Romano
11-28-2014, 21:52
Vấn đề làm sao mà người Việt Nam có thể quên đi qúa khứ, xóa bỏ hận thù do chiến tranh gây ra để đ̣an kết xây dựng đất nước đă được viết trong “Hiệp định chấm dứt Chiến tranh, lập lại ḥa b́nh ở Việt Nam ” do 4 bên tham chiến: Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hoà, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam kư kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973.”
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=696807&stc=1&d=1417211539
Phạm Trần
Từ đó đến nay (2014) đă 41 năm mà người Việt Nam ở hai bờ chiến tuyến vẫn c̣n xa cách như khi chiến tranh chưa kết thúc ngày 30/04/1975 phải có nguyên nhân.
Lỗi này, trước hết và duy nhất phải quy kết vào trách nhiệm của đảng và nhà nước Cộng sản mang danh Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa ở miền Bắc và những người Việt miền Nam đi theo Cộng sản được đại diện bởi Chính phủ Lâm thời Cộng ḥa miền Nam Việt Nam, hay Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam.
Tại sao ?
Bởi v́ Hiệp định Paris đă nói rơ trong Chương IV về “ VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN TỰ QUYẾT CỦA NHÂN DÂN MIỀN NAM VIỆT NAM” gồm những Điều rất rơ nhự sau:
Điều 9:
Chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng ḥa cam kết tôn trọng những nguyên tắc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam dưới đây:
a) Quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm và phải được tất cả các nước tôn trọng.
b) Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của miền Nam Việt Nam thông quan tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ, có giám sát quốc tế.
c) Các nước ngoài sẽ không được áp đặt bất cứ xu hướng chính trị hoăc cá nhân nào đối với nhân dân miền Nam Việt Nam.
Điều 10:
Hai bên miền Nam Việt Nam cam kết tôn trọng ngừng bắn và giữ vững ḥa b́nh ở miền Nam Việt Nam; giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng thương lượng và tránh mọi xung đột bằng vũ lực.
Điều 11:
Ngay sau khi ngừng bắn, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ:
– Thực hiện ḥa giải và ḥa hợp dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đă hợp tác với bên này hoặc bên kia;
– Bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân: tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động chính trị, tự do tín nguỡng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm ăn sinh sống, quyền tư hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh.
Điều 12:
a) Ngay sau khi ngừng bắn, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ hiệp thương trên tinh thần ḥa giải và ḥa hợp dân tộc, tôn trọng lẫn nhau và không thôn tính nhau để thành lập Hội đồng quốc gia ḥa giải và ḥa hợp dân tộc gồm ba thành phần ngang nhau (các bên kư kết hiểu với nhau gồm có: Chính phủ Việt Nam cộng ḥa, Lực lượng thứ ba –hay phe Dương Văn Minh--, Chính phủ Cộng ḥa miền Nam Việt Nam). Hội đồng sẽ làm việc theo nguyên tắc nhất trí. Sau khi Hội đồng quốc gia ḥa giải và ḥa hợp dân tộc nhậm chức, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ hiệp thương để thành lập các hội đồng cấp dưới. Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ kư một hiệp định về các vấn đề nội bộ của miền Nam Việt Nam càng sớm càng tốt, và sẽ làm hết sức ḿnh để thực hiện việc này trong ṿng chín mươi ngày sau khi ngừng bắn có hiệu lực, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân miền Nam Việt Nam là ḥa b́nh, độc lập và dân chủ.
b) Hội đồng quốc gia ḥa giải và ḥa hợp dân tộc có nhiệm vụ đôn đốc hai bên miền Nam Việt Nam thi hành Hiệp định này, thực hiện ḥa giải và ḥa hợp dân tộc, bảo đảm tự do dân chủ. Hội đồng quốc gia ḥa giải và ḥa hợp dân tộc sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do và dân chủ như đă nói trong Điều 9(b) và quy định thủ tục và thể thức của cuộc tổng tuyển cử này. Các cơ quan quyền lực mà cuộc tổng tuyển cử đó sẽ bầu ra sẽ do hai bên miền Nam Việt Nam thông qua hiệp thuơng mà thỏa thuận. Hội đồng quốc gia ḥa giải và ḥa hợp dân tộc cũng sẽ quy định thủ tục và thể thức tuyển cử địa phuơng theo như hai bên miền Nam Việt Nam thỏa thuận.
