Hanna
11-21-2014, 21:00
Tranh chấp về lănh thổ giữa hai bên VN và Kampuchia, nếu xét trên phương diện những yêu sách khác nhau của người Khmer hiện nay về lănh thổ th́ ta thấy các học giả Khmer nghiêng về lịch sử. Mà nói về lịch sử th́ có thể nói là tranh chấp hai bên đă xảy ra từ rất lâu. Dầu vậy ta có thể chia ra làm năm thời kỳ. Mỗi thời kỳ bản chất của tranh chấp khác nhau, các lư lẽ biện minh cho yêu sách của các bên khác nhau. Điều này xảy ra do ảnh hưởng địa chính trị, hoàn cảnh lịch sử cũng như tinh thần dân tộc chủ nghĩa mạnh mẽ từ các bên.
Thời kỳ đầu, từ đầu thế kỷ thứ 17 đến khi Nam kỳ trở thành thuộc địa của Pháp 1862.
Thời kỳ thứ hai, từ năm 1862 đến năm 1945, sau khi Đại chiến thế giới kết thúc.
Thời kỳ thứ ba, từ 1945 cho đến năm 1954, hiệp định Genève được kư kết.
Thời kỳ thứ tư, từ 1954 đến 1975.
Thời kỳ thứ năm từ 1975 đến hôm nay.
Giữa hai bên có ba loại tranh chấp. 1/ về lănh thổ trên đất liền, có hai khuynh hướng tranh chấp, thứ nhứt là đất khu vực dọc theo biên giới, thứ hai, tranh chấp vùng đất mà người Kampuchia gọi là Khmer Krom 2/ về chủ quyền các đảo, quan trọng nhất là đảo Phú Quốc và 3/ tranh chấp về ranh giới hải phận, về hiệu lực các đảo trong vịnh Thái Lan.
Muốn biết nội t́nh các tranh chấp này ra sao, lư lẽ mà các học giả Kampuchia vịn vào để đ̣i đất đai, lănh thổ là như thế nào, cũng như các lư lẽ này có hợp lư hay không ? điều cần thiết là ta cần phải hiểu ngọn nguồn, tức là vừa theo lịch sử của tranh chấp, vừa theo tinh thần của luật pháp quốc tế.
1/ Thời kỳ thứ nhất, thuần túy lịch sử. Cũng cần nói sơ qua v́ các yêu sách của phía Khmer hiện nay nghiêng về lịch sử.
Bắt đầu sau khi VN b́nh định xong Chiêm Thành khoảng đầu thế kỷ 17. Lănh thổ VN được mở ra về phía nam cho đến B́nh Thuận. Từ đó hai dân tộc VN và Khmer trực tiếp đối đầu với nhau. Vào thời điểm này th́ đế quốc Khmer đă suy tàn.
Đế quốc Khmer là một đế quốc hùng mạnh, cao điểm là thế kỷ thứ 11. Theo ư kiến các học giả phương Tây th́ lănh thổ đế quốc này trải dài từ bắc Thái Lan, một phần Miến Điện, bao gồm thêm nam Lào cho đến miền Nam VN hiện nay. Đế quốc này suy tàn bắt đầu từ thế kỷ 14. Các đế quốc Xiêm lần lượt mang tên Sukhôthaï, Ayuthia và Bangkok, đă chinh phục hầu như 80% lănh thổ đế quốc Khmer. Đế quốc Khmer hùng mạnh ngày xưa đă bị đế quốc Thái tiêu diệt gần hết. Dân chúng Khmer sót lại đă chạy đi tản mát, một số trở thành các bộ lạc nhỏ trong rừng sâu, núi thẳm, số c̣n lại lui về lập đô ở Nam Vang. 2/3 diện tích nước Thái Lan hiện nay vốn ngày xưa thuộc về đế quốc Khmer. Các di tích lịch sử, đền đài của Khmer như Angkor Thom và Angkor Vat, hoàn toàn xóa bỏ trong kư ức của dân Khmer, bị bỏ hoang phế. Chỉ đến giữa thế kỷ thứ 19 th́ các phế tích này mới được mọi người biết đến.
Công cuộc nam tiến của VN, cũng như sự bành trướng của đế quốc Thái gặp nhau. Vô h́nh chung đế quốc Khmer ở Nam Vang trở thành một quốc gia « trái độn » ở giữa hai thế lực mạnh mẽ là Thái và Việt. Việc dằn co hai bên Thái-Việt về Khmer kéo dài khoảng 1 thế kỷ.
