Hanna
11-02-2014, 19:00
Tôi đă đọc đến những trang cuối của Đèn Cù rồi đây. Có một điều tôi chờ đợi, tôi muốn thấy, nhưng không thấy. Lạ hơn, cũng không có, dù chỉ là một tư tưởng nhỏ của sự giải thoá
Bảo Giang –
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=682979&stc=1&d=1414954765
Tôi đă đọc đến những trang cuối của Đèn Cù rồi đây. Có một điều tôi chờ đợi, tôi muốn thấy, nhưng không thấy. Lạ hơn, cũng không có, dù chỉ là một tư tưởng nhỏ của sự giải thoát cho người, cho những lớp voi giấy, ngựa giấy hay chó giấy ra khỏi cái khung sườn của CS. Trái lại, dù là người ở ngoài, thú ở trong, vẫn là một cảnh vừa chạy, vừa đuổi, tít mù theo cái ṿng quay của nó. Nó vẫn quay và làm chết người. Niềm đau là người không lối thoát!
Khi “Đêm giữa ban ngày” và tác giả của nó đă vượt qua cơi chết, đem ra trước công luận những h́nh ảnh, những thân phận người đang phải sống dưới bóng tối, dù bên ngoài trời đă sáng, làm cho nhiều người phát kinh hoàng về một góc độ của cuộc sống thực trong “thiên đường cộng sản”. Khi ấy, dù chẳng nói ra, nhiều người có thêm một dịp được nh́n tận mắt, nghe tận tai câu chuyện, cuộc sống của người ở phía bên kia. Những câu chuyện mà có lẽ cái nhà nước CS ấy, dù rất tinh thông nghề láo lếu, gian trá, vẫn không thể há mồm ong óng lên là cuốn sách do “thế lực thù địch” đặt hàng để viết ra. Tuy thế, tôi vẫn cho đó chỉ là những nét phẩy, nét vẽ đơn điệu của bên thắng thế dành cho bên yếu thế của họ trong quá tŕnh tranh dành quyền lợi cá nhân trên nỗi thống khổ, lao nhọc và đau thương của đồng bào Việt Nam. Nó không hề phản ảnh, hay nói lên được cái gian trá, đểu cáng đến tột cùng mà chế độ ấy, trong đó bao gồm cả bản thân phía bị gọi là thua, yếu thế đă gây ra cho dồng bào của ḿnh. Tôi đâm ra lạnh nhạt, vô cảm, dửng dứng với câu chuyện “đêm giữa ban ngày”.
Tuy thế, tôi vẫn nghĩ rằng, rồi ra sẽ có được những tác phẩm với những đường kẻ rơ nét hơn, sắc bén hơn, trung thực hơn khi soi dọi vào những khuôn mặt mo đă làm nên h́nh thù của một chế độ bệnh họan phía bên kia bờ vĩ tuyến 17, để không phải chỉ ở bên kia vĩ tuyến, nhưng trên toàn cơi Việt Nam đă rơi vào trong tang thương. Ở đó, có đầu rơi, có máu chảy. Có nhiều người chết. Chết bằng nhiều kiểu, cách khác nhau. Người bị giết lén, bị chặt đầu bằng dao mă tấu của HCM. Kẻ bị chết v́ mùa đấu tố. Người chết v́ bom, v́ ḿn của Lê Duẫn trên đường “ gỉải phóng”. Kẻ bị thả trôi sông v́ không theo giặc cộng. Người bị bêu đầu v́ làm việc cho Cộng Ḥa. Đủ kiểu, đủ cách sẽ được phơi bày trên những trang giấy trọng tính nhân văn. Ở đó, những sự thật dẫu là tàn bạo, man rợ đều không thể bị che khuất bởi những làn mây đen, dù tác giả đă viết nó trong một ngày không có nắng. Để nhờ đó, lịch sử được soi sáng và những bạo tàn, gian dối có cơ may đón nhận sự tha thứ từ đồng bào hơn là tiếp tục che giấu để tồn đọng sự hận thù trong ḷng dân tộc. Sự chờ đợi ấy đến nay vẫn chưa có. Tuy nhiên, từ trong bóng đêm đă thấp thoáng một bóng Đèn Cù,
“Người ta không đốt đèn rồi để nó ở dưới gầm giường, nhưng là đặt trên gía cao để soi sáng cho cả nhà” ( Lc, 8,16).
