Romano
11-30-2014, 20:32
1. Các hành vi của Trung Quốc trong thời gian gần đây dưới góc nh́n của luật pháp quốc tế.
Với sức mạnh và vị thế của một “cường quốc đang trỗi dậy ḥa b́nh”, Trung Quốc ngày càng ra sức biểu dương sức mạnh của ḿnh đối với thế giới, đặc biệt là với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Trong đó, tâm điểm để Trung Quốc thị uy sức mạnh của họ chính là ở Biển Đông. Nhằm thực hiện mưu đồ “độc chiếm Biển Đông”, thời gian gần đây Trung Quốc đă bất chấp luật pháp quốc tế, bất chấp các cam kết chính trị với Asean và Việt Nam, thực hiện một có hệ thống các hành vi vi phạm pháp luật quốc tế, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên các vùng biển, đảo của của Việt Nam đă được luật pháp quốc tế và đặc biệt là UNCLOS thừa nhận.
Một là: Các hành vi xâm phạm chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông gồm:
- Tuyên bố về yêu sách đường chữ U chín đoạn chiếm hơn 80% diện tích Biển Đông ngày 7/5/2009<sup><sup>[2]</sup></sup>.
- Thành lập thành phố Tam Sa, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam ngày 22/6/2012<sup><sup>[3]</sup></sup>.
- Tiến hành tôn tạo, xây dựng trái phép các băi cạn trên quần đảo Trường Sa mà Trung Quốc đă xâm lược của Việt Nam tháng 3/1988 (băi Châu Viên, Chữ Thập, Gạc Ma, Ga ven, Tư Nghĩa, Su Bi)<sup><sup>[4]</sup></sup>.
- Đưa vào hệ thống đăng kư quyền sử dụng đất đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam tháng 6/2014;
- Vẽ lại bản đồ quốc gia theo khổ dọc với đường 10 đoạn chiếm hơn 90% diện tích Biển Đông ngày 26/6/2014<sup><sup>[5]</sup></sup>.
Các hành vi nói trên của Trung Quốc đă vi phạm nghiêm trọng chủ quyền đối với lănh hải và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là những bộ phận không thể tách rời của Việt Nam. Về phương diện pháp luật quốc tế, đây là hành vi “xâm lược mềm”, “xâm lược bằng bản đồ” của Trung Quốc. Các hành vi này được Trung Quốc thực hiện một cách bài bản, có hệ thống nhằm từng bước thay đổi hiện trạng ở Biển Đông, cụ thể hóa âm mưu độc chiếm Đông. Đồng thời, biến Biển Đông nằm trọn trong vành đai liên hoàn với 3 điểm tiền tiêu chiến lược từ Bắc xuống Nam gồm: Đảo Hải Nam, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam để từ đó kiểm soát, khống chế toàn bộ tuyến đường hàng hải, hàng không và mọi hoạt động trên Biển Đông, biến Biển Đông thành “ao” riêng của Trung Quốc.
Hai là, các hành vi xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên Biển Đông gồm:
- Dùng tàu Hải giám quấy nhiễu và cắt cáp ngầm của tàu B́nh Minh 2 đang hoạt động thăm ḍ dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ngày 25/6/2011<sup><sup>[6]</sup></sup>
- Ngang nhiên mời thầu quốc tế 09 lô dầu khí hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam năm 6/2012<sup><sup>[7]</sup></sup>;
- Cản trở hoạt động hợp tác khai thác dầu khí của Việt Nam với các công ty nước ngoài<sup><sup>[8]</sup></sup>;
Các hành vi này vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam đă được Việt Nam xác lập và thực thi phù hợp với UNCOLS.
Tham vọng bất chấp luật pháp quốc tế của Trung Quốc không dừng lại mà ngày càng gia tăng cả về tính chất và mức độ nguy hiểm, đe doạ hoà b́nh, an ninh, tự do hàng hải, hàng không và thương mại của khu vực và thế giới. Đỉnh điểm là sự kiện Tổng công ty dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam theo quy định của UNCLOS (cách đảo Lư Sơn, điểm cơ sở số 10 trên tuyến đường cơ sở của Việt Nam xác lập theo Tuyên bố của Chính phủ CHXHCN Việt Nam ngày 12/11/1982, 119 hải lư<sup><sup>[9]</sup></sup>) vào ngày 1/5/2014,.
Đánh giá trên tất cả các phương diện pháp luật, chính trị và quan hệ quốc tế, hành vi hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam đă vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Hiến chương Liên Hợp quốc, các nguyên tắc điều chỉnh mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia (các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế), UNCLOS, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông DOC năm 2002 và các thỏa thuận song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc, cụ thể:
(1) Về phương diện pháp luật quốc tế, đây là hành vi vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước CHXHCN Việt Nam đă được thừa nhận và quy định trong UNCLOS. Theo UNCLOS, quốc gia ven biển có quyền thiết lập vùng đặc quyền kinh tế rộng không quá 200 hải lư tính từ đường cơ sở<sup><sup>[10]</sup></sup>. Trong vùng biển này, quốc gia ven biển có các quyền thuộc chủ quyền về kinh tế (quyền thăm ḍ khai thác, bảo tồn, quản lư tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển, cũng như các hoạt động khác nhằm thăm ḍ, khai thác vùng biển này v́ mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió). Đồng thời, quốc gia ven biển có quyền tài phán (cho phép, kiểm tra, giám sát, xử lư ) đối với các hoạt động lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công tŕnh, nghiên cứu khoa học về biển và bảo vệ và ǵn giữ môi trường biển<sup><sup>[11]</sup></sup>.
Để thực hiện quyền chủ quyền và quyền tài phán của ḿnh, UNCLOS cho phép các quốc gia ven biển có quyền “ thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các luật và quy định mà quốc gia đă ban hành theo đúng Công ước”[12].
Bên cạnh đó, UNCLOS cũng quy định trách nhiệm của các quốc gia khác, “khi thực hiện các quyền và làm các nghĩa vụ của ḿnh theo Công ước, các quốc gia phải tính đến các quyền và các nghĩa vụ của quốc gia ven biển và tôn trọng các luật và quy định mà quốc gia ven biển đă ban hành theo đúng các quy định của Công ước…”[13].
Đối với đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển, UNCLOS cho phép quốc gia ven biển thiết lập một vùng đáy biển có chiều rộng tính từ đường cơ sở đến ŕa lục địa hẹp nhất là 200 hải lư và rộng nhất là 350 hải lư là thềm lục địa thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia. Quốc gia ven biển có các quyền thuộc chủ quyền đối với mọi tài nguyên thiên nhiên có trong thềm lục địa của ḿnh. Đây là các quyền có tính chất đặc quyền, nghĩa là các quốc gia ven biển không thăm ḍ thềm lục địa hay không khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa, th́ không ai có quyền tiến hành các hoạt động như vậy, nếu không có sự thỏa thuận rơ ràng của quốc gia đó[14].
Đồng thời, quốc gia ven biển có quyền tài phán ở thềm lục địa trong 4 lĩnh vực: (i) Lắp đặt các đảo và công tŕnh thiết bị nhân tạo; (2) Nghiên cứu khoa học về biển; (iii) Khoan ở thềm lục địa; (iiii) Bảo vệ giữ ǵn môi trường biển[15].
Nghiêm trọng hơn, khi các cơ quan thực thi pháp luật của Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt việc hạ đặt bất hợp pháp giàn khoan Hải Dương 981 th́ Trung Quốc đă huy động thường xuyên và liên tục một lực lượng hùng hậu với hơn 100 tàu các loại gồm cả tàu hộ vệ tên lửa, tàu tấn công nhanh, tàu kéo, tàu hải giám, tàu ngư chính, tàu hải cảnh, tàu hải tuần và hàng trăm lượt máy bay quân sự đe dọa và tấn công các tàu thực thi pháp luật của Việt Nam và tàu cá của ngư dân Việt Nam, làm thiệt hại nặng nề đối với tài sản và sức khỏe của các chiến sĩ Cảnh sát biển, Kiểm ngư viên và ngư dân Việt Nam. Đây là hành vi sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực, vi phạm Hiến chương Liên hợp quốcvà các nguyên tắc điều chỉnh mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia đă được Đại hội đồng Liên hợp quốcthông qua ngày 24/10/1970 trong đó có Nguyên tắc b́nh đẳng chủ quyền giữa các quốc gia; Nguyên tắc cấm sử dụng và đe doạ sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; Nguyên tắc hoà b́nh giải quyết các tranh chấp quốc tế; Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau và Nguyên tắc tậntâm thực hiện các cam kết quốc tế (tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế Pacta sunt servanda). Đặc biệt, hành vi này của Trung Quốc đă vi phạm nghiêm trọng các quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được UNCLOS ghi nhận mà Trung Quốc, một cường quốc của thế giới và là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốcđă phê chuẩn năm 1996, lẽ ra Trung Quốc phải gương mẫu và tuân thủ thực hiện.
(2) Về phương diện pháp luật quốc gia, hành vi hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 đă vi phạm nghiệm trọng pháp luật Việt Nam, đặc biệt là Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam 2013 và Luật Biển Việt Nam năm 2012. Trong đó, Luật Biển Việt Nam 2012, một đạo luật chuyên ngành về biển, là cơ sở pháp lư quốc gia quan trọng nhất để nhà nước, cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam quản lư, khai thác và bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên các vùng biển của Việt Nam (nội thuỷ, lănh hải, tiếp giáp lănh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa) đă xác lập hoàn toàn phù hợp với UNCLOS.
Trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Luật Biển Việt Nam 2012 quy định:Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lănh hải Việt Nam, hợp với lănh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lư tính từ đường cơ sở<sup><sup>[16]</sup></sup>. Trong vùng đặc quyền kinh tế, Nhà nước thực hiện, quyền chủ quyền về việc thăm ḍ, khai thác, quản lư và bảo tồn tài nguyên thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển; về các hoạt động khác nhằm thăm ḍ, khai thác vùng này v́ mục đích kinh tế; Quyền tài phán quốc gia về lắp đặt và sử dụng đảo nhân tạo, thiết bị và công trinh trên biển; nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ và ǵn giữ môi trường biển; Các quyền và nghĩa vụ khác phù hợp với pháp luật quốc tế.
Đồng thời, Luật Biển 2012 khẳng định, Nhà nước tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không; quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp của các quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo quy định của Luật này và điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam. Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm ḍ sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt các thiết bị và công tŕnh trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên cơ sở các điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên, hợp đồng được kư kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế có liên quan. Các quyền có liên quan đến đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển quy định tại Điều này được thực hiện theo quy định tại Điều 17 và Điều 18 của Luật này<sup><sup>[17]</sup></sup>.
Trong thềm lục của CHXHCN Việt Nam, Luật Biển 2012 quy định, thềm lục địa là vùng đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển, tiếp liền và nằm ngoài lănh hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lănh thổ đất liền, các đảo và quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngoài của ŕa lục địa. Trong trường hợp mép ngoài của ŕa lục địa này cách đường cơ sở chưa đủ 200 hải lư th́ thềm lục địa nơi đó được kéo dài đến 200 hải lư tính từ đường cơ sở. Trong trường hợp mép ngoài của ŕa lục địa này vượt quá 200 hải lư tính từ đường cơ sở th́ thềm lục địa nơi đó được kéo dài không quá 350 hải lư tính từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lư tính từ đường đẳng sâu 2.500 mét<sup><sup>[18]</sup></sup>.
Nhằm tạo cơ sở pháp lư cho việc thực thi quyền chủ quyền và quyền tài phán của ḿnh, Luật Biển Việt Nam 2012 quy định, Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về thăm ḍ, khai thác tài nguyên. Quyền chủ quyền trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam có tính chất đặc quyền, không ai có quyền tiến hành hoạt động thăm ḍ thềm lục địa hoặc khai thác tài nguyên của thềm lục địa nếu không có sự đồng ư của Chính phủ Việt Nam. Nhà nước có quyền khai thác ḷng đất dưới đáy biển, cho phép và quy định việc khoan nhằm bất kỳ mục đích nào ở thềm lục địa. Nhà nước tôn trọng quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp khác của các quốc gia khác ở thềm lục địa Việt Nam theo quy định của Luật này và các điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam.
Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm ḍ, sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt thiết bị và công tŕnh ở thềm lục địa của Việt Nam trên cơ sở điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên, hợp đồng kư kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế có liên quan[19].
(3) Về phương diện chính trị ngoại giao quốc tế, hành vi của Trung Quốc đăvi phạm nghiên trọng Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông mà Trung Quốc và các nước ASEAN đă kư năm 2002 (DOC<sup><sup>[20]</sup></sup>); Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới, lănh thổ giữa CHXHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa năm 1993 và Thoả thuận về nguyên tắc chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 2011.
Về nội dung của DOC, Trung Quốc và các nước ASEAN đă cam kết:
Với sức mạnh và vị thế của một “cường quốc đang trỗi dậy ḥa b́nh”, Trung Quốc ngày càng ra sức biểu dương sức mạnh của ḿnh đối với thế giới, đặc biệt là với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Trong đó, tâm điểm để Trung Quốc thị uy sức mạnh của họ chính là ở Biển Đông. Nhằm thực hiện mưu đồ “độc chiếm Biển Đông”, thời gian gần đây Trung Quốc đă bất chấp luật pháp quốc tế, bất chấp các cam kết chính trị với Asean và Việt Nam, thực hiện một có hệ thống các hành vi vi phạm pháp luật quốc tế, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên các vùng biển, đảo của của Việt Nam đă được luật pháp quốc tế và đặc biệt là UNCLOS thừa nhận.
Một là: Các hành vi xâm phạm chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông gồm:
- Tuyên bố về yêu sách đường chữ U chín đoạn chiếm hơn 80% diện tích Biển Đông ngày 7/5/2009<sup><sup>[2]</sup></sup>.
- Thành lập thành phố Tam Sa, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam ngày 22/6/2012<sup><sup>[3]</sup></sup>.
- Tiến hành tôn tạo, xây dựng trái phép các băi cạn trên quần đảo Trường Sa mà Trung Quốc đă xâm lược của Việt Nam tháng 3/1988 (băi Châu Viên, Chữ Thập, Gạc Ma, Ga ven, Tư Nghĩa, Su Bi)<sup><sup>[4]</sup></sup>.
- Đưa vào hệ thống đăng kư quyền sử dụng đất đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam tháng 6/2014;
- Vẽ lại bản đồ quốc gia theo khổ dọc với đường 10 đoạn chiếm hơn 90% diện tích Biển Đông ngày 26/6/2014<sup><sup>[5]</sup></sup>.
Các hành vi nói trên của Trung Quốc đă vi phạm nghiêm trọng chủ quyền đối với lănh hải và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là những bộ phận không thể tách rời của Việt Nam. Về phương diện pháp luật quốc tế, đây là hành vi “xâm lược mềm”, “xâm lược bằng bản đồ” của Trung Quốc. Các hành vi này được Trung Quốc thực hiện một cách bài bản, có hệ thống nhằm từng bước thay đổi hiện trạng ở Biển Đông, cụ thể hóa âm mưu độc chiếm Đông. Đồng thời, biến Biển Đông nằm trọn trong vành đai liên hoàn với 3 điểm tiền tiêu chiến lược từ Bắc xuống Nam gồm: Đảo Hải Nam, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam để từ đó kiểm soát, khống chế toàn bộ tuyến đường hàng hải, hàng không và mọi hoạt động trên Biển Đông, biến Biển Đông thành “ao” riêng của Trung Quốc.
Hai là, các hành vi xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên Biển Đông gồm:
- Dùng tàu Hải giám quấy nhiễu và cắt cáp ngầm của tàu B́nh Minh 2 đang hoạt động thăm ḍ dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ngày 25/6/2011<sup><sup>[6]</sup></sup>
- Ngang nhiên mời thầu quốc tế 09 lô dầu khí hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam năm 6/2012<sup><sup>[7]</sup></sup>;
- Cản trở hoạt động hợp tác khai thác dầu khí của Việt Nam với các công ty nước ngoài<sup><sup>[8]</sup></sup>;
Các hành vi này vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam đă được Việt Nam xác lập và thực thi phù hợp với UNCOLS.
Tham vọng bất chấp luật pháp quốc tế của Trung Quốc không dừng lại mà ngày càng gia tăng cả về tính chất và mức độ nguy hiểm, đe doạ hoà b́nh, an ninh, tự do hàng hải, hàng không và thương mại của khu vực và thế giới. Đỉnh điểm là sự kiện Tổng công ty dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam theo quy định của UNCLOS (cách đảo Lư Sơn, điểm cơ sở số 10 trên tuyến đường cơ sở của Việt Nam xác lập theo Tuyên bố của Chính phủ CHXHCN Việt Nam ngày 12/11/1982, 119 hải lư<sup><sup>[9]</sup></sup>) vào ngày 1/5/2014,.
Đánh giá trên tất cả các phương diện pháp luật, chính trị và quan hệ quốc tế, hành vi hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam đă vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Hiến chương Liên Hợp quốc, các nguyên tắc điều chỉnh mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia (các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế), UNCLOS, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông DOC năm 2002 và các thỏa thuận song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc, cụ thể:
(1) Về phương diện pháp luật quốc tế, đây là hành vi vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước CHXHCN Việt Nam đă được thừa nhận và quy định trong UNCLOS. Theo UNCLOS, quốc gia ven biển có quyền thiết lập vùng đặc quyền kinh tế rộng không quá 200 hải lư tính từ đường cơ sở<sup><sup>[10]</sup></sup>. Trong vùng biển này, quốc gia ven biển có các quyền thuộc chủ quyền về kinh tế (quyền thăm ḍ khai thác, bảo tồn, quản lư tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển, cũng như các hoạt động khác nhằm thăm ḍ, khai thác vùng biển này v́ mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió). Đồng thời, quốc gia ven biển có quyền tài phán (cho phép, kiểm tra, giám sát, xử lư ) đối với các hoạt động lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công tŕnh, nghiên cứu khoa học về biển và bảo vệ và ǵn giữ môi trường biển<sup><sup>[11]</sup></sup>.
Để thực hiện quyền chủ quyền và quyền tài phán của ḿnh, UNCLOS cho phép các quốc gia ven biển có quyền “ thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các luật và quy định mà quốc gia đă ban hành theo đúng Công ước”[12].
Bên cạnh đó, UNCLOS cũng quy định trách nhiệm của các quốc gia khác, “khi thực hiện các quyền và làm các nghĩa vụ của ḿnh theo Công ước, các quốc gia phải tính đến các quyền và các nghĩa vụ của quốc gia ven biển và tôn trọng các luật và quy định mà quốc gia ven biển đă ban hành theo đúng các quy định của Công ước…”[13].
Đối với đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển, UNCLOS cho phép quốc gia ven biển thiết lập một vùng đáy biển có chiều rộng tính từ đường cơ sở đến ŕa lục địa hẹp nhất là 200 hải lư và rộng nhất là 350 hải lư là thềm lục địa thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia. Quốc gia ven biển có các quyền thuộc chủ quyền đối với mọi tài nguyên thiên nhiên có trong thềm lục địa của ḿnh. Đây là các quyền có tính chất đặc quyền, nghĩa là các quốc gia ven biển không thăm ḍ thềm lục địa hay không khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa, th́ không ai có quyền tiến hành các hoạt động như vậy, nếu không có sự thỏa thuận rơ ràng của quốc gia đó[14].
Đồng thời, quốc gia ven biển có quyền tài phán ở thềm lục địa trong 4 lĩnh vực: (i) Lắp đặt các đảo và công tŕnh thiết bị nhân tạo; (2) Nghiên cứu khoa học về biển; (iii) Khoan ở thềm lục địa; (iiii) Bảo vệ giữ ǵn môi trường biển[15].
Nghiêm trọng hơn, khi các cơ quan thực thi pháp luật của Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt việc hạ đặt bất hợp pháp giàn khoan Hải Dương 981 th́ Trung Quốc đă huy động thường xuyên và liên tục một lực lượng hùng hậu với hơn 100 tàu các loại gồm cả tàu hộ vệ tên lửa, tàu tấn công nhanh, tàu kéo, tàu hải giám, tàu ngư chính, tàu hải cảnh, tàu hải tuần và hàng trăm lượt máy bay quân sự đe dọa và tấn công các tàu thực thi pháp luật của Việt Nam và tàu cá của ngư dân Việt Nam, làm thiệt hại nặng nề đối với tài sản và sức khỏe của các chiến sĩ Cảnh sát biển, Kiểm ngư viên và ngư dân Việt Nam. Đây là hành vi sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực, vi phạm Hiến chương Liên hợp quốcvà các nguyên tắc điều chỉnh mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia đă được Đại hội đồng Liên hợp quốcthông qua ngày 24/10/1970 trong đó có Nguyên tắc b́nh đẳng chủ quyền giữa các quốc gia; Nguyên tắc cấm sử dụng và đe doạ sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; Nguyên tắc hoà b́nh giải quyết các tranh chấp quốc tế; Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau và Nguyên tắc tậntâm thực hiện các cam kết quốc tế (tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế Pacta sunt servanda). Đặc biệt, hành vi này của Trung Quốc đă vi phạm nghiêm trọng các quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được UNCLOS ghi nhận mà Trung Quốc, một cường quốc của thế giới và là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốcđă phê chuẩn năm 1996, lẽ ra Trung Quốc phải gương mẫu và tuân thủ thực hiện.
(2) Về phương diện pháp luật quốc gia, hành vi hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 đă vi phạm nghiệm trọng pháp luật Việt Nam, đặc biệt là Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam 2013 và Luật Biển Việt Nam năm 2012. Trong đó, Luật Biển Việt Nam 2012, một đạo luật chuyên ngành về biển, là cơ sở pháp lư quốc gia quan trọng nhất để nhà nước, cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam quản lư, khai thác và bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên các vùng biển của Việt Nam (nội thuỷ, lănh hải, tiếp giáp lănh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa) đă xác lập hoàn toàn phù hợp với UNCLOS.
Trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Luật Biển Việt Nam 2012 quy định:Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lănh hải Việt Nam, hợp với lănh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lư tính từ đường cơ sở<sup><sup>[16]</sup></sup>. Trong vùng đặc quyền kinh tế, Nhà nước thực hiện, quyền chủ quyền về việc thăm ḍ, khai thác, quản lư và bảo tồn tài nguyên thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển; về các hoạt động khác nhằm thăm ḍ, khai thác vùng này v́ mục đích kinh tế; Quyền tài phán quốc gia về lắp đặt và sử dụng đảo nhân tạo, thiết bị và công trinh trên biển; nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ và ǵn giữ môi trường biển; Các quyền và nghĩa vụ khác phù hợp với pháp luật quốc tế.
Đồng thời, Luật Biển 2012 khẳng định, Nhà nước tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không; quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp của các quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo quy định của Luật này và điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam. Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm ḍ sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt các thiết bị và công tŕnh trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên cơ sở các điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên, hợp đồng được kư kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế có liên quan. Các quyền có liên quan đến đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển quy định tại Điều này được thực hiện theo quy định tại Điều 17 và Điều 18 của Luật này<sup><sup>[17]</sup></sup>.
Trong thềm lục của CHXHCN Việt Nam, Luật Biển 2012 quy định, thềm lục địa là vùng đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển, tiếp liền và nằm ngoài lănh hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lănh thổ đất liền, các đảo và quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngoài của ŕa lục địa. Trong trường hợp mép ngoài của ŕa lục địa này cách đường cơ sở chưa đủ 200 hải lư th́ thềm lục địa nơi đó được kéo dài đến 200 hải lư tính từ đường cơ sở. Trong trường hợp mép ngoài của ŕa lục địa này vượt quá 200 hải lư tính từ đường cơ sở th́ thềm lục địa nơi đó được kéo dài không quá 350 hải lư tính từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lư tính từ đường đẳng sâu 2.500 mét<sup><sup>[18]</sup></sup>.
Nhằm tạo cơ sở pháp lư cho việc thực thi quyền chủ quyền và quyền tài phán của ḿnh, Luật Biển Việt Nam 2012 quy định, Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về thăm ḍ, khai thác tài nguyên. Quyền chủ quyền trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam có tính chất đặc quyền, không ai có quyền tiến hành hoạt động thăm ḍ thềm lục địa hoặc khai thác tài nguyên của thềm lục địa nếu không có sự đồng ư của Chính phủ Việt Nam. Nhà nước có quyền khai thác ḷng đất dưới đáy biển, cho phép và quy định việc khoan nhằm bất kỳ mục đích nào ở thềm lục địa. Nhà nước tôn trọng quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp khác của các quốc gia khác ở thềm lục địa Việt Nam theo quy định của Luật này và các điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam.
Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm ḍ, sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt thiết bị và công tŕnh ở thềm lục địa của Việt Nam trên cơ sở điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên, hợp đồng kư kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế có liên quan[19].
(3) Về phương diện chính trị ngoại giao quốc tế, hành vi của Trung Quốc đăvi phạm nghiên trọng Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông mà Trung Quốc và các nước ASEAN đă kư năm 2002 (DOC<sup><sup>[20]</sup></sup>); Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới, lănh thổ giữa CHXHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa năm 1993 và Thoả thuận về nguyên tắc chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 2011.
Về nội dung của DOC, Trung Quốc và các nước ASEAN đă cam kết: