Hanna
08-19-2014, 17:41
Một buổi sáng mới đây, nhân đọc được một bài viết trên Maclean’s, một tuần báo thời sự nổi tiếng tại Gia Nă Đại (Canada), tôi nghĩ đến việc chia sẻ với bạn về bài viết đó, mặc dù nội dung của bài báo rất buồn.
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=650551&stc=1&d=1408470077
Mai và con Wiggles thân thương.
Thú thật với bạn, hiện nay đang là giữa mùa hè nắng chói rực rỡ ở Nam California, mùa nghỉ mát, đi chơi xa, tắm biển, cắm trại, giải trí thư giăn, ăn kem, đọc tiểu thuyết ba xu, không ai muốn nhắc đến chuyện đau thương làm chi. Nhưng đọc xong bài viết ngắn về Mai, dư âm của cuộc đời của Mai đă ở lại trong tôi khá lâu, khiến tôi ray rứt như có điều ǵ đó c̣n bất ổn trong tôi được nh́n thấy qua câu chuyện của Mai.
Cuộc sống luôn có những giây phút bất an, và nỗi bất an trong Mai đă khiến tôi không thể không kể cho bạn nghe về cuộc đời của cô ấy phần lớn được tóm lược trong bài viết của tác giả Genna Buck đăng trên tạp chí Maclean’s ngày 22 tháng Bảy, 2014. Tên chính thức của Mai trên giấy tờ tại Gia Nă Đại là Mai Thị Ngọc Trần Cashion, c̣n tên khác là Mai Cashion, Trần Thị Ngọc Mai.
Mai từng sống sót trong một tai nạn phi cơ. Thế rồi cô phải đối phó trước nỗi bất an trong tâm hồn trong gần hết cuộc đời bằng nhiều cách, qua những công việc khác nhau, từ một cô giáo, một người giữ trẻ, một ni cô, một cầu thủ đá banh xuất sắc và một người dắt chó chuyên nghiệp.
Mai sinh ra ở Vĩnh Long, đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam, lớn lên tại Fredericton, một thành phố nhỏ ở tỉnh bang New Brunswick, miền đông Gia Nă Đại, không xa biên giới Hoa Kỳ ở tiểu bang Maine. Có thể nói là Mai hoàn toàn không biết nói tiếng Việt v́ cô rời Việt Nam quá sớm khi chưa đầy một tuổi.
Trên giấy khai sanh, người ta ghi Mai chào đời ngày 25 tháng Bảy, 1974, tức là gần 40 năm trước khi tôi viết bài này để chia sẻ với bạn. Cha mẹ của Mai được liệt kê là “không biết.” Ngày Mai đến trên thế gian này th́ cuộc chiến Việt Nam cũng đang trong giai đoạn chót, đau thương, nghiệt ngă nhất cho hàng triệu người miền Nam. Mai là một trong vô số trẻ em bị mồ côi cha mẹ, bị bỏ rơi hoặc bị tách rời cha mẹ trên đường tản cư tránh những vùng đang có giao tranh.
Mai may mắn được đưa vào danh sách khoảng 3,300 trẻ em mồ côi được người ngoại quốc nhận nuôi mà hầu hết là cha mẹ ở Mỹ và Gia Nă Đại. Lúc đó cô bé chỉ mới tám tháng tuổi. Chuyến bay đầu tiên đưa các em mồ côi rời Việt Nam theo chương tŕnh Operation Babylift do chính phủ Hoa Kỳ thực hiện diễn ra vào ngày 4 tháng Tư, 1975. Không may cho nhiều em, chiếc vận tải cơ C-5A Galaxy dùng để chuyên chở xe tăng bị rớt cánh cửa ở phía đuôi sau khi cất cánh. Phi công phải đáp máy bay khẩn cấp xuống một cánh đồng. Tai nạn đă khiến hơn 150 người thiệt mạng mà trong đó có ít nhất 78 trẻ em.
Ngày hôm đó tại Fredericton, ông Peter Cashion và bà vợ Marie đă sửng sốt khi xem tin tức về chuyến bay trên đài truyền h́nh. Ông Peter là một khoa học gia chuyên về ngành sinh hóa, bà là một giáo sư chuyên dạy ngành giáo dục đặc biệt. Họ lo lắng cho bé Mai mặc dù chưa bao giờ gặp bé mà chỉ biết mặt qua một tấm h́nh gởi đến cho cha mẹ nuôi.