Khi nói đến cái đèn, người ta liên tưởng ngay đến đặc tính của nó là chiếu sáng và đẩy lui đi bóng tối. Nghĩa là, nhờ ánh sáng của đèn người ta nh́n thấy rơ những sự vật đang nằm trong bóng tối. Hơn thế, ánh sáng c̣n tạo ra nguồn lực, sức nóng, nguồn sống cho con người. Mất đi đặc tính chiếu sáng, sức nóng, đèn không c̣n là chính ḿnh. Tuy nhiên, Đèn Cù trong nhân gian Á Châu, Việt Nam ( và có thể do chính tác giả mượn chữ của nó, để diễn nghĩa) không phải là loại đèn dùng để soi sáng, tỏa nhiệt, tạo nguồn động lực sống, xóa tan bóng đêm. Nhưng là loại đèn được thiết tŕ với mục đích giải trí cho đôi mắt, tạo niềm vui nho nhỏ cho người thưởng lăm. Theo đó, ánh sáng, sức nóng từ ngọn đèn sẽ tác dụng tạo ra nguồn động lực làm chuyển động những khung h́nh, trên ấy có những hạng mục voi giấy, ngựa giấy, chó giấy… cùng theo nhau, đuổi nhau chạy ṿng quanh trong lồng đèn, tạo cho người xem một cảm giác là lạ, thích thú. Ánh sáng ấy khi tỏ khi mờ, đôi khi loé lên, chíếu dọi ra bên ngoài qua những h́nh thú nhấp nhô, để khách thưởng lăm nh́n rơ mặt từng h́nh thú voi giấy, ngưạ giấy, chó giấy đang quay tít kia mà bàn tán, chê khen. Phận thú, mặc cho lời bàn tán, nó vẫn tiếp tục quay như điên, như cuồng, chẳng khi ngừng lại cho đến khi đèn hết dầu hoặc đèn bị cháy.
I. Những hạng mục trong Đèn Cù:
Như tôi đă nhắc đến ở trên. Một trong những điều thú vị của Đèn Cù là ánh sáng của nó, dù không tỏ, vẫn làm cho ṿng quay phải quay, vẫn giúp cho người đứng xem, nh́n được vài, ba đường nét nổi bật, cũng như những góc khuất của đoàn thú đang chạy ṿng ṿng trước mặt. Nghĩa là, sau những ṿng quay, chẳng một con thú nào không được điểm đanh với những h́nh dạng, đặc tính riêng của nó. Cũng thế, mời bạn trở lại chuyện cái Đèn Cù Việt Nam, chúng ta nh́n thử xem thế nào?
a. Dàn voi đi đầu: Hồ chí Minh
Gần 80 năm qua, chẳng ai có số liệu chính xác trong tay, nhưng chắc hẳn là không có dưới 5, 7 chục ngàn những bài viết dài ngắn, lớn nhỏ, từ trung ương xuống địa phương, của những người thổi ống đu dủ và của cả những kẻ đă bỏ của chạy lấy người, mang tính lừa gạt cao, đầy t́nh tiết thêu dệt về nhân vật Hồ chí Minh với mục đích lừa người dân thuộc thời 1950-60, thời chủ yếu phát thanh bằng cái loa mồm và dao mă tấu tin thôi. Chứ bây giờ, thời của tin học toàn cầu ai tin cho nổi đó là một lănh tụ anh minh, vĩ đại.. Đă thế, họ c̣n ngoa ngữ Y là một loại cha già kiểu cha già tộc dân…. bán khai nào đó, mà Việt cộng có công lớn khi nhập cảng Y vào Việt Nam! Cùng chủ đích, cũng có hàng chục cuốn sách của các tác giả khác nhau, vẽ vời ra những góc cạnh, h́nh ảnh giả tưởng như “ông thánh”, như “cái đỉnh chói lọi” “ vừa đi đường vừa…” với mục đích “dựa hơi”, thổi ống, kiếm sống, kiếm phần đỉnh chung. Chẳng ai trong số những tác giả này, ở trong nước hay hải ngoại đă nói lên được một vài nét thật, đặc tính, hay những cốt lơi ( tốt, xấu, bần tiện) đă làm nên h́nh ảnh, con người, sự nghiệp và đời sống của Y. Tất cả đều vơ vào, loanh quanh, ngụy biện, tuyên truyền, dối trá với những lư do của lịch sử, thuộc về lịch sử, đă đầu độc dân chúng, đầu độc dư luận, gây ra một sự ngộ nhận lớn trong lịch sử.
Nay sự kiện xem ra đă đổi khác đôi phần. Qua ḍng chữ vắn vỏi: “Cụ Hồ bịt râu đến dự một buổi” ( buổi đấu tố bà Nguyễn thị Năm) trong Đèn Cù ( trang 82) của Trần Đĩnh, người ta đă có thể nh́n hiểu một cách thấu đáo hơn, cặn kẽ hơn và đánh giá đúng hơn về tư cách, về lương tri, về đời sống và về phẩm chất bần tiện, cùng những hành vi tồi bại của HCM, mà chẳng cần phải đọc cả ngàn ngàn trang sách, báo chê khen nào khác nữa. Bởi v́, có cộng chung hàng tấn sách báo mà CS vẽ vời ca tụng Y lại với nhau, cũng không thể bào chữa, khoả lấp, tẩy xóa được cái h́nh ảnh, cái tư cách cực hèn của một chủ tịch nước, chủ tịch đảng cộng sản đă bịt râu che mặt đến dự cuộc đấu tố người ân nhân của đảng, của nước do chính ḿnh lựa chọn về cách đấu và người đấu. Chỉ cần một câu ấy “cụ Hồ bịt râu đến dự một buổi” là quá đủ để vẽ nên trọn h́nh ảnh của một tên hề (hề mới vẽ râu sơn mặt). Là quá đủ để cho hàng ngàn tấn sách báo tâng bốc kia thành rác rưởi, và đủ chứng liệu để lịch sử xếp cho y một chỗ đứng nào đó, bắt buộc phải có trong lịch sử Việt (dẫu muốn quăng nó đi, cũng không quăng đi được!).
