PDA

View Full Version : Nguyễn Cao Kỳ: Thống nhất là mục tiêu lịch sử của mọi người Việt


Hanna
09-02-2014, 19:13
Nguyễn Cao Kỳ là thủ tướng từ 1967 tới 1967 và phó tổng thống Nam Việt Nam từ 1967 tới 1971. Sinh ra ở gần Hà Nội, ông học tại một học viện quân đội Việt Nam vào cuối những năm 40 và sang Paris từ 1951 cho tới 1954 để được đào tạo thành phi công. Sau cuộc đảo chính Diệm năm 1963, ông chỉ huy lực lượng Không quân Nam Việt Nam. Trong thời gian nhậm chức thủ tướng, ông đă phá vỡ lực lượng đối lập của Phật giáo trong đất nước với những biện pháp tàn bạo, chạy sang Hoa Kỳ năm 1975 dưới sự bảo vệ của người Mỹ và ngày nay là doanh nhân ở đó.

http://intermati.com/hanna/2014/09m/02d/90.jpg
Nguyễn Cao Kỳ

Vào cuối cuộc chiến tranh chống Pháp – sau Hiệp định Genève năm 1954 – Việt Nam bị chia ra thành miền Bắc và miền Nam. Nam Việt Nam trở thành một cái ǵ đó giống như tiền đồn của cuộc Chiến tranh Lạnh. Đó không phải là quyết định của nhân dân Việt Nam, đó là một thỏa thuận của các cường quốc.

Chúng tôi gọi miền Bắc là vệ tinh của Nga và họ gọi chúng tôi là bù nh́n của Mỹ. Cả hai đều không đúng: chúng tôi là những người dân tộc chủ nghĩa, là người Việt. Chúng tôi đă và đang là một nước nhỏ và nghèo. Tôi thật đau ḷng khi một vài người vẫn c̣n nghĩ rằng chúng tôi chiến đấu cho Hoa Kỳ hay cho ai đó, nhưng không cho Việt Nam. Ngày nay, đất nước lại thống nhất. Đó là mục tiêu lịch sử của mọi người Việt. Tất nhiên là chúng tôi phải giải quyết nhiều vấn đề; có kẻ thắng và người thua. Và có nhiều điều tàn ác trong ṿng 25 năm vừa qua trong người Việt, nhưng chúng tôi đă đạt tới mục tiêu của chúng tôi – thống nhất đất nước.

Đầu những năm sáu mươi, chính phủ Nam Việt Nam bắt đầu yếu đi. Có những căng thẳng trầm trọng với người theo đạo Hồi và đạo Phật. Vào thời gian này, tôi là sĩ quan cấp dưới, không tham gia hoạt động chính trị. Sau lần giết chết Diệm trong tháng Mười một 1963, Nam Việt Nam bước vào một thời kỳ hết sức không ổn định. Có đảo chính và phản đảo chính, hầu như mỗi ngày, mỗi tuần. Trong ṿng hai năm – từ 1963 tới 1965 – có cho tới bảy hay tám chính phủ quân đội và dân sự khác nhau. Chính phủ cuối cùng trước nhiệm kỳ của tôi là một chính phủ dân sự. Người đứng đầu nhà nước thuộc một đảng khác với thủ tướng. Thế là họ chống nhau và v́ vậy mà cuối cùng không thể cầm quyền.