Một cơ quan môi giới con nuôi đă nh́n nhận một điều mà ông bà Peter và Marie lo ngại nhất: đó là Mai đă có mặt trên chuyến bay lâm nạn. Trong số hành khách có 36 trẻ em trên đường đến các gia đ́nh hảo tâm ở Gia Nă Đại. Chỉ có 18 em sống sót. Cơ quan không biết trong 18 em này có Mai hay không.
Qua chiều hôm sau, theo lời kể của bà Marie, bà đang đối phó cơn lo lắng, hồi hộp bằng một ly rượu pha Gin and Tonic th́ nhận được một cú gọi điện thoại. Họ báo cho bà biết em Mai c̣n sống và đang trên đường về nhà. Bà vui mừng khôn tả. Nhưng rồi cuộc đời của Mai không suôn sẻ như nhiều em bé mồ côi Việt Nam khác được cứu ra khỏi cuộc chiến tương tàn.
Ngay từ ngày đầu, em bé của ông bà Peter và Marie Early đă có vẻ c̣n bị chấn động bởi tiếng bom đạn, rất thụ động, không muốn lăn lộn hay nắm bắt những món đồ chơi như các em bé khác. Rất may cho Mai, gia đ́nh này đă có hai cha mẹ và hai anh chị rất thương yêu em bé khác màu da từ nửa ṿng bên kia trái đất. Ngày bé Mai về nhà, cha mẹ nuôi của cô đă có em trai Peter Jr., 5 tuổi, và bé gái Amy, 3 tuổi. Cả hai anh chị đều vui mừng, thích chơi với em bé, luôn giành được ẵm bồng bé Mai. Cô bé lớn lên và trở thành một đứa trẻ mê thích đọc sách, tính t́nh ngỗ ngáo như con trai và chơi đá banh rất giỏi, có tiếng trong vùng.
Sau này ông bà Peter và Marie c̣n có thêm một bé trai tên Joe nhỏ hơn Mai hai tuổi. Mai thường rủ em Joe chạy chơi khắp xóm, từ ngoài đường đến trong hẻm, ở đâu hai chị em cũng tụ tập với mấy đứa trẻ cùng lứa tuổi. Theo lời kể của Joe, Mai có tài lănh đạo, luôn là người cầm đầu nhóm trẻ. Joe kể với báo Maclean’s, “Không có đứa trẻ nào có thể phá phách hơn chị Mai.”
Gia đ́nh họ Cashion cũng chuyên nuôi dưỡng những con chó lông vàng thuộc giống Golden Retriever. Căn garage chứa xe của họ luôn là nơi nuôi những con chó con. Và đó cũng là nơi khởi đầu một năng khiếu mà Mai đă mang theo suốt đời. Cô thương thú vật, có tài chăm sóc và có khả năng “nói chuyện” với chó. T́nh thương dành cho thú vật là điều không thay đổi trong cuộc đời có rất nhiều đổi thay của Mai.
Ở tuổi mới lớn, Mai phát khởi dấu hiệu của bệnh trầm cảm lần đầu tiên. Và rồi bệnh này đeo đuổi cô suốt đời. Mai bắt đầu đi t́m con người thật trong nội tại, ư nghĩa trong cuộc sống của ḿnh. Không ai hiểu tại sao cô cần phải đi t́m như vậy, và ngay chính Mai cũng không hiểu tại sao cô luôn có sự khắc khoải về cội nguồn bên trên cuộc sống thực tại.
Mai ghi danh vào đại học hai lần, đều bỏ cuộc hai lần. Cô rời cha mẹ và lang thang đến sống ở Banff, một thị xă nằm trong tỉnh bang Alberta, gần thành phố Calgary ở miền tây Gia Nă Đại, cách xa nhà hơn 3,000 dặm. Ở đây cô làm quen một chủ tiệm bán thức ăn chay. Cô nhận rửa chén ở tiệm này để trao đổi cho những bữa ăn.
Thế rồi khi mới 20 tuổi, Mai mua một chiếc xe gắn máy và lái chiếc xe hàng ngàn dặm từ miền tây để về nhà ở Fredericton. Mai là một phụ nữ nhỏ nhắn, cao 5 feet 3, nặng 120 pounds. Không ai có thể tưởng tượng cô gái bé nhỏ này lại dám phóng xe máy chạy xuyên suốt đất nước Gia Nă Đại. Cô Anna Silk, bạn thân của Mai, đă năn nỉ Mai hăy ngưng nghỉ, đừng quá bận tâm đến mọi thứ. Anna nói với báo Maclean’s, “Cô ấy quá nhạy cảm với thế giới ở chung quanh, luôn xem trọng mọi sự việc trong cuộc sống. Làm việc ǵ th́ Mai cũng làm hết ḷng, thế nhưng cô cũng rất cực đoan.”
Vào năm 1996, bà Marie đưa con gái nuôi về Việt Nam để t́m một chút quá khứ của Mai. Họ không t́m ra một dấu vết nào. Thế rồi Mai ở lại Việt Nam một năm và sống bằng nghề dạy Anh văn. Rồi cô chán Việt Nam như chưa t́m ra cội nguồn của ḿnh ở đó. Thay v́ về Bắc Mỹ, cô bay qua Bỉ quốc, nhận việc nuôi trẻ ở quốc gia Tây Âu khoảng một năm. Sau đó cô qua Tây Ban Nha và làm người mẫu thời trang.
Đến cuối năm 1998, cô gia nhập một tăng đoàn và xuống tóc để tu ở một thiền viện tại Pháp. Sự việc Mai đi tu đă gây sửng sốt cho mọi người. Không ai có thể đoán trước việc này.
Theo chương tŕnh Babylift cứu trẻ em mồ côi trước đây, cô được tài trợ khoảng $25,000 Mỹ kim. Mai đă lấy món tiền này và chia gần hết cho các bạn của cô. Theo lời kể của những ai từng biết Mai, cô rất vui tính, đi đâu cũng có bạn. Vào năm 1999, cô bay về Fredericton để dự đám cưới của anh Peter Jr.. Trong h́nh chụp chung ở lễ cưới của anh, Mai mặc bộ y màu nâu của của một ni cô và đầu cạo nhẵn tóc. Sau ba năm, Mai rời bỏ cuộc sống g̣ bó ở tu viện Pháp. Thế nhưng cô vẫn tiếp tục cuộc t́m kiếm một ǵ đó ở trong cô, và giữ lại những giáo pháp mà cô đă học được trong ba năm tu hành.
Vào năm 2004, cô định cư ở thành phố Montreal, t́m được một việc làm trong một hăng bán bảo hiểm. Việc này không thật phù hợp với cá tính của Mai. Cô học vơ và rồi lấy được đai đen trước khi trở về với một công việc mà cô thích nhất. Đó là sống với những con chó. Cô tự mở một nghề riêng là nghề dắt chó. Cô xem có vẻ phù hợp với nghề này, hầu như không có một con chó nào mà cô không thể nói chuyện với chúng. Cũng như với người, đi đâu cô cũng có bạn chó. Một trong những người bạn thân nhất của Mai là con chó tên Wiggles. Nó thuộc giống chó Boston terrier, được Mai mang theo bên cạnh mỗi khi cô ra đường.
Ngoài con chó cưng, theo sát bên cạnh Mai là bệnh trầm cảm. Trước mùa Nô En năm 2013, Mai trở về sống với cha mẹ. Cô đă tự tử trong tháng Năm nhưng không thành và được chăm sóc một thời gian trong bệnh viện.
Đến ngày 17 tháng Sáu, Mai nói cha mẹ rằng cô sẽ đến nhà một người bạn và sẽ ở qua đêm. Qua ngày hôm sau cô không về nhà. Ông bà Peter và Marie đă báo cảnh sát, đưa đến một báo động t́m người mất tích. Ông bà nói rằng đây là lần thứ nh́ trong đời họ lên giường ngủ mà không biết Mai c̣n sống hay đă chết. Thế rồi vài ngày sau, hôm 21 tháng Sáu, họ nhận được một cú gọi, và lần này là hung tin. Mai đă không sống sót như trong lần xảy ra tai nạn phi cơ ở Sài G̣n. Cảnh sát t́m thấy xác của Mai trong Odell Park, một công viên rậm cây và rộng 400 mẫu ở thành phố Fredericton. Họ chỉ nói cô đă tự giải quyết mạng sống của ḿnh, không cho thêm chi tiết cô đă quyên sinh như thế nào. Mai chỉ mới 39 tuổi.
