PDA

View Full Version : Nhà Báo Pháp Pierre Darcourt Kể Những Ngày Giờ Cuối Của Việt Nam Cộng Ḥa


Hanna
06-09-2014, 18:45
Suốt Tháng Tư 1975, nhà báo Pierre Darcourt có mặt tại Sàigon, trực tiếp gặp và nghe nhiều điều riêng tư, từ các cấp thẩm quyền quân dân sự miền Nam, như Tướng Nguyễn Khoa Nam, Bộ trưởng Hoàng Đức Nhă

LTS. Pierre Darcourt là một nhà báo người Pháp đă sống từ lúc khởi đầu cho đến hồi kết cuộc của chiến tranh Việt Nam. Ông sinh năm 1926 tại Saigon, từng theo học tại Đại Học Luật Khoa Hà Nội trước 1945. Khi Nhật đảo chính Pháp tháng 3-1945, ông tham gia lực lượng du kích chống Nhật tại Đông Dương, sau đó gia nhập binh chủng Nhảy Dù Pháp. Sau khi giải ngũ năm 1954, ông trở lại đại học rồi thành một nhà báo danh tiếng.

Suốt Tháng Tư 1975, nhà báo Pierre Darcourt có mặt tại Sàigon, trực tiếp gặp và nghe nhiều điều riêng tư, từ các cấp thẩm quyền quân dân sự miền Nam, như Tướng Nguyễn Khoa Nam, Bộ trưởng Hoàng Đức Nhă, lănh tụ Ngiệp đoàn Trần Quốc Bửu, tới.... Bà Ngô Bá Thành thủ lănh phong trào Phụ Nữ Đ̣i Quyền Sống. Ông cũng sát cánh với các đơn vị VNCH giờ chót tại các pḥng tuyến ven đô cho tới ngày cuối cùng và chỉ rời khỏi Saigon vào buổi trưa 29 tháng 4 năm 1975. Những ngày giờ cuối cùng của VNCH được Pierre Darcourt viết thành sách "Vietnam, Qu'as Tu Fait De Tes Fils" do Editions Albatros, Paris xuất bản. Sau đây là một số sự ghi nhận của nhà báo Pháp đặc biệt này, được lược trích theo bản dịch Việt ngữ "Việt Nam Quê Mẹ Oan Khiên" của Cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa, do Tủ sách Tiếng Quê Hương ấn hành.

http://vietsn.com/forum/attachment.php?attachmentid=622859&stc=1&d=1402339499
Những tựa nhỏ cho các trích đoạn do toà báo đặt thêm.

*Trường hợp ướng Phú

Thứ hai, 7 tháng Tư 75 Đại Tá Khôi, sĩ quan phụ tá trưởng Pḥng Nh́ Quân Đoàn III tiếp tôi tại Bộ Tổng Tham Mưu QLV NCH, một doanh trại rộng lớn nằm gần sân bay Tân Sơn Nhứt, nơi có rất nhiều ăng-ten và có Thiết Giáp canh gác. Lúc bấy giờ là 9 giờ sáng.

Đại Tá Khôi, một cựu sĩ quan lực lượng đặc biệt, được huấn luyện ở Okinawa, là một người cao lớn mảnh khảnh mặt đầy vết thẹo v́ ông đă đạp phải ḿn năm 1970.

Ngày 14 tháng 3, Tổng Thống Thiệu đến căn cứ Hải Quân ở Cam Ranh để có một buổi họp kín của Hội Đồng Quân sự. Có 5 tướng lănh hiện diện trong buổi họp: Tổng Thống Thiệu, Đại Tướng Khiêm - Thủ tướng Chánh Phủ, Tướng Cao Văn Viên - Tổng Tham mưu trưởng QLVNCH, Tướng Đặng Văn Quang - Cố vấn quân sự của Tổng Thống và Tướng Phú - Tư lệnh Vùng II Chiến Thuật.

Sau một cuộc bàn căi, tất cả tướng lănh hiện diện trong buổi họp nầy đều quyết định rút bỏ luôn hai thành phố nằm về hướng Bắc của Vùng Cao Nguyên là Kontum và Pleiku. Kế hoạch được soạn thảo nầy dự trù tập trung các đơn vị xuống vùng duyên hải và từ đó sẽ mở một cuộc phản công lên Ban Mê Thuột. Không có ấn định chính xác giờ giấc để tiến hành cuộc di tản hai thành phố Kontum và Pleiku……''

Đại Tá Khôi bất th́nh ĺnh ngưng nói, xoa hai bàn tay khô cằn của ông ta, sau đó mới tiếp tục một cách trịnh trọng:

