.
Rồi thời gian qua… trở thành một thiếu nữ xinh đẹp dịu dàng, lại có một tài ca ngâm vững vàng, cánh cửa lớn rộng mở, Hoàng Oanh đă bước vào sinh hoạt ca nhạc thực thụ, Cô đă góp tiếng hát tiếng ngâm tràn ngập t́nh cảm cũng như đă góp h́nh ảnh xinh tươi trong các chương tŕnh nhạc và thơ uy tín của đài phát thanh cũng như đài truyền h́nh: Tiếng Tơ Đồng của Hoàng Trọng, chương tŕnh Phạm Mạnh Cương, Tiếng Hát Đôi Mươi của Nhật Trường, Trường Sơn của Duy Khánh, Nhạc Vàng của Phó Quốc Lân, Tiếng Thùy Dương của Châu Kỳ, Tao Đàn của Đinh Hùng, Tiếng Thơ của Thanh Nam, Ly Tao của Thái Thủy… Và tư khi có phong trào thâu dĩa hát và băng nhạc, Hoàng Oanh là một trong những nữ ca sĩ được mời thâu dĩa nhiều nhất. Riêng địa hạt thâu dĩa, Hoàng Oanh đă thâu khoảng hơn hai trăm dĩa với các hăng Asia, Sóng Nhạc, Việt Nam, Sơn Ca, Thiên Thai, Continental v.v… Đĩa hát đầu tiên của Hoàng Oanh gồm hai bài hát “Nếu Một Mai Anh Biệt Kinh Kỳ” và “Về Đâu Mái Tóc Người Thương”. Có một điều làm ta hơi ngạc nhiên là không thấy Hoàng Oanh xuất hiện trong các pḥng trà và vũ trường. Cô giải thích: “Hồi nhỏ, Oanh ở với ông cậu rất nghiêm khắc nên ông không cho Oanh hát pḥng trà hay vũ trường, thỉnh thoảng chỉ cho hát Đại nhạc hội mà thôi.”
Hoàng Oanh là một tài năng đa diện. Với một làn hơi ngọt ngào, nồng nàn t́nh cảm, Hoàng Oanh đă có khả năng tŕnh bày tất cả các loại nhạc cũng như lối ngâm. Từ những nét sang trọng, dịu dàng, quư phái của nhạc tiền chiến đến những bản dân ca ba miền, những bài t́nh tứ quê hương, từ những câu Ḥ mái đẩy miền Trung đến bài vọng cổ miền Nam hay câu Sa mạc, hát ví của miền Bắc… Hoàng Oanh đă tiếp nối những giọng ngâm thơ ba miền nổi tiếng như Hồ Điệp, Quách Đàm, Bích Thuận, Giáng Hương, Tô Kiều Ngân… Tiếng hát cũng như giọng ngâm của Hoàng Oanh có chút ǵ thật sâu đậm, buốn man mác nhưng thật t́nh tứ, đă chinh phục được đa số thính giả.
Một cuộc đời nghệ sĩ không sóng gió. Hoàng Oanh đi hát, đi học, sống êm đềm trong hạnh phúc gia đ́nh, trong t́nh thân bằng hữu và trong cảm t́nh nồng hậu của thính giả. Cho đến năm 1972, cô nữ ca sĩ dịu dàng khả ái đó sang ngang, vui duyên cầm sắt với một chàng dược sĩ trẻ và cũng là một nhạc sĩ, xây dựng một tổ ấm với t́nh yêu và sự hiểu biết.
Rời Sàig̣n ngày 28-4-75, ban đầu Hoàng Oanh định cư ở New Jersey, một thành phố gần với New York chọc trời và nay cũng đă t́m đường về Cali nắng ấm. Tại hải ngoại, Hoàng Oanh bắt đầu “tự biên tự diễn”, phát hành băng nhạc. Băng nhạc của Hoàng Oanh không bạo phát, bạo tàn, cứ đều đều nhưng bền bỉ vững vàng và được thính giả đón tiếp về lâu về dài. Ở nơi tha hương này, nghe Hoàgn Oanh hát là nghe tiếng ru về những kỷ niệm của một quê hương đă ngh́n trùng xa cách. Người miền Trung nhớ Huế da diết với giọng hát thật Huế của Hoàng Oanh trong Ai Ra Xứ Huế; người miền Nam nhớ sông Tiền sông Hậu với Tiềng Ḥ Miền Nam, người Bắc nhớ về Hồ Gươm, tháp Rùa qua câu ngâm sa mạc hay câu hát ví… Đó Hoàng Oanh là một ngôi sao lấp lánh muôn mặt của trời thơ ca nhạc hải ngoại hiện nay. Ở đâu, khán thính giả cũng đón tiếp Hoàng Oanh như một sứ giả của mối t́nh “thi nhạc giao duyên”, như một h́nh ảnh đẹp của nghệ sĩ, một đóa hoa muôn màu chan chứ t́nh tự quê hương dân tộc.
Hoàng Oanh đă tự vạch cho ḿnh một lối đi: Làm sao để bảo tồn văn hóa cổ truyền và nuôi dưỡng tâm hồn Việt Nam trong cộng đồng người Việt cũng như trong lớp ca nhạc sĩ trưởng thành ở hải ngoại.
hn