Vào một đêm nào đó, chúng tôi nhận được một lời yêu cầu từ người đứng đầu nhà nước và thủ tướng, hăy tới t́m họ trong văn pḥng nhà nước. Khi chúng tôi đến đó, họ tuyên bố: “Chúng tôi từ chức và giao quyền lực cho các anh, giới quân đội.” Lúc đầu, chúng tôi cố thuyết phục họ đừng từ chức, v́ sau bao nhiêu đảo chính và phản đảo chính chúng tôi thật sự là đă quá chán ngán chính trị vào thời gian này. Chúng tôi không muốn bị lôi kéo vào việc đó. Chúng tôi cố thuyết phục họ năm, sáu tiếng, nhưng vào khoảng một giờ sáng th́ lời nói không của họ là chắc chắn. Hết sức mệt mỏi, chúng tôi trở về nhà, để rồi lại gặp nhau vào ngày hôm sau – lần này th́ chỉ những người chủ huy quân đội. Chúng tôi phải thành lập một chính phủ mới, để nghị một vài cái tên, nhưng không ai muốn nhận lấy trách nhiệm nặng nề này. Thật là kỳ lạ: trước đó th́ tất cả đều tranh giành lấy chức vụ này, rồi th́ không ai muốn nó. Hai ngày sau đó, người ta đến gặp tôi và đề nghị tôi. Nếu đó là ư muốn của quân đội và nhân dân th́ tôi c̣n phải nói ǵ? Thế là vào ngày hôm sau đó, tôi trở thành thủ tướng trẻ tuổi nhất của toàn cuộc chiến. Tôi chưa từng bao giờ xin vị trí đó, chưa từng bao giờ tranh giành nó, tôi là người lính, phi công lái máy bay chiến đấu. Nhưng là người châu Á th́ tôi tin vào số phận.

http://intermati.com/hanna/2014/09m/02d/91.jpg
Dinh Gia Long trong lúc đảo chánh năm 1963

Sau cuộc họp đó, quân đội mời tôi nhận trách nhiệm lập chính phủ, để b́nh thường hóa t́nh h́nh. Tôi rất hănh diện, rằng tôi đă làm tṛn nhiệm vụ của ḿnh – lo ổn định, phác thảo một hiến pháp mới và tiến hành bầu cử. Sau đó, tôi từ chức, để trở về với quân đội. Nếu như tôi ham muốn quyền lực th́ tôi đă có thể ngồi lại trên ngai vàng của tôi, vào lúc đó, tôi là người có nhiều quyền lực nhất ở Việt Nam. Nhưng tôi ghét chính trị. Người ta không thể là một nhà chính trị thành công khi người ta thật thà.

Vấn đề lớn nhất là toàn bộ sự lộn xộn mà tôi phải tiếp nhận sau hai năm tranh căi nội bộ. Thêm vào đó là xâm lược của miền Bắc. Đó là một việc rất khó khăn, khi chúng tôi phải chống lại quân du kích và thêm vào đó là quân đội chính quy Bắc Việt. Là sai lầm khi nói rằng cuộc Chiến tranh Việt Nam mà một cuộc xung đột chỉ giữa Nam Việt Nam và Việt Cộng hay chỉ giữa Mỹ và Việt Cộng. Đó là một cuộc chiến giữa miền Bắc và miền Nam th́ nhiều hơn.

Thời đó tôi c̣n rất trẻ, mới 35, và không phải là chính trị gia. Tôi không biết ǵ ngoài lái máy bay. Nhưng là thủ tướng th́ tôi luôn cố làm điều tốt nhất cho đất nước tôi. Nhiều người có thể hoàn toàn không biết: đó xuất phát từ sáng kiến của tôi, việc Hoa Kỳ rút quân đội của họ về. Vâng, tôi đề cập tới vấn đề đó với ngài Nixon khi tôi đến thăm ông ấy trong Nhà Trắng. Tôi nói với ông ấy, rằng trước bầu không khí phản chiến trong người dân Mỹ th́ trước sau người ta cũng phải rút các đơn vị ra khỏi Việt Nam. Thế th́ tại sao không ngay từ bây giờ? Nixon dường như nhẹ nhỏm, đồng ư. Nhưng ông ấy c̣n đưa ra vài câu hỏi: “Anh có tin rằng quân đội Nam Việt có thể tiến hành cuộc chiến một ḿnh hay không?” Tôi nói với ông, đă đến lúc phải đối phó với thực tế. Một ngày nào đó thế nào đi nữa th́ ông phải rút lui. Tức là tốt hơn th́ hăy sắp xếp ngay từ bây giờ, để sau này những người lính Nam Việt có khả năng tự khẳng định ḿnh.

Thế là Nixon gọi điện cho bộ trưởng Bộ Quốc pḥng, và vào ngày hôm sau đó họ sắp xếp một cuộc gặp gỡ với tất cả những người có trách nhiệm trong Lầu Năm Góc. Lần đầu tiên chúng tôi nói chính thức về việc rút quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam. Và tôi nhớ rằng tất cả chúng tôi đều thống nhất với nhau rằng đó là con đường đúng đắn duy nhất. Rồi c̣n bàn về cái tên chính thức cho kế hoạch. Họ muốn gọi nó là “phi Mỹ hóa” cuộc chiến. Tôi không đồng ư, v́ điều đó có nghĩa là cho tới bây giờ đó thuần túy là một cuộc chiến của Mỹ. Cuối cùng, chúng tôi thỏa thuận cái tên “Việt Nam hóa”.

Sự hợp tác giữa quân đội Mỹ và các lực lượng Nam Việt Nam tương đối tốt, ví dụ như quan hệ giữa tướng Westmoreland và tổng tư lệnh của người Việt hay cả quan hệ cá nhân của tôi với ông ấy và với tất cả các viên chỉ huy Mỹ. Đó là một quan hệ thân thiện, đầy sự thông hiểu. Tôi tôn trọng họ. Tôi nghĩ mặc dù tôi rất trẻ nhưng cả họ cũng tôn trọng tôi. Đặc biệt là tổng thống Johnson. Tôi nhớ lại một cuộc họp ở Honolulu. Vào buổi tối có tiệc chiêu đăi lớn. Johnson bất chợt bước đến với tôi và nói: “Thiếu tướng, mời ông đi theo tôi!” Hai chúng tôi vào pḥng ngủ của ông. Ở đó, ông ấy giải thích cho tôi. “Tất cả những lời nói đó trước báo chí hay trên hội nghị và hội họp – anh hăy quên nó đi. Tất cả chỉ là một việc giữa anh và tôi. Chúng ta đưa ra một quyết định. Tức là chỉ hai chúng ta thôi!” Đó là một ví dụ cho việc họ thật sự tôn trọng tôi.

Với sự thông hiều ngày nay của tôi về nhân dân Mỹ – tôi sống từ 24 năm nay ở Hoa Kỳ – về hệ thống và về đất nước, tôi nhận ra rằng tôi đă không thật sự hiểu người Mỹ vào thời đó. Khi nh́n lại, tôi nhận ra rằng cả họ cũng không hiểu người Việt. Giá như thời đó mà tôi có được kiến thức của ngày nay th́ các quan hệ của chúng tôi đă có thể được tạo dựng tốt hơn rất nhiều. Tôi đă có thể xin sự trợ giúp, không phải xin chính phủ Hoa Kỳ mà là nhân dân Mỹ.

Năm 1968, tôi từ chức thủ tướng và tổ chức bầu cử. Người ta mời tôi đảm nhận trách nhiệm thêm một lần nữa. Thế là tôi trở thành phó tổng thống trong bốn năm. Sau nhiệm kỳ chính phủ năm 1971, tôi lui ra khỏi chính trường hoàn toàn. Mặc dù tôi vẫn c̣n cấp bậc của một thống chế, tôi sống hoàn toàn ẩn dật như một người nông dân ở nông thôn.

http://intermati.com/hanna/2014/09m/02d/92.jpg

Từ tháng Ba cho tới tháng Sáu 1966 đă xảy ra nhiều cuộc bạo loạn Phạt giáo ở Huế và Đà Nẵng. 180 người chết và hơn 700 người bị thương trong thời gian đó.

Khi quân đội Mỹ rút năm 1973, Nam Việt Nam phải chống chọi một ḿnh với du kích quân và người Bắc Việt. Cùng với lần rút quân, sự hỗ trợ của Hoa Kỳ về kinh tế và quân sự tiến về gần tới con số không. Bắc Việt có sự giúp đỡ của Nga và Trung Quốc. V́ thế mà kết cuộc là không thể tránh khỏi. Nhưng nó đến quá nhanh, quá đột ngột, chỉ trong ṿng 30 ngày – đó là một thảm bại.

