Log in

View Full Version : Câu chuyện về TÀU và TA


Hanna
11-03-2014, 19:58
Hồi c̣n học tại Đại học Bắc Kinh, tôi chơi với một anh bạn người Mông Cổ làm nghiên cứu sinh tiến sĩ ngành Lịch sử cùng trường. Một bữa cơm no rượu say, anh bạn này “xúc động” nói : “Đ.M., bọn nó lại dám bảo nhà Nguyên là của chúng nó chứ ! Nhà Nguyên là của người Mông Cổ ! Là của bọn tôi !” (Tiếc rằng anh bạn này mấy năm sau đă tự sát trong kư túc xá). Một bận khác, trên taxi, trong cuộc chuyện tṛ với một bác tài xế già tuổi người Bắc Kinh, bác này cũng ngang nhiên nói, Trung Quốc thời Nguyên có quốc thổ rộng lớn nhất, phía Tây chiếm cả mấy nước như Hungary… Gần đây ở ta chiếu phim Hoàng hậu Ki (기황후) của Hàn Quốc, đại để có một số duyên do, khiến Hàn Quốc hiện nay cũng có quan điểm cho rằng nhà Nguyên là của Hàn Quốc.
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=683420&stc=1&d=1415044725
Trái : Các kiểu tóc thời Măn Thanh tiền kỳ, trung kỳ và hậu kỳ. Phải : Các kiểu mũ thời Minh tiền kỳ, trung kỳ và hậu kỳ.
Tuy nhiên, xét ở góc nh́n khác, có một cách nói lưu hành trong giới có học ở Trung Quốc rằng : “Tống mất không c̣n Trung Quốc, Minh diệt không c̣n Hoa Hạ” (宋 亡之後無中國,明亡之後無華夏 ), bởi trên thực tế, cuộc xâm lăng và tàn sát của quân Nguyên Mông và sau này là Măn Thanh đối với người “Trung Nguyên” đă diễn ra hết sức khủng khiếp. Thời Tống th́ chỉ biết sau khi triều đ́nh bị bức ra ngoài biển hơn một tháng, cuối cùng đương đêm đại thần Lục Tú Phu phải ôm ấu chúa nhảy xuống biển tự tử, kéo theo một loạt các sĩ đại phu tuẫn tiết. Sau một đêm, 10.000 xác quan quân nhà Tống nổi lềnh phềnh trên mặt biển. Mấy trăm năm sau đó, khi Măn Thanh diệt nhà Minh, đă thảm sát khắp nơi, trong đó con số tử vong mà có sử liệu làm chứng th́ phải hơn 800.000 người Dương Châu, 700.000 người Quảng Châu, 500.000 người Gia Định, 100.000 người Triều Châu… đều bị “làm cỏ”. Sự thực là đă có rất nhiều quan – quân – dân người Tống, người Minh chạy sang Hàn Quốc, Nhật Bản và cả Việt Nam khi triều đại của họ diệt vong.
Trong Ngàn năm áo mũ tôi cũng từng chỉ ra rằng, triều đ́nh Việt từng nhiều lần tự xưng là Trung Quốc, Hoa Hạ, đặc biệt vào những khi “Trung Nguyên” bị Mông Thát, Măn Thanh tiêu diệt. Cùng chia sẻ một khối tri thức chung, văn hóa chung từ các sách vở chữ Hán, đến khi Tống – Minh diệt vong, dân “man di” làm chủ Trung Quốc, th́ triều đ́nh Việt tự nhận kế thừa tính chính thống của văn minh Hoa Hạ. Cách gọi Trung Quốc, Hoa Hạ vào thời bấy giờ – khi chưa có khái niệm “dân tộc” (nation) – vốn chỉ sự văn minh, ở trung tâm mà thôi. Điều này đă có nhiều nghiên cứu, không hề mới mẻ ở các nước Trung – Nhật – Hàn – Mỹ. Nhưng ở ta, tôi không nói tới vấn đề thoát Trung ở mặt kinh tế, chính trị ; do có sự đứt găy về tư tưởng văn hóa diễn ra vào nửa đầu thế kỷ XX, giờ lại cộng thêm sự “phẫn khích” trong việc bài Hoa (Sinophobia), “vô tri” đối với lịch sử, thành thử cứ thấy cái ǵ giống phương Bắc là lập tức quy về một khái niệm chung là TÀU. Hễ TÀU là bị ghét, trong khi thực tế th́ Tàu có dăm bảy đường Tàu, Việt cũng đâu chỉ có một Việt ?
Chỉ cần nói 2000 năm giở lại đây thôi : Giữa Tàu Hán, Tàu Đường, Tàu Tống, Tàu Nguyên, Tàu Minh, Tàu Thanh, Tàu Cộng – bối cảnh xă hội khác nhau, văn hóa khác nhau, trang phục khác nhau, tiếng nói khác nhau. Văn hóa vùng miền ở Trung Quốc cũng rất phức tạp, ở Việt Nam t́nh h́nh cũng chẳng khác. Liệu có bao nhiêu sự tương đồng giữa Việt Đông Sơn so với Việt Lư Trần, Việt Lê, Việt Nguyễn và giờ là Việt Cộng ? Thế nhưng, nền giáo dục, tuyên truyền ở Ta và Tàu hiện nay lại luôn nhấn mạnh, đề cao khái niệm một dân tộc Việt, một dân tộc Hán. Có rất, rất, rất nhiều bạn Tàu phẫn nộ và “chém” tôi đến cùng khi năm 2009 tôi phát biểu trong mạng Renren rằng, Hán cũng tạp chủng chứ không phải là một tộc người thuần nhất.
Về mặt ngôn ngữ, từ “dân tộc” do người Nhật tạo ra khi dịch các khái niệm của Tây phương, du nhập vào ta qua sách vở Trung Quốc cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Về mặt nội hàm tư tưởng, xét từ những tư liệu hiện có có thể nhận thấy rằng, trước thế kỷ XIX th́ tư duy về sự độc lập quốc gia là có, nhưng tư duy về chủng tộc – dân tộc th́ không. Cho nên trong hơn ngàn năm, vua quan Việt mới tự nhận là Hoa Hạ, là Trung Quốc, rồi sau này là Hán, đều xét ở góc độ văn minh – văn hóa. Đến khi khái niệm, nội hàm “dân tộc” du nhập theo tư trào Tây phương, các trí thức Việt lúc này đă suy ngẫm và biện luận rằng Việt cũng là Hán tộc. Việt sử yếu (越史要) của Hoàng Cao Khải và rồi đến Nam Phong tạp chí do Phạm Quỳnh chủ biên đều là những bài viết đầu tiên đề cập tới vấn đề này. Và thoạt kỳ thủy, các cụ ấy đều nghĩ rằng “Dân tộc Nam ta là Hán tộc không c̣n nghi ngờ ǵ nữa” (Hoàng Cao Khải), hay “nhân chủng nước Nam ta đồng hóa thành Hán tộc không c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Ôi đường đường Hán tộc diệt Xi Vưu, xua Tam Miêu, đuổi Kinh Man, dần dần phát đạt, ban đầu từ Hoàng Hà, sau đó xuống sông Dương Tử, rồi sau đó xuống phía Tây Giang rồi đến đất này, có tính chất văn minh, có năng lực cạnh tranh, có thể thu Chiêm Thành, chiếm Chân Lạp, dẹp man mọi, chinh phục tất cả giống người cũ mà nghiễm nhiên trở thành chủ vùng đất này !” (Nam Phong tạp chí). Thời hai chí sĩ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, nhắc đến Tàu và Nhật vẫn c̣n cho rằng họ với ta ”đồng văn đồng chủng”. Rơ ràng đă có một sự biến chuyển rất lớn giữa quan niệm của trí thức Việt đầu thế kỷ XX và trí thức Việt hiện nay về khái niệm “dân tộc”. Song giờ đây, bằng nhiều chứng cứ th́ ta hiểu rằng vấn đề không đơn giản như vậy, đó chỉ là sự tư biện chất phác một thời mà thôi. Song cái sự chất phác ấy lại thể hiện tính sơ khai của cái gọi là “tinh thần dân tộc”. Càng về sau, khái niệm “dân tộc” ngày càng được diễn giải khác đi, rồi bị lợi dụng, cổ súy, dần trở thành một thứ tư tưởng dân tộc hẹp ḥi, cực đoan, không được xây dựng trên nền tảng tri thức.
Tóm lại, Hán hay Việt tất cả chỉ là vỏ khái niệm. Không nên suy nghĩ đơn giản rằng, v́ có một khái niệm nên có một nội hàm đơn nhất. Người Ấn Độ chuộng tư duy siêu h́nh nên khi bàn về TRÍ TUỆ họ phân biệt rạch ṛi các tŕnh độ giác ngộ mà định ra nhiều danh xưng khác nhau ; cũng như người Việt phân biệt được đủ các loại cá mú tôm tép : chim, thu, nụ, đé, trê, trắm, quả, chép… Sự phân biệt rạch ṛi đối với các khái niệm, sự vật, hiện tượng thể hiện sự phát triển về tri thức, sự hiểu biết của con người. Mọi sự nhập nhằng, quy chụp vào một khái niệm chung chung, đơn nhất th́ sẽ c̣n cách xa lắm mới đến được con đường văn minh.
Trần Quang Đức