Thật vậy, trưóc đây guồng máy tuyên truyền của CS luôn phát đi những điều gian dối, nhiều người, kể cả hàng ngũ cán cộng trung cao cấp cũa cs, cứ tưởng HCM là một lănh tụ, người tổ chức và đứng đầu guồng máy lănh đạo của nhà nước cộng sản tại miền bắc là người tử tế, có tư cách. Nay qua nhiều tài liệu lịch sử đă phơi bày, qua ánh Đèn Cù của Trần Đĩnh, thực tế lại hề qúa hề. HCM chẳng phải là kẻ đă tạo ra cái khung lồng đèn ấy. Trái lại, Y chỉ là hề, kẻ đứng đầu trong các hạng mục voi giấy ngựa giấy, chó giấy chạy ṿng ṿng, quay tít trong cái lồng đèn để làm tṛ vui tai lạ mắt cho những kẻ điều khiển là Liên Sô và Tàu cộng mà thôi! Trần Đĩnh kể:
“Bác xuất ngoại, trong ATêKa chúng tôi rất mực vui. Đâu có biết đại thí sinh Hồ Chí Minh sắp dự cuộc khẩu thí mà nếu trúng tuyển th́ đất nước sẽ đoạn tuyệt hẳn với thế giới. (tr,45) (Tại sao lại đoạn tuyệt với thế giới? Ở đó không phải là tổ chức của loài người chăng?). Sau đó, nghe truyền đạt Stalin đă phân công Trung quốc “phụ trách” Việt Nam,… (tr,49) Lúc ấy chưa nhận hết hàm nghĩa của từ phụ trách. Đúng, thế nào là phụ trách? Là phải ốp sát, kèm chặt ở bên! Đồng chí La có tư cách song trùng: vừa đại sứ cách trở vừa thường xuyên đụng đầu bàn bạc ở cương vị “phụ trách.”(tr.51). Nên biết chính Bác tự nguyện nhận ḿnh chỉ nêu ra được có tác phong, c̣n tư tưởng, lư luận th́ để cho Mao Chủ tịch. Được lănh tụ ráo riết giáo dục, (điều lệ thêm câu “lấy tư tuởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam,” điện đảng gửi Đảng Cộng sản Trung Quốc viết Đảng Lao động Việt Nam nguyện học tập Đảng Cộng Sản Trung Quốc, học tập tư tưởng Mao Trạch Đông, tư tưởng lănh đạo nhân dân Trung Quốc (tr. 49)”
Cuộc voi chạy thê thảm là thế, nhưng ngay sau khi được chuẩn nhận như là chú voi chạy đầu, là HCM hoá…. Cáo! Tác phong đổi hẳn. Trong lần đầu gặp HCM (1957), Trần đúc Thảo đă được dặn ḍ kỹ lưỡng. Thấy lạ, Thảo hơi:
- Nếu không được xưng tôi thì xưng bằng gì?
- Đồng chí có thể xưng bằng “con,” hay bằng “cháu,” và phải gọi Người bằng “bác” như đồng bào vẫn gọi… Những mệnh lệnh này là quan trọng, đồng chí phải ghi nhớ cho kỹ, kẻo làm hỏng cuộc diện kiến với “Người”… (Trần Đức Thảo. Những Lời Trăn(g) Trối, 2014).
Đó là t́nh cảnh trước và sau khi gặp Mao. Trước đó, HCM đă viết thư gởi Stalin, xin được trả 100 đô la Mỹ một tháng để có tiền sống và đi hoạt động. Rồi ngày 31-10-52, Hồ chí Minh viết thư, tŕnh cái đề án gọi là cải cách ruộng đất ở VN với sự giúp đỡ của hai viên cố vấn Tàu để xin Stalin phê chuẩn. HCM đă giữ đúng thứ, bậc trong hạng mục nô lệ, giúp việc cho người. Y đă toại nguyện mộng làm nô lệ được trả công. Chỉ tiếc rằng, Y không lường trước được là cái thư xin 100 đô la một tháng, xin phép ngoại nhân để giết người Việt Nam của Y rồi ra sẽ được phơi bày ra trưóc công luận! Nó trở thành bản án muôn đời cho chính kẻ viết ra nó!
Với bên ngoài th́ HCM khúm núm, qùy gối như thế, nhưng quay vào trong, HCM lại có ngay cho ḿnh hai thái độ là ông chủ nhớn, và kẻ đại bất lương. Ông chủ dựa hơi làm chủ như Trần đức Thảo ghi lại. Bất lương chính là việc viết ”điạ chủ ác ghê” dùng làm cơ sở cho các cuộc đấu tố, đă trực tiếp giết chết 200 ngàn sinh mạng vô tội. Rồi làm bại hoại nền luân lư, đạo đức của xă hội Việt Nam.
Trước đây, cái chết của bà Năm trong ngày Hồ chí Minh khai hội múa dao, gọi là cải cách ruộng đất ở miền bắc đă được nhiều kẻ tung hứng và đưa ra những tin tức thất thiệt, cho là Hồ chí Minh không biết. Hoặc giả, không có ư giết người ( BT, HT), nhưng v́ Lê qúy Ba, một cố vấn và phụ trách mảng Việt Nam của Tàu ra lệnh, nên Hồ chí Minh phải gật đầu. Từ việc loanh quanh biện hộ này đă cho thấy Hồ chí Minh vốn dĩ chỉ là một loại voi giấy chạy đầu, dưới quyền chỉ bảo sai khiến của Lê qúy Ba. Đến nay, những gỉở giáo, bênh đỡ, che đậy ấy đă thực sự bị lột trần ra rồi. Hồ chí Minh không những chỉ là kẻ viết ra bản cáo trạng gian dối, bất lương, ngậm máu độc phun người, có một không hai trong lịch sử để mở đầu cho cuộc đấu tố đầy vong ân bội nghĩa để vui ḷng chủ nhân Tàu. Y c̣n “ bịt râu che mặt đến dự một buổi” trong cuộc đấu tố ấy nữa. Chắc đọc xong 8 chữ này, các ống đu đủ của y cái th́ bể, cái bị x́ hơi, hết cách thổi! Những tấn sách, những tên tuổi vẽ vời về Y tự nhiên cháy đen thui. Bởi lẽ, những hành động của y thể hiện trong việc viết bản cáo trạng “địa chủ ác ghê” đă là một việc làm bất kương không ai có thể tưởng tượng ra, nay lại đích thân đi mở đầu cuộc đấu bằng cách che râu giấu mặt th́ có khác ǵ những quân khủng bố! Hỏi xem, chúng ta phải liệt Y vào hạng mục nào cho xứng? Đó có phải là một tội ác cực lớn đối với con người và tổ quốc Việt Nam không?.
Với con người, nó đă trực tiếp lấy đi sinh mạng của 200 ngàn người và làm cho hàng trăm ngàn gia đ́nh khác phải tan nát. Với Tổ Quốc, nó đă giết chết nền luân lư đạo đức và văn hóa của Việt Nam bằng sách lược của CS, ép thúc con đấu cha, vợ đấu chồng, anh chị em, thân nhâu đấu nhau. Với đồng bào, nó đă phân chia ra thành giai cấp, với khẩu hiệu “Trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ” để triệt hạ t́nh nghĩa đồng bào, tiêu diệt t́nh người trong xóm thôn. Tạo ra một xă hội băng hoại niềm tin. Ở đó, tất cả chỉ c̣n phụ thuộc vào gian trá và nói dôi nhau theo bản cáo trạng của HCM mà sống. Với tôn giáo, nó đă đập phá, hủy hoại niềm tin lành thánh vào thần linh của con người bằng cách tạo ra chiêu bài ” bài trừ mê tín dị đoan” để phá chùa, đập đền thờ, xô đổ đ́nh miếu và đốt nhà thờ. Sau đó, đưa h́nh ảnh và cái đầu lâu của Hồ chí Minh vào đ́nh chùa, miếu đền, nơi tôn nghiêm như là một h́nh thức suy tôn mới để phỉ báng tôn giáo. Với chỉ bấy nhiêu thôi, đất nước Việt Nam đủ tan hoang, và tang thương chưa?
b. Voi giày mả tổ: Trường Chinh Đặng xuân Khu
Trước đây, người Việt Nam đă rơ ngọn nguồn về một tên tuổi lừng danh trong đảng cộng sản. Kẻ này vang danh khét tiếng với những hành động thiếu hẳn nhân tính trong vai tṛ chỉ đạo cuộc đấu tố 1953-1956. Tính công, Y chỉ đứng sau Hồ chí Minh trong việc sát hại gần 200 ngàn người Việt Nam để cướp toàn bộ tài sản của họ. Y là Đặng xuân Khu, thường được biết đến qua tên hiệu Trường Chinh. Trần Đĩnh viết: “Với tôi, anh có thể làm tổng bí thư suốt đời”. Sau cái chết oan ức của 200 ngàn người, và ảnh hưởng quá nghiêm trọng do cuộc đấu tố 53-56 tạo ra, Đặng xuân Khu đă mất chức TBT vào tay Lê Duẫn. Khi đă bị hạ tầng công tác, Khu c̣n được vinh dự mang thêm “huy chương” là kẻ đấu tố bố mẹ đẻ, và là kẻ vong ân, bội nghĩa khi dự phần vào cuộc đấu tố bà Nguyễn thị Năm.
Bảo Giang –
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=682979&stc=1&d=1414954765
Tôi đă đọc đến những trang cuối của Đèn Cù rồi đây. Có một điều tôi chờ đợi, tôi muốn thấy, nhưng không thấy. Lạ hơn, cũng không có, dù chỉ là một tư tưởng nhỏ của sự giải thoát cho người, cho những lớp voi giấy, ngựa giấy hay chó giấy ra khỏi cái khung sườn của CS. Trái lại, dù là người ở ngoài, thú ở trong, vẫn là một cảnh vừa chạy, vừa đuổi, tít mù theo cái ṿng quay của nó. Nó vẫn quay và làm chết người. Niềm đau là người không lối thoát!
Khi “Đêm giữa ban ngày” và tác giả của nó đă vượt qua cơi chết, đem ra trước công luận những h́nh ảnh, những thân phận người đang phải sống dưới bóng tối, dù bên ngoài trời đă sáng, làm cho nhiều người phát kinh hoàng về một góc độ của cuộc sống thực trong “thiên đường cộng sản”. Khi ấy, dù chẳng nói ra, nhiều người có thêm một dịp được nh́n tận mắt, nghe tận tai câu chuyện, cuộc sống của người ở phía bên kia. Những câu chuyện mà có lẽ cái nhà nước CS ấy, dù rất tinh thông nghề láo lếu, gian trá, vẫn không thể há mồm ong óng lên là cuốn sách do “thế lực thù địch” đặt hàng để viết ra. Tuy thế, tôi vẫn cho đó chỉ là những nét phẩy, nét vẽ đơn điệu của bên thắng thế dành cho bên yếu thế của họ trong quá tŕnh tranh dành quyền lợi cá nhân trên nỗi thống khổ, lao nhọc và đau thương của đồng bào Việt Nam. Nó không hề phản ảnh, hay nói lên được cái gian trá, đểu cáng đến tột cùng mà chế độ ấy, trong đó bao gồm cả bản thân phía bị gọi là thua, yếu thế đă gây ra cho dồng bào của ḿnh. Tôi đâm ra lạnh nhạt, vô cảm, dửng dứng với câu chuyện “đêm giữa ban ngày”.
Tuy thế, tôi vẫn nghĩ rằng, rồi ra sẽ có được những tác phẩm với những đường kẻ rơ nét hơn, sắc bén hơn, trung thực hơn khi soi dọi vào những khuôn mặt mo đă làm nên h́nh thù của một chế độ bệnh họan phía bên kia bờ vĩ tuyến 17, để không phải chỉ ở bên kia vĩ tuyến, nhưng trên toàn cơi Việt Nam đă rơi vào trong tang thương. Ở đó, có đầu rơi, có máu chảy. Có nhiều người chết. Chết bằng nhiều kiểu, cách khác nhau. Người bị giết lén, bị chặt đầu bằng dao mă tấu của HCM. Kẻ bị chết v́ mùa đấu tố. Người chết v́ bom, v́ ḿn của Lê Duẫn trên đường “ gỉải phóng”. Kẻ bị thả trôi sông v́ không theo giặc cộng. Người bị bêu đầu v́ làm việc cho Cộng Ḥa. Đủ kiểu, đủ cách sẽ được phơi bày trên những trang giấy trọng tính nhân văn. Ở đó, những sự thật dẫu là tàn bạo, man rợ đều không thể bị che khuất bởi những làn mây đen, dù tác giả đă viết nó trong một ngày không có nắng. Để nhờ đó, lịch sử được soi sáng và những bạo tàn, gian dối có cơ may đón nhận sự tha thứ từ đồng bào hơn là tiếp tục che giấu để tồn đọng sự hận thù trong ḷng dân tộc. Sự chờ đợi ấy đến nay vẫn chưa có. Tuy nhiên, từ trong bóng đêm đă thấp thoáng một bóng Đèn Cù,
“Người ta không đốt đèn rồi để nó ở dưới gầm giường, nhưng là đặt trên gía cao để soi sáng cho cả nhà” ( Lc, 8,16).
Khi nói đến cái đèn, người ta liên tưởng ngay đến đặc tính của nó là chiếu sáng và đẩy lui đi bóng tối. Nghĩa là, nhờ ánh sáng của đèn người ta nh́n thấy rơ những sự vật đang nằm trong bóng tối. Hơn thế, ánh sáng c̣n tạo ra nguồn lực, sức nóng, nguồn sống cho con người. Mất đi đặc tính chiếu sáng, sức nóng, đèn không c̣n là chính ḿnh. Tuy nhiên, Đèn Cù trong nhân gian Á Châu, Việt Nam ( và có thể do chính tác giả mượn chữ của nó, để diễn nghĩa) không phải là loại đèn dùng để soi sáng, tỏa nhiệt, tạo nguồn động lực sống, xóa tan bóng đêm. Nhưng là loại đèn được thiết tŕ với mục đích giải trí cho đôi mắt, tạo niềm vui nho nhỏ cho người thưởng lăm. Theo đó, ánh sáng, sức nóng từ ngọn đèn sẽ tác dụng tạo ra nguồn động lực làm chuyển động những khung h́nh, trên ấy có những hạng mục voi giấy, ngựa giấy, chó giấy… cùng theo nhau, đuổi nhau chạy ṿng quanh trong lồng đèn, tạo cho người xem một cảm giác là lạ, thích thú. Ánh sáng ấy khi tỏ khi mờ, đôi khi loé lên, chíếu dọi ra bên ngoài qua những h́nh thú nhấp nhô, để khách thưởng lăm nh́n rơ mặt từng h́nh thú voi giấy, ngưạ giấy, chó giấy đang quay tít kia mà bàn tán, chê khen. Phận thú, mặc cho lời bàn tán, nó vẫn tiếp tục quay như điên, như cuồng, chẳng khi ngừng lại cho đến khi đèn hết dầu hoặc đèn bị cháy.
I. Những hạng mục trong Đèn Cù:
Như tôi đă nhắc đến ở trên. Một trong những điều thú vị của Đèn Cù là ánh sáng của nó, dù không tỏ, vẫn làm cho ṿng quay phải quay, vẫn giúp cho người đứng xem, nh́n được vài, ba đường nét nổi bật, cũng như những góc khuất của đoàn thú đang chạy ṿng ṿng trước mặt. Nghĩa là, sau những ṿng quay, chẳng một con thú nào không được điểm đanh với những h́nh dạng, đặc tính riêng của nó. Cũng thế, mời bạn trở lại chuyện cái Đèn Cù Việt Nam, chúng ta nh́n thử xem thế nào?
a. Dàn voi đi đầu: Hồ chí Minh
Gần 80 năm qua, chẳng ai có số liệu chính xác trong tay, nhưng chắc hẳn là không có dưới 5, 7 chục ngàn những bài viết dài ngắn, lớn nhỏ, từ trung ương xuống địa phương, của những người thổi ống đu dủ và của cả những kẻ đă bỏ của chạy lấy người, mang tính lừa gạt cao, đầy t́nh tiết thêu dệt về nhân vật Hồ chí Minh với mục đích lừa người dân thuộc thời 1950-60, thời chủ yếu phát thanh bằng cái loa mồm và dao mă tấu tin thôi. Chứ bây giờ, thời của tin học toàn cầu ai tin cho nổi đó là một lănh tụ anh minh, vĩ đại.. Đă thế, họ c̣n ngoa ngữ Y là một loại cha già kiểu cha già tộc dân…. bán khai nào đó, mà Việt cộng có công lớn khi nhập cảng Y vào Việt Nam! Cùng chủ đích, cũng có hàng chục cuốn sách của các tác giả khác nhau, vẽ vời ra những góc cạnh, h́nh ảnh giả tưởng như “ông thánh”, như “cái đỉnh chói lọi” “ vừa đi đường vừa…” với mục đích “dựa hơi”, thổi ống, kiếm sống, kiếm phần đỉnh chung. Chẳng ai trong số những tác giả này, ở trong nước hay hải ngoại đă nói lên được một vài nét thật, đặc tính, hay những cốt lơi ( tốt, xấu, bần tiện) đă làm nên h́nh ảnh, con người, sự nghiệp và đời sống của Y. Tất cả đều vơ vào, loanh quanh, ngụy biện, tuyên truyền, dối trá với những lư do của lịch sử, thuộc về lịch sử, đă đầu độc dân chúng, đầu độc dư luận, gây ra một sự ngộ nhận lớn trong lịch sử.
Nay sự kiện xem ra đă đổi khác đôi phần. Qua ḍng chữ vắn vỏi: “Cụ Hồ bịt râu đến dự một buổi” ( buổi đấu tố bà Nguyễn thị Năm) trong Đèn Cù ( trang 82) của Trần Đĩnh, người ta đă có thể nh́n hiểu một cách thấu đáo hơn, cặn kẽ hơn và đánh giá đúng hơn về tư cách, về lương tri, về đời sống và về phẩm chất bần tiện, cùng những hành vi tồi bại của HCM, mà chẳng cần phải đọc cả ngàn ngàn trang sách, báo chê khen nào khác nữa. Bởi v́, có cộng chung hàng tấn sách báo mà CS vẽ vời ca tụng Y lại với nhau, cũng không thể bào chữa, khoả lấp, tẩy xóa được cái h́nh ảnh, cái tư cách cực hèn của một chủ tịch nước, chủ tịch đảng cộng sản đă bịt râu che mặt đến dự cuộc đấu tố người ân nhân của đảng, của nước do chính ḿnh lựa chọn về cách đấu và người đấu. Chỉ cần một câu ấy “cụ Hồ bịt râu đến dự một buổi” là quá đủ để vẽ nên trọn h́nh ảnh của một tên hề (hề mới vẽ râu sơn mặt). Là quá đủ để cho hàng ngàn tấn sách báo tâng bốc kia thành rác rưởi, và đủ chứng liệu để lịch sử xếp cho y một chỗ đứng nào đó, bắt buộc phải có trong lịch sử Việt (dẫu muốn quăng nó đi, cũng không quăng đi được!).
Thật vậy, trưóc đây guồng máy tuyên truyền của CS luôn phát đi những điều gian dối, nhiều người, kể cả hàng ngũ cán cộng trung cao cấp cũa cs, cứ tưởng HCM là một lănh tụ, người tổ chức và đứng đầu guồng máy lănh đạo của nhà nước cộng sản tại miền bắc là người tử tế, có tư cách. Nay qua nhiều tài liệu lịch sử đă phơi bày, qua ánh Đèn Cù của Trần Đĩnh, thực tế lại hề qúa hề. HCM chẳng phải là kẻ đă tạo ra cái khung lồng đèn ấy. Trái lại, Y chỉ là hề, kẻ đứng đầu trong các hạng mục voi giấy ngựa giấy, chó giấy chạy ṿng ṿng, quay tít trong cái lồng đèn để làm tṛ vui tai lạ mắt cho những kẻ điều khiển là Liên Sô và Tàu cộng mà thôi! Trần Đĩnh kể:
“Bác xuất ngoại, trong ATêKa chúng tôi rất mực vui. Đâu có biết đại thí sinh Hồ Chí Minh sắp dự cuộc khẩu thí mà nếu trúng tuyển th́ đất nước sẽ đoạn tuyệt hẳn với thế giới. (tr,45) (Tại sao lại đoạn tuyệt với thế giới? Ở đó không phải là tổ chức của loài người chăng?). Sau đó, nghe truyền đạt Stalin đă phân công Trung quốc “phụ trách” Việt Nam,… (tr,49) Lúc ấy chưa nhận hết hàm nghĩa của từ phụ trách. Đúng, thế nào là phụ trách? Là phải ốp sát, kèm chặt ở bên! Đồng chí La có tư cách song trùng: vừa đại sứ cách trở vừa thường xuyên đụng đầu bàn bạc ở cương vị “phụ trách.”(tr.51). Nên biết chính Bác tự nguyện nhận ḿnh chỉ nêu ra được có tác phong, c̣n tư tưởng, lư luận th́ để cho Mao Chủ tịch. Được lănh tụ ráo riết giáo dục, (điều lệ thêm câu “lấy tư tuởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam,” điện đảng gửi Đảng Cộng sản Trung Quốc viết Đảng Lao động Việt Nam nguyện học tập Đảng Cộng Sản Trung Quốc, học tập tư tưởng Mao Trạch Đông, tư tưởng lănh đạo nhân dân Trung Quốc (tr. 49)”
Cuộc voi chạy thê thảm là thế, nhưng ngay sau khi được chuẩn nhận như là chú voi chạy đầu, là HCM hoá…. Cáo! Tác phong đổi hẳn. Trong lần đầu gặp HCM (1957), Trần đúc Thảo đă được dặn ḍ kỹ lưỡng. Thấy lạ, Thảo hơi:
- Nếu không được xưng tôi thì xưng bằng gì?
- Đồng chí có thể xưng bằng “con,” hay bằng “cháu,” và phải gọi Người bằng “bác” như đồng bào vẫn gọi… Những mệnh lệnh này là quan trọng, đồng chí phải ghi nhớ cho kỹ, kẻo làm hỏng cuộc diện kiến với “Người”… (Trần Đức Thảo. Những Lời Trăn(g) Trối, 2014).
Đó là t́nh cảnh trước và sau khi gặp Mao. Trước đó, HCM đă viết thư gởi Stalin, xin được trả 100 đô la Mỹ một tháng để có tiền sống và đi hoạt động. Rồi ngày 31-10-52, Hồ chí Minh viết thư, tŕnh cái đề án gọi là cải cách ruộng đất ở VN với sự giúp đỡ của hai viên cố vấn Tàu để xin Stalin phê chuẩn. HCM đă giữ đúng thứ, bậc trong hạng mục nô lệ, giúp việc cho người. Y đă toại nguyện mộng làm nô lệ được trả công. Chỉ tiếc rằng, Y không lường trước được là cái thư xin 100 đô la một tháng, xin phép ngoại nhân để giết người Việt Nam của Y rồi ra sẽ được phơi bày ra trưóc công luận! Nó trở thành bản án muôn đời cho chính kẻ viết ra nó!
Với bên ngoài th́ HCM khúm núm, qùy gối như thế, nhưng quay vào trong, HCM lại có ngay cho ḿnh hai thái độ là ông chủ nhớn, và kẻ đại bất lương. Ông chủ dựa hơi làm chủ như Trần đức Thảo ghi lại. Bất lương chính là việc viết ”điạ chủ ác ghê” dùng làm cơ sở cho các cuộc đấu tố, đă trực tiếp giết chết 200 ngàn sinh mạng vô tội. Rồi làm bại hoại nền luân lư, đạo đức của xă hội Việt Nam.
Trước đây, cái chết của bà Năm trong ngày Hồ chí Minh khai hội múa dao, gọi là cải cách ruộng đất ở miền bắc đă được nhiều kẻ tung hứng và đưa ra những tin tức thất thiệt, cho là Hồ chí Minh không biết. Hoặc giả, không có ư giết người ( BT, HT), nhưng v́ Lê qúy Ba, một cố vấn và phụ trách mảng Việt Nam của Tàu ra lệnh, nên Hồ chí Minh phải gật đầu. Từ việc loanh quanh biện hộ này đă cho thấy Hồ chí Minh vốn dĩ chỉ là một loại voi giấy chạy đầu, dưới quyền chỉ bảo sai khiến của Lê qúy Ba. Đến nay, những gỉở giáo, bênh đỡ, che đậy ấy đă thực sự bị lột trần ra rồi. Hồ chí Minh không những chỉ là kẻ viết ra bản cáo trạng gian dối, bất lương, ngậm máu độc phun người, có một không hai trong lịch sử để mở đầu cho cuộc đấu tố đầy vong ân bội nghĩa để vui ḷng chủ nhân Tàu. Y c̣n “ bịt râu che mặt đến dự một buổi” trong cuộc đấu tố ấy nữa. Chắc đọc xong 8 chữ này, các ống đu đủ của y cái th́ bể, cái bị x́ hơi, hết cách thổi! Những tấn sách, những tên tuổi vẽ vời về Y tự nhiên cháy đen thui. Bởi lẽ, những hành động của y thể hiện trong việc viết bản cáo trạng “địa chủ ác ghê” đă là một việc làm bất kương không ai có thể tưởng tượng ra, nay lại đích thân đi mở đầu cuộc đấu bằng cách che râu giấu mặt th́ có khác ǵ những quân khủng bố! Hỏi xem, chúng ta phải liệt Y vào hạng mục nào cho xứng? Đó có phải là một tội ác cực lớn đối với con người và tổ quốc Việt Nam không?.
Với con người, nó đă trực tiếp lấy đi sinh mạng của 200 ngàn người và làm cho hàng trăm ngàn gia đ́nh khác phải tan nát. Với Tổ Quốc, nó đă giết chết nền luân lư đạo đức và văn hóa của Việt Nam bằng sách lược của CS, ép thúc con đấu cha, vợ đấu chồng, anh chị em, thân nhâu đấu nhau. Với đồng bào, nó đă phân chia ra thành giai cấp, với khẩu hiệu “Trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ” để triệt hạ t́nh nghĩa đồng bào, tiêu diệt t́nh người trong xóm thôn. Tạo ra một xă hội băng hoại niềm tin. Ở đó, tất cả chỉ c̣n phụ thuộc vào gian trá và nói dôi nhau theo bản cáo trạng của HCM mà sống. Với tôn giáo, nó đă đập phá, hủy hoại niềm tin lành thánh vào thần linh của con người bằng cách tạo ra chiêu bài ” bài trừ mê tín dị đoan” để phá chùa, đập đền thờ, xô đổ đ́nh miếu và đốt nhà thờ. Sau đó, đưa h́nh ảnh và cái đầu lâu của Hồ chí Minh vào đ́nh chùa, miếu đền, nơi tôn nghiêm như là một h́nh thức suy tôn mới để phỉ báng tôn giáo. Với chỉ bấy nhiêu thôi, đất nước Việt Nam đủ tan hoang, và tang thương chưa?
b. Voi giày mả tổ: Trường Chinh Đặng xuân Khu
Trước đây, người Việt Nam đă rơ ngọn nguồn về một tên tuổi lừng danh trong đảng cộng sản. Kẻ này vang danh khét tiếng với những hành động thiếu hẳn nhân tính trong vai tṛ chỉ đạo cuộc đấu tố 1953-1956. Tính công, Y chỉ đứng sau Hồ chí Minh trong việc sát hại gần 200 ngàn người Việt Nam để cướp toàn bộ tài sản của họ. Y là Đặng xuân Khu, thường được biết đến qua tên hiệu Trường Chinh. Trần Đĩnh viết: “Với tôi, anh có thể làm tổng bí thư suốt đời”. Sau cái chết oan ức của 200 ngàn người, và ảnh hưởng quá nghiêm trọng do cuộc đấu tố 53-56 tạo ra, Đặng xuân Khu đă mất chức TBT vào tay Lê Duẫn. Khi đă bị hạ tầng công tác, Khu c̣n được vinh dự mang thêm “huy chương” là kẻ đấu tố bố mẹ đẻ, và là kẻ vong ân, bội nghĩa khi dự phần vào cuộc đấu tố bà Nguyễn thị Năm.