Điều 13:
Vấn đề lực luợng vũ trang Việt Nam ở miền Nam Việt Nam sẽ do hai bên miền Nam Việt Nam giải quyết trên tinh thần ḥa giải và ḥa hợp dân tộc, b́nh đẳng và tôn trọng lẫn nhau, không có sự can thiệp của nước ngoài, phù hợp với t́nh h́nh sau chiến tranh. Trong số những vấn đề hai bên miền Nam Việt Nam thảo luận có các biện pháp giảm số quân của họ và phục viên số quân đă giảm. Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ hoàn thành việc đó càng sớm càng tốt.
Điều 14:
Miền Nam Việt Nam thực hiện chính sách đối ngoại ḥa b́nh, độc lập. Miền Nam Việt Nam sẵn sàng thiết lập quan hệ với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị và xă hội trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau và nhận viện trợ kinh tế, kỹ thuật của bất cứ nước nào không kèm theo điều kiện chính trị. Vấn đề nhận viện trợ quân sự sau này cho miền Nam Việt Nam sẽ thuộc thẩm quyền của chính phủ được thành lập sau tổng tuyển cử ở miền Nam nói trong Điều 9(b).
SỰ THẬT PHŨ PHÀNG
Trên giấy trắng mực đen là như thế với chữ kư cam kết của 4 bên gồm: Bộ trưởng Ngọai giao William P. Rogers (Hoa Kỳ), Trần Văn Lắm (Việt Nam Cộng ḥa), Bộ trường Ngọai giao Nguyễn Duy Trinh (Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa) và Bộ trường Ngọai giao Nguyễn Thị B́nh (Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng ḥa miến Nam Việt Nam).
Nhưng trong thực tế trên chiến trường vào thời điểm này, ngót 300,000 quân đội miền Bắc vẫn hành quân trên lănh thổ Việt Nam Cộng ḥa trong khi Quân đội Hoa Kỳ và đồng minh phải rút hết khỏi miền Nam Việt Nam.
Từ đó Quân lực Việt Nam Cộng ḥa phải tiếp tục chiến đấu một ḿnh với sự viện trợ rất hạn chế về vũ khí và lương thực của Hoa Kỳ.
Theo các tài liệu của Quốc tế phổ biến trên Internet th́ vào năm 1973, Việt Nam Cộng ḥa có 450.000 quân chủ lực và hơn 700.000 quân địa phương và dân vệ. Quân Đội Cộng sản Nhân Dân Việt Nam có 525.000 quân (Hoa Kỳ ước đoán 500.000-600.000), kể cả lối 220.000 trong số đó đang có mặt ở miền Nam.
Tuy nhiên về hỏa lực th́ quân đội Cộng sản có số lượng gấp 3 lần hơn vũ khí và đạn được của quân đội miền Nam v́ Liên bang Sô viết do Nga cầm đầu và Trung Cộng vẫn tiếp tục đổ súng đạn và lương thực vào miến Bắc để vuợt Trường Sơn vào tiếp tế cho chiến trường miền Nam.
Ngược lại v́ ràng buộc bởi Hiệp định Paris 1973, chính phủ Hoa Kỳ đă bị Quốc hội hạn chế viện trợ cho miền Nam Việt Nam từ 2 tỷ mỗi năm xuống c̣n 600 triệu, sau ngày kư Hiệp định Paris 1973.
Sau đó số tiền này bị chận lại ở Quốc hội khi phía Mỹ thấy t́nh h́nh mất Việt Nam Cộng ḥa vào tay quân đội miền Bắc không c̣n cưu văn được nữa, sau cuộc tấn công của lực lượng miền Bắc vào thành phổ Ban Mê Thuột ngày 10 tháng 3/1975, mở đầu cho Chiến dịch Tây Nguyên mang “mật danh Chiến dịch 275”.
