Hanna
11-18-2014, 09:01
Trong t́nh h́nh căng thẳng ở Biển Đông hiện nay, các bên liên quan cần nỗ lực kiềm chế, không thực hiện các chính sách đơn phương làm thay đổi nguyên trạng tại Biển Đông, các học giả nhận định.
<table class="picture" cellpadding="0" cellspacing="0"><tbody><tr><td class="pic">http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=690846&stc=1&d=1416301271
</td></tr><tr><td class="caption">Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông lần thứ 6 tại Đà Nẵng.
</td></tr></tbody></table>Tham vọng hướng biển của Trung Quốc
Sáng 18/11, Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông lần thứ 6 do Hội luật gia Việt Nam, Học viện Ngoại giao, Quỹ Hỗ trợ Nghiên cứu Biển Đông phối hợp tổ chức tiếp tục ngày làm việc thứ hai.
Trong buổi làm việc, các học giả cho rằng với tầm quan trọng chiến lược, Biển Đông đă trở thành không gian cạnh tranh chiến lược gián tiếp giữa các cường quốc; làm phức tạp các nỗ lực đàm phán t́m ra giải pháp cho tranh chấp ở Biển Đông. Trung Quốc có tham vọng nâng tầm năng lực biển và sức mạnh hải quân của ḿnh, để cho thế giới thấy những biểu hiện hữu h́nh của một siêu cường.
Tham vọng hướng biển của Trung Quốc có thể nh́n thấy tại những vùng biển phía Đông của Trung Quốc (Hoa Đông) và Biển Đông, nơi những nỗ lực của Trung Quốc thúc đẩy những yêu sách của ḿnh ngày càng trở nên quyết liệt trong những năm gần đây.
Một số học giả c̣n lo ngại rằng, chính tham vọng trở thành cường quốc biển đă khiến Trung Quốc có quan niệm mới về cấu trúc An ninh khu vực châu Á; bức tranh địa chính trị châu Á trở nên phức tạp thêm với sự cạnh tranh giữa các nước lớn trong khu vực ngày càng trở nên gay gắt, làm vấn đề Biển Đông càng trở nên phức tạp và khó giải quyết.
Giải pháp cho vấn đề Biển Đông
Các học giả cho rằng xây dựng một trật tự pháp quy dựa trên luật pháp quốc tế ở Biển Đông là một cam kết, can dự dài hạn, đ̣i hỏi các giải pháp sáng tạo của tất cả các bên liên quan trong và ngoài khu vực, có lợi ích chung trong việc duy tŕ ḥa b́nh, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải, hàng không.
Nhiều học giả đă nêu đề xuất giảm thiểu căng thẳng bằng cách thành lập những cơ chế quản lư khủng hoảng trên biển mới và khuyến khích tất cả các bên liên quan có thái độ hợp tác linh hoạt, t́m những cách áp dụng và giải thích luật pháp quốc tế phù hợp, được công nhận rộng răi để giải quyết các tranh chấp, bất đồng trên Biển Đông.
Trong bối cảnh tranh chấp giữa các nước trong khu vực liên quan đến việc giải thích và áp dụng luật pháp quốc tế, các học giả đă tập trung phân tích chế độ pháp lư đối với các thực thể trên biển, các vùng biển, đặc biệt là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, khu vực nhận diện pḥng không tại các khu vực chồng lấn; kinh nghiệm áp dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp biển trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982.
Các học giả đă phân tích quá tŕnh h́nh thành quy định về Vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lư, theo đó các quốc gia ven biển có thẩm quyền đặc biệt để phát triển và quản lư quy chế bảo tồn các nguồn tài nguyên trong Vùng đặc quyền kinh tế của ḿnh. Trên cơ sở các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lư là có cơ sở pháp lư vững chắc theo luật pháp quốc tế.
Các học giả đặc biệt nhấn mạnh rằng trong t́nh h́nh căng thẳng hiện nay, các bên liên quan cần nỗ lực kiềm chế, không thực hiện các chính sách đơn phương làm thay đổi nguyên trạng tại Biển Đông.
Các hoạt động xây dựng, bồi đắp đảo nhân tạo với quy mô lớn, với triển vọng biến các băi ngầm, đảo đá thành các căn cứ quân sự trong khu vực tranh chấp tại Biển Đông, hoặc thành lập vùng nhận dạng pḥng không để khẳng định yêu sách của ḿnh, không chỉ trái với luật pháp quốc tế hiện hành mà c̣n làm gia tăng nghi kỵ khiến t́nh h́nh thêm phức tạp, thậm chí có thể dẫn đến xung đột.