Trong điếu văn của nhà quàn, Mai được mô tả là một người rất yêu thương thú vật. Mỗi ngày, dù nắng hay mưa hay tuyết, cô đều dắt những con chó đến đồi Mount Royal, nơi cô chạy và chơi với chúng. Đó là lúc những con chó được chạy tung tăng trong niềm sung sướng, hạnh phúc. Và Mai cũng được hạnh phúc như vậy. Cô dắt chó nhỏ vào buổi sáng, chó lớn vào buổi chiều. Mai và những con chó vui vẻ là h́nh ảnh quen thuộc đối với những ai sống chung quanh đồi Mount Royal ở Montreal.
Mai để lại cha mẹ, anh Peter, chị Amy, em Joe cùng mấy người cháu trong gia đ́nh của các anh chị em. Mai không có chồng con, và cũng không bao giờ muốn lấy chồng. Thay vào khoảng trống đó, đi đâu cô cũng tạo quan hệ tốt với người chung quanh, và với những con chó. Mai cũng để lại con Wiggles cho cha mẹ.
Theo ư nguyện của gia đ́nh, thay v́ mua hoa phúng điếu, những người thương yêu Mai có thể tặng tiền cho Fredericton SPCA, một hội bảo vệ chó mèo và những con thú ở thành phố này.
Câu chuyện của Mai đă làm tôi suy tư mấy ngày. Có lẽ v́ sự t́m kiếm của cô chưa được toại nguyện, và đó cũng là sự đi t́m của biết bao người đang thao thức về ư nghĩa bên trên cuộc sống, dù họ không chọn con đường kết liễu như Mai.
Một lời cầu nguyện cho Mai được siêu thoát, và luôn được hạnh phúc như cô từng có khi chơi đùa với những bạn chó trên ngọn đồi Mount Royal. (pq)
VD
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=650551&stc=1&d=1408470077
Mai và con Wiggles thân thương.
Thú thật với bạn, hiện nay đang là giữa mùa hè nắng chói rực rỡ ở Nam California, mùa nghỉ mát, đi chơi xa, tắm biển, cắm trại, giải trí thư giăn, ăn kem, đọc tiểu thuyết ba xu, không ai muốn nhắc đến chuyện đau thương làm chi. Nhưng đọc xong bài viết ngắn về Mai, dư âm của cuộc đời của Mai đă ở lại trong tôi khá lâu, khiến tôi ray rứt như có điều ǵ đó c̣n bất ổn trong tôi được nh́n thấy qua câu chuyện của Mai.
Cuộc sống luôn có những giây phút bất an, và nỗi bất an trong Mai đă khiến tôi không thể không kể cho bạn nghe về cuộc đời của cô ấy phần lớn được tóm lược trong bài viết của tác giả Genna Buck đăng trên tạp chí Maclean’s ngày 22 tháng Bảy, 2014. Tên chính thức của Mai trên giấy tờ tại Gia Nă Đại là Mai Thị Ngọc Trần Cashion, c̣n tên khác là Mai Cashion, Trần Thị Ngọc Mai.
Mai từng sống sót trong một tai nạn phi cơ. Thế rồi cô phải đối phó trước nỗi bất an trong tâm hồn trong gần hết cuộc đời bằng nhiều cách, qua những công việc khác nhau, từ một cô giáo, một người giữ trẻ, một ni cô, một cầu thủ đá banh xuất sắc và một người dắt chó chuyên nghiệp.
Mai sinh ra ở Vĩnh Long, đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam, lớn lên tại Fredericton, một thành phố nhỏ ở tỉnh bang New Brunswick, miền đông Gia Nă Đại, không xa biên giới Hoa Kỳ ở tiểu bang Maine. Có thể nói là Mai hoàn toàn không biết nói tiếng Việt v́ cô rời Việt Nam quá sớm khi chưa đầy một tuổi.
Trên giấy khai sanh, người ta ghi Mai chào đời ngày 25 tháng Bảy, 1974, tức là gần 40 năm trước khi tôi viết bài này để chia sẻ với bạn. Cha mẹ của Mai được liệt kê là “không biết.” Ngày Mai đến trên thế gian này th́ cuộc chiến Việt Nam cũng đang trong giai đoạn chót, đau thương, nghiệt ngă nhất cho hàng triệu người miền Nam. Mai là một trong vô số trẻ em bị mồ côi cha mẹ, bị bỏ rơi hoặc bị tách rời cha mẹ trên đường tản cư tránh những vùng đang có giao tranh.
Mai may mắn được đưa vào danh sách khoảng 3,300 trẻ em mồ côi được người ngoại quốc nhận nuôi mà hầu hết là cha mẹ ở Mỹ và Gia Nă Đại. Lúc đó cô bé chỉ mới tám tháng tuổi. Chuyến bay đầu tiên đưa các em mồ côi rời Việt Nam theo chương tŕnh Operation Babylift do chính phủ Hoa Kỳ thực hiện diễn ra vào ngày 4 tháng Tư, 1975. Không may cho nhiều em, chiếc vận tải cơ C-5A Galaxy dùng để chuyên chở xe tăng bị rớt cánh cửa ở phía đuôi sau khi cất cánh. Phi công phải đáp máy bay khẩn cấp xuống một cánh đồng. Tai nạn đă khiến hơn 150 người thiệt mạng mà trong đó có ít nhất 78 trẻ em.
Ngày hôm đó tại Fredericton, ông Peter Cashion và bà vợ Marie đă sửng sốt khi xem tin tức về chuyến bay trên đài truyền h́nh. Ông Peter là một khoa học gia chuyên về ngành sinh hóa, bà là một giáo sư chuyên dạy ngành giáo dục đặc biệt. Họ lo lắng cho bé Mai mặc dù chưa bao giờ gặp bé mà chỉ biết mặt qua một tấm h́nh gởi đến cho cha mẹ nuôi.
Một cơ quan môi giới con nuôi đă nh́n nhận một điều mà ông bà Peter và Marie lo ngại nhất: đó là Mai đă có mặt trên chuyến bay lâm nạn. Trong số hành khách có 36 trẻ em trên đường đến các gia đ́nh hảo tâm ở Gia Nă Đại. Chỉ có 18 em sống sót. Cơ quan không biết trong 18 em này có Mai hay không.
Qua chiều hôm sau, theo lời kể của bà Marie, bà đang đối phó cơn lo lắng, hồi hộp bằng một ly rượu pha Gin and Tonic th́ nhận được một cú gọi điện thoại. Họ báo cho bà biết em Mai c̣n sống và đang trên đường về nhà. Bà vui mừng khôn tả. Nhưng rồi cuộc đời của Mai không suôn sẻ như nhiều em bé mồ côi Việt Nam khác được cứu ra khỏi cuộc chiến tương tàn.
Ngay từ ngày đầu, em bé của ông bà Peter và Marie Early đă có vẻ c̣n bị chấn động bởi tiếng bom đạn, rất thụ động, không muốn lăn lộn hay nắm bắt những món đồ chơi như các em bé khác. Rất may cho Mai, gia đ́nh này đă có hai cha mẹ và hai anh chị rất thương yêu em bé khác màu da từ nửa ṿng bên kia trái đất. Ngày bé Mai về nhà, cha mẹ nuôi của cô đă có em trai Peter Jr., 5 tuổi, và bé gái Amy, 3 tuổi. Cả hai anh chị đều vui mừng, thích chơi với em bé, luôn giành được ẵm bồng bé Mai. Cô bé lớn lên và trở thành một đứa trẻ mê thích đọc sách, tính t́nh ngỗ ngáo như con trai và chơi đá banh rất giỏi, có tiếng trong vùng.
Sau này ông bà Peter và Marie c̣n có thêm một bé trai tên Joe nhỏ hơn Mai hai tuổi. Mai thường rủ em Joe chạy chơi khắp xóm, từ ngoài đường đến trong hẻm, ở đâu hai chị em cũng tụ tập với mấy đứa trẻ cùng lứa tuổi. Theo lời kể của Joe, Mai có tài lănh đạo, luôn là người cầm đầu nhóm trẻ. Joe kể với báo Maclean’s, “Không có đứa trẻ nào có thể phá phách hơn chị Mai.”
Gia đ́nh họ Cashion cũng chuyên nuôi dưỡng những con chó lông vàng thuộc giống Golden Retriever. Căn garage chứa xe của họ luôn là nơi nuôi những con chó con. Và đó cũng là nơi khởi đầu một năng khiếu mà Mai đă mang theo suốt đời. Cô thương thú vật, có tài chăm sóc và có khả năng “nói chuyện” với chó. T́nh thương dành cho thú vật là điều không thay đổi trong cuộc đời có rất nhiều đổi thay của Mai.
Ở tuổi mới lớn, Mai phát khởi dấu hiệu của bệnh trầm cảm lần đầu tiên. Và rồi bệnh này đeo đuổi cô suốt đời. Mai bắt đầu đi t́m con người thật trong nội tại, ư nghĩa trong cuộc sống của ḿnh. Không ai hiểu tại sao cô cần phải đi t́m như vậy, và ngay chính Mai cũng không hiểu tại sao cô luôn có sự khắc khoải về cội nguồn bên trên cuộc sống thực tại.
Mai ghi danh vào đại học hai lần, đều bỏ cuộc hai lần. Cô rời cha mẹ và lang thang đến sống ở Banff, một thị xă nằm trong tỉnh bang Alberta, gần thành phố Calgary ở miền tây Gia Nă Đại, cách xa nhà hơn 3,000 dặm. Ở đây cô làm quen một chủ tiệm bán thức ăn chay. Cô nhận rửa chén ở tiệm này để trao đổi cho những bữa ăn.
Thế rồi khi mới 20 tuổi, Mai mua một chiếc xe gắn máy và lái chiếc xe hàng ngàn dặm từ miền tây để về nhà ở Fredericton. Mai là một phụ nữ nhỏ nhắn, cao 5 feet 3, nặng 120 pounds. Không ai có thể tưởng tượng cô gái bé nhỏ này lại dám phóng xe máy chạy xuyên suốt đất nước Gia Nă Đại. Cô Anna Silk, bạn thân của Mai, đă năn nỉ Mai hăy ngưng nghỉ, đừng quá bận tâm đến mọi thứ. Anna nói với báo Maclean’s, “Cô ấy quá nhạy cảm với thế giới ở chung quanh, luôn xem trọng mọi sự việc trong cuộc sống. Làm việc ǵ th́ Mai cũng làm hết ḷng, thế nhưng cô cũng rất cực đoan.”
Vào năm 1996, bà Marie đưa con gái nuôi về Việt Nam để t́m một chút quá khứ của Mai. Họ không t́m ra một dấu vết nào. Thế rồi Mai ở lại Việt Nam một năm và sống bằng nghề dạy Anh văn. Rồi cô chán Việt Nam như chưa t́m ra cội nguồn của ḿnh ở đó. Thay v́ về Bắc Mỹ, cô bay qua Bỉ quốc, nhận việc nuôi trẻ ở quốc gia Tây Âu khoảng một năm. Sau đó cô qua Tây Ban Nha và làm người mẫu thời trang.
Đến cuối năm 1998, cô gia nhập một tăng đoàn và xuống tóc để tu ở một thiền viện tại Pháp. Sự việc Mai đi tu đă gây sửng sốt cho mọi người. Không ai có thể đoán trước việc này.
Theo chương tŕnh Babylift cứu trẻ em mồ côi trước đây, cô được tài trợ khoảng $25,000 Mỹ kim. Mai đă lấy món tiền này và chia gần hết cho các bạn của cô. Theo lời kể của những ai từng biết Mai, cô rất vui tính, đi đâu cũng có bạn. Vào năm 1999, cô bay về Fredericton để dự đám cưới của anh Peter Jr.. Trong h́nh chụp chung ở lễ cưới của anh, Mai mặc bộ y màu nâu của của một ni cô và đầu cạo nhẵn tóc. Sau ba năm, Mai rời bỏ cuộc sống g̣ bó ở tu viện Pháp. Thế nhưng cô vẫn tiếp tục cuộc t́m kiếm một ǵ đó ở trong cô, và giữ lại những giáo pháp mà cô đă học được trong ba năm tu hành.
Vào năm 2004, cô định cư ở thành phố Montreal, t́m được một việc làm trong một hăng bán bảo hiểm. Việc này không thật phù hợp với cá tính của Mai. Cô học vơ và rồi lấy được đai đen trước khi trở về với một công việc mà cô thích nhất. Đó là sống với những con chó. Cô tự mở một nghề riêng là nghề dắt chó. Cô xem có vẻ phù hợp với nghề này, hầu như không có một con chó nào mà cô không thể nói chuyện với chúng. Cũng như với người, đi đâu cô cũng có bạn chó. Một trong những người bạn thân nhất của Mai là con chó tên Wiggles. Nó thuộc giống chó Boston terrier, được Mai mang theo bên cạnh mỗi khi cô ra đường.
Ngoài con chó cưng, theo sát bên cạnh Mai là bệnh trầm cảm. Trước mùa Nô En năm 2013, Mai trở về sống với cha mẹ. Cô đă tự tử trong tháng Năm nhưng không thành và được chăm sóc một thời gian trong bệnh viện.
Đến ngày 17 tháng Sáu, Mai nói cha mẹ rằng cô sẽ đến nhà một người bạn và sẽ ở qua đêm. Qua ngày hôm sau cô không về nhà. Ông bà Peter và Marie đă báo cảnh sát, đưa đến một báo động t́m người mất tích. Ông bà nói rằng đây là lần thứ nh́ trong đời họ lên giường ngủ mà không biết Mai c̣n sống hay đă chết. Thế rồi vài ngày sau, hôm 21 tháng Sáu, họ nhận được một cú gọi, và lần này là hung tin. Mai đă không sống sót như trong lần xảy ra tai nạn phi cơ ở Sài G̣n. Cảnh sát t́m thấy xác của Mai trong Odell Park, một công viên rậm cây và rộng 400 mẫu ở thành phố Fredericton. Họ chỉ nói cô đă tự giải quyết mạng sống của ḿnh, không cho thêm chi tiết cô đă quyên sinh như thế nào. Mai chỉ mới 39 tuổi.
Trong điếu văn của nhà quàn, Mai được mô tả là một người rất yêu thương thú vật. Mỗi ngày, dù nắng hay mưa hay tuyết, cô đều dắt những con chó đến đồi Mount Royal, nơi cô chạy và chơi với chúng. Đó là lúc những con chó được chạy tung tăng trong niềm sung sướng, hạnh phúc. Và Mai cũng được hạnh phúc như vậy. Cô dắt chó nhỏ vào buổi sáng, chó lớn vào buổi chiều. Mai và những con chó vui vẻ là h́nh ảnh quen thuộc đối với những ai sống chung quanh đồi Mount Royal ở Montreal.
Mai để lại cha mẹ, anh Peter, chị Amy, em Joe cùng mấy người cháu trong gia đ́nh của các anh chị em. Mai không có chồng con, và cũng không bao giờ muốn lấy chồng. Thay vào khoảng trống đó, đi đâu cô cũng tạo quan hệ tốt với người chung quanh, và với những con chó. Mai cũng để lại con Wiggles cho cha mẹ.
Theo ư nguyện của gia đ́nh, thay v́ mua hoa phúng điếu, những người thương yêu Mai có thể tặng tiền cho Fredericton SPCA, một hội bảo vệ chó mèo và những con thú ở thành phố này.
Câu chuyện của Mai đă làm tôi suy tư mấy ngày. Có lẽ v́ sự t́m kiếm của cô chưa được toại nguyện, và đó cũng là sự đi t́m của biết bao người đang thao thức về ư nghĩa bên trên cuộc sống, dù họ không chọn con đường kết liễu như Mai.
Một lời cầu nguyện cho Mai được siêu thoát, và luôn được hạnh phúc như cô từng có khi chơi đùa với những bạn chó trên ngọn đồi Mount Royal. (pq)
VD