Romano
01-10-2015, 18:42
Đảng Cộng Sản Việt Nam tổ chức Đại Hội mỗi 5 năm để bầu ra thành phần lănh đạo mới và hoạch định chính sách kinh tế và văn hóa cho Việt Nam trong một thập niến tới. Đại Hội XI đă được tổ chức vào tháng Giêng năm 2011 và Đại Hội XII kế tiếp có thể sẽ diễn ra trong tháng Giêng năm 2016.
Vào ngày 30 tháng 5 năm 2014, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đă kư “Chỉ Thị của Bộ Chính Trị” về Đại Hội Đảng Bộ các cấp tiến tới Đại Hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ XII, ra lệnh cho các chi bộ đảng tuyển chọn đại biểu tham dự Đại Hội.[1]
Theo Giáo Sư Carl Thayer th́ sẽ có khoảng 1200 đại biểu đại diện cho các chi bộ đảng từ cấp tỉnh cũng như đại diện cho giới quân đội và an ninh tụ về tham dự Đại Hội. Các đại biểu này Họ sẽ chọn ra 200 Ủy Viên Trung Ương Đảng và các ủy viên này sẽ chọn Tổng Bí Thư và 15 thành viên Bộ Chính Trị. Việt Nam áp dụng chế độ về hưu 65 tuổi. Nếu điều lệ này được áp dụng đúng mức th́ sẽ có khoảng 1/3 số ủy viên Trung Ương Đảng và 2/3 thành phần Bộ Chính Trị phải về hưu v́ quá tuổi. Các ủy viên trung ương phải nằm trong Bộ Chính Trị ít nhất một nhiệm kỳ trước khi được chọn giao cho các chức vụ lănh đạo như là tổng bí thư, thủ tướng, chủ tịch nước hoặc chủ tịch quốc hội. Có nghĩa là chỉ có vài người hiện nay trong Bộ Chính Trị có điều kiện trở thành một trong những “tứ trụ” lèo lái con tàu Việt Nam trước phong ba băo táp tại Biển Đông trong thời gian sắp tới.[2] Trong bối cảnh hiện nay và đặc biệt là khi Việt Nam phải đối diện với những thách thức to lớn về mặt kinh tế và sức ép của Trung Quốc tại Biển Đông th́ Đại Hội XII sắp tới có thể sẽ có một tầm vóc quan trọng như Đại Hội VI diễn ra 30 năm trước đây khi Đảng Cộng Sản đề ra chính sách Đổi Mới trong năm 1986.[3]
Theo nhận định của Giáo Sư Alexander Vuving th́ quyền lực chính trị Việt Nam cũng như Đảng Cộng Sản Việt Nam bị chi phối bởi 3 thành phần: bảo thủ chế độ (regime conservatives), cải cách (modernizers) và những kẻ trục lợi (rent seekers).[4] Nhóm bảo thủ gồm có những người kiên định theo đuổi xă hội chủ nghĩa và vẫn nh́n thế giới tự do như là một đối thủ nguy hiểm. Nhóm này kiên quyết bảo vệ chế độ độc đảng bằng mọi giá, không muốn mở cửa với thế giới bên ngoài (trừ một vài nước cộng sản c̣n sót lại) và sẵn sàng đặt quyền lợi của Đảng trên quyền lợi dân tộc. Tiến tŕnh công nghiệp hóa và hội nhập vào cộng đồng quốc tế chỉ là phương tiện biện minh cho mục tiêu tối hậu là duy tŕ vai tṛ độc tôn của Đảng Cộng Sản. Thành phần của nhóm bảo thủ gồm có cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Tổng Bí Thư đương nhiệm Nguyễn Phú Trọng và cựu Chủ Tịch Lê Đức Anh.
Nhóm cải cách muốn giữ vững vai tṛ lănh đạo của Đảng Cộng Sản nhưng cũng muốn Đảng Cộng Sản xem quyền lợi dân tộc như là quyền lợi của Đảng. Họ xem xă hội chủ nghĩa qua lư tưởng của một xă hội giàu mạnh. Nhóm này đặt tinh thần yêu nước trên ư thức hệ Mác-Lê và sẵn sàng nới rộng một số quyền công dân. Tuy nhiên, khái niệm “dân chủ” của họ không hẳn là dân chủ qua h́nh thức đa đảng mà chỉ là dân chủ trong nội bộ của Đảng. Đa đảng, đa nguyên vẫn c̣n là đề tài cấm kỵ trong mọi thành phần của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhóm cải cách gồm có Nguyễn Cơ Thạch, Vơ Văn Kiệt và Nguyễn Văn An. Riêng trong trường hợp ông Nguyễn Văn Linh th́ ông Linh bắt đầu nhiệm kỳ Tổng Bí Thư với một tư tưởng cải cách nhưng đă đổi thành một người bảo thủ khi các chế độ cộng sản tại Đông Âu lần lượt sụp đổ.
Nhóm thứ ba thuộc thành phần cơ hội và chỉ biết trục lợi mà không thật sự theo đuổi một lư tưởng hay ư thức hệ nào cả. Nhóm này có lúc sẽ ngả theo phe bảo thủ hoặc phe cải cách, miễn là họ kiếm chác được. Có người cho rằng nhóm này c̣n mạnh hơn cả hai nhóm kia v́ mănh lực của đồng tiền trong một cơ chế quyền lực đóng kín. Mục đích của kinh tế thị trường là phát triển lợi nhuận ở mức tối đa. Trong khi đó thỉ chủ thuyết cộng sản kiên định việc bảo vệ độc quyền quyền lực. Hai yếu tố này tạo điều kiện để tiền có thể mua quyền và có quyền th́ đẻ ra tiền. Ông Trần Đức Lương đại diện cho nhóm này. Tuy nhiên và nếu dựa theo tiêu chuẩn này th́ tiêu biểu nhất có lẽ là Nguyễn Tấn Dũng v́ dưới hai nhiệm kỳ thủ tướng của ông trong thời gian qua th́ các nhóm lợi ích đă và đang kiếm được nhiều tiền nhất.
Việt Nam đang phải đối diện với những thách thức to lớn gồm có một nền kinh tế cạn kiệt, một xă hội bị dồn nén và sức ép của Trung Quốc về cả hai mặt kinh tế và an ninh tại Biển Đông.[5] Nguyên nhân chính của những vấn nạn kinh tế, xă hội và chủ quyền lănh hải này đều bắt nguồn từ thể chế độc đảng. Thể chế độc tài toàn trị đă tiêu diệt hết sức sáng tạo và mọi khả năng cạnh tranh của người dân Việt Nam trong lúc đồng bào ta bị lôi cuốn vào một cuộc chạy đua khốc liệt với những dân tộc khác trên thế giới trong một ngôi làng toàn cầu.
Kinh tế cạn kiệt
Từ khi Đảng Cộng Sản Việt Nam thi hành chính sách Đổi Mới th́ thành phần cơ hội là nhóm hưởng được nhiều quyền lợi nhất. Sau thời bao cấp th́ kinh tế Việt Nam có dấu hiệu phát triển đáng kể. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn th́ sự yếu kém của cơ chế gồm có hệ thống hành chánh, tư pháp, giáo dục và hạ tầng cơ sở biểu lộ rơ nét khiến nền kinh tế Việt Nam như là một chiếc xe con quá tải cứ phải ́ ạch không biết tắt máy lúc nào. Giữa năm 1988 và 1999, kinh tế Việt Nam phát triển đều đặn nhưng từ năm 2000 trở đi th́ tỷ lệ phát triển đă giảm dần. Trong năm 2000 th́ chính quyền tiến hành chương tŕnh cải cách hệ thống tư pháp và hành chánh nhưng đến nay th́ không có kết quả ǵ đáng kể. Việt Nam thiếu chuyên gia luật, thẩm phán và công chức có tầm vóc. Hệ thống giáo dục yếu kém không đào tạo được tài năng lănh đạo có viễn kiến. Hệ thống luật pháp tuy đă có tiến bộ hơn nhưng sự hiểu biết và thực thi t́nh thần thượng tôn pháp luật vẫn c̣n quá kém.[6]
Thứ hai, cấu trúc kinh tế Việt nam không được cân bằng. Doanh nghiệp nhà nước lấn át và chiếm gần phân nửa nền kinh tế nhưng lại có năng suất thấp và không có hoặc thiếu khả nănh cạnh tranh. Đó là chưa kể cán bộ xem nó như là một phương tiện làm giàu riêng thể hiện qua các vụ tham nhũng Vinashin và Vinalines với hàng tỷ Mỹ kim bị thất thoát.[7] Kinh tế Việt Nam tăng trưởng 5.42% trong năm 2013 nhưng phụ thuộc vào hàng xuất khẩu và đầu tư nước ngoài. GDP của Việt nam trong năm 2013 lên khoảng 171.4 tỷ Mỹ kim và theo tỷ lệ tăng trưởng th́ sẽ lên gần 190 tỷ Mỹ kim trong năm 2014. Giá trị hàng xuất khẩu chiếm 75% GDP so với 56% trong năm 2009.[8] Có nghĩa là kinh tế Việt Nam không đủ yếu tố nội lực và dễ bị dao động bởi t́nh h́nh kinh tế thế giới. V́ vậy, Việt Nam bị tổn thất nặng nề trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tuy xuất khẩu nhiều nhưng cán cân mậu dịch vẫn thường bị thâm hụt v́ hàng hóa Việt Nam bán ra với giá rẻ so với hàng nhập từ nước ngoài.
Thứ ba, nợ công ở Việt Nam đă vượt qua ngưỡng báo động 65% GDP. Theo đồng hồ nợ công toàn cầu của báo Economist tính tới ngày 30/10/2014 th́ nợ công của Việt Nam đă lên tới 85 tỷ Mỹ kim, tức gần $1,000 mỗi đầu người. Nhưng nếu cộng thêm nợ của doanh nghiệp nhà nước th́ tỷ lệ chắc chắn sẽ cao hơn 65% rất nhiều. Nếu so với các nước láng giềng th́ Việt Nam có tỷ lệ nợ công cao nhất ví dụ như nợ công của Nam Dương chỉ là 24% GDP, Thái Lan 46%, Phi Luật Tân 50%, Lào 46% và Mă Lai Á 55%. Mặt khác, thu nhập trung b́nh của Việt Nam lại thấp hơn rất nhiều và chỉ xấp xỉ $1,400 Mỹ kim một năm cho mỗi đầu người so với Phi Luật Tân là $4,700 Mỹ kim, Nam Dương $5,200 Mỹ kim và Mă Lai Á $17,500 Mỹ kim. Dân số Việt Nam th́ lại lăo hóa mau hơn các nước khác ở mức 7% so với Lào là 4%, Nam Dương và Ấn Độ là 5%. Trong khi đó th́ năng suất lao động ở Việt Nam ngày càng giảm và thấp nhất khu vực châu Á – Thái B́nh Dương và thua Singapore gấp 15 lần, Nhật Bản 11 lần, Hàn Quốc 10 lần, Mă Lai Á 5 lần và Thái Lan 2.5 lần. Trong khi đó, Việt Nam phải dùng tới 25% ngân sách để trả tiền lời nợ công trong năm 2014 và dự kiến sẽ tăng lên tới 30% trong năm 2015.[9] Đây là một tỷ lệ rất cao cho một quốc gia kém phát triển. Nếu chiều hướng không thay đổi th́ Việt Nam khó thoát khỏi nguy cơ vỡ nợ.
Ngoài nợ công th́ Việt Nam cũng đang gặp nhiều khó khăn với nợ xấu. Theo báo cáo của chính phủ Việt Nam trong tháng 11 vừa qua th́ nợ xấu đă giảm đi một nửa xuống c̣n 5.43% so với 17% trong năm 2012. Nhưng sự thiếu minh bạch trong việc thống kê ở Việt Nam th́ không có cơ sở nào để có thể tin vào các con số do nhà nước đưa ra. Ví dụ như Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam th́ cho rằng tỷ lệ nợ xấu khoảng 8.6%. C̣n các công ty quốc tế như Standard and Chartered Bank ấn định con số cao hơn nhiều từ 15-20% (tính tới cuối năm 2012).[10]
Tóm lại, nền kinh tế Việt Nam đang đi vào ngơ cụt bởi 3 yếu tố cơ chế có liên quan với nhau. Đó là Việt Nam không có một ngân hàng trung ương độc lập để có thể điều hành chính sách tiền tệ một cách linh động và mau chóng đáp ứng được với những biến chuyển quy mô của t́nh h́nh kinh tế thế giới. Hệ thống hành chánh và tư pháp của Việt Nam lại quá kém cỏi và thiếu minh bạch. Tệ hại nhất, sự độc quyền chính trị của Đảng Cộng Sản Việt Nam đă bóp nghẹt mọi sức sáng tạo cần thiết để doanh nghiệp tư nhân có thể phát triển đúng mức. Chính Bộ Trưởng Kế Hoạch Đầu Tư Bùi Quang Vinh cũng phải thú nhận là đến thời điểm này th́ nền kinh tế Việt Nam đă hết động lực phát triển. Trong thời gian qua, tăng trưởng kinh tế dựa vào “vốn và bán tài nguyên dạng thô như dầu khí, than đá và các quặng khác. Trong khi lao động th́ không phải dựa vào tăng năng suất mà lại nhờ giá rẻ. Các nước đang phát triển, chậm phát triển th́ dựa vào các yếu tố trên. Nhưng 3 động lực ấy giờ đă cạn kiệt rồi. Việt Nam cần cơ chế, chính sách mới để phát triển”.[11]
Xă hội dồn nén
Bản chất toàn trị và độc đoán của chế độ cộng sản không có chỗ để cho người dân xả áp lực và bày tỏ bức rức. Hiện tượng “dân oan” chỉ xuất hiện trong lịch sử Việt Nam trong vài thập niên nay. Nhưng chỉ từ năm 2008 tới 2011 th́ có tới 1.570.000 người nộp đơn khiếu kiện[12] và có tới 700.000 vụ khiếu kiện liên quan tới đất đai.[13] Theo nghĩa thường dùng hiện nay th́ dân oan là nạn nhân của sự bất công, mà tại Việt nam thành phần dân oan đông đảo nhất là những người dân đang sống b́nh thường bỗng nhiên bị mất đất, mất nhà, trở thành không có chỗ ở, không có việc làm và không có thu nhập để sống. Chế độ “đất đai thuộc sở hữu toàn dân” đă được khai thác triệt để dẫn đến hậu quả là có nhiều người nông dân mất hết tài sản, đất đai. Đối với nông dân th́ đó là tài sản quư giá nhất v́ đất đai của họ không chỉ là nơi cư ngụ mà c̣n là cơ sở kinh tế nuôi sống cả gia đ́nh.
Có hàng ngàn vụ thu hồi đất đai có liên quan tới các nhóm lợi ích chiếm đoạt bất động sản và thu hồi đất đai nhưng không bồi thường thỏa đáng. Chính quyền các cấp th́ hầu như vô cảm và vô lương tâm. Mỗi năm có hàng chục ngàn cuộc biểu t́nh phản đối của dân oan. Tuy không có con số thống kê nào nhưng “ước tính tầng lớp dân oan đất đai ở Việt Nam phải lên đến ít nhất 3-4 triệu người – tương đương với số lượng đảng viên trong đảng cầm quyền.”[14] Khi người dân oan đi khiếu kiện th́ họ bị đá như quả bóng từ huyện tới tỉnh lên tới trung ương rồi về lại địa phương mà không ai xét xử. Khi bị đẩy vào đường cùng th́ họ phải liều ḿnh sử dụng bạo lực hoặc tự sát như trường hợp của Đoàn Văn Vươn và Đặng Ngọc Viết.
Thứ hai, vấn nạn tham nhũng tại Việt Nam coi như hết thuốc chữa. Trong cuộc phỏng vấn với Bảo Tuổi Trẻ năm 2005, cựu Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu đă trả lời là “tham nhũng ở nước ta là do cả cơ chế lẫn con người, từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên”. Gần đây hơn, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đă phải lên tiếng: “hiện tượng hư hỏng, tham nhũng, tiêu cực đúng là lắm lúc nghĩ hết sức sốt ruột, nh́n vào đâu cũng thấy, sờ vào đâu cũng có”.[15] Theo chỉ số của Tổ Chức Minh Bạch Quốc Tế th́ Việt Nam là một trong những quốc gia có t́nh trạng tham nhũng cao nhất thế giới.
Một vấn đề khác cũng nghiêm trọng không kém là vấn nạn lạm phát cán bộ, quan chức và tướng lĩnh. Cả nước ưóc lượng có khoảng 139.000 cơ quan hành chính tức là có khoảng 139.000 cấp trưởng và gấp 2-3-4 lần cấp phó và có cơ quan có 5-6, 7-8 cấp phó. Cứ tính mỗi cấp phó hàng năm ngân sách chi thêm khoảng 30 triệu đồng th́ chỉ với 139.000 cấp phó đă phải chi hơn 4.000 tỷ đồng. Nên số tiền mỗi năm cả nước phải chi thêm có thể hơn cả 16 ngàn tỉ đồng. Đây là một con số khủng khiếp, nhất là với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, khi nợ công đang tăng lên hàng ngày. Đến nỗi Đại Biểu Trần Du Lịch đă phải nghẹn ngào thốt lên “Không dân nào đóng thuế nuôi nổi bộ máy này”.[16]
Vào ngày 30 tháng 5 năm 2014, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đă kư “Chỉ Thị của Bộ Chính Trị” về Đại Hội Đảng Bộ các cấp tiến tới Đại Hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ XII, ra lệnh cho các chi bộ đảng tuyển chọn đại biểu tham dự Đại Hội.[1]
Theo Giáo Sư Carl Thayer th́ sẽ có khoảng 1200 đại biểu đại diện cho các chi bộ đảng từ cấp tỉnh cũng như đại diện cho giới quân đội và an ninh tụ về tham dự Đại Hội. Các đại biểu này Họ sẽ chọn ra 200 Ủy Viên Trung Ương Đảng và các ủy viên này sẽ chọn Tổng Bí Thư và 15 thành viên Bộ Chính Trị. Việt Nam áp dụng chế độ về hưu 65 tuổi. Nếu điều lệ này được áp dụng đúng mức th́ sẽ có khoảng 1/3 số ủy viên Trung Ương Đảng và 2/3 thành phần Bộ Chính Trị phải về hưu v́ quá tuổi. Các ủy viên trung ương phải nằm trong Bộ Chính Trị ít nhất một nhiệm kỳ trước khi được chọn giao cho các chức vụ lănh đạo như là tổng bí thư, thủ tướng, chủ tịch nước hoặc chủ tịch quốc hội. Có nghĩa là chỉ có vài người hiện nay trong Bộ Chính Trị có điều kiện trở thành một trong những “tứ trụ” lèo lái con tàu Việt Nam trước phong ba băo táp tại Biển Đông trong thời gian sắp tới.[2] Trong bối cảnh hiện nay và đặc biệt là khi Việt Nam phải đối diện với những thách thức to lớn về mặt kinh tế và sức ép của Trung Quốc tại Biển Đông th́ Đại Hội XII sắp tới có thể sẽ có một tầm vóc quan trọng như Đại Hội VI diễn ra 30 năm trước đây khi Đảng Cộng Sản đề ra chính sách Đổi Mới trong năm 1986.[3]
Theo nhận định của Giáo Sư Alexander Vuving th́ quyền lực chính trị Việt Nam cũng như Đảng Cộng Sản Việt Nam bị chi phối bởi 3 thành phần: bảo thủ chế độ (regime conservatives), cải cách (modernizers) và những kẻ trục lợi (rent seekers).[4] Nhóm bảo thủ gồm có những người kiên định theo đuổi xă hội chủ nghĩa và vẫn nh́n thế giới tự do như là một đối thủ nguy hiểm. Nhóm này kiên quyết bảo vệ chế độ độc đảng bằng mọi giá, không muốn mở cửa với thế giới bên ngoài (trừ một vài nước cộng sản c̣n sót lại) và sẵn sàng đặt quyền lợi của Đảng trên quyền lợi dân tộc. Tiến tŕnh công nghiệp hóa và hội nhập vào cộng đồng quốc tế chỉ là phương tiện biện minh cho mục tiêu tối hậu là duy tŕ vai tṛ độc tôn của Đảng Cộng Sản. Thành phần của nhóm bảo thủ gồm có cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Tổng Bí Thư đương nhiệm Nguyễn Phú Trọng và cựu Chủ Tịch Lê Đức Anh.
Nhóm cải cách muốn giữ vững vai tṛ lănh đạo của Đảng