Theo các học giả, giải pháp thực tế và phù hợp nhất hiện nay là các bên cùng xây dựng các quy tắc ứng xử để bảo đảm hành động của ḿnh phù hợp với thực tiễn luật pháp quốc tế và không làm gia tăng va chạm, tranh chấp tại Biển Đông.
vnn
<table class="picture" cellpadding="0" cellspacing="0"><tbody><tr><td class="pic">http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=690846&stc=1&d=1416301271
</td></tr><tr><td class="caption">Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông lần thứ 6 tại Đà Nẵng.
</td></tr></tbody></table>Tham vọng hướng biển của Trung Quốc
Sáng 18/11, Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông lần thứ 6 do Hội luật gia Việt Nam, Học viện Ngoại giao, Quỹ Hỗ trợ Nghiên cứu Biển Đông phối hợp tổ chức tiếp tục ngày làm việc thứ hai.
Trong buổi làm việc, các học giả cho rằng với tầm quan trọng chiến lược, Biển Đông đă trở thành không gian cạnh tranh chiến lược gián tiếp giữa các cường quốc; làm phức tạp các nỗ lực đàm phán t́m ra giải pháp cho tranh chấp ở Biển Đông. Trung Quốc có tham vọng nâng tầm năng lực biển và sức mạnh hải quân của ḿnh, để cho thế giới thấy những biểu hiện hữu h́nh của một siêu cường.
Tham vọng hướng biển của Trung Quốc có thể nh́n thấy tại những vùng biển phía Đông của Trung Quốc (Hoa Đông) và Biển Đông, nơi những nỗ lực của Trung Quốc thúc đẩy những yêu sách của ḿnh ngày càng trở nên quyết liệt trong những năm gần đây.
Một số học giả c̣n lo ngại rằng, chính tham vọng trở thành cường quốc biển đă khiến Trung Quốc có quan niệm mới về cấu trúc An ninh khu vực châu Á; bức tranh địa chính trị châu Á trở nên phức tạp thêm với sự cạnh tranh giữa các nước lớn trong khu vực ngày càng trở nên gay gắt, làm vấn đề Biển Đông càng trở nên phức tạp và khó giải quyết.
Giải pháp cho vấn đề Biển Đông
Các học giả cho rằng xây dựng một trật tự pháp quy dựa trên luật pháp quốc tế ở Biển Đông là một cam kết, can dự dài hạn, đ̣i hỏi các giải pháp sáng tạo của tất cả các bên liên quan trong và ngoài khu vực, có lợi ích chung trong việc duy tŕ ḥa b́nh, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải, hàng không.
Nhiều học giả đă nêu đề xuất giảm thiểu căng thẳng bằng cách thành lập những cơ chế quản lư khủng hoảng trên biển mới và khuyến khích tất cả các bên liên quan có thái độ hợp tác linh hoạt, t́m những cách áp dụng và giải thích luật pháp quốc tế phù hợp, được công nhận rộng răi để giải quyết các tranh chấp, bất đồng trên Biển Đông.
Trong bối cảnh tranh chấp giữa các nước trong khu vực liên quan đến việc giải thích và áp dụng luật pháp quốc tế, các học giả đă tập trung phân tích chế độ pháp lư đối với các thực thể trên biển, các vùng biển, đặc biệt là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, khu vực nhận diện pḥng không tại các khu vực chồng lấn; kinh nghiệm áp dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp biển trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982.
Các học giả đă phân tích quá tŕnh h́nh thành quy định về Vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lư, theo đó các quốc gia ven biển có thẩm quyền đặc biệt để phát triển và quản lư quy chế bảo tồn các nguồn tài nguyên trong Vùng đặc quyền kinh tế của ḿnh. Trên cơ sở các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lư là có cơ sở pháp lư vững chắc theo luật pháp quốc tế.
Các học giả đặc biệt nhấn mạnh rằng trong t́nh h́nh căng thẳng hiện nay, các bên liên quan cần nỗ lực kiềm chế, không thực hiện các chính sách đơn phương làm thay đổi nguyên trạng tại Biển Đông.
Các hoạt động xây dựng, bồi đắp đảo nhân tạo với quy mô lớn, với triển vọng biến các băi ngầm, đảo đá thành các căn cứ quân sự trong khu vực tranh chấp tại Biển Đông, hoặc thành lập vùng nhận dạng pḥng không để khẳng định yêu sách của ḿnh, không chỉ trái với luật pháp quốc tế hiện hành mà c̣n làm gia tăng nghi kỵ khiến t́nh h́nh thêm phức tạp, thậm chí có thể dẫn đến xung đột.
Theo các học giả, giải pháp thực tế và phù hợp nhất hiện nay là các bên cùng xây dựng các quy tắc ứng xử để bảo đảm hành động của ḿnh phù hợp với thực tiễn luật pháp quốc tế và không làm gia tăng va chạm, tranh chấp tại Biển Đông.
vnn