PDA

View Full Version : Những dấu hiệu oan ức của tử tù Hồ Duy Hải – Kỳ 1


sonnyd
12-10-2014, 06:58
Hồ Duy Hải đă kêu oan trong suốt quá tŕnh xét xử vụ án. Theo yêu cầu nhờ hỗ trợ kêu oan của gia đ́nh phạm nhân, Luật sư Trần Hồng Phong (TP.HCM) đă dành hơn hai tháng nghiên cứu hồ sơ vụ án, đi gặp một số nhân chứng và đi thực địa ở địa bàn. Đơn đề nghị các cơ quan tố tụng xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm số 281/2009/HSPT của Ṭa Phúc thẩm TANDTC tại TP.HCM cho rằng việc xét xử phiến diện, thiếu khách quan, bất chấp kết quả giám định khoa học, bỏ qua t́nh tiết ngoại phạm của bị cáo; Kết luận trong bản án không phù hợp với các t́nh tiết khách quan của vụ án; Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm sai lệch hồ sơ vụ án; Áp dụng pháp luật không đúng, xét xử sai tội danh. Trên hết là có thể dẫn đến việc kết tội oan cho phạm nhân Hồ Duy Hải, đồng thời bỏ lọt kẻ phạm tội thực sự.
Ngày 4/12 vừa qua, TAND tỉnh Long An đă quyết định hoăn thi hành án tử h́nh với phạm nhân Hồ Duy Hải.

http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=704680&stc=1&d=1418194656

Án sơ phúc thẩm chỉ căn cứ vào lời khai nhận tội
Vụ án hai nữ nhân viên Bưu điện Cầu Voi (huyện Thủ Thừa, Long An) tên Hồng và Vân bị giết oan khốc, đă nhiều lần được báo chí thông tin và nhiều tờ báo từng đưa ra quan điểm Hải có thể bị kết án oan.
Tóm tắt sự việc như sau: Sáng 14/1/2008, người dân phát hiện hai nữ nhân viên Bưu điện Cầu Voi (nằm trên mặt tiền Quốc lộ 1A) bị cắt cổ chết ngay trong bưu điện. Cơ quan điều tra vào cuộc khám nghiệm hiện trường, khởi tố vụ án, mời nhiều nhân chứng, người có liên quan lấy lời khai nhưng sau hai tháng vẫn không t́m ra hung thủ.
Hơn hai tháng sau, Hải bị công an triệu tập lấy lời khai trong vụ án cá độ bóng đá và đánh đề. Chỉ hai ngày sau, Hải khai nhận giết hai cô gái và bị bắt tạm giam từ 31/3/2008 tới nay.
Theo bản án phúc thẩm, khoảng 19h ngày 13/1/2008, Hải đi xe máy của d́ ruột đến bưu điện, vào bên trong ngồi nói chuyện với chị Hồng. Khoảng 20h30 Hải đưa tiền kêu Vân đi mua trái cây. Khi Vân đi, Hải nảy sinh ư định quan hệ sinh lư với Hồng, nhưng bị phản ứng. Hải tức giận đánh vào mặt, bóp cổ, lấy thớt đập vào mặt và đầu làm chị Hồng bị ngất, lấy dao cắt vào cổ nạn nhân.
Sau đó, từ chân cầu thang, Hải thấy Vân đi mua trái cây về, kéo cửa sắt xuống đóng cửa và đi vào. Khi Vân vừa xuống pḥng sau, Hải dùng ghế đánh vào đầu làm ngă xuống nền gạch, xốc nách kéo đến chỗ xác bạn, đặt đầu Vân nằm trên bụng chị Hồng, lấy dao cắt vào cổ chị Vân 2 - 3 cái.
Hải ra pḥng vệ sinh rửa tay, rửa dao, bỏ hung khí vào sau tấm bảng, mở tủ lấy 1,4 triệu, sim card điện thoại, điện thoại Nokia, quay lại nơi đặt xác gỡ nữ trang của các nạn nhân. Cuối cùng, Hải leo qua hàng rào ngăn giữa sân sau và sân trước, lấy xe, chạy về nhà d́ ruột, kêu cửa mẹ, cất nữ trang vào bịch nilon rồi đi ngủ.
Bản án nhận định như sau: “Mặc dù qua điều tra không thu giữ được thớt tṛn, dao thái lan. Song những cung khai của bị cáo đều trùng khớp với bản ảnh hiện trường có con gấu nhồi bông, bịch trái cây, tấm nệm… có thớt tṛn bằng gỗ, có ghế inox, có việc bị cáo đốt quần áo…
Những cung khai và bản tự khai của bị cáo c̣n phù hợp với các biên bản nhận dạng về hung khí, về các tài sản đă chiếm đoạt của các nạn nhân, về các địa điểm mà bị cáo đă đến sau khi gây án.
Tại phiên ṭa sơ thẩm bị cáo thừa nhận chính là thủ phạm giết chết Hồng và Vân, ngay cả bản tự khai, các bản cung có Luật sư, có đại diện VKS tham gia bị cáo đều xác định và mô tả tỉ mỉ hành vi giết người của bị cáo.
Toàn bộ chứng cứ có đủ căn cứ xác định Hải là người đă giết chết chị Hồng và chị Vân”.
Đọc kỹ phần nhận định này, không thấy một bằng chứng nào về hành vi gây án của Hải, ngay cả chứng cứ quan trọng nhất là hung khí (con dao và cái thớt). Tất cả cái gọi là “chứng cứ để buộc tội” Hải đều dựa vào lời khai nhận tội với cơ quan điều tra và trước ṭa. Trong khi chính bản án sơ thẩm cũng ghi nhận Hải đă phản cung kêu oan tại phiên ṭa sơ thẩm. Trang 5 bản án sơ thẩm có đoạn ghi: “Tại ṭa có lúc (Hải) cho rằng không phạm tội, sở dĩ khai nhận bởi v́ thời gian bất minh không chứng minh được, mô tả việc phạm tội là do Nguyễn Văn Hải là công an viên của xă Nhị Thành kể lại cái chết của Hồng và Vân”.

Hung khí được tạo dựng?
Một trong những điều kỳ lạ nhất trong vụ án này là việc kết tội, qui kết hung thủ dùng 3 loại hung khí là dao, thớt và ghế giết người, để lại hàng loạt dấu vết, máu me… nhưng tại hiện trường, khi cơ quan điều tra khám nghiệm lại không phát hiện bất kỳ vật nào có dấu vết phạm tội.
Theo cáo trạng, Hải đă dùng “con dao thái lan dài 28cm, ngang 3cm” tại bưu điện để cắt cổ hai nạn nhân. Nhưng tại hiện trường không hề có con dao nào, dù khi khám nghiệm hiện trường, có đầy đủ thành phần, đông người. Măi đến ngày hôm sau khi những người dân pḥng dọn dẹp hiện trường mới phát hiện được một con dao và tấm thớt tṛn không dính máu (con dao thu được sau đó chỉ cách vị trí xác hai nạn nhân chưa đầy 0,5m). Tiếp đó, việc cơ quan điều tra lần lượt “bổ sung” vào hồ sơ vụ án những hung khí để “chứng minh” lại đầy rẫy những sự vô lư, sai nguyên tắc. Cơ quan điều tra đă “mặc nhiên” cho rằng đây là con dao của bưu cục và sau này cho rằng chính Hải đă sử dụng con dao này đề cắt cổ hai nạn nhân. Nhưng điều đáng nói hơn nữa là con dao được phát hiện đó thực tế vẫn là một con “dao ảo” - hoàn toàn chỉ do các dân pḥng thấy - con dao này cũng đă bị mất, không thu giữ. Sau đó các dân pḥng tự đi mua lại một con dao “giống” như con dao “ảo” này.
Liệu những t́nh tiết như trên, từ một con dao mơ hồ về nguồn gốc, không có dấu vết tội phạm và không c̣n tồn tại, căn cứ vào điều luật nào để có thể kết luận rằng đó là con dao của bưu điện và Hải đă dùng con dao đó để giết người? Trong khi một trong những nguyên tắc cơ bản để xác định tang vật là phải “có thật” và “liên quan trực tiếp” đến t́nh tiết của vụ án?
Tại biên bản ghi lời khai (BL 232), nhân chứng tả về con dao phát hiện tại hiện trường như sau: “Lưỡi bằng inox trắng, lưỡi dài khoảng 20cm, lưỡi phần dưới bằng phần sóng dao, bầu xuống, lưỡi hơi nhọn, cán bằng nhựa màu đen, hơi dẹp dài khoảng 10cm” và “Con dao rất sạch, c̣n rất mới v́ phần lưỡi dao vẫn c̣n dấu sọc sọc như chưa được mài”.
Hai nhân chứng khác cũng đều khai: “Lưỡi bén, dao c̣n mới ”, “dao rất sạch giống như vừa mới được để vào chứ không phải là đă để từ lâu”.
Qua đó, cho thấy con dao các dân pḥng phát hiện c̣n rất mới. Trong khi đó, con dao “thật” là một con dao cũ, đă qua sử dụng.
Tại biên bản lời khai ngày 19/1/2008, một nữ nhân chứng khai: “Trong bưu điện sử dụng 2 con dao. Một con dao thái nhỏ dài khoảng 15cm, phần lưỡi cỡ 5cm. Con dao lớn th́ dài khoảng 35cm, phần lưỡi kim loại trắng dài 25cm, bề ngang khoảng 5cm, thường để ngay ghế, bàn nấu ăn”. Tại biên bản ghi lời khai ngày 21/6/2008, một nhân chứng khai ở bưu điện có 2 con dao: “Một con dao nhỏ dài trên 10cm. Một con dao lớn dài khoảng gần 30cm, có cán nhựa màu đen, lưỡi dao bằng inox, mũi nhọn, lưỡi dao chỗ rộng nhất 4cm, kiểu dao thái lan. Con dao này trong ngày thứ Tư 9/1/2008 tôi có sử dụng dùng để sửa chữa nhà vệ sinh tại bưu điện”.
Như vậy, liệu có đủ căn cứ để kết luận rằng con dao mới mà các dân pḥng nh́n thấy chính là con dao đă cũ ở bưu điện? Nhất là khi lời khai hai nhân chứng sau là quan trọng hơn v́ họ đă mô tả con dao có thật tại Cầu Voi. Lẽ ra, khi có sự khác biệt như vậy th́ phải cho nhận dạng, đối chất làm rơ. CQĐT đă không cho nữ nhân chứng nhận dạng dao. C̣n nam nhân chứng th́ chỉ nhận dạng qua h́nh vẽ, không thể xác định độ mới cũ của con dao. Điều đáng lưu ư trong Biên bản lời khai ngày 19/1/2008, kích thước của con dao lớn đă bị sửa bất hợp pháp, không có chữ kư xác nhận của người khai. Chiều dài từ 35cm sửa thành 30cm, lưỡi dao từ 25 sửa thành 20cm.

Dấu vân tay không phải là của Hải
Theo cáo trạng, hung thủ (Hải) khi giết hai nạn nhân đă thực hiện hàng loạt động tác bằng tay như: Bóp cổ, kéo xác, dùng dao, thớt, ghế đập đầu, cắt cổ hai nạn nhân. Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường ghi nhận: “Trên kính (cửa vào buồng ngủ) có dấu vết đường vân”, “ở mặt trong của kính trên cánh cửa (buồng vệ sinh) có 1 số dấu vết đường vân”, “trên labo rửa có 1 số dấu vết đường vân”. Những vết vân tay này đều đă được thu giữ.
Như vậy, dấu vân tay tại hiện trường chắc chắn phải là của hung thủ. Không thể khác được. Khoa học đă khẳng định và tới nay chưa thể bác bỏ, mỗi người chỉ có dấu vân tay duy nhất, không trùng khớp với ai.
Cơ quan điều tra cũng đă ra quyết định yêu cầu giám định vết vân tay. Theo kết quả giám định (Bản kết luận giám định số 158/ KL-PC21 ngày 11/4/2008) th́: “Các dấu vết vân tay thu được tại hiện trường vụ án không phát hiện trùng với điểm chỉ 10 ngón in trên bản chỉ của Hồ Duy Hải”. Như vậy, đây là chứng cứ ngoại phạm quan trọng và rơ ràng nhất, đủ cơ sở khoa học chứng minh Hải không thể là thủ phạm đă giết hai nạn nhân.
Thế mà bản án sơ thẩm đă nhận định về vấn đề này rất nhập nhằng rối rắm và tối nghĩa như sau: “Vết máu thu được tại hiện trường tuy giám định không phải là của bị cáo. Song các thiếu sót trên không lớn. Đặc biệt là vết máu thu không đủ lượng, thời gian để kéo dài nên không xác định được vết vân tay cũng như mẫu tóc ngắn bị găy không giám định được là đương nhiên”.
Thực tế, nội dung quyết định trưng cầu giám định là vân tay, không liên quan ǵ đến máu và kết quả giám định cũng không nói ǵ đến là “máu không đủ lượng” hay “không giám định được”. Cơ quan giám định chỉ giám định và kết luận dấu vân tay không phải của Hải (xin mời xem h́nh chụp bản kết quả giám định). Hay nói cách khác, các cấp ṭa đă diễn giải sai lệch chứng cứ khoa học về dấu vân tay bằng một lư lẽ phản khoa học và vô lư như vậy là không thể chấp nhận, vi phạm nghiêm trọng qui định của pháp luật tố tụng h́nh sự, bỏ lọt chứng cứ ngoại phạm quan trọng nhất của Hải.
Ngoài ra, cơ quan điều tra cũng đă trưng cầu giám định nhiều dấu vết/tang vật khác như máu, tóc, tro. Toàn bộ các kết quả giám định đều không có chỉ dấu liên quan đến Hải.
Ba bạn trai cùng có mặt, dấu vân tay là của ai?
Tại thời điểm xảy ra vụ án, những người bạn thân nhất của hai nạn nhân đều khẳng định Hồng đang có quan hệ t́nh cảm với ba người là Nguyễn Văn Nghị, Nguyễn Mi Sol và một kỹ sư tên Trung.
Quan hệ t́nh cảm giữa Hồng - Sol là sâu đậm. Hồng đeo trên tay nhẫn cưới do Sol tặng, hai người đang sống “như vợ chồng”. Hàng tuần Sol thường xuyên từ TP.HCM về thăm Hồng và mỗi lần như vậy đều ngủ lại ngay tại bưu điện.
Tại biên bản ghi lời khai ngày 21/6/2008 (BL 209,210), ông Sol khai: “Sau khi lên TP.HCM th́ tôi cũng thường xuyên về bưu điện sống chung như vợ chồng với Hồng. Trung b́nh cứ một tuần lễ th́ về một ngày. Thời gian gần nhất trước khi Hồng, Vân bị giết, về bưu điện vào ngày thứ tư 9/1 đến sáng thứ năm 10/1 tôi mới đi TP.HCM làm tiếp”.
Đặc biệt trong hồ sơ điều tra thể hiện thông tin cho thấy ngay tối 13/1/2008 Misol có cuộc hẹn với Hồng tại bưu điện Cầu Voi. Cụ thể: Tại biên bản ghi lời khai ngày 19/1/2008 (BL 197), chị Hiếu (bạn thân của hai nạn nhân và là người thường xuyên đến chơi, ngủ lại tại bưu điện Cầu Voi) khai: “Tôi nghe chị Vân nói: Chiều anh Sol về chứ ǵ phải đi”.
Chị Hiếu khẳng định với luật sư Phong, trong buổi chiều ngày 13/1/2008, chính chị có thấy Hồng nói chuyện điện thoại di động với Sol hai lần và tối hôm đó Sol sẽ về Cầu Voi. Tới tận lúc 17h, chị vẫn không hề nghe nói có thay đổi ǵ.
V́ sao trong hồ sơ vụ án không có kết quả giám định vân tay của những đối tượng có quan hệ t́nh cảm và có khả năng có mặt tại bưu điện Cầu Voi tối 13/1/2008 như Nguyễn Văn Nghị, Nguyễn Mi Sol? Những mâu thuẫn, bất hợp lư của hồ sơ vụ án này vẫn chưa hết.

sonnyd ⒸVietSN