Hành động tiếp tục chiến tranh xâm lăng miền Nam ngay trong lúc đàm phán để sau này miền Bắc chà đạp lên quyền tự quyết của nhân dân hai bên miền Nam ghi trong Hiệp định Paris 1973, đă được Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hà thuộc Viện Lịch sử Đảng xác nhận trong bài viết “Hoạt động quân sự trên chiến trường miền Nam 1968-1973” vào dịp Kỷ niệm 40 năm ngày kư Hiệp định Paris về Việt Nam của Tạp chí Thế giới-Việt Nam (The World & Vietnam report) thuộc Bộ Ngọai giao Hà Nội ngày 31/01/2013.
Ông viết: “Ngày 23/3/1972, Bộ Chính trị thông qua phương án của Quân ủy Trung ương, quyết định mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972, lấy Trị Thiên làm hướng tiến công chủ yếu. Đông Nam Bộ và Tây Nguyên là hướng phối hợp.
Ngày 30/3/1972, quân ta nổ súng ở Trị Thiên, mở màn cho cuộc tiến công chiến lược 1972. Ngày 2/5/1972, ta giải phóng tỉnh Quảng Trị. Đây là thắng lợi quân sự rất quan trọng, có ư nghĩa trong năm bản lề 1972 có nhiều sự kiện quân sự, ngoại giao lớn đan xen. Đó là hai chuyến thăm Trung Quốc (2/1972), Liên Xô (5/1972) của Tổng thống Mỹ Nixon gây chia rẽ và bất lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Đó là việc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân, thả ḿn, thủy lôi phong tỏa các cảng, cửa sông, cửa biển của miền Bắc từ 6/4/1972 với quy mô và cường độ ác liệt hơn trước, gây khó khăn cho vận chuyển tiếp tế cho miền Nam cả đường bộ và đường thủy.
Cuộc tiến công chiến lược ở Trị Thiên và Đông Nam Bộ, Tây Nguyên đă giành được những thắng lợi rất quan trọng song cũng chịu nhiều tổn thất hy sinh (đặc biệt là trận chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị 81 ngày đêm, từ 25/6 đến 16/9/1972), đă tạo điều kiện cho đấu tranh ngoại giao thu được kết quả. Đoàn đàm phán Việt Nam tại Hội nghị Pari đă chủ động có bước đột phá, đưa ra bản dự thảo Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại ḥa b́nh ở Việt Nam (10/1972), đẩy Mỹ vào thế bị động, lúng túng, phải đi vào đàm phán thực chất.
Đặc biệt, quân và dân miền Bắc, chủ yếu là Hà Nội, Hải Pḥng, đă đánh bại cuộc tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B52 trong 12 ngày đêm cuối năm 1972 của Mỹ, làm nên trận "Điện Biên Phủ trên không". Đây là thắng lợi quân sự lớn nhất, góp phần quyết định buộc Mỹ phải kư Hiệp định Pari ngày 27/1/1973, rút hết quân Mỹ và quân đồng minh của Mỹ về nước, mở ra thời cơ chiến lược để quân và dân ta tiến lên "đánh cho ngụy nhào" vào mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc.”
HỆ LỤY CỦA CHIẾN THẮNG
Nhưng nhóm chữ “giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước” đă nói lên được điều ǵ ?
Thứ nhất, đó là hành động tự nhổ bọt vào chữ kư của hai Bộ trưởng Ngọai giao Nguyễn Duy Trinh và Nguyễn Thị B́nh.
Thứ hai, nó đă gây ra t́nh trạng chia rẽ và hận thù dân tộc do đảng CSVN gây ra cho nhân dân miền Nam Việt Nam.
Hàng loạt những chủ trương trả thù quân nhân Việt Nam Cộng ḥa, công chức, các chính đảng Quốc gia và Văn nghệ sỹ miền Nam đă được thi hành để đem hàng trăm ngàn con người vào các trại tập trung tù đầy khổ cực được mệnh danh “Cảo tạo” gỉa đạo đức. Nhiều ngàn người đă chết mất xác tại các trại tập trung lao động khổ sai này.
Thứ ba, khi Thủ tướng Vơ Văn Kiệt nói vào năm 2005 rằng: “Chiến thắng của chúng ta là vĩ đại, nhưng chúng ta cũng đă phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều mất mát. Lịch sử đă đặt nhiều gia đ́nh miền Nam rơi vào hoàn cảnh có người thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi cũng như vậy. V́ thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn” th́ ông đă nghỉ hưu, không c̣n tác động ǵ đến lớp người cầm quyền nữa.
Bởi v́ lời nói, tuy tâm huyết, có suy tư của một người Lănh đạo gốc miền Nam đă từng mất vợ và con trong cuộc oanh kích của máy bay trên một nhánh sông gần B́nh Dương đă qúa muộn, không sao hàn gắn được vết thương chiến tranh mà người miền Nam là nạn nhân.
Thứ bốn, danh từ “giải phóng” miền Nam của bộ đội Cộng sản miền Bắc Cộng sản, v́ vậy sẽ không bao giờ có thế trả hết nợ đối với hàng chục ngàn phụ nữ Việt Nam đă bị Hải tặc cưỡng hiếp rồi quăng xác xuống biển hay bắt đi bán cho các động Măi Dâm trong vùng Đông Nam Á. Ngàn người dân b́nh thường khác, trong đó có vô số trẻ em, người ǵa cũng đă chết ch́m trên Biển Đông trên đường trốn Cộng sản t́m tự do sau ngày ngày 30/04/1975.
Tuy nhiên người dân ở miền Bắc và ngay cả trong các vùng được gọi là “giải phóng” trong Nam khi c̣n chiến tranh cũng chẳng may mắn ǵ hơn đồng bào miền Nam. Họ cũng đă phải gánh chịu những mất mát khôn lường trong cuộc chiến 20 năm huynh đệ tương tàn bi thảm này.
Có ai biết được đă có bao nhiêu triệu bà mẹ mất con, người vợ mất chồng, hay thanh niên-thiếu nữ tuấn tú đă bỏ xác tại các chiến trường hay dọc đường Trường Sơn trên đường vào Nam ?
Những nấm mồ hoang hay nắm xương khô của người dân Việt Nam-Bắc đă tan nát vào ḷng đất Việt Nam đă nói lên được điều ǵ đối với những người c̣n sống hôm nay ?
V́ vậy, ta không ngạc nhiên khi thấy ông Thủ tướng Vơ Văn Kiệt đă nói vào năm 2005 rằng: “Đó là một vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay v́ lại tiếp tục làm nó thêm rỉ máu. Cho nên tinh thần ḥa hợp dân tộc phải được coi trọng. Chúng ta c̣n nhớ, sau ngày 30-4-1975, khi đồng chí Lê Duẩn vào Sài G̣n, vừa xuống thang máy bay, đồng chí nắm tay đưa lên cao, giọng đầy cảm xúc: “Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải của riêng ai!”
Nhưng trong suốt 40 năm qua những người lănh đạo CSVN từ thời Trường Chinh Đặng Xuân Khu đến Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là 6 người, thử hỏi họ đă làm ǵ để hàn gắn vết thương dân tộc, cải thiện đời sống cho dân hay vẫn tạo ra những bất công trong đời sống hàng ngày, kỳ thị kẻ thắng người thua và nuôi dưỡng hận thù để bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho đàng CSVN ?
Bằng chứng trong đời sống hiện nay, sau gần 30 năm được gọi là “đổi mới” (1986-2014), hai tầng lớp công nhân và nông dân là thành tŕ của “cách mạng vô sản” đă hy sinh xuơng máu giúp cho đảng CSVN tồn tại và độc quyền cai trị đất nước lại vẫn là tầng lớp phải chịu thiệt tḥi và kém may mắn nhất trong xă hội Việt Nam ngày nay.
TƯƠNG LAI Ở ĐÂU ?
Vậy tương lai của con cháu họ sẽ đi về đâu trong vũng bùn đói, nghèo, lạc hậu, chậm tiến và kéo dài xung đột địa phương trong khi Việt Nam đang mất dần biển đảo vào tay Trung Quốc ở Biển Đông ?
T́nh h́nh bế tắc này chỉ có thể mở ra bằng con đường duy nhất là Việt Nam phải có dân chủ và tự do và đ̣an kết, ḥa hợp, ḥa giải dân tộc để xây dựng đất nước.
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=696807&stc=1&d=1417211539
Phạm Trần
Từ đó đến nay (2014) đă 41 năm mà người Việt Nam ở hai bờ chiến tuyến vẫn c̣n xa cách như khi chiến tranh chưa kết thúc ngày 30/04/1975 phải có nguyên nhân.
Lỗi này, trước hết và duy nhất phải quy kết vào trách nhiệm của đảng và nhà nước Cộng sản mang danh Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa ở miền Bắc và những người Việt miền Nam đi theo Cộng sản được đại diện bởi Chính phủ Lâm thời Cộng ḥa miền Nam Việt Nam, hay Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam.
Tại sao ?
Bởi v́ Hiệp định Paris đă nói rơ trong Chương IV về “ VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN TỰ QUYẾT CỦA NHÂN DÂN MIỀN NAM VIỆT NAM” gồm những Điều rất rơ nhự sau:
Điều 9:
Chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng ḥa cam kết tôn trọng những nguyên tắc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam dưới đây:
a) Quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm và phải được tất cả các nước tôn trọng.
b) Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của miền Nam Việt Nam thông quan tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ, có giám sát quốc tế.
c) Các nước ngoài sẽ không được áp đặt bất cứ xu hướng chính trị hoăc cá nhân nào đối với nhân dân miền Nam Việt Nam.
Điều 10:
Hai bên miền Nam Việt Nam cam kết tôn trọng ngừng bắn và giữ vững ḥa b́nh ở miền Nam Việt Nam; giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng thương lượng và tránh mọi xung đột bằng vũ lực.
Điều 11:
Ngay sau khi ngừng bắn, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ:
– Thực hiện ḥa giải và ḥa hợp dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đă hợp tác với bên này hoặc bên kia;
– Bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân: tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động chính trị, tự do tín nguỡng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm ăn sinh sống, quyền tư hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh.
Điều 12:
a) Ngay sau khi ngừng bắn, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ hiệp thương trên tinh thần ḥa giải và ḥa hợp dân tộc, tôn trọng lẫn nhau và không thôn tính nhau để thành lập Hội đồng quốc gia ḥa giải và ḥa hợp dân tộc gồm ba thành phần ngang nhau (các bên kư kết hiểu với nhau gồm có: Chính phủ Việt Nam cộng ḥa, Lực lượng thứ ba –hay phe Dương Văn Minh--, Chính phủ Cộng ḥa miền Nam Việt Nam). Hội đồng sẽ làm việc theo nguyên tắc nhất trí. Sau khi Hội đồng quốc gia ḥa giải và ḥa hợp dân tộc nhậm chức, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ hiệp thương để thành lập các hội đồng cấp dưới. Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ kư một hiệp định về các vấn đề nội bộ của miền Nam Việt Nam càng sớm càng tốt, và sẽ làm hết sức ḿnh để thực hiện việc này trong ṿng chín mươi ngày sau khi ngừng bắn có hiệu lực, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân miền Nam Việt Nam là ḥa b́nh, độc lập và dân chủ.
b) Hội đồng quốc gia ḥa giải và ḥa hợp dân tộc có nhiệm vụ đôn đốc hai bên miền Nam Việt Nam thi hành Hiệp định này, thực hiện ḥa giải và ḥa hợp dân tộc, bảo đảm tự do dân chủ. Hội đồng quốc gia ḥa giải và ḥa hợp dân tộc sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do và dân chủ như đă nói trong Điều 9(b) và quy định thủ tục và thể thức của cuộc tổng tuyển cử này. Các cơ quan quyền lực mà cuộc tổng tuyển cử đó sẽ bầu ra sẽ do hai bên miền Nam Việt Nam thông qua hiệp thuơng mà thỏa thuận. Hội đồng quốc gia ḥa giải và ḥa hợp dân tộc cũng sẽ quy định thủ tục và thể thức tuyển cử địa phuơng theo như hai bên miền Nam Việt Nam thỏa thuận.
