PDA

View Full Version : Các tính cách dân tộc, góp phần làm quốc gia chậm tiến


Hanna
11-14-2014, 19:57
Hiện nay Việt Nam ta đang t́m câu giải đáp cho các câu hỏi lớn cho sự phát triển đất nước, trong đó câu hỏi lớn nhất và là gốc của các câu hỏi khác là:
Tổ chức quốc gia theo phương cách Dân chủ Pháp trị với Tam Quyền Phân Lập hay theo phương cách Độc tài Đảng trị và Toàn Trị?
Đây là vấn đề đă được nhiều quốc gia giàu mạnh trên thế giới giải quyết bằng các giải pháp căn bản và thuyết phục, tại sao Việt Nam ta vẫn c̣n lay hoay trong ṿng chậm tiến (và thậm chí, lệ thuộc)?
Trong 150 năm từ khi Pháp tiến công Việt Nam cho tới nay, đă có 3 thời cơ lớn mà nếu biết tận dụng, Việt Nam đă là một quốc gia tiến bộ, giàu mạnh. Nh́n lại các phản ứng của dân tộc Việt Nam đối với các thời cơ đó, tôi cho rằng một trong vài lí do xuyên suốt của sự chậm tiến của Việt Nam là tính cách của dân tộc chúng ta.
Mục tiêu của bài viết này là tŕnh bày:
Các tính cách của dân tộc góp phần làm quốc gia chậm tiến.
Từ đó, tŕnh bày một số suy nghĩ.
Bài viết gồm 3 phần:


VIỆT NAM, MỘT QUỐC GIA ĐÔNG Á, VỚI BA THỜI CƠ PHÁT TRIỂN
TỪ CÁC PHẢN ỨNG CỦA CHÍNH QUYỀN VỚI BA THỜI CƠ NÊU TRÊN, NHẬN XÉT VỀ CÁC TÍNH CÁCH CỦA VIỆT NAM
MỘT SỐ SUY NGHĨ


VIỆT NAM, MỘT QUỐC GIA ĐÔNG Á, VỚI BA THỜI CƠ PHÁT TRIỂN
Việt Nam là một quốc gia trong khối Đông Á gồm 4 quốc gia: Trung Quốc, Nhật, Đại Hàn, Việt Nam.
Trong lịch sử hàng ngàn năm của khối này, 4 quốc gia trên đă phát triển trong một môi trường văn hóa chung lấy trung tâm là văn hóa Hán: Hán tự là phương tiện truyền bá văn minh; Phật giáo và Lăo giáo là triết thuyết tôn giáo chánh; giáo điều Khổng Mạnh là nền tảng xây dựng xă hội. Khối Đông Á có một nền văn minh rực rỡ từ rất sớm, tuy nhiên do hàng ngàn năm bị ràng buộc bởi chính nền văn minh này mà trở thành tŕ trệ, nghĩa là thay đổi chậm theo thời gian. Nếu so sánh xă hội thời Tùy-Đường với xă hội cuối thời Minh, ta thấy sự thay đổi là rất ít so với khoảng đường gần một ngàn năm.
Trong khi đó, lịch sử Tây phương chỉ rơ, từ thời Trung Cổ sang thời Phục Hưng, sự thay đổi xă hội rất nhanh chóng. Từ khi cuộc Cách Mạng Khoa Học Kỹ Thuật lần thứ nhất xảy ra, tốc độ thay đổi càng nhanh bội phần.
Vào giữa thế kỷ 19, các quốc gia Tây phương với nền khoa học kỹ thuật phát triển vượt bậc so với phần c̣n lại của thế giới, bắt đầu tiến công các quốc gia Đông Á. Trước đó, Nhật Bản và Việt Nam là 2 quốc gia có tŕnh độ phát triển và kích thước quốc gia tương đương nhau. Từ sau cuộc tiến công của phương Tây, mức độ phát triển của 2 nước khác nhau hẳn: Nhật Bản ngày càng tiến triển, 40 năm sau đó, vào cuối thế kỉ 19, trở thành một trong vài quốc gia giàu mạnh nhất thế giới, c̣n Việt Nam trong 150 năm sau đó, cho tới bây giờ, vẫn là một trong những quốc gia chậm tiến.
Nếu kể từ thời đó cho tới nay, đă có 3 thời cơ lịch sử rất lớn để cho các nước Đông Á phát triển.

Thời cơ thứ nhất – Giữa thế kỉ 19: Khi nền văn minh cổ truyền Đông Á va chạm mạnh với văn minh Tây phương. Thời cơ này đưa đến cho các nước Đông Á cơ hội học lấy cái hay của nền văn minh phương Tây (khoa học kỹ thuật tối tân, phương pháp luận khoa học duy lư và chính xác) đồng thời bảo vệ được các giá trị truyền thống chính của dân tộc. Trước thời cơ này, Việt Nam ta đă làm ǵ?


Năm 1953, hạm đội Mỹ tiến vào vịnh Edo uy hiếp Nhật Bản. Nước Nhật ư thức được sự thua kém kỹ thuật của ḿnh trước phương Tây nên mở cửa đất nước để canh tân, chịu khiêm tốn học cái hay của phương Tây. Nhật chủ động mở rộng quan hệ với các cường quốc Tây phương lúc đó như Hoa Kỳ, Hà Lan, Anh, Đức… Sự chủ động ngoại giao này tạo cho Nhật vị thế một quốc gia đường hoàng độc lập, tạo một thế đứng quân b́nh giữa các cường quốc, trao cho Nhật thời gian quí báu để canh tân. Trong công cuộc duy tân, nước Nhật đoàn kết sau lưng vua Minh Trị. Sau 30 năm canh tân, Nhật đă trở thành một quốc gia hùng cường. Nhật chính thức là một thành viên của được nể trọng của “Bát Cường” với chiến thắng dễ dàng và triệt để hạm đội Trung Quốc. Mười năm tiếp theo họ đánh bại hạm đội hùng mạnh của Nga.
Gần như cùng thời đại, năm 1958, Pháp nổ súng vào hải cảng Đà Nẳng uy hiếp Việt Nam. Từ đó cho tới ḥa ước Patenôtre (1883) đặt nền cai trị của Pháp lên Việt Nam, trong 25 năm đó, khi Nhật hùng mạnh lên hàng năm th́ Việt Nam đă làm ǵ để canh tân? Tiếng nói canh tân bị bỏ qua, chính quyền –lúc đó là triều đ́nh Huế- không để dân chúng bàn việc nước, kiên quyết bám giữ chế độ cai trị lỗi thời để bảo vệ ngai vàng, không dám liên lạc với các đối thủ cạnh tranh của Pháp như Anh, Đức… chỉ lo thần phục Trung Quốc, cầu cứu một nước Trung Quốc có cùng chế độ cai trị lạc hậu. Kết cuộc là mất nước. Khi Nhật đánh bại Nga vào đầu thế kỉ 20, Việt Nam đang ch́m trong “đêm dài nô lệ”.


Thời cơ thứ hai – Trước và sau thế chiến 2: Khi các cường quốc Tây phương xung đột nhau mănh liệt, nước Đức đánh bại nước Pháp. Ở mức độ toàn cầu, xung đột hai khối Tự Do và Cộng Sản dần dần trở trở thành xung đột chánh. Sau thế chiến thứ 2, khối Cộng Sản là một lực lượng hùng mạnh chia đôi thế giới với khối Tự Do. Xung đột này cộng hưởng với việc bại trận của nước Pháp là thời cơ cực ḱ lớn cho nước Việt Nam giành độc lập và phát triển nhanh. Trước thời cơ này, Việt Nam ta đă làm ǵ?


Năm 1945: ngày 11/3/1945 vua Bảo Đại ra Tuyên Cáo Việt Nam Độc Lập. Ngày 7/4/1945 chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập. Khi Nhật đầu hàng và Pháp chưa trở lại, thay v́ đoàn kết ủng hộ chính phủ đă tuyên bố Việt Nam độc lập để bảo vệ nền độc lập c̣n non trẻ, lại có việc “cướp chính quyền”. Chính quyền được cướp này, khi Pháp quay trở lại, thay v́ khéo léo dùng các biện pháp chính trị và ngoại giao để tận dụng thời cơ mâu thuẫn của hai khối Tự Do – Cộng Sản mà củng cố nền độc lập non nớt mới giành được, lại tiến hành một cuộc chiến tranh bằng bất cứ phương tiện ǵ “có súng dùng súng, có dao dùng dao”. Để chiến thắng, chính quyền kháng chiến lại cầu viện Trung Quốc, một nước đông dân nhưng chậm tiến và luôn có ư định thôn tính Việt Nam.
Thắng trận Điện Biên Phủ sau 9 năm kháng chiến khốc liệt, Việt Nam bị chia đôi với miền Bắc theo chế độ Cộng Sản, miền Nam theo chế độ Tự Do. Thay v́ để hai miền cùng tồn tại ḥa b́nh và phát triển kinh tế, phát triển đất nước giàu mạnh bền vững, chính phủ miền Bắc lại phát động cuộc chiến xâm lấn miền Nam với chiêu bài “Giải Phóng miền Nam khỏi bị nô dịch và bốc lột bởi chế độ thực dân mới của Mỹ và tay sai là chính quyền Ngụy (chính quyền miền Nam)”, dù rằng trong thực tế dân chúng miền Nam đang hưởng cuộc sống tự do và sung túc nhiều lần hơn so với dân chúng miền Bắc. Cuộc chiến lần này tàn khốc gấp nhiều lần cuộc chiến trước đó và kéo dài 20 năm! Miền Bắc kiên quyết “giải phóng miền Nam” cho dù có phải “đốt cháy cả dăy Trường Sơn”. Nghĩa là một nhóm người Việt phải thắng, phải thống trị tất cả các nhóm người Việt khác cho dù đốt cháy cả nước Việt Nam! Cuối cùng chính quyền Cộng Sản cũng thống trị đất nước, với 5 triệu tuổi thanh xuân của dân tộc bị đốt cháy trong ḷ lửa chiến tranh.
Sau khi thống trị toàn bộ đất nước, dù nguyên khí dân tộc bị tiêu hao trầm trọng, chính quyền Cộng Sản, thay v́ “khoan sức dân” để lo phát triển kinh tế, lại lấy đấu tranh giai cấp để khẳng định sự thống trị của ḿnh. Tầng lớp ưu tú nhất của miền Nam lớp bị tịch thu tài sản đày đi các vùng kinh tế mới, lớp bị đuổi khỏi đất nước trở thành thuyền nhân. Một phần quan trọng của nguyên khí quốc gia c̣n sót lại cũng bị tàn phá.

Nam Hàn đă biết tận dụng thời cơ này vươn lên thành nên kinh tế hùng mạnh, cạnh tranh ngang tay với Nhật Bản. Trung Quốc cũng biết tận dụng cơ hội này để trở thành công xưởng và nền kinh tế lớn thứ hai của thế giới.
Thời cơ thứ ba – Từ khi Liên Xô và khối Đông Âu từ bỏ chủ nghĩa Cộng Sản cho tới nay: Đặc trưng của thời kỳ này là xung đột trên thế giới chuyển từ xung đột khối Tự Do với khối Cộng Sản thành xung đột Tây Âu-Mỹ với Trung Quốc. Xung đột này từ bị che giấu trong thập niên 1990 tới rơ rệt trong thập niên 2010 với việc Trung Quốc triển khai kế hoạch độc chiếm biển Đông. Đây là thời cơ để Việt nam thoát ra khỏi hệ ư thức hệ Cộng Sản để bước vào thế giới thế giới Tự Do, nghĩa là thoát cảm tính bước vào duy lư, thoát kiềm hăm bước vào khai phóng… để từ đó thoát yếu nghèo bước vào mạnh giàu. Trước thời cơ này Việt Nam ta đă làm ǵ?
Trong khi các nước Đông Âu bừng tỉnh và nương thời cơ cùng nhau rũ bỏ chủ nghĩa Cộng Sản chuyển sang tổ chức quốc gia theo hệ thống Tự Do-Dân Chủ, các yếu nhân của đảng Cộng Sản Việt Nam t́m mọi cách bảo vệ hệ thống Cộng Sản Quốc Tế lỗi thời và rệu ră, và khi hệ thống Cộng Sản Quốc Tế sụp đổ th́ họ vội vă dắt nhau qua thần phục Trung Quốc, mới hôm qua là kẻ thù hung hăn chiếm đất, giết dân Việt. Mục đích chuyến đi nhằm t́m sự bảo hộ của đảng Cộng Sản Trung Quốc để duy tŕ sự tồn tại của đảng Cộng Sản Việt Nam. Kết quả: Việt Nam trở thành nước cô độc trên thế giới (dù đă thiết lập mối bang giao cùng khắp), là một trong vài nước Cộng Sản c̣n sót lại trên thế giới. Việt Nam vẫn duy tŕ chế độ độc tài, toàn trị ngược chiều tiến hóa của các nền chính trị tiến bộ văn minh. Tổ quốc ngày càng bí lối phát triển và mất thêm chủ quyền, lănh thổ vào tay Trung Quốc, càng lệ thuộc Trung Quốc bất chấp nguyện vọng của đa số dân chúng…
Cho tới nay, Việt Nam lại bỏ lỡ một cơ hội phát triển cực ḱ lớn lớn nữa cho đất nước.
Tuy nhiên, thời cơ thứ ba này, đối với Việt nam, chưa chấm dứt, mà c̣n được nối dài bởi thái độ hung hăn lấn đất, chiếm đảo của Trung Quốc. Tham vọng này của họ đe dọa đường vận chuyển quan trọng của thế giới, đo đó thế giới đứng sau lưng Việt Nam trong việc đối phó với Trung Quốc. Mỹ, Nhật, Ấn Độ, Úc, châu Âu biểu hiện rơ rệt thái độ hợp tác và ưu đăi giành cho Việt Nam.
Từ thời cơ này, thế giới đang mong chờ Việt Nam văn minh và giàu mạnh. Dân chúng trong nước đang mong chờ các thay đổi của đất nước theo hướng đi lên. Áp lực của mong chờ từ thế giới và của khát vọng dân chúng không hề nhỏ. Chính quyền Việt Nam sẽ hành động ra sao?
Trần Quí Cao