Hai tuần trước khi kết thúc, mọi người đều đến gặp tôi, quân đội, chính khách, người Phật giáo, người Công giáo – tất cả. Và họ nói: “Anh là hy vọng cuối cùng của chúng tôi. Xin hăy làm ǵ đó!” Nhưng tất nhiên là tôi đă nhận thấy rằng tất cả đă quá muộn. Đến người Mỹ không cũng muốn chúng tôi ở lại và chiến đấu. Tôi c̣n nhớ tôi đă gặp đại sứ Hoa Kỳ. Tôi hỏi ông, liệu chúng tôi có thể tổ chức quân đội ở vùng châu thổ để tiếp tục chiến đấu với sự giúp đỡ của người Mỹ hay không. Ông ấy nói: “Không. Anh đừng nghĩ về một điều như vậy. Ngày mai chúng tôi sẽ biến đi. Và anh đi cùng với chúng tôi.” Vào buổi sáng ngày 29 tháng Tư 1975 tôi một ḿnh ở trong sở chỉ huy của tổng tư lệnh. Khi tôi cố liên lạc với các chỉ huy dù và thủy quân lục chiến th́ tất cả đều đă bỏ đi rồi. Tôi c̣n ở lại một ḿnh với một chiếc máy bay trực thăng, mười người lính gác và người phục vụ. Vào lúc hai giờ trưa họ nói với tôi: “Thiếu tướng, xin hăy đi đi. Thiếu tướng c̣n làm ǵ được nữa?”

Ngày nay vẫn c̣n có người nghĩ rằng Việt Nam gồm hai nước, miền Bắc và miền Nam. Nhưng chỉ tồn tại một Việt Nam thôi. Người ta phải chấp nhận sự thật, rằng đất nước ngày nay đă thống nhất và tự do. Nhưng hệ thống đó không tốt. Điều mà chúng tôi phải đấu tranh cho nó là một trật tự dân chủ. Chúng tôi cần một sự biến đổi hệ thống, cần những người lănh đạo tốt, suy nghĩ và hành động cho nhân dân, Những người ngày nay chiếm các vị trí lănh đạo ở Việt nam biết vấn đề đó. Họ biết nếu cứ tiếp tục như cho tới nay th́ sẽ không c̣n có chỗ cho họ trong thế kỷ 21. Bầu cử và mở cửa Việt Nam là không thể tránh khỏi.

Nhiều người Việt lưu vong, di cư sang Mỹ, đă nhập tịch. Tôi là người duy nhất vẫn c̣n quốc tịch Việt. Lần nào tôi rời đất nước này th́ tôi đều phải xin phép được tái nhập cảnh. Hải quan và cơ quan di dân hiện giờ đă biết mặt tôi. Và đại sứ của những nước mà tôi xin thị thực đều nói: “Kỳ, hoàn toàn không phải là vấn đề!” Bây giờ tôi đă 70 tuổi, và trong thời gian c̣n lại của tôi, tôi sẽ làm tất cả để Việt Nam có thể sống trong ḥa b́nh và thịnh vượng. Giấc mơ của tôi là trở về, làm nông dân và chơi đánh golf.

Phan Ba trích dịch từ “Apokalypse Vietnam”

tranng20
09-03-2014, 00:04
chết rồi c̣n nói ǵ nữa ?
chết rồi c̣n đăng làm chi ?
chết rồi c̣n đọc làm ǵ ?

nhuquynh_1986
09-03-2014, 09:53
Nguyễn Cao Kỳ: Thống nhất là mục tiêu lịch sử của mọi người Việt

canhchuon
09-03-2014, 14:44
liar king

thangtram
09-03-2014, 16:58
"...Giấc mơ của tôi là trở về, làm nông dân và chơi đánh golf...."

nông dân chơi golf? Ở cung trăng chắc!
Thật là ấu trĩ khi mơ VN là một dưới chế độ CSVN. Độc lập, tự do chỉ là bánh vẽ, thực chất là như thế! Ḥa giải ḥa hợp dân tộc 0 có chỗ đứng trong quá tŕnh tranh đấu cho một VN thanh b́nh!

corumstation
09-06-2014, 13:50
A cockroach who will betray anybody for some greenbacks! The daughter didn't stray too far from the seeds.

ez4me
09-06-2014, 16:26
A cockroach who will betray anybody for some greenbacks! The daughter didn't stray too far from the seeds.

:eek::eek::eek::):):):):hafppy::hafppy::hafppy::ha fppy: