Hanna
11-29-2014, 19:55
Một sư huynh hỏi tôi, ngày xưa các cụ ta học chữ Hán như thế nào ? Bản thân tôi chưa thực sự am tường, song trong quá tŕnh đọc sách, tôi có lưu lại vài ḍng kiến văn thô lậu thế này, tiện cung cấp lên đây để những ai quan tâm tiện tham khảo.
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=697394&stc=1&d=1417290905
Ngoài một số bài thơ dạy nhớ chữ Hán kiểu “Chim chích mà đậu cành tre ; Thập trên Tứ dưới Nhất đè chữ Tâm“, “Cô Lan đứng ở cửa Đông ; Cớ sao để tóc rối bung trên đầu“… theo một số tư liệu như Việt kiệu thư (越嶠書), Sơn cư tạp thuật (山居雜述), Kỹ thuật của người An Nam (Technique du peuple Annamite) th́ có thể bước đầu nhận định : Từ thời Trần cho tới thời Nguyễn, trẻ con khi mới tập viết đều phải biết 25 chữ Hán cơ bản, gọi tắt là Thượng đại nhân (上大人).- Sách Việt kiệu thư của Lư Văn Phượng (李文凤) – người thời Minh sơ, cho biết : Năm 1406, sau khi thôn tính được nước ta, Minh Thành Tổ (明成祖, 1360 – 1424) đă hạ lệnh “binh lính vào nước ấy, ngoại trừ sách kinh và ván in của đạo Phật, đạo Lăo không thiêu hủy ; tất cả thư tịch, ván in cho đến những loại giấy trẻ con quê mùa tập viết như “Thượng đại nhân, Khưu ất dĩ”, một mảnh một chữ đều phải hủy hết” (兵入除釋道經板經文不毀外,一切書板文字 以至俚俗童蒙所習如上大人丘乙已之類片紙隻 字悉皆毀之,其境内凡有古跡中國所立碑刻則 存之,但是安南所立者悉坏之, 一字不存. Câu “俚俗童蒙所習如上大人丘乙已之 類” được dịch trong sách Thơ văn Lư – Trần là “những loại (sách ghi chép) ca lư dân gian, hay sách dạy trẻ, như loại sách có câu Thượng đại nhân, Khưu ất dĩ” không chuẩn xác).
- Mục “Thượng đại nhân” trong sách Sơn cư tạp thuật niên đại Lê mạt, cho biết : Trẻ con mới tập viết chữ, ắt viết “Thượng đại nhân, Khưu ất dĩ [chữ “khưu” sau này đổi thành chữ “thánh”], hóa tam thiên, thất thập sĩ, nhĩ tiểu sinh, bát cửu tử, giai tác nhân, khả tri lễ dă” (小兒初習字,必書[上大人,丘乙已(丘今作聖),化三千,七十 士。爾小生,八九子,佳作仁(佳今作皆), 可知禮也]。天下同然,不知何起 / Bậc đại nhân thời cổ, chỉ có ngài Khổng Khưu mà thôi, ngài giáo hóa ba ngàn môn đệ, có bảy mươi học tṛ giỏi. Nay tṛ nhỏ các ngươi, tám chín đứa, làm tốt điều nhân, biết lễ nghĩa, thiên hạ đều như vậy, không biết bắt đầu từ khi nào).
- Sách Kỹ thuật của người An Nam niên đại 1909 c̣n lưu lại hai bức tranh Trẻ con tập viết, đều xuất hiện các ḍng chữ “Thượng đại nhân, Khưu ất dĩ“.
Bên cạnh đó, Sơn cư tạp thuật c̣n cho biết : Ở nước ta, trẻ con mới nhập học, phải viết hai câu “Thiên tích thông minh, thánh phù công dụng“, không biết từ đâu, có người bảo “bắt đầu từ Lê Văn Hưu, người Phủ Lư Đông Sơn vậy” (我國童子入學,必書[天錫聰明,聖扶功用]兩句,不知何自。或曰始于黎文休,東山甫里 人). Ông nội tôi lúc sinh thời từng kể rằng : Hồi nhỏ ông đi học chữ Nho, thầy bắt chép đi chép lại 8 chữ “Thiên tích thông minh, thánh phù công dụng“, ông và chúng bạn toàn đọc vui thành “Thiên tích thong manh, thánh nằm chỏng gọng“. Ngoài ra, An Nam kỷ du (安南紀遊) của Phan Đỉnh Quế (潘鼎桂) – quan triều Thanh, mô tả phép viết chữ của người Việt thời Lê trung hưng như sau : “Thư pháp tuân theo Tống thể. Người trong cả nước viết từng chấm từng nét đều có kiểu dáng giống nhau, xấu đẹp không thật rơ ràng. Ta từng hỏi sĩ đại phu nước ấy về nguyên do của việc này. Đại để người Trung Quốc ta học viết chữ, gộp cách thức của một chữ lại mà học. Đằng kia th́ xé từng nét chia ra, khiến các phần phân tán không liền mạch, sau đó hợp lại thành một chữ. Đó cũng là một cách học vậy” (書法遵宋體。盡國之人,點畫形勢無不同, 不甚分醜好。余嘗與其士大夫國人講求其故。 大都我中土人學書,合一字格式學。彼則裂一 字之點畫分之,使其材質靡不通,然後合為一 字。亦一法也).
vnn
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=697394&stc=1&d=1417290905
Ngoài một số bài thơ dạy nhớ chữ Hán kiểu “Chim chích mà đậu cành tre ; Thập trên Tứ dưới Nhất đè chữ Tâm“, “Cô Lan đứng ở cửa Đông ; Cớ sao để tóc rối bung trên đầu“… theo một số tư liệu như Việt kiệu thư (越嶠書), Sơn cư tạp thuật (山居雜述), Kỹ thuật của người An Nam (Technique du peuple Annamite) th́ có thể bước đầu nhận định : Từ thời Trần cho tới thời Nguyễn, trẻ con khi mới tập viết đều phải biết 25 chữ Hán cơ bản, gọi tắt là Thượng đại nhân (上大人).- Sách Việt kiệu thư của Lư Văn Phượng (李文凤) – người thời Minh sơ, cho biết : Năm 1406, sau khi thôn tính được nước ta, Minh Thành Tổ (明成祖, 1360 – 1424) đă hạ lệnh “binh lính vào nước ấy, ngoại trừ sách kinh và ván in của đạo Phật, đạo Lăo không thiêu hủy ; tất cả thư tịch, ván in cho đến những loại giấy trẻ con quê mùa tập viết như “Thượng đại nhân, Khưu ất dĩ”, một mảnh một chữ đều phải hủy hết” (兵入除釋道經板經文不毀外,一切書板文字 以至俚俗童蒙所習如上大人丘乙已之類片紙隻 字悉皆毀之,其境内凡有古跡中國所立碑刻則 存之,但是安南所立者悉坏之, 一字不存. Câu “俚俗童蒙所習如上大人丘乙已之 類” được dịch trong sách Thơ văn Lư – Trần là “những loại (sách ghi chép) ca lư dân gian, hay sách dạy trẻ, như loại sách có câu Thượng đại nhân, Khưu ất dĩ” không chuẩn xác).
- Mục “Thượng đại nhân” trong sách Sơn cư tạp thuật niên đại Lê mạt, cho biết : Trẻ con mới tập viết chữ, ắt viết “Thượng đại nhân, Khưu ất dĩ [chữ “khưu” sau này đổi thành chữ “thánh”], hóa tam thiên, thất thập sĩ, nhĩ tiểu sinh, bát cửu tử, giai tác nhân, khả tri lễ dă” (小兒初習字,必書[上大人,丘乙已(丘今作聖),化三千,七十 士。爾小生,八九子,佳作仁(佳今作皆), 可知禮也]。天下同然,不知何起 / Bậc đại nhân thời cổ, chỉ có ngài Khổng Khưu mà thôi, ngài giáo hóa ba ngàn môn đệ, có bảy mươi học tṛ giỏi. Nay tṛ nhỏ các ngươi, tám chín đứa, làm tốt điều nhân, biết lễ nghĩa, thiên hạ đều như vậy, không biết bắt đầu từ khi nào).
- Sách Kỹ thuật của người An Nam niên đại 1909 c̣n lưu lại hai bức tranh Trẻ con tập viết, đều xuất hiện các ḍng chữ “Thượng đại nhân, Khưu ất dĩ“.
Bên cạnh đó, Sơn cư tạp thuật c̣n cho biết : Ở nước ta, trẻ con mới nhập học, phải viết hai câu “Thiên tích thông minh, thánh phù công dụng“, không biết từ đâu, có người bảo “bắt đầu từ Lê Văn Hưu, người Phủ Lư Đông Sơn vậy” (我國童子入學,必書[天錫聰明,聖扶功用]兩句,不知何自。或曰始于黎文休,東山甫里 人). Ông nội tôi lúc sinh thời từng kể rằng : Hồi nhỏ ông đi học chữ Nho, thầy bắt chép đi chép lại 8 chữ “Thiên tích thông minh, thánh phù công dụng“, ông và chúng bạn toàn đọc vui thành “Thiên tích thong manh, thánh nằm chỏng gọng“. Ngoài ra, An Nam kỷ du (安南紀遊) của Phan Đỉnh Quế (潘鼎桂) – quan triều Thanh, mô tả phép viết chữ của người Việt thời Lê trung hưng như sau : “Thư pháp tuân theo Tống thể. Người trong cả nước viết từng chấm từng nét đều có kiểu dáng giống nhau, xấu đẹp không thật rơ ràng. Ta từng hỏi sĩ đại phu nước ấy về nguyên do của việc này. Đại để người Trung Quốc ta học viết chữ, gộp cách thức của một chữ lại mà học. Đằng kia th́ xé từng nét chia ra, khiến các phần phân tán không liền mạch, sau đó hợp lại thành một chữ. Đó cũng là một cách học vậy” (書法遵宋體。盡國之人,點畫形勢無不同, 不甚分醜好。余嘗與其士大夫國人講求其故。 大都我中土人學書,合一字格式學。彼則裂一 字之點畫分之,使其材質靡不通,然後合為一 字。亦一法也).
vnn