- Điểm sau cùng nầy mang một tính cách lịch sử quan trọng. Bốn trong số năm vị tướng lănh hiện diện đều nghĩ rằng cuộc triệt thoái phải được tiến hành tuần tự và sẽ được kết thúc vào tuần lễ chót của tháng 3. Vị tướng lănh thứ năm là Tướng Phú, người chịu trách nhiệm về cuộc hành quân nầy, là một sĩ quan có một dĩ văng quân sự hào hùng, tuy rằng ông đă đi lên từ hàng binh sĩ. Đă từng lăn lóc trên chiến trường suốt 14 năm, ông là một tư lệnh Sư Đoàn tài giỏi nhưng lại là một tư lệnh Quân Đoàn quá yếu. Đă từ lâu rồi ông bị bệnh, ông lại không được chuẩn bị trước và không đủ khả năng điều khiển một cuộc hành quân triệt thoái quy mô như vầy, nghĩa là một trong những cuộc điều quân khó khăn nhất trong các phép dụng binh trong lịch sử chiến tranh"

Tôi quan sát rất kỹ Đại Tá Khôi. Th́nh ĺnh tôi có cảm tưởng khó chịu là h́nh như ông ta đang cho tôi một bài "diễn văn'' đă được soạn sẵn từ trước. Tôi không muốn ngắt ngang ông ta. Tôi cần phải nghe luận giải của ông đến cùng: cũng sắp sửa đến phần kết luận rồi.Và Đại Tá Khôi nói tiếp:

"Chiều tối ngày 14 tháng 3, về đến Pleiku hơi trễ, Tướng Phú không cần giải thích, đă cho lệnh quân đoàn tiến hành cuộc hành quân triệt thoái ngay vào sáng sớm hôm sau.

Vào lúc rạng đông ngày 15 tháng 3, tất cả binh sĩ cùng dân chúng của hai tỉnh Kontum và Pleiku đă vội vă rời khỏi hai thành phố nói trên, bỏ lại tại chỗ hàng chục triệu Mỹ kim chiến cụ. Cả hai đoàn người và xe qua quốc lộ 19 rồi mới vào con đường 7 B. Trên con đường 7 B nầy vốn chỉ là một con đường ṃn được trải đá sơ sài, tất cả các cầu đều bị giật sập, đi sâu vào một vùng rừng đầy gai góc lùm bụi, cỏ cao ngất trời. Khi các xe vận tải nặng và các xe thiết giáp đi qua rồi th́ các đường nước trở thành những vũng śnh lầy lội, làm cho hàng ngàn xe khác đi sau bị mắc lầy, tự đâm vào nhau và tắc nghẽn lại hết. Trên đường rút đi, các đơn vị đi trước và đi sau 200.000 dân tị nạn, bị rơi vào một trận phục kích kinh hồn của sư đoàn 320 Bắc Việt. Hai chục ngàn dân (20.000) bị tàn sát, 500 xe đủ loại bị phá hủy, tất cả biến cuộc triệt thoái nầy thành một cuộc tháo chạy trong hỗn loạn. Và cũng từ đó mới gây ra nỗi kinh hoàng khó tả trong dân chúng…

Đại Tá Khôi đứng dậy và đi ṿng bàn viết của ông ta, điều nầy có nghĩa là buổi nói chuyện của chúng tôi đă chấm dứt. Tôi khẳng định là những tin tức mà ông đă nói với tôi hôm nay chỉ đúng sự thật có một phần nào thôi, nhưng chắc chắn không phải là tất cả sự thật. Cái lối giải thích để làm giảm nhẹ đi phần nào trách nhiệm của Tổng Thống Thiệu nó không đúng với tính t́nh của các nhân vật trong câu chuyện.. Tôi rất muốn nói với Đại Tá Khôi như vậy, nhưng tôi cảm thấy ông ta không muốn đi ra ngoài luận cứ "chánh thức" mà ông đă cung cấp cho tôi. Do đó tôi chỉ hỏi ông ta:

"Xin Đại Tá chỉ giùm tôi có thể đi gặp Tướng Phú ở chỗ nào được ?

Gương mặt ông ta lạnh nhạt trở lại, và câu trả lời cụt lủn của ông ta làm tôi hết sức ngạc nhiên:

"Tướng Phú đă bị phạt giam, và không thể tiếp ai được hết"'

Tôi từ giă Đại Tá Khôi. Nhưng trước khi rời khỏi Bộ Tổng Tham Mưu, tôi nhờ vị sĩ quan báo chí xin giùm tôi một cái hẹn để đi gặp Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sau vài lần điện thoại, và gọi vô tuyến, Tướng Nam đă đồng ư gặp tôi sau 3 giờ chiều, nhơn lúc ông ghé lại Mỹ Tho.