Trong khoảng thời gian dằn co này, ta có thể nói rằng VN đă xây dựng và củng cố xong địa bàn của ḿnh ở miền Nam hiện nay. Các tỉnh Biên Ḥa, Mỹ Tho được xây dựng dưới thời các chúa Nguyễn, nhờ công lao các cựu trung thần nhà Minh, như Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên. Khu vực Hà Tiên và vùng chung quanh như Châu Đốc, Rạch Giá, Phú Quốc… cũng được xây dựng nhờ công lao của một người Hoa khác, thần phục VN, tên là Mạc Cửu.
Năm 1834 dưới triều Minh Mạng, VN đă áp đặt được quyền lực của ḿnh lên đế quốc Khmer. Nam Vang được gọi là « Trấn Tây Thành », lănh thổ nước này được phân chia ra thành 32 tỉnh, huyện. Đến năm 1841, được sự trợ giúp của quân Xiêm, dân Khmer ở Nam Vang nổi loạn, quân VN phải rút đi. Nhưng đến năm 1845 phía Khmer lại cầu cứu VN, v́ so ra ách cai trị của quân Xiêm c̣n bạo tàn nhiều hơn VN. Cuối cùng đế quốc Khmer phải chịu thần phục cùng lúc hai nước VN và Thái Lan. Việc này kéo dài cho đến khi đế quốc Pháp vào VN.
Trong khoảng thời gian này th́ không có vấn đề gọi là « tranh chấp về biên giới hay lănh thổ » giữa hai bên Việt và Miên, mà chỉ có hiện tượng gọi là cá lớn nuốt cá bé, xảy ra thường trực ở mọi nơi trên thế giới. Tức là, một dân tộc muốn tồn tại là phải mạnh và không thể để hiện hữu các thế lực đe dọa chung quanh. Ta thấy, ở Châu Á, trường hợp đế quốc Trung Hoa với các dân tộc chung quanh, hay tại Châu Âu, Trung Á, các nước Ả Rập… các đế quốc chinh phục lẫn nhau để mở rộng bờ cơi. Mạnh được yếu thua. Ta thấy biết bao nhiêu đế quốc mạnh mẽ như Roma, Ottoman, các đế quốc thuộc văn minh Nhị Hà (tức là Mésopotamia) thuộc Irak, Iran hiện nay… có lúc cực thịnh, nhưng rồi đều suy tàn. Cá lớn nuốt cá bé. Các việc chinh phục xảy ra thường trực mà không hề dựa trên một phép tắc hay theo một đạo lư nào. Đế quốc Khmer, đến thế kỷ 14 mạnh mẽ biết bao nhiêu. Sau đó th́ suy tàn, đến đỗi con cháu họ không biết đến nền văn minh rực rỡ Angkor Vat, Angkor Thom của tổ tiên họ ra sao. Các học giả Tây phương cùng đồng ư rằng, nếu Pháp không kịp thời có mặt tại Đông dương, đế quốc Khmer chắc chắn sẽ bị mất về hai đế quốc Thái lan và VN.
Các học giả Khmer hiện nay lên án rằng VN chiếm đất của tổ tiên họ. Điều này trên quan điểm lịch sử và luật lệ quốc tế th́ không thuyết phục. Cũng như VN hiện nay khó mà nại lư do Trung Hoa chiếm đất của tổ tiên ḿnh ở Quảng Đông, Quảng Tây. Cũng như dân Ư bây giờ đâu thể nào đ̣i lại lănh thổ trước kia thuộc đế quốc Roma, hay nước Thổ đ̣i tái dựng lại đế quốc Ottoman. Nếu ai cũng nại lư do như vậy th́ thế giới sẽ đảo lộn, biển Địa Trung Hải sẽ trở thành « nội hải » của nước Ư. Nếu chỉ nói trong khu vực, tại Trung Quốc, các tỉnh Măn Châu, Vân Nam, Tây Tạng, Quảng Đông v.v… trước kia là các quốc gia độc lập. Ai cũng lên tiếng đ̣i đất, đ̣i độc lập th́ lănh thổ của Trung quốc sẽ không c̣n.
Mặt khác, dân Khmer, ảnh hưởng văn minh Ấn Độ, không có quan niệm quốc gia với đường ranh giới rạch ṛi, như là quan niệm của văn minh Trung Hoa. Chính người Khmer, khi lục lại lịch sử của họ cũng không t́m thấy một tấm bản đồ nào cho mọi người biết là lănh thổ của họ đă mở từ đâu đến đâu. Không biết lănh thổ ḿnh có từ đâu đến đâu th́ đ̣i lại cái ǵ ? và ở chỗ nào ?
Quan niệm về quốc gia của dân tộc Khmer chỉ mới có sau khi tiếp xúc với văn minh Tây phương. Và chỉ sau khi tiếp xúc với Pháp, công nhận sự bảo hộ của Pháp, lănh thổ Khmer mới lần hồi thành h́nh qua các đợt phân giới và cắm mốc sau này.
Những yêu sách về lănh thổ của các học giả Khmer khi nại lịch sử là điều không phù hợp công pháp quốc tế, không ai chia sẻ. Kể cả những học giả quốc tế có cảm t́nh nhất với dân tộc này.
2/ Thời kỳ thứ hai, từ năm 1862 đến năm 1945 :
Sau khi triều đ́nh nhà Nguyễn kư hiệp ước giao các tỉnh miền Nam cho Pháp năm 1862, th́ năm 1856 vua Norodom (Nặc Ông Dương) thỉnh cầu được sự bảo hộ của Pháp. Ngày 11 tháng 8 năm 1863 hai bên kư kư hiệp định, vương quốc Khmer, lúc đó gọi là Cambodge, được đặt dưới quyền bảo hộ của Pháp. Từ đó Pháp đại diện cho vương quốc Khmer trong các lănh vực đối ngoại và đối nội.
Nhưng nội dung kết ước này vua Norodom không hề nói tới lănh thổ, biên giới của vương quốc ḿnh có từ đâu tới đâu.
Người lănh đạo Pháp ở địa phương lúc đó là đô đốc De La Grandière, ông này quyết định phân định biên giới nhằm xác định lănh vực thuộc quyền quản trị của Pháp. Nhưng sự mù mờ của biên giới, cộng với sự thiếu hiểu biết t́nh h́nh địa chính trị của khu vực, ông này đă làm cho phía Thái Lan hưởng lợi.
Biên giới giữa Cambodge với Thái Lan được phân định hấp tấp, Pháp đại diện Khmer kư kết hiệp ước đầu tiên với Xiêm vào ngày 15 tháng 6 năm 1867, Xiêm từ bỏ quyền « thuợng quốc » của Xiêm đối với Khmer, nhưng Pháp phải nhượng cho Thái lănh thổ Khmer ở hữu ngạn sông Cửu Long, tức ½ lănh thổ Kampuchia hiện nay, gồm các tỉnh Battambang, Sisophon và Siemreap hiện nay.
Điều này trái ngược trên thực tế, v́ trước khi Pháp vào Cambodge, vương quốc này phải chịu thần phục cả hai bên VN và Thái Lan. Lập trường ở Paris, là khi kư hiệp ước 1862 với triều đ́nh nhà Nguyễn, nước Pháp có thẩm quyền thay thế nhà Nguyễn về quyền thượng quốc ở vương quốc Khmer. Kết ước giữa Pháp với vua Norodom chỉ có ư nghĩa tượng trưng chứ không mang tính bó buộc của pháp lư. Tức là có hay không có hiệp ước này th́ lănh thổ Khmer vẫn chịu quyền thuợng quốc, tức quyền bảo hộ, của Pháp. Điều này hoàn toàn phù hợp với « luật lệ quốc tế » trong thời kỳ.
Sự sai lầm về biên giới Thái-Miên được sửa chữa lại vào năm 1893. Các tỉnh của Cambodge nhượng cho Thái trước kia được khôi phục lại.
Biên giới Việt-Miên được phân định qua hai thời kỳ : năm 1870 và năm 1873. Cuộc phân định năm 1870 có sự hiện diện của quan chức Khmer, cắm được 60 mốc, nhưng sau khi phân định xong th́ họ lại phản đối. Họ đ̣i lại vùng gọi là « mỏ vịt », và người Pháp đồng ư vạch lại biên giới, trả lại vùng này cho Cambodge. Cuộc phân định năm 1873 gồm 64 mốc.
Các tài liệu của Pháp về phân định biên giới cho thấy, vừa sau khi cắm mốc xong, phía Cambodge phản đối, các cột mốc vừa cắm liền bị nhổ đi và dời về phía VN.
Năm 1887 khối Đông dương được thành lập, Cambodge trở thành một thành phần của khối này, cùng với Cochinchine (Nam Kỳ), An Nam (Trung Kỳ) và Tonkin (Bắc Kỳ). Lào chỉ được thành lập sau này, do yêu cầu của ông August Pavie, vào năm 1893.
Đường biên giới giữa Cochichine (miền nam) và Cambodge trở thành đường biên giới hành chánh, nội bộ của Đông dương, thuộc thẩm quyền của quan Toàn Quyền người Pháp.
Vùng Darlac th́ được sáp nhập và VN năm 1895. Điều này xảy ra do việc trao đổi đất đai : VN nhượng đất Trấn Ninh cho Lào, đồng thời Lào nhường vùng đất phía nam nước này cho Cambodge. Nhưng sau đó, năm 1899 vùng này lại trả về Lào, đến năm 1904 mới chính thức trở lại VN. Năm 1923 vùng Kontum cũng được nhập vào Darlac, đồng thời với vùng đất đỏ phía nam là Buôn Mê Thuộc.