Điều 13:
Vấn đề lực luợng vũ trang Việt Nam ở miền Nam Việt Nam sẽ do hai bên miền Nam Việt Nam giải quyết trên tinh thần ḥa giải và ḥa hợp dân tộc, b́nh đẳng và tôn trọng lẫn nhau, không có sự can thiệp của nước ngoài, phù hợp với t́nh h́nh sau chiến tranh. Trong số những vấn đề hai bên miền Nam Việt Nam thảo luận có các biện pháp giảm số quân của họ và phục viên số quân đă giảm. Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ hoàn thành việc đó càng sớm càng tốt.
Điều 14:
Miền Nam Việt Nam thực hiện chính sách đối ngoại ḥa b́nh, độc lập. Miền Nam Việt Nam sẵn sàng thiết lập quan hệ với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị và xă hội trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau và nhận viện trợ kinh tế, kỹ thuật của bất cứ nước nào không kèm theo điều kiện chính trị. Vấn đề nhận viện trợ quân sự sau này cho miền Nam Việt Nam sẽ thuộc thẩm quyền của chính phủ được thành lập sau tổng tuyển cử ở miền Nam nói trong Điều 9(b).
SỰ THẬT PHŨ PHÀNG
Trên giấy trắng mực đen là như thế với chữ kư cam kết của 4 bên gồm: Bộ trưởng Ngọai giao William P. Rogers (Hoa Kỳ), Trần Văn Lắm (Việt Nam Cộng ḥa), Bộ trường Ngọai giao Nguyễn Duy Trinh (Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa) và Bộ trường Ngọai giao Nguyễn Thị B́nh (Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng ḥa miến Nam Việt Nam).
Nhưng trong thực tế trên chiến trường vào thời điểm này, ngót 300,000 quân đội miền Bắc vẫn hành quân trên lănh thổ Việt Nam Cộng ḥa trong khi Quân đội Hoa Kỳ và đồng minh phải rút hết khỏi miền Nam Việt Nam.
Từ đó Quân lực Việt Nam Cộng ḥa phải tiếp tục chiến đấu một ḿnh với sự viện trợ rất hạn chế về vũ khí và lương thực của Hoa Kỳ.
Theo các tài liệu của Quốc tế phổ biến trên Internet th́ vào năm 1973, Việt Nam Cộng ḥa có 450.000 quân chủ lực và hơn 700.000 quân địa phương và dân vệ. Quân Đội Cộng sản Nhân Dân Việt Nam có 525.000 quân (Hoa Kỳ ước đoán 500.000-600.000), kể cả lối 220.000 trong số đó đang có mặt ở miền Nam.
Tuy nhiên về hỏa lực th́ quân đội Cộng sản có số lượng gấp 3 lần hơn vũ khí và đạn được của quân đội miền Nam v́ Liên bang Sô viết do Nga cầm đầu và Trung Cộng vẫn tiếp tục đổ súng đạn và lương thực vào miến Bắc để vuợt Trường Sơn vào tiếp tế cho chiến trường miền Nam.
Ngược lại v́ ràng buộc bởi Hiệp định Paris 1973, chính phủ Hoa Kỳ đă bị Quốc hội hạn chế viện trợ cho miền Nam Việt Nam từ 2 tỷ mỗi năm xuống c̣n 600 triệu, sau ngày kư Hiệp định Paris 1973.
Sau đó số tiền này bị chận lại ở Quốc hội khi phía Mỹ thấy t́nh h́nh mất Việt Nam Cộng ḥa vào tay quân đội miền Bắc không c̣n cưu văn được nữa, sau cuộc tấn công của lực lượng miền Bắc vào thành phổ Ban Mê Thuột ngày 10 tháng 3/1975, mở đầu cho Chiến dịch Tây Nguyên mang “mật danh Chiến dịch 275”.
Hành động tiếp tục chiến tranh xâm lăng miền Nam ngay trong lúc đàm phán để sau này miền Bắc chà đạp lên quyền tự quyết của nhân dân hai bên miền Nam ghi trong Hiệp định Paris 1973, đă được Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hà thuộc Viện Lịch sử Đảng xác nhận trong bài viết “Hoạt động quân sự trên chiến trường miền Nam 1968-1973” vào dịp Kỷ niệm 40 năm ngày kư Hiệp định Paris về Việt Nam của Tạp chí Thế giới-Việt Nam (The World & Vietnam report) thuộc Bộ Ngọai giao Hà Nội ngày 31/01/2013.
Ông viết: “Ngày 23/3/1972, Bộ Chính trị thông qua phương án của Quân ủy Trung ương, quyết định mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972, lấy Trị Thiên làm hướng tiến công chủ yếu. Đông Nam Bộ và Tây Nguyên là hướng phối hợp.
Ngày 30/3/1972, quân ta nổ súng ở Trị Thiên, mở màn cho cuộc tiến công chiến lược 1972. Ngày 2/5/1972, ta giải phóng tỉnh Quảng Trị. Đây là thắng lợi quân sự rất quan trọng, có ư nghĩa trong năm bản lề 1972 có nhiều sự kiện quân sự, ngoại giao lớn đan xen. Đó là hai chuyến thăm Trung Quốc (2/1972), Liên Xô (5/1972) của Tổng thống Mỹ Nixon gây chia rẽ và bất lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Đó là việc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân, thả ḿn, thủy lôi phong tỏa các cảng, cửa sông, cửa biển của miền Bắc từ 6/4/1972 với quy mô và cường độ ác liệt hơn trước, gây khó khăn cho vận chuyển tiếp tế cho miền Nam cả đường bộ và đường thủy.
Cuộc tiến công chiến lược ở Trị Thiên và Đông Nam Bộ, Tây Nguyên đă giành được những thắng lợi rất quan trọng song cũng chịu nhiều tổn thất hy sinh (đặc biệt là trận chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị 81 ngày đêm, từ 25/6 đến 16/9/1972), đă tạo điều kiện cho đấu tranh ngoại giao thu được kết quả. Đoàn đàm phán Việt Nam tại Hội nghị Pari đă chủ động có bước đột phá, đưa ra bản dự thảo Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại ḥa b́nh ở Việt Nam (10/1972), đẩy Mỹ vào thế bị động, lúng túng, phải đi vào đàm phán thực chất.
Đặc biệt, quân và dân miền Bắc, chủ yếu là Hà Nội, Hải Pḥng, đă đánh bại cuộc tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B52 trong 12 ngày đêm cuối năm 1972 của Mỹ, làm nên trận "Điện Biên Phủ trên không". Đây là thắng lợi quân sự lớn nhất, góp phần quyết định buộc Mỹ phải kư Hiệp định Pari ngày 27/1/1973, rút hết quân Mỹ và quân đồng minh của Mỹ về nước, mở ra thời cơ chiến lược để quân và dân ta tiến lên "đánh cho ngụy nhào" vào mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc.”
HỆ LỤY CỦA CHIẾN THẮNG
Nhưng nhóm chữ “giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước” đă nói lên được điều ǵ ?
Thứ nhất, đó là hành động tự nhổ bọt vào chữ kư của hai Bộ trưởng Ngọai giao Nguyễn Duy Trinh và Nguyễn Thị B́nh.
Thứ hai, nó đă gây ra t́nh trạng chia rẽ và hận thù dân tộc do đảng CSVN gây ra cho nhân dân miền Nam Việt Nam.
Hàng loạt những chủ trương trả thù quân nhân Việt Nam Cộng ḥa, công chức, các chính đảng Quốc gia và Văn nghệ sỹ miền Nam đă được thi hành để đem hàng trăm ngàn con người vào các trại tập trung tù đầy khổ cực được mệnh danh “Cảo tạo” gỉa đạo đức. Nhiều ngàn người đă chết mất xác tại các trại tập trung lao động khổ sai này.
Thứ ba, khi Thủ tướng Vơ Văn Kiệt nói vào năm 2005 rằng: “Chiến thắng của chúng ta là vĩ đại, nhưng chúng ta cũng đă phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều mất mát. Lịch sử đă đặt nhiều gia đ́nh miền Nam rơi vào hoàn cảnh có người thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi cũng như vậy. V́ thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn” th́ ông đă nghỉ hưu, không c̣n tác động ǵ đến lớp người cầm quyền nữa.
Bởi v́ lời nói, tuy tâm huyết, có suy tư của một người Lănh đạo gốc miền Nam đă từng mất vợ và con trong cuộc oanh kích của máy bay trên một nhánh sông gần B́nh Dương đă qúa muộn, không sao hàn gắn được vết thương chiến tranh mà người miền Nam là nạn nhân.
Thứ bốn, danh từ “giải phóng” miền Nam của bộ đội Cộng sản miền Bắc Cộng sản, v́ vậy sẽ không bao giờ có thế trả hết nợ đối với hàng chục ngàn phụ nữ Việt Nam đă bị Hải tặc cưỡng hiếp rồi quăng xác xuống biển hay bắt đi bán cho các động Măi Dâm trong vùng Đông Nam Á. Ngàn người dân b́nh thường khác, trong đó có vô số trẻ em, người ǵa cũng đă chết ch́m trên Biển Đông trên đường trốn Cộng sản t́m tự do sau ngày ngày 30/04/1975.
Tuy nhiên người dân ở miền Bắc và ngay cả trong các vùng được gọi là “giải phóng” trong Nam khi c̣n chiến tranh cũng chẳng may mắn ǵ hơn đồng bào miền Nam. Họ cũng đă phải gánh chịu những mất mát khôn lường trong cuộc chiến 20 năm huynh đệ tương tàn bi thảm này.
Có ai biết được đă có bao nhiêu triệu bà mẹ mất con, người vợ mất chồng, hay thanh niên-thiếu nữ tuấn tú đă bỏ xác tại các chiến trường hay dọc đường Trường Sơn trên đường vào Nam ?
Những nấm mồ hoang hay nắm xương khô của người dân Việt Nam-Bắc đă tan nát vào ḷng đất Việt Nam đă nói lên được điều ǵ đối với những người c̣n sống hôm nay ?
V́ vậy, ta không ngạc nhiên khi thấy ông Thủ tướng Vơ Văn Kiệt đă nói vào năm 2005 rằng: “Đó là một vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay v́ lại tiếp tục làm nó thêm rỉ máu. Cho nên tinh thần ḥa hợp dân tộc phải được coi trọng. Chúng ta c̣n nhớ, sau ngày 30-4-1975, khi đồng chí Lê Duẩn vào Sài G̣n, vừa xuống thang máy bay, đồng chí nắm tay đưa lên cao, giọng đầy cảm xúc: “Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải của riêng ai!”
Nhưng trong suốt 40 năm qua những người lănh đạo CSVN từ thời Trường Chinh Đặng Xuân Khu đến Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là 6 người, thử hỏi họ đă làm ǵ để hàn gắn vết thương dân tộc, cải thiện đời sống cho dân hay vẫn tạo ra những bất công trong đời sống hàng ngày, kỳ thị kẻ thắng người thua và nuôi dưỡng hận thù để bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho đàng CSVN ?
Bằng chứng trong đời sống hiện nay, sau gần 30 năm được gọi là “đổi mới” (1986-2014), hai tầng lớp công nhân và nông dân là thành tŕ của “cách mạng vô sản” đă hy sinh xuơng máu giúp cho đảng CSVN tồn tại và độc quyền cai trị đất nước lại vẫn là tầng lớp phải chịu thiệt tḥi và kém may mắn nhất trong xă hội Việt Nam ngày nay.
TƯƠNG LAI Ở ĐÂU ?
Vậy tương lai của con cháu họ sẽ đi về đâu trong vũng bùn đói, nghèo, lạc hậu, chậm tiến và kéo dài xung đột địa phương trong khi Việt Nam đang mất dần biển đảo vào tay Trung Quốc ở Biển Đông ?
T́nh h́nh bế tắc này chỉ có thể mở ra bằng con đường duy nhất là Việt Nam phải có dân chủ và tự do và đ̣an kết, ḥa hợp, ḥa giải dân tộc để xây dựng đất nước.