Cuộc nói chuyện của tôi với Đại Tá Khôi làm tôi đau đầu. H́nh ảnh mà ông ta đă tả cho tôi về một Tướng Phú già nua, suy nhược, không c̣n đủ sáng suốt và khả năng để phối hợp một cuộc điều quân, thực t́nh không đứng vững. Thật vậy, tôi chỉ không gặp Tướng Phú có sáu tháng, nhưng tôi biết ông ta cách đây 23 năm, từ khi ông ra trường sĩ quan Thủ Đức. Tôi vẫn biết ông ta chỉ c̣n có một lá phổi. Nhưng dù là nhỏ con ốm yếu nhưng với 49 tuổi đầu, ông là một người dày dạn phong sương. Ông rất cứng rắn đôi với binh sĩ của ḿnh và cũng cứng rắn đối với bản thân, dẽo dai, mưu lược và giỏi về chiến thuật, nên trước hết ông là một sĩ quan của thế công.

Ở Điện Biên Phủ, nơi mà ông được thăng cấp Đại Úy tại mặt trận, ông đă tạo được lịch sử của ông rồi. Ngày 30 tháng 3 năm 1954, lúc Việt Cộng đánh một trận chiến đẫm máu ở 5 ngọn đồi, trong lúc xáp lá cà, bọn bộ đội đă gọi hỏi nhau ơi ới: "Thằng Phú đâu rồi ? Phải bắt thằng Phú nghe, bắt sống nó nghe !" Ông ta không rơi vào tṛng của quân Bắc Việt và liên tiếp mở hết cuộc phản công nầy đến trận phản công khác. Phương pháp chỉ huy của ông Phú rất khắt khe. Với một người có hành động vi phạm kỷ luật mà ông đă ban hành, ông cho cột chân tay người đó vào hàng rào kẽm gai. Mặc dầu luôn luôn bị pháo kích hết sức nặng nề, hệ thống pḥng ngự đầy hố tác chiến trên đồi Elian 1 của ông đă giúp ông cầm cự suốt nhiều tuần lễ, đẩy lui tất cả cả các đợt xung phong của địch. Bốn ngày trước khi cứ điểm bị thất thủ, ông c̣n oanh liệt cho nổ 3 lô cốt có trang bị súng không giật 57 ly, đă kịp thời phát hiện, chận đứng và tấn công một tiểu đoàn Việt Cộng trên sườn đồi, buộc chúng phải rút lui với sự yểm trợ hữu hiệu của pháo binh Pháp do ông đích thân đứng ngay trên địa thế trống trải để điều chỉnh tác xạ thật chính xác. Ông đă sống sót được sau 18 tháng bị bắt giam trong một trại tẩy năo Cộng Sản ở Thượng Du Bắc Việt, mà không hề chấp nhận phải kư một bản "thú tội" hay một tờ truyền đơn nào. Và các sinh viên ở Sài G̣n đă tranh đấu với phái đoàn Bắc Việt đang ở khách sạn Majestic lúc bấy giờ để đ̣i Bắc Việt phải trả tự do cho ông. Từ khi ông được trở về Nam, ông Phú đă tham gia tích cực vào cuộc chiến. Nhất là ở Lào, năm 1971, lúc ông là tư lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh ông đă giúp cho một đoàn xe thiết giáp của Miền Nam thoát được một sự thảm bại trông thấy, trên đường rút lui ở quốc lộ 9. Để cứu đoàn thiết giáp nầy đang bị 2 sư đoàn Bắc Việt tấn công từ hai bên sườn, Tướng Phú đă không ngần ngại đi xuyên qua rừng t́m địch để cuối cùng bẻ găy được gọng kềm của địch sau 3 ngày tác chiến vất vả có đôi lúc phải đánh xáp lá cà với địch. Vào tháng 5 năm 1972, trong trận tấn công quy mô của Bắc Việt vào Huế, Tướng Phú đă cùng Đại Tá Dickinson đưa tôi đi thanh sát bằng trực thăng ngay trên vùng Việt Cộng. Khi phải cố gắng đáp xuống một mỏm núi đang bị Bắc Việt bao vây, chiếc trực thăng của chúng tôi bị trúng một viên đạn trực xạ của súng 75 không giật, bay mất nửa mảng phía trước và găy mất một chân càng. Như có một phép lạ, chiếc trực thăng lại bay lên được và Tướng Phú đă bắt phi công phải lượn lại trên vị trí bạn một ṿng khi ông nói rằng "tôi muốn cho cả Việt Cộng và binh sĩ của tôi biết rằng tôi hăy c̣n sống."

Tôi nghĩ lại tất cả các chuyện nầy và tôi không bao giờ tin rằng Tướng Phú tự nhiên lại mất b́nh tĩnh đến độ phải cho lệnh triệt thoái một cách vội vă vô trật tự như vậy để cuối cùng phải đi đến một thảm trạng như thế. Phải chăng v́ tôi biết về ông ta quá nhiều, hay v́ ông ta là bạn của tôi?
mk