Về lănh thổ trên biển th́ được xác định năm 1939, do nghị quyết của Toàn quyền Brévié. Đó là một đường thẳng 140°, thẳng góc so với bờ biển, theo đó các đảo phía bắc đường này thuộc Cambodge và các đảo phía nam thuộc VN, trong đó bao gồm đảo Phú Quốc.
Đến năm 1939, biên giới trên đất liền hai bên Việt-Khmer được phân định hoàn tất. Biên giới này là biên giới thuộc địa, thuộc nội bộ của nước Pháp, chứ không phải là đường biên giới quốc tế giữa quốc gia với quốc gia.
Các học giả Kampuchia hiện nay, một số theo chủ nghĩa « irrédentisme », tức chủ nghĩa đ̣i lại đất, cho rằng Pháp đă thiên vị VN lúc phân định biên giới, do đó có khuynh hướng không nh́n nhận đường biên giới này. Chủ quyền đảo Phú Quốc và các đảo chung quanh cũng bị đặt lại. Điều này không phù hợp với các luật lệ cũng như tập quán quốc tế.
Theo nguyên tắc « Uti possidetis » của công pháp quốc tế, áp dụng cho lănh thổ các nước thuộc địa sau khi lấy lại được nền độc lập. Trong thời kỳ thuộc địa, lănh thổ đó do bên này quản lư, th́ sau khi dành được độc lập, vùng đất đó sẽ tiếp tục do bên này quản lư.
V́ vậy, hầu hết lập luận của các học giả Kampuchia hiện nay, khi lên tiếng đ̣i lại đất của VN, như đảo Phú Quốc, vùng lănh thổ gọi là Khmer Krom (tức là vùng đất hiện nay thuộc tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu…), đều không thuyết phục, nếu không nói là trái ngược với luật lệ và tập quán quốc tế.
Thử tưởng tượng, ai cũng có thể đ̣i lại đất như vậy, th́ nước Mỹ, nước Úc, Canada v.v… sẽ biến mất, v́ đất đó là của người dân bản địa, chứ không phải của dân da trắng hiện nay. Cũng như nhiều nước Nam Mỹ, các nước Châu Phi… sẽ không c̣n tồn tại. Nên biết là đường biên giới các nước Phi Châu là do hai đế quốc thực dân Anh và Pháp phân định. Để ư th́ thấy là đường biên giới ở đây thường đi theo đường thẳng, đường kinh tuyến, vĩ tuyến… nguyên nhân v́ hai bên phân định trong văn pḥng, trên bản đồ. Hậu quả của việc phân định như thế làm cho nhiều dân tộc không có quốc gia, hay một dân tộc bị chia cắt ra, mỗi phần ở trên một quốc gia khác nhau. Và ta thấy rằng các đường biên giới đó vẫn c̣n giá trị pháp lư cho đến hôm nay.
V́ thế đ̣i hỏi của các học giả Khmer, đi ngược lại tinh thần của quốc tế công pháp. Điều cần nhấn mạnh là các cuộc phân giới, mặc dầu do quan người Pháp điều khiển, nhưng các quan chức người Miên và người Việt đều có hiện diện. Vấn đề là họ không phản đối lúc phân định mà chỉ phản đối khi phân định đă hoàn tất. Sau này ta sẽ thấy, lập luận của Sihanouk về biên giới thay đổi như chong chóng, hết dựa phía này đến dựa phía bên kia.
Năm 1945 khi Nhật đến th́ lập tức nhảy sang Nhật. Khi thấy thế lực Trung Cộng nổi lên, Mao Trạch Đông thắng Tưởng Giới Thạch tháng 10 năm 1949, Sihanouk lại có khuynh hướng dựa vào Trung Cộng. Trong thời gian hội nghị Genève 1954, ông này nghĩ rằng sẽ được TQ giúp đỡ lấy lại đất, do đó đưa ra những yêu sách rất phi lư. Trong thời chiến tranh VN, Sihanouk lại thiên về phía CSVN, giúp phe này, hy vọng khi họ chiến thắng sẽ trả lại đất đai. Rồi sau 1975, các phe Kampuchia, kể cả Sihanouk, cũng lại chống VN v́ họ cho rằng lănh đạo CSVN không giữ lời hứa trả lại đất, v́ thế cuộc chiến 1978 bùng nổ. Từ đó cho đến nay, vấn đề biên giới, lănh thổ, hải phận… giữa VN và Kampuchia, lúc nóng, lúc lạnh tùy thuộc vào sự tốt lành quan hệ ngoại giao giữa VN và TQ. Những lúc sau này, tranh chấp giữa VN và TQ căng thẳng v́ việc TQ đặt giàn khoan 981 trong thềm lục địa của VN, ta thấy các sư săi, các chính trị gia Kampuchia lại dấy lên các cuộc biểu t́nh, đ̣i lại đất. Những điều này ta sẽ trở lại nói rơ hơn ở phần sau.
