vuitoichat
12-14-2014, 10:53
Trong kỳ họp thượng đỉnh APEC vừa qua đă có những cuộc gặp gỡ giữa thủ tướng Nhật Abe, chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận B́nh (Xi Jinping). Đó được cho là dấu hiệu giảm căng thẳng trong mối liên hệ giữa các nước này, nhưng sự lạnh lùng của các nhà lănh đạo trong lúc bắt tay chụp h́nh cho thấy là bên sau sân khấu t́nh h́nh vẫn chưa b́nh thường và sẽ không thể b́nh thường nhanh được. Những hành động khiêu khích của Trung Quốc trong tranh chấp lănh thổ suốt những năm qua đă để lại dấu vết tiêu cực trong mối quan hệ đối với các nước láng giềng.
Sau khi chiếm đóng hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, Trung Quốc đă liên tiếp thi hành từng bước để củng cố chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa như xây đồn đóng quân, kiến thiết một sân bay trên đảo Gạc Ma (Johnson Reef South) v.v. Việc dựng dàn khoan dầu HS 981 trong vùng biển Hoàng Sa tháng Tư năm nay là cao điểm của những tranh chấp cho đến nay.
Những hành động ngang ngược này của Trung Quốc ở Biển Đông -mà chính phủ Mỹ đă chỉ trích là đầy tính khiêu khích- xảy ra chỉ một khoảng thời gian ngắn sau những xung đột tương tự tại vùng biển giữa Trung Quốc, Nhật Bản và Nam Hàn. Vào tháng 11 năm 2013 Trung Quốc đă tuyên bố thành lập một vùng gọi là Không phận pḥng thủ trên biển giữa Trung Quốc, Nam Hàn, Nhật và Đài Loan. Vùng không phận này cũng bao gồm bầu trời trên những ḥn đảo tranh chấp mà Nhật gọi là Senkaku, Trung Quốc gọi là Điếu Ngư (Diaoyu).
Đây là một dấu hiệu rơ ràng cho sự thay đổi chính sách về lănh hải của Trung Quốc. Trong những thập niên trước thế kỷ 21 chính sách của Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp lănh thổ c̣n tương đối "mềm mại" với phương cách dùng "soft power" (quyền lực mềm) để áp lực. Từ đầu thế kỷ 21 sự phô trương lực lượng quân sự và thậm chí đe dọa dùng vũ lực gây xung đột từ phía Trung Quốc đă trở nên thường xuyên hơn.
Dưới ảnh hưởng của những biến cố này và theo đà phát triển quân sự mạnh mẽ của Trung Quốc các nước láng giềng Đông Á, trước nhất là Nhật, đă tuyên bố sẽ gia tăng ngân sách quốc pḥng. Cuộc chạy đua vũ trang ở Đông Á trước đây c̣n ngấm ngầm, nay đă bước qua giai đoạn mới, công khai và quyết liệt hơn. Các quốc gia Đông Á đang chuẩn bị cho những biến động trong tương lai, trang bị quân sự của họ đang được gia tăng đến mức chưa từng có trong vùng này.
Nước Mỹ, tuy là đồng minh và cường quốc che chở cho nhiều nước trong vùng, xưa nay vẫn ứng xử thận trọng đối với Trung Quốc, nhưng trước sự phô trương sức mạnh quân sự và những hành động lấn chiếm công khai của Bắc Kinh, nay Mỹ cũng bắt đầu lên tiếng cảnh cáo. Với ông Obama là tổng thống đầu tiên xuất thân từ Hawaii, tiểu bang nằm giữa ḷng Thái B́nh Dương, chiến lược của Mỹ về Đông Á cũng đang được thay đổi.
Những biến chuyển này sẽ có ảnh hưởng ǵ cho tương lai của Biển Đông và Việt Nam? Khả năng quân sự của Việt Nam đang trong t́nh trạng như thế nào so với các nước láng giềng, nhất là so với Trung Quốc hung hăng? Việt Nam phải và có thể làm ǵ để bảo vệ quyền lợi của ḿnh? Và Việt Nam có những lựa chọn ǵ về mặt quân sự và chính trị? Trước sự im lặng và thụ động của chính phủ Việt Nam, đó là những câu hỏi khẩn cấp mà người Việt trong và ngoài nước đều quan tâm đến.
Những yếu tố chiến lược của Biển Đông
Biển Đông là vùng biển với nhiều vấn đề tranh chấp lănh thổ nhất hiện nay trên thế giới. Bảy quốc gia ở bên bờ là Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Phi Luật Tân, Mă Lai, Nam Dương và Brunei không ít th́ nhiều đều tuyên bố chủ quyền của ḿnh trên vô số những ḥn đảo ở Biển Đông. Những vùng tranh chấp mănh liệt nhất là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Biển Đông cũng là một trong những vùng biển với những tuyến đường hàng hải quan trọng nhất thế giới. Tất cả các thuyền chở hàng giữa Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc và châu Âu, châu Phi và Trung Đông đều đi qua vùng này để rồi qua đường Malacca (Malacca Strait) vào Ấn Độ Dương. Đó là khoảng phân nữa trọng tải thuyền của thế giới.
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=707400&stc=1&d=1418554128
Các tuyến đường hàng hải trong Biển Đông [1]
Biển Đông là mạch máu cung cấp dầu hoả từ Trung Đông, mỗi ngày khoảng 11 triệu thùng dầu thô được vận chuyển qua đường Malacca để cung cấp cho Bắc Á [2]. Có thể nói là ai kiểm soát vùng biển này, người đó nắm sự sống c̣n của nền kinh tế Bắc Á trong tay. Ngoài ra c̣n có hai yếu tố khác không kém phần quan trọng, thứ nhất là những nguồn dầu hỏa và dầu khí khổng lồ được phỏng đoán dưới đáy biển, nhất là xung quanh những ḥn đảo. Theo ước tính của Sở Nghiên Cứu Địa Chất Mỹ (US Geological Survey) số lượng dầu hỏa là khoảng 11 đến 22 tỷ thùng (barrel) và 2.960 (hai ngàn chín trăm sáu mươi) đến 8.200 (tám ngàn hai trăm) tỷ mét khối dầu khí [2],[3].
Yếu tố thứ hai, vùng Biển Đông cũng là những nguồn thủy sản phong phú để đáp ứng nhu cầu chất đạm. Có đến 20% hải sản cung cấp cho thị trường thế giới được đánh bắt ở đây. Một yếu tố tối quan trọng cho nước ta với 85 triệu dân và nền công nghệ thủy sản với truyền thống lâu đời về chài lưới đánh cá ngoài biển khơi, và c̣n quan trọng hơn nữa cho một quốc gia với gần hai tỷ dân. Ta vẫn có thành ngữ "đất nước Việt Nam rừng vàng biển bạc". Người xưa đă có một cảm giác, một khái niệm như thế, nhưng trong thời đại này thành ngữ đó đă trở thành hiện thực. Một kho tàng có thật nhưng có thể sẽ bị mất, không c̣n là gia tài để lại cho các thế hệ tương lai.
Hiệp ước UNCLOS
Tranh chấp hải phận không phải là một vấn đề mới xuất hiện, v́ thế các quốc gia có biển đă cùng với Liên Hiệp Quốc lập ra một thoả thuận để giải quyết những vấn đề tranh chấp đó, gọi là hiệp ước UNCLOS (United Nations Convention on the Law of the Sea). Hầu hết các quốc gia đă kư kết hiệp ước này, trong đó có tất cả các nước xung quanh Biển Đông và ngay cả Trung Quốc. Hiệp ước này định nghĩa vùng hải phận bất khả xâm phạm của một quốc gia là vùng biển 12 dặm trước bờ. Ngoài ra - và đây là điều rất quan trọng cho sự tranh chấp trong Biển Đông- một quốc gia có thể khẳng định một vùng 200 dặm nối tiếp lănh hải của ḿnh, được gọi là vùng kinh tế độc quyền (Exclusive Economic Zone, EEZ). Như thế trên lư thuyết một quốc gia có thể nới rộng lănh hải của ḿnh đến 212 dặm trước bờ biển. Với thoả thuận UNCLOS th́ thật ra vấn đề chủ quyền trên Biển Đông có thể giải quyết được. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều cách bờ biển Việt Nam khoảng 220 dặm, trong khi Hoàng Sa cách Trung Quốc khoảng 270 dặm và Trường Sa th́ c̣n xa hơn nữa với 750 dặm.
Như thế trên tinh thần của hiệp ước UNCLOS th́ vấn đề Hoàng Sa có thể được giải quyết song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc, nhưng Trung Quốc không có lư do ǵ để đ̣i hỏi Trường Sa. Vấn đề chủ quyền Trường Sa là chuyện Việt Nam phải giải quyết với Mă Lai và Phillippine.
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=707401&stc=1&d=1418554128
Bản đồ lưỡi ḅ và ranh giới hải phận theo hiệp ước UNCLOS [4]
Nhưng thực tế đă không diễn ra như vậy. Năm 1956 Trung Quốc đă phát hành một bản đồ của ḿnh, trong đó hải phận Trung Quốc được mô tả một cách mơ hồ với vài gạch đỏ. Đó là cái bản đồ nay được gọi là "bản đồ đường lưỡi ḅ" hoặc "bản đồ 9 gạch". Trong đó hải phận Trung Quốc được nới ra và bao chiếm hầu hết Biển Đông, để lại cho các nước láng giềng vỏn vẹn một hải phận 12 dặm. Hiện nay Trung Quốc tiếp tục khẳng định chủ quyền ở Biển Đông trên căn bản của cái bản đồ phi lư này, định nghĩa Biển Đông là một "biển nội địa."
Vấn đề chủ quyền trong vùng Biển Đông chỉ có thể giải quyết qua sự đàm phán nhiều phía giữa các quốc gia bên bờ và trên cơ sở hiệp ước UNCLOS, nhưng Trung quốc giữ lập trường là chỉ đàm phán tay đôi riêng biệt với từng nước láng giềng. Đàm phán song phương như vậy Trung Quốc sẽ tận dụng được thế mạnh của một nước lớn và dễ dàng gây chia rẽ các nước khác. Với đ̣i hỏi này của Trung Quốc, tất cả các quốc gia bên bờ Biển Đông sẽ là những kẻ thua cuộc trong tranh chấp này.
Sức mạnh ngày càng tăng của quân đội Trung Quốc
Một yếu tố tối quan trọng để đạt được kết quả trong cuộc đàm phán là thế lực của quốc gia đó trong chủ đề đàm phán. Trong vấn đề lănh thổ, thế lực về chính trị, kinh tế và quân sự là yếu tố quyết định. Đây là một trong những nguyên do chánh cho sự thay đổi chính sách của Trung Quốc. Chi phí quốc pḥng của Trung Quốc đă liên tiếp tăng cao trong những thập niên qua. Với tổng số 188,5 tỉ Dollar ngân sách quốc pḥng của Trung Quốc cho năm 2013 đă vượt qua ngân khoản quốc pḥng ba nước Anh, Pháp và Đức nhập lại (tổng cộng là 167,9 tỉ Dollar) [5]. Đó là một kỷ lục mới và là một số tiền khổng lồ so với các nước láng giềng (tỉ dụ tổng sản lượng quốc gia VN năm 2013 là 171,4 tỉ Dollar [6] vẫn chưa bằng ngân sách quốc pḥng của Trung Quốc!)
Kết quả của nỗ lực đó là sự xuất hiện liên tục của những hệ thống vũ khí tối tân từ đầu thế kỷ này. Cho đến năm 1998 lực lượng không quân Trung Quốc c̣n chủ yếu sử dụng chiến đấu cơ loại MiG 21 hoặc J-9 là sản phẩm tự chế dựa trên công nghệ cuả chiếc MiG 21. Không quân Trung Quốc được coi là lạc hậu so với những lực lượng hiện đại của các cường quốc Tây Phương và Nga.
Nhưng từ năm 1999 Trung Quốc trang bị cho quân đội hàng loạt những loại chiến đấu cơ tân tiến tự chế như chiếc Chengdu J-10 (giống chiếc Eurofighter) và chiếc Shenyang J-11 (copy của chiếc SU-27SK của Nga). Điều làm cho giới quân sự, nhất là của Mỹ, ngạc nhiên nhất là chuyến bay đầu tiên của chiếc Chengdu J-20, một chiếc khu trục cơ thiết kế theo công nghệ tàng h́nh (stealth technology), một công nghệ mà Tây Phương cho rằng Trung Quốc cần khoảng hai mươi năm nữa mới theo kịp.
Sự thay đổi từ một quân đội lạc hậu, mang tiếng là lấy biển người để đè bẹp đối thủ, đến một quân đội hiện đại được thể hiện rơ ràng nhất trên mặt nước. Hải quân Trung Quốc cho đến năm 1995 có tổng cộng 52 chiến hạm cỡ khu trục hạm (destroyer) và hộ tống hạm (frigate), trong đó vỏn vẹn chỉ có 7 chiếc có trang bị hỏa tiễn pḥng không tầm ngắn, mặc dù trong thời đó hỏa tiễn pḥng không đă là vũ khí cơ bản của tất cả chiến hạm lớn hơn 100m của NATO hoặc Khối Warsaw. Nhưng từ năm 1996 đến nay lực lượng hải quân Trung Quốc đă liên tục tiếp nhận các chiến hạm mới với trang bị hiện đại và tàu ngầm. Năm 2010, tức là chỉ 15 năm sau, hải quân Trung Quốc có đến 75 chiến hạm lớn [7]. Trong số đó khoảng 25 chiếc có trang bị hỏa tiễn tối tân như những khu trục hạm lớp Sovremenyi mua của Nga và những tàu chiến tự chế lớp 052B và 052C. Đặc biệt là những khu trục hạm lớp 052C (Luyang-III class) đă có hệ thống radar loại phased-array tương tự như hệ thống radar AEGIS trên những chiến hạm tối tân nhất của Mỹ hạng Arleigh Burke.
Năm 2011 hải quân Trung Quốc đă được tăng cường chiếc Liaoning, một hàng không mẫu hạm được hoàn tất trên cái sườn của chiếc Warjag, một chiếc mẫu hạm thuộc vào lớp Admiral Kuznetzow của Nga.
Và sự tăng cường năng lực hải quân vẫn được tiếp tục. Theo báo cáo của Bộ quốc pḥng Mỹ th́ hiện tại Trung Quốc có 81 chiến hạm lớn, 56 tàu ngầm, 57 chiến hạm để đổ bộ thủy quân lục chiến và hơn 85 tàu chiến loại nhỏ. [8]
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=707402&stc=1&d=1418554128
Một chiến hạm lớp Luyang-III (52C)
Lực lượng Hải Quân Việt Nam
Mặc dù là một quốc gia với lănh thổ trải dài dọc bờ biển hơn 3000 km, lực lượng hải quân Việt Nam cho đến nay không đóng một vai tṛ quan trọng trong chính sách quốc pḥng. Cho tới năm 1975 chỉ miền nam Việt Nam có một lượng hải quân đáng kể. Về số lượng, hải quân Việt Nam Cộng Hoà đă là lực lượng hải quân lớn nhất Đông Nam Á với khoảng 600 tàu chiến đủ loại (nhưng đa số là thuyền nhỏ đi trên sông).
Sau khi thống nhất đất nước chiến hạm lớn nhất của hải quân Việt Nam trong nhiều năm vẫn là chiếc Phạm Ngũ Lăo (HQ 01). Đó là một hộ tống hạm đóng cho hải quân Mỹ năm 1943 và được bàn giao cho hải quân Việt Nam Cộng Ḥa.
Đến năm 2011 lực lượng tác chiến chủ yếu của hải quân Việt Nam bao gồm:
* 5 hộ tống hạm hạng nhẹ Petya III (Project 159AE) do Liên Sô cung cấp. Những tàu chiến này được đóng trong thập niên 70, tàu dài 85 m, tức khoảng phân nữa chiều dài của một khu trục hạm của Trung Quốc. Với trang bị bằng súng 76 ly, giàn phóng thủy lôi, giàn ném bom chống tàu ngầm những tàu này có thể bị xem là lạc hậu và vô dụng khi đương đầu với những chiến hạm của Trung Quốc.
* 4 tuần duyên hạm Molnija (Project 1241.E, biệt hiệu của NATO là Tarantul) do Nga cung cấp. Những tàu này nhỏ hơn loại Petya nhưng có trang bị hoả tiễn pḥng không Strela-2MF (NATO code là SA-N-5 Grail) cũng như hỏa tiễn chống chiến hạm P-20 Rubezh (NATO code là SS-N-2 Styx).
* 2 tuần duyên hạm lớp BSP 500 (Project 12418) có trang bị hỏa tiễn Ch-35 Uran (NATO code SS-N-25 Switchblade) chống tàu tốc độ cận âm, tầm xa 130 km, và hỏa tiễn pḥng không Igla-M (SA-N-10 Grouse). Đây là những đơn vị với hỏa lực mạnh nhất của hải quân Việt Nam lúc bấy giờ, nhưng cũng như hai lớp nêu trước những chiếc tàu này chỉ có thể hoạt động biệt lập ngoài khơi được khoảng bảy ngày, một yếu điểm lớn so với các tàu lớn như khu trục hạm hoặc hộ tống hạm.
Ngoài ra hệ thống hỏa tiễn pḥng không của các chiến hạm này chỉ bắn được đến tầm xa là 15-20 km, đủ để tự vệ nhưng không có khả năng để bảo vệ một khu vực.
Với lực lượng hải quân như thế th́ việc mất những ḥn đảo vào tay của một cường quốc hung hăng như Trung Quốc là một chuyện không thể tránh khỏi.
Năm 2011/ 2012 có thể được xem là một bước ngoặt, hải quân Việt Nam được tăng cường hai chiếc hộ tống hạm tối tân của Nga hạng Gepard (Project 11660). Đó là chiếc HQ 011 "Đinh Tiên Hoàng" và chiếc HQ 012 "Lư Thái Tổ". Lần đầu tiên hải quân Việt Nam có được hai chiến hạm với trang bị đầy đủ để có thể đương đầu với những đối thủ Trung Quốc. Nhưng tại sao hai chiến hạm tân tiến nhất của hải quân Việt Nam lại mang tên hai v́ vua này thay v́ mang tên những anh hùng dân tộc có thành tích thủy chiến lẫy lừng như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo v.v. , đó là bí mật của giới lănh đạo ở Việt Nam. Đến năm 2016 hải quân Việt Nam sẽ được tiếp nhận thêm hai chiếc nữa cùng lớp.
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=707403&stc=1&d=1418554128
Hộ tống hạm HQ-011 Đinh Tiên Hoàng
Ngoài ra năm 2009 Việt Nam cũng đă đặt mua 6 chiếc tàu ngầm hạng Project 877 của Nga (Nato-Code là Kilo) với giá trị tổng cộng là hai tỷ USD. Đó là tàu ngầm chạy bằng diesel và điện với khả năng hoạt động lâu dưới mặt nước. Chiếc tàu ngầm đầu tiên mang tên HQ 182 "Hà Nội" được tiếp nhận trong tháng giêng 2014 và chiếc thứ hai mang tên "HQ 183 Thành phố Hồ Chí Minh" được bàn giao trong tháng ba 2014 là một sự gia tăng sức mạnh đáng kể cho hải quân Việt Nam, nhưng cũng chỉ có tính cách tượng trưng khi so sánh với số tàu ngầm của hải quân Trung Quốc là 57 chiếc đủ loại.
Dù sao đi nữa đây cũng là một thay đổi trong chính sách quân sự của Việt Nam. Việt Nam hiện đang thương lượng với hăng đóng tàu Schelde Naval Shipbuilding của Ḥa Lan về việc mua 4 chiếc hộ tống hạm lớp SIGMA. Nếu hợp đồng mua tàu của Ḥa Lan thành h́nh th́ đây là lần đầu tiên sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc nước ta được cung cấp vũ khí từ một xứ Tây phương.
Nhưng nói chung, ngay trong trường hợp hải quân Việt Nam tiếp nhận hết những chiếc tàu đă mua của Nga th́ sự chênh lệch vẫn c̣n rất lớn theo hướng bất lợi cho nước ta so với Trung Quốc và các nước trong vùng. Sau đây là bản liệt kê tổng quát về lực lượng hải quân hiện tại của các quốc gia có biển ráp ranh giới với Trung Quốc [9]:
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=707404&stc=1&d=1418554128
Hải quân Việt Nam như thế chỉ mạnh hơn hải quân Phillipine, nhưng năng lực kém cỏi của hải quân Phillipine là một điều không đáng ngạc nhiên v́ xứ này cho đến năm 1992 không có nhu cầu phải tự bảo vệ vùng biển. Với căn cứ hải quân Subic Bay khổng lồ và căn cứ không quân Clark Air Base, quân đội Mỹ đă là nguồn bảo đảm an ninh cho Phillipine. Đến nay sau khi quân đội Mỹ đă rút ra khỏi hai căn cứ này Mỹ vẫn để bàn tay che chở trên nước này. Việt Nam không có một đồng minh hùng mạnh như thế, phải tự bảo vệ nguồn sống của ḿnh với lực lượng hải quân chỉ mạnh hơn Phillipine một chút. Đó là một điều thật đáng lo âu.
Từ Thế chiến thứ hai, sau khi các máy bay hải quân đă kết thúc thời đại oai hùng của những thiết giáp hạm khổng lồ, lực lượng không quân là một yếu tố tối quan trọng cho sự khống chế chiến trường trên đất liền và trên biển. Các nước láng giềng tại Đông Nam Á như Mă lai, Singapore, Thái Lan từ lâu đă tân trang lực lượng không quân của họ bằng những chiến đấu cơ thế hệ thứ tư như F-15, F-16 (Singapore), F-18 của Mỹ (Mă Lai), MiG-29 của Nga (Mă Lai), và JAS-39 Gripen của Thụy Điển (Thái Lan). Một số quốc gia ở Á Châu như Nhật, Nam Hàn và Thái Lan, ngoài lực lượng không quân tối tân hiện nay c̣n nỗ lực gầy dựng một lực lượng không quân - hải quân. Nhật, Nam Hàn và Thái Lan đă tăng cường sức mạnh quân đội bằng những chiếc hàng không mẫu hạm nhỏ. Thái Lan đă có chiếc "Chakri Naruebet" từ năm 1997 với chiến đấu cơ lên thẳng loại AV-8 Harrier. Nhật có chiếc "Izumo" và chiếc "Hyuga", và đă đặt mua chiến đấu cơ lên thẳng loại F-35 Lightning II tối tân nhất của Mỹ để trang bị cho tàu này trong tương lai. Nam Hàn có chiếc "Dokdo" tương tự như chiếc Hyuga.
Sau khi chiếm đóng hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, Trung Quốc đă liên tiếp thi hành từng bước để củng cố chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa như xây đồn đóng quân, kiến thiết một sân bay trên đảo Gạc Ma (Johnson Reef South) v.v. Việc dựng dàn khoan dầu HS 981 trong vùng biển Hoàng Sa tháng Tư năm nay là cao điểm của những tranh chấp cho đến nay.
Những hành động ngang ngược này của Trung Quốc ở Biển Đông -mà chính phủ Mỹ đă chỉ trích là đầy tính khiêu khích- xảy ra chỉ một khoảng thời gian ngắn sau những xung đột tương tự tại vùng biển giữa Trung Quốc, Nhật Bản và Nam Hàn. Vào tháng 11 năm 2013 Trung Quốc đă tuyên bố thành lập một vùng gọi là Không phận pḥng thủ trên biển giữa Trung Quốc, Nam Hàn, Nhật và Đài Loan. Vùng không phận này cũng bao gồm bầu trời trên những ḥn đảo tranh chấp mà Nhật gọi là Senkaku, Trung Quốc gọi là Điếu Ngư (Diaoyu).
Đây là một dấu hiệu rơ ràng cho sự thay đổi chính sách về lănh hải của Trung Quốc. Trong những thập niên trước thế kỷ 21 chính sách của Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp lănh thổ c̣n tương đối "mềm mại" với phương cách dùng "soft power" (quyền lực mềm) để áp lực. Từ đầu thế kỷ 21 sự phô trương lực lượng quân sự và thậm chí đe dọa dùng vũ lực gây xung đột từ phía Trung Quốc đă trở nên thường xuyên hơn.
Dưới ảnh hưởng của những biến cố này và theo đà phát triển quân sự mạnh mẽ của Trung Quốc các nước láng giềng Đông Á, trước nhất là Nhật, đă tuyên bố sẽ gia tăng ngân sách quốc pḥng. Cuộc chạy đua vũ trang ở Đông Á trước đây c̣n ngấm ngầm, nay đă bước qua giai đoạn mới, công khai và quyết liệt hơn. Các quốc gia Đông Á đang chuẩn bị cho những biến động trong tương lai, trang bị quân sự của họ đang được gia tăng đến mức chưa từng có trong vùng này.
Nước Mỹ, tuy là đồng minh và cường quốc che chở cho nhiều nước trong vùng, xưa nay vẫn ứng xử thận trọng đối với Trung Quốc, nhưng trước sự phô trương sức mạnh quân sự và những hành động lấn chiếm công khai của Bắc Kinh, nay Mỹ cũng bắt đầu lên tiếng cảnh cáo. Với ông Obama là tổng thống đầu tiên xuất thân từ Hawaii, tiểu bang nằm giữa ḷng Thái B́nh Dương, chiến lược của Mỹ về Đông Á cũng đang được thay đổi.
Những biến chuyển này sẽ có ảnh hưởng ǵ cho tương lai của Biển Đông và Việt Nam? Khả năng quân sự của Việt Nam đang trong t́nh trạng như thế nào so với các nước láng giềng, nhất là so với Trung Quốc hung hăng? Việt Nam phải và có thể làm ǵ để bảo vệ quyền lợi của ḿnh? Và Việt Nam có những lựa chọn ǵ về mặt quân sự và chính trị? Trước sự im lặng và thụ động của chính phủ Việt Nam, đó là những câu hỏi khẩn cấp mà người Việt trong và ngoài nước đều quan tâm đến.
Những yếu tố chiến lược của Biển Đông
Biển Đông là vùng biển với nhiều vấn đề tranh chấp lănh thổ nhất hiện nay trên thế giới. Bảy quốc gia ở bên bờ là Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Phi Luật Tân, Mă Lai, Nam Dương và Brunei không ít th́ nhiều đều tuyên bố chủ quyền của ḿnh trên vô số những ḥn đảo ở Biển Đông. Những vùng tranh chấp mănh liệt nhất là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Biển Đông cũng là một trong những vùng biển với những tuyến đường hàng hải quan trọng nhất thế giới. Tất cả các thuyền chở hàng giữa Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc và châu Âu, châu Phi và Trung Đông đều đi qua vùng này để rồi qua đường Malacca (Malacca Strait) vào Ấn Độ Dương. Đó là khoảng phân nữa trọng tải thuyền của thế giới.
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=707400&stc=1&d=1418554128
Các tuyến đường hàng hải trong Biển Đông [1]
Biển Đông là mạch máu cung cấp dầu hoả từ Trung Đông, mỗi ngày khoảng 11 triệu thùng dầu thô được vận chuyển qua đường Malacca để cung cấp cho Bắc Á [2]. Có thể nói là ai kiểm soát vùng biển này, người đó nắm sự sống c̣n của nền kinh tế Bắc Á trong tay. Ngoài ra c̣n có hai yếu tố khác không kém phần quan trọng, thứ nhất là những nguồn dầu hỏa và dầu khí khổng lồ được phỏng đoán dưới đáy biển, nhất là xung quanh những ḥn đảo. Theo ước tính của Sở Nghiên Cứu Địa Chất Mỹ (US Geological Survey) số lượng dầu hỏa là khoảng 11 đến 22 tỷ thùng (barrel) và 2.960 (hai ngàn chín trăm sáu mươi) đến 8.200 (tám ngàn hai trăm) tỷ mét khối dầu khí [2],[3].
Yếu tố thứ hai, vùng Biển Đông cũng là những nguồn thủy sản phong phú để đáp ứng nhu cầu chất đạm. Có đến 20% hải sản cung cấp cho thị trường thế giới được đánh bắt ở đây. Một yếu tố tối quan trọng cho nước ta với 85 triệu dân và nền công nghệ thủy sản với truyền thống lâu đời về chài lưới đánh cá ngoài biển khơi, và c̣n quan trọng hơn nữa cho một quốc gia với gần hai tỷ dân. Ta vẫn có thành ngữ "đất nước Việt Nam rừng vàng biển bạc". Người xưa đă có một cảm giác, một khái niệm như thế, nhưng trong thời đại này thành ngữ đó đă trở thành hiện thực. Một kho tàng có thật nhưng có thể sẽ bị mất, không c̣n là gia tài để lại cho các thế hệ tương lai.
Hiệp ước UNCLOS
Tranh chấp hải phận không phải là một vấn đề mới xuất hiện, v́ thế các quốc gia có biển đă cùng với Liên Hiệp Quốc lập ra một thoả thuận để giải quyết những vấn đề tranh chấp đó, gọi là hiệp ước UNCLOS (United Nations Convention on the Law of the Sea). Hầu hết các quốc gia đă kư kết hiệp ước này, trong đó có tất cả các nước xung quanh Biển Đông và ngay cả Trung Quốc. Hiệp ước này định nghĩa vùng hải phận bất khả xâm phạm của một quốc gia là vùng biển 12 dặm trước bờ. Ngoài ra - và đây là điều rất quan trọng cho sự tranh chấp trong Biển Đông- một quốc gia có thể khẳng định một vùng 200 dặm nối tiếp lănh hải của ḿnh, được gọi là vùng kinh tế độc quyền (Exclusive Economic Zone, EEZ). Như thế trên lư thuyết một quốc gia có thể nới rộng lănh hải của ḿnh đến 212 dặm trước bờ biển. Với thoả thuận UNCLOS th́ thật ra vấn đề chủ quyền trên Biển Đông có thể giải quyết được. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều cách bờ biển Việt Nam khoảng 220 dặm, trong khi Hoàng Sa cách Trung Quốc khoảng 270 dặm và Trường Sa th́ c̣n xa hơn nữa với 750 dặm.
Như thế trên tinh thần của hiệp ước UNCLOS th́ vấn đề Hoàng Sa có thể được giải quyết song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc, nhưng Trung Quốc không có lư do ǵ để đ̣i hỏi Trường Sa. Vấn đề chủ quyền Trường Sa là chuyện Việt Nam phải giải quyết với Mă Lai và Phillippine.
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=707401&stc=1&d=1418554128
Bản đồ lưỡi ḅ và ranh giới hải phận theo hiệp ước UNCLOS [4]
Nhưng thực tế đă không diễn ra như vậy. Năm 1956 Trung Quốc đă phát hành một bản đồ của ḿnh, trong đó hải phận Trung Quốc được mô tả một cách mơ hồ với vài gạch đỏ. Đó là cái bản đồ nay được gọi là "bản đồ đường lưỡi ḅ" hoặc "bản đồ 9 gạch". Trong đó hải phận Trung Quốc được nới ra và bao chiếm hầu hết Biển Đông, để lại cho các nước láng giềng vỏn vẹn một hải phận 12 dặm. Hiện nay Trung Quốc tiếp tục khẳng định chủ quyền ở Biển Đông trên căn bản của cái bản đồ phi lư này, định nghĩa Biển Đông là một "biển nội địa."
Vấn đề chủ quyền trong vùng Biển Đông chỉ có thể giải quyết qua sự đàm phán nhiều phía giữa các quốc gia bên bờ và trên cơ sở hiệp ước UNCLOS, nhưng Trung quốc giữ lập trường là chỉ đàm phán tay đôi riêng biệt với từng nước láng giềng. Đàm phán song phương như vậy Trung Quốc sẽ tận dụng được thế mạnh của một nước lớn và dễ dàng gây chia rẽ các nước khác. Với đ̣i hỏi này của Trung Quốc, tất cả các quốc gia bên bờ Biển Đông sẽ là những kẻ thua cuộc trong tranh chấp này.
Sức mạnh ngày càng tăng của quân đội Trung Quốc
Một yếu tố tối quan trọng để đạt được kết quả trong cuộc đàm phán là thế lực của quốc gia đó trong chủ đề đàm phán. Trong vấn đề lănh thổ, thế lực về chính trị, kinh tế và quân sự là yếu tố quyết định. Đây là một trong những nguyên do chánh cho sự thay đổi chính sách của Trung Quốc. Chi phí quốc pḥng của Trung Quốc đă liên tiếp tăng cao trong những thập niên qua. Với tổng số 188,5 tỉ Dollar ngân sách quốc pḥng của Trung Quốc cho năm 2013 đă vượt qua ngân khoản quốc pḥng ba nước Anh, Pháp và Đức nhập lại (tổng cộng là 167,9 tỉ Dollar) [5]. Đó là một kỷ lục mới và là một số tiền khổng lồ so với các nước láng giềng (tỉ dụ tổng sản lượng quốc gia VN năm 2013 là 171,4 tỉ Dollar [6] vẫn chưa bằng ngân sách quốc pḥng của Trung Quốc!)
Kết quả của nỗ lực đó là sự xuất hiện liên tục của những hệ thống vũ khí tối tân từ đầu thế kỷ này. Cho đến năm 1998 lực lượng không quân Trung Quốc c̣n chủ yếu sử dụng chiến đấu cơ loại MiG 21 hoặc J-9 là sản phẩm tự chế dựa trên công nghệ cuả chiếc MiG 21. Không quân Trung Quốc được coi là lạc hậu so với những lực lượng hiện đại của các cường quốc Tây Phương và Nga.
Nhưng từ năm 1999 Trung Quốc trang bị cho quân đội hàng loạt những loại chiến đấu cơ tân tiến tự chế như chiếc Chengdu J-10 (giống chiếc Eurofighter) và chiếc Shenyang J-11 (copy của chiếc SU-27SK của Nga). Điều làm cho giới quân sự, nhất là của Mỹ, ngạc nhiên nhất là chuyến bay đầu tiên của chiếc Chengdu J-20, một chiếc khu trục cơ thiết kế theo công nghệ tàng h́nh (stealth technology), một công nghệ mà Tây Phương cho rằng Trung Quốc cần khoảng hai mươi năm nữa mới theo kịp.
Sự thay đổi từ một quân đội lạc hậu, mang tiếng là lấy biển người để đè bẹp đối thủ, đến một quân đội hiện đại được thể hiện rơ ràng nhất trên mặt nước. Hải quân Trung Quốc cho đến năm 1995 có tổng cộng 52 chiến hạm cỡ khu trục hạm (destroyer) và hộ tống hạm (frigate), trong đó vỏn vẹn chỉ có 7 chiếc có trang bị hỏa tiễn pḥng không tầm ngắn, mặc dù trong thời đó hỏa tiễn pḥng không đă là vũ khí cơ bản của tất cả chiến hạm lớn hơn 100m của NATO hoặc Khối Warsaw. Nhưng từ năm 1996 đến nay lực lượng hải quân Trung Quốc đă liên tục tiếp nhận các chiến hạm mới với trang bị hiện đại và tàu ngầm. Năm 2010, tức là chỉ 15 năm sau, hải quân Trung Quốc có đến 75 chiến hạm lớn [7]. Trong số đó khoảng 25 chiếc có trang bị hỏa tiễn tối tân như những khu trục hạm lớp Sovremenyi mua của Nga và những tàu chiến tự chế lớp 052B và 052C. Đặc biệt là những khu trục hạm lớp 052C (Luyang-III class) đă có hệ thống radar loại phased-array tương tự như hệ thống radar AEGIS trên những chiến hạm tối tân nhất của Mỹ hạng Arleigh Burke.
Năm 2011 hải quân Trung Quốc đă được tăng cường chiếc Liaoning, một hàng không mẫu hạm được hoàn tất trên cái sườn của chiếc Warjag, một chiếc mẫu hạm thuộc vào lớp Admiral Kuznetzow của Nga.
Và sự tăng cường năng lực hải quân vẫn được tiếp tục. Theo báo cáo của Bộ quốc pḥng Mỹ th́ hiện tại Trung Quốc có 81 chiến hạm lớn, 56 tàu ngầm, 57 chiến hạm để đổ bộ thủy quân lục chiến và hơn 85 tàu chiến loại nhỏ. [8]
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=707402&stc=1&d=1418554128
Một chiến hạm lớp Luyang-III (52C)
Lực lượng Hải Quân Việt Nam
Mặc dù là một quốc gia với lănh thổ trải dài dọc bờ biển hơn 3000 km, lực lượng hải quân Việt Nam cho đến nay không đóng một vai tṛ quan trọng trong chính sách quốc pḥng. Cho tới năm 1975 chỉ miền nam Việt Nam có một lượng hải quân đáng kể. Về số lượng, hải quân Việt Nam Cộng Hoà đă là lực lượng hải quân lớn nhất Đông Nam Á với khoảng 600 tàu chiến đủ loại (nhưng đa số là thuyền nhỏ đi trên sông).
Sau khi thống nhất đất nước chiến hạm lớn nhất của hải quân Việt Nam trong nhiều năm vẫn là chiếc Phạm Ngũ Lăo (HQ 01). Đó là một hộ tống hạm đóng cho hải quân Mỹ năm 1943 và được bàn giao cho hải quân Việt Nam Cộng Ḥa.
Đến năm 2011 lực lượng tác chiến chủ yếu của hải quân Việt Nam bao gồm:
* 5 hộ tống hạm hạng nhẹ Petya III (Project 159AE) do Liên Sô cung cấp. Những tàu chiến này được đóng trong thập niên 70, tàu dài 85 m, tức khoảng phân nữa chiều dài của một khu trục hạm của Trung Quốc. Với trang bị bằng súng 76 ly, giàn phóng thủy lôi, giàn ném bom chống tàu ngầm những tàu này có thể bị xem là lạc hậu và vô dụng khi đương đầu với những chiến hạm của Trung Quốc.
* 4 tuần duyên hạm Molnija (Project 1241.E, biệt hiệu của NATO là Tarantul) do Nga cung cấp. Những tàu này nhỏ hơn loại Petya nhưng có trang bị hoả tiễn pḥng không Strela-2MF (NATO code là SA-N-5 Grail) cũng như hỏa tiễn chống chiến hạm P-20 Rubezh (NATO code là SS-N-2 Styx).
* 2 tuần duyên hạm lớp BSP 500 (Project 12418) có trang bị hỏa tiễn Ch-35 Uran (NATO code SS-N-25 Switchblade) chống tàu tốc độ cận âm, tầm xa 130 km, và hỏa tiễn pḥng không Igla-M (SA-N-10 Grouse). Đây là những đơn vị với hỏa lực mạnh nhất của hải quân Việt Nam lúc bấy giờ, nhưng cũng như hai lớp nêu trước những chiếc tàu này chỉ có thể hoạt động biệt lập ngoài khơi được khoảng bảy ngày, một yếu điểm lớn so với các tàu lớn như khu trục hạm hoặc hộ tống hạm.
Ngoài ra hệ thống hỏa tiễn pḥng không của các chiến hạm này chỉ bắn được đến tầm xa là 15-20 km, đủ để tự vệ nhưng không có khả năng để bảo vệ một khu vực.
Với lực lượng hải quân như thế th́ việc mất những ḥn đảo vào tay của một cường quốc hung hăng như Trung Quốc là một chuyện không thể tránh khỏi.
Năm 2011/ 2012 có thể được xem là một bước ngoặt, hải quân Việt Nam được tăng cường hai chiếc hộ tống hạm tối tân của Nga hạng Gepard (Project 11660). Đó là chiếc HQ 011 "Đinh Tiên Hoàng" và chiếc HQ 012 "Lư Thái Tổ". Lần đầu tiên hải quân Việt Nam có được hai chiến hạm với trang bị đầy đủ để có thể đương đầu với những đối thủ Trung Quốc. Nhưng tại sao hai chiến hạm tân tiến nhất của hải quân Việt Nam lại mang tên hai v́ vua này thay v́ mang tên những anh hùng dân tộc có thành tích thủy chiến lẫy lừng như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo v.v. , đó là bí mật của giới lănh đạo ở Việt Nam. Đến năm 2016 hải quân Việt Nam sẽ được tiếp nhận thêm hai chiếc nữa cùng lớp.
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=707403&stc=1&d=1418554128
Hộ tống hạm HQ-011 Đinh Tiên Hoàng
Ngoài ra năm 2009 Việt Nam cũng đă đặt mua 6 chiếc tàu ngầm hạng Project 877 của Nga (Nato-Code là Kilo) với giá trị tổng cộng là hai tỷ USD. Đó là tàu ngầm chạy bằng diesel và điện với khả năng hoạt động lâu dưới mặt nước. Chiếc tàu ngầm đầu tiên mang tên HQ 182 "Hà Nội" được tiếp nhận trong tháng giêng 2014 và chiếc thứ hai mang tên "HQ 183 Thành phố Hồ Chí Minh" được bàn giao trong tháng ba 2014 là một sự gia tăng sức mạnh đáng kể cho hải quân Việt Nam, nhưng cũng chỉ có tính cách tượng trưng khi so sánh với số tàu ngầm của hải quân Trung Quốc là 57 chiếc đủ loại.
Dù sao đi nữa đây cũng là một thay đổi trong chính sách quân sự của Việt Nam. Việt Nam hiện đang thương lượng với hăng đóng tàu Schelde Naval Shipbuilding của Ḥa Lan về việc mua 4 chiếc hộ tống hạm lớp SIGMA. Nếu hợp đồng mua tàu của Ḥa Lan thành h́nh th́ đây là lần đầu tiên sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc nước ta được cung cấp vũ khí từ một xứ Tây phương.
Nhưng nói chung, ngay trong trường hợp hải quân Việt Nam tiếp nhận hết những chiếc tàu đă mua của Nga th́ sự chênh lệch vẫn c̣n rất lớn theo hướng bất lợi cho nước ta so với Trung Quốc và các nước trong vùng. Sau đây là bản liệt kê tổng quát về lực lượng hải quân hiện tại của các quốc gia có biển ráp ranh giới với Trung Quốc [9]:
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=707404&stc=1&d=1418554128
Hải quân Việt Nam như thế chỉ mạnh hơn hải quân Phillipine, nhưng năng lực kém cỏi của hải quân Phillipine là một điều không đáng ngạc nhiên v́ xứ này cho đến năm 1992 không có nhu cầu phải tự bảo vệ vùng biển. Với căn cứ hải quân Subic Bay khổng lồ và căn cứ không quân Clark Air Base, quân đội Mỹ đă là nguồn bảo đảm an ninh cho Phillipine. Đến nay sau khi quân đội Mỹ đă rút ra khỏi hai căn cứ này Mỹ vẫn để bàn tay che chở trên nước này. Việt Nam không có một đồng minh hùng mạnh như thế, phải tự bảo vệ nguồn sống của ḿnh với lực lượng hải quân chỉ mạnh hơn Phillipine một chút. Đó là một điều thật đáng lo âu.
Từ Thế chiến thứ hai, sau khi các máy bay hải quân đă kết thúc thời đại oai hùng của những thiết giáp hạm khổng lồ, lực lượng không quân là một yếu tố tối quan trọng cho sự khống chế chiến trường trên đất liền và trên biển. Các nước láng giềng tại Đông Nam Á như Mă lai, Singapore, Thái Lan từ lâu đă tân trang lực lượng không quân của họ bằng những chiến đấu cơ thế hệ thứ tư như F-15, F-16 (Singapore), F-18 của Mỹ (Mă Lai), MiG-29 của Nga (Mă Lai), và JAS-39 Gripen của Thụy Điển (Thái Lan). Một số quốc gia ở Á Châu như Nhật, Nam Hàn và Thái Lan, ngoài lực lượng không quân tối tân hiện nay c̣n nỗ lực gầy dựng một lực lượng không quân - hải quân. Nhật, Nam Hàn và Thái Lan đă tăng cường sức mạnh quân đội bằng những chiếc hàng không mẫu hạm nhỏ. Thái Lan đă có chiếc "Chakri Naruebet" từ năm 1997 với chiến đấu cơ lên thẳng loại AV-8 Harrier. Nhật có chiếc "Izumo" và chiếc "Hyuga", và đă đặt mua chiến đấu cơ lên thẳng loại F-35 Lightning II tối tân nhất của Mỹ để trang bị cho tàu này trong tương lai. Nam Hàn có chiếc "Dokdo" tương tự như chiếc Hyuga.