Thời kỳ đầu, từ đầu thế kỷ thứ 17 đến khi Nam kỳ trở thành thuộc địa của Pháp 1862.
Thời kỳ thứ hai, từ năm 1862 đến năm 1945, sau khi Đại chiến thế giới kết thúc.
Thời kỳ thứ ba, từ 1945 cho đến năm 1954, hiệp định Genève được kư kết.
Thời kỳ thứ tư, từ 1954 đến 1975.
Thời kỳ thứ năm từ 1975 đến hôm nay.
Giữa hai bên có ba loại tranh chấp. 1/ về lănh thổ trên đất liền, có hai khuynh hướng tranh chấp, thứ nhứt là đất khu vực dọc theo biên giới, thứ hai, tranh chấp vùng đất mà người Kampuchia gọi là Khmer Krom 2/ về chủ quyền các đảo, quan trọng nhất là đảo Phú Quốc và 3/ tranh chấp về ranh giới hải phận, về hiệu lực các đảo trong vịnh Thái Lan.
Muốn biết nội t́nh các tranh chấp này ra sao, lư lẽ mà các học giả Kampuchia vịn vào để đ̣i đất đai, lănh thổ là như thế nào, cũng như các lư lẽ này có hợp lư hay không ? điều cần thiết là ta cần phải hiểu ngọn nguồn, tức là vừa theo lịch sử của tranh chấp, vừa theo tinh thần của luật pháp quốc tế.
1/ Thời kỳ thứ nhất, thuần túy lịch sử. Cũng cần nói sơ qua v́ các yêu sách của phía Khmer hiện nay nghiêng về lịch sử.
Bắt đầu sau khi VN b́nh định xong Chiêm Thành khoảng đầu thế kỷ 17. Lănh thổ VN được mở ra về phía nam cho đến B́nh Thuận. Từ đó hai dân tộc VN và Khmer trực tiếp đối đầu với nhau. Vào thời điểm này th́ đế quốc Khmer đă suy tàn.
Đế quốc Khmer là một đế quốc hùng mạnh, cao điểm là thế kỷ thứ 11. Theo ư kiến các học giả phương Tây th́ lănh thổ đế quốc này trải dài từ bắc Thái Lan, một phần Miến Điện, bao gồm thêm nam Lào cho đến miền Nam VN hiện nay. Đế quốc này suy tàn bắt đầu từ thế kỷ 14. Các đế quốc Xiêm lần lượt mang tên Sukhôthaï, Ayuthia và Bangkok, đă chinh phục hầu như 80% lănh thổ đế quốc Khmer. Đế quốc Khmer hùng mạnh ngày xưa đă bị đế quốc Thái tiêu diệt gần hết. Dân chúng Khmer sót lại đă chạy đi tản mát, một số trở thành các bộ lạc nhỏ trong rừng sâu, núi thẳm, số c̣n lại lui về lập đô ở Nam Vang. 2/3 diện tích nước Thái Lan hiện nay vốn ngày xưa thuộc về đế quốc Khmer. Các di tích lịch sử, đền đài của Khmer như Angkor Thom và Angkor Vat, hoàn toàn xóa bỏ trong kư ức của dân Khmer, bị bỏ hoang phế. Chỉ đến giữa thế kỷ thứ 19 th́ các phế tích này mới được mọi người biết đến.
Công cuộc nam tiến của VN, cũng như sự bành trướng của đế quốc Thái gặp nhau. Vô h́nh chung đế quốc Khmer ở Nam Vang trở thành một quốc gia « trái độn » ở giữa hai thế lực mạnh mẽ là Thái và Việt. Việc dằn co hai bên Thái-Việt về Khmer kéo dài khoảng 1 thế kỷ.
Trong khoảng thời gian dằn co này, ta có thể nói rằng VN đă xây dựng và củng cố xong địa bàn của ḿnh ở miền Nam hiện nay. Các tỉnh Biên Ḥa, Mỹ Tho được xây dựng dưới thời các chúa Nguyễn, nhờ công lao các cựu trung thần nhà Minh, như Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên. Khu vực Hà Tiên và vùng chung quanh như Châu Đốc, Rạch Giá, Phú Quốc… cũng được xây dựng nhờ công lao của một người Hoa khác, thần phục VN, tên là Mạc Cửu.
Năm 1834 dưới triều Minh Mạng, VN đă áp đặt được quyền lực của ḿnh lên đế quốc Khmer. Nam Vang được gọi là « Trấn Tây Thành », lănh thổ nước này được phân chia ra thành 32 tỉnh, huyện. Đến năm 1841, được sự trợ giúp của quân Xiêm, dân Khmer ở Nam Vang nổi loạn, quân VN phải rút đi. Nhưng đến năm 1845 phía Khmer lại cầu cứu VN, v́ so ra ách cai trị của quân Xiêm c̣n bạo tàn nhiều hơn VN. Cuối cùng đế quốc Khmer phải chịu thần phục cùng lúc hai nước VN và Thái Lan. Việc này kéo dài cho đến khi đế quốc Pháp vào VN.
Trong khoảng thời gian này th́ không có vấn đề gọi là « tranh chấp về biên giới hay lănh thổ » giữa hai bên Việt và Miên, mà chỉ có hiện tượng gọi là cá lớn nuốt cá bé, xảy ra thường trực ở mọi nơi trên thế giới. Tức là, một dân tộc muốn tồn tại là phải mạnh và không thể để hiện hữu các thế lực đe dọa chung quanh. Ta thấy, ở Châu Á, trường hợp đế quốc Trung Hoa với các dân tộc chung quanh, hay tại Châu Âu, Trung Á, các nước Ả Rập… các đế quốc chinh phục lẫn nhau để mở rộng bờ cơi. Mạnh được yếu thua. Ta thấy biết bao nhiêu đế quốc mạnh mẽ như Roma, Ottoman, các đế quốc thuộc văn minh Nhị Hà (tức là Mésopotamia) thuộc Irak, Iran hiện nay… có lúc cực thịnh, nhưng rồi đều suy tàn. Cá lớn nuốt cá bé. Các việc chinh phục xảy ra thường trực mà không hề dựa trên một phép tắc hay theo một đạo lư nào. Đế quốc Khmer, đến thế kỷ 14 mạnh mẽ biết bao nhiêu. Sau đó th́ suy tàn, đến đỗi con cháu họ không biết đến nền văn minh rực rỡ Angkor Vat, Angkor Thom của tổ tiên họ ra sao. Các học giả Tây phương cùng đồng ư rằng, nếu Pháp không kịp thời có mặt tại Đông dương, đế quốc Khmer chắc chắn sẽ bị mất về hai đế quốc Thái lan và VN.
Các học giả Khmer hiện nay lên án rằng VN chiếm đất của tổ tiên họ. Điều này trên quan điểm lịch sử và luật lệ quốc tế th́ không thuyết phục. Cũng như VN hiện nay khó mà nại lư do Trung Hoa chiếm đất của tổ tiên ḿnh ở Quảng Đông, Quảng Tây. Cũng như dân Ư bây giờ đâu thể nào đ̣i lại lănh thổ trước kia thuộc đế quốc Roma, hay nước Thổ đ̣i tái dựng lại đế quốc Ottoman. Nếu ai cũng nại lư do như vậy th́ thế giới sẽ đảo lộn, biển Địa Trung Hải sẽ trở thành « nội hải » của nước Ư. Nếu chỉ nói trong khu vực, tại Trung Quốc, các tỉnh Măn Châu, Vân Nam, Tây Tạng, Quảng Đông v.v… trước kia là các quốc gia độc lập. Ai cũng lên tiếng đ̣i đất, đ̣i độc lập th́ lănh thổ của Trung quốc sẽ không c̣n.
Mặt khác, dân Khmer, ảnh hưởng văn minh Ấn Độ, không có quan niệm quốc gia với đường ranh giới rạch ṛi, như là quan niệm của văn minh Trung Hoa. Chính người Khmer, khi lục lại lịch sử của họ cũng không t́m thấy một tấm bản đồ nào cho mọi người biết là lănh thổ của họ đă mở từ đâu đến đâu. Không biết lănh thổ ḿnh có từ đâu đến đâu th́ đ̣i lại cái ǵ ? và ở chỗ nào ?
Quan niệm về quốc gia của dân tộc Khmer chỉ mới có sau khi tiếp xúc với văn minh Tây phương. Và chỉ sau khi tiếp xúc với Pháp, công nhận sự bảo hộ của Pháp, lănh thổ Khmer mới lần hồi thành h́nh qua các đợt phân giới và cắm mốc sau này.
Những yêu sách về lănh thổ của các học giả Khmer khi nại lịch sử là điều không phù hợp công pháp quốc tế, không ai chia sẻ. Kể cả những học giả quốc tế có cảm t́nh nhất với dân tộc này.
2/ Thời kỳ thứ hai, từ năm 1862 đến năm 1945 :
Sau khi triều đ́nh nhà Nguyễn kư hiệp ước giao các tỉnh miền Nam cho Pháp năm 1862, th́ năm 1856 vua Norodom (Nặc Ông Dương) thỉnh cầu được sự bảo hộ của Pháp. Ngày 11 tháng 8 năm 1863 hai bên kư kư hiệp định, vương quốc Khmer, lúc đó gọi là Cambodge, được đặt dưới quyền bảo hộ của Pháp. Từ đó Pháp đại diện cho vương quốc Khmer trong các lănh vực đối ngoại và đối nội.
Nhưng nội dung kết ước này vua Norodom không hề nói tới lănh thổ, biên giới của vương quốc ḿnh có từ đâu tới đâu.
Người lănh đạo Pháp ở địa phương lúc đó là đô đốc De La Grandière, ông này quyết định phân định biên giới nhằm xác định lănh vực thuộc quyền quản trị của Pháp. Nhưng sự mù mờ của biên giới, cộng với sự thiếu hiểu biết t́nh h́nh địa chính trị của khu vực, ông này đă làm cho phía Thái Lan hưởng lợi.
Biên giới giữa Cambodge với Thái Lan được phân định hấp tấp, Pháp đại diện Khmer kư kết hiệp ước đầu tiên với Xiêm vào ngày 15 tháng 6 năm 1867, Xiêm từ bỏ quyền « thuợng quốc » của Xiêm đối với Khmer, nhưng Pháp phải nhượng cho Thái lănh thổ Khmer ở hữu ngạn sông Cửu Long, tức ½ lănh thổ Kampuchia hiện nay, gồm các tỉnh Battambang, Sisophon và Siemreap hiện nay.
Điều này trái ngược trên thực tế, v́ trước khi Pháp vào Cambodge, vương quốc này phải chịu thần phục cả hai bên VN và Thái Lan. Lập trường ở Paris, là khi kư hiệp ước 1862 với triều đ́nh nhà Nguyễn, nước Pháp có thẩm quyền thay thế nhà Nguyễn về quyền thượng quốc ở vương quốc Khmer. Kết ước giữa Pháp với vua Norodom chỉ có ư nghĩa tượng trưng chứ không mang tính bó buộc của pháp lư. Tức là có hay không có hiệp ước này th́ lănh thổ Khmer vẫn chịu quyền thuợng quốc, tức quyền bảo hộ, của Pháp. Điều này hoàn toàn phù hợp với « luật lệ quốc tế » trong thời kỳ.
Sự sai lầm về biên giới Thái-Miên được sửa chữa lại vào năm 1893. Các tỉnh của Cambodge nhượng cho Thái trước kia được khôi phục lại.
Biên giới Việt-Miên được phân định qua hai thời kỳ : năm 1870 và năm 1873. Cuộc phân định năm 1870 có sự hiện diện của quan chức Khmer, cắm được 60 mốc, nhưng sau khi phân định xong th́ họ lại phản đối. Họ đ̣i lại vùng gọi là « mỏ vịt », và người Pháp đồng ư vạch lại biên giới, trả lại vùng này cho Cambodge. Cuộc phân định năm 1873 gồm 64 mốc.
Các tài liệu của Pháp về phân định biên giới cho thấy, vừa sau khi cắm mốc xong, phía Cambodge phản đối, các cột mốc vừa cắm liền bị nhổ đi và dời về phía VN.
Năm 1887 khối Đông dương được thành lập, Cambodge trở thành một thành phần của khối này, cùng với Cochinchine (Nam Kỳ), An Nam (Trung Kỳ) và Tonkin (Bắc Kỳ). Lào chỉ được thành lập sau này, do yêu cầu của ông August Pavie, vào năm 1893.
Đường biên giới giữa Cochichine (miền nam) và Cambodge trở thành đường biên giới hành chánh, nội bộ của Đông dương, thuộc thẩm quyền của quan Toàn Quyền người Pháp.
Vùng Darlac th́ được sáp nhập và VN năm 1895. Điều này xảy ra do việc trao đổi đất đai : VN nhượng đất Trấn Ninh cho Lào, đồng thời Lào nhường vùng đất phía nam nước này cho Cambodge. Nhưng sau đó, năm 1899 vùng này lại trả về Lào, đến năm 1904 mới chính thức trở lại VN. Năm 1923 vùng Kontum cũng được nhập vào Darlac, đồng thời với vùng đất đỏ phía nam là Buôn Mê Thuộc.
Về lănh thổ trên biển th́ được xác định năm 1939, do nghị quyết của Toàn quyền Brévié. Đó là một đường thẳng 140°, thẳng góc so với bờ biển, theo đó các đảo phía bắc đường này thuộc Cambodge và các đảo phía nam thuộc VN, trong đó bao gồm đảo Phú Quốc.
Đến năm 1939, biên giới trên đất liền hai bên Việt-Khmer được phân định hoàn tất. Biên giới này là biên giới thuộc địa, thuộc nội bộ của nước Pháp, chứ không phải là đường biên giới quốc tế giữa quốc gia với quốc gia.
Các học giả Kampuchia hiện nay, một số theo chủ nghĩa « irrédentisme », tức chủ nghĩa đ̣i lại đất, cho rằng Pháp đă thiên vị VN lúc phân định biên giới, do đó có khuynh hướng không nh́n nhận đường biên giới này. Chủ quyền đảo Phú Quốc và các đảo chung quanh cũng bị đặt lại. Điều này không phù hợp với các luật lệ cũng như tập quán quốc tế.
Theo nguyên tắc « Uti possidetis » của công pháp quốc tế, áp dụng cho lănh thổ các nước thuộc địa sau khi lấy lại được nền độc lập. Trong thời kỳ thuộc địa, lănh thổ đó do bên này quản lư, th́ sau khi dành được độc lập, vùng đất đó sẽ tiếp tục do bên này quản lư.
V́ vậy, hầu hết lập luận của các học giả Kampuchia hiện nay, khi lên tiếng đ̣i lại đất của VN, như đảo Phú Quốc, vùng lănh thổ gọi là Khmer Krom (tức là vùng đất hiện nay thuộc tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu…), đều không thuyết phục, nếu không nói là trái ngược với luật lệ và tập quán quốc tế.
Thử tưởng tượng, ai cũng có thể đ̣i lại đất như vậy, th́ nước Mỹ, nước Úc, Canada v.v… sẽ biến mất, v́ đất đó là của người dân bản địa, chứ không phải của dân da trắng hiện nay. Cũng như nhiều nước Nam Mỹ, các nước Châu Phi… sẽ không c̣n tồn tại. Nên biết là đường biên giới các nước Phi Châu là do hai đế quốc thực dân Anh và Pháp phân định. Để ư th́ thấy là đường biên giới ở đây thường đi theo đường thẳng, đường kinh tuyến, vĩ tuyến… nguyên nhân v́ hai bên phân định trong văn pḥng, trên bản đồ. Hậu quả của việc phân định như thế làm cho nhiều dân tộc không có quốc gia, hay một dân tộc bị chia cắt ra, mỗi phần ở trên một quốc gia khác nhau. Và ta thấy rằng các đường biên giới đó vẫn c̣n giá trị pháp lư cho đến hôm nay.
V́ thế đ̣i hỏi của các học giả Khmer, đi ngược lại tinh thần của quốc tế công pháp. Điều cần nhấn mạnh là các cuộc phân giới, mặc dầu do quan người Pháp điều khiển, nhưng các quan chức người Miên và người Việt đều có hiện diện. Vấn đề là họ không phản đối lúc phân định mà chỉ phản đối khi phân định đă hoàn tất. Sau này ta sẽ thấy, lập luận của Sihanouk về biên giới thay đổi như chong chóng, hết dựa phía này đến dựa phía bên kia.
Năm 1945 khi Nhật đến th́ lập tức nhảy sang Nhật. Khi thấy thế lực Trung Cộng nổi lên, Mao Trạch Đông thắng Tưởng Giới Thạch tháng 10 năm 1949, Sihanouk lại có khuynh hướng dựa vào Trung Cộng. Trong thời gian hội nghị Genève 1954, ông này nghĩ rằng sẽ được TQ giúp đỡ lấy lại đất, do đó đưa ra những yêu sách rất phi lư. Trong thời chiến tranh VN, Sihanouk lại thiên về phía CSVN, giúp phe này, hy vọng khi họ chiến thắng sẽ trả lại đất đai. Rồi sau 1975, các phe Kampuchia, kể cả Sihanouk, cũng lại chống VN v́ họ cho rằng lănh đạo CSVN không giữ lời hứa trả lại đất, v́ thế cuộc chiến 1978 bùng nổ. Từ đó cho đến nay, vấn đề biên giới, lănh thổ, hải phận… giữa VN và Kampuchia, lúc nóng, lúc lạnh tùy thuộc vào sự tốt lành quan hệ ngoại giao giữa VN và TQ. Những lúc sau này, tranh chấp giữa VN và TQ căng thẳng v́ việc TQ đặt giàn khoan 981 trong thềm lục địa của VN, ta thấy các sư săi, các chính trị gia Kampuchia lại dấy lên các cuộc biểu t́nh, đ̣i lại đất. Những điều này ta sẽ trở lại nói rơ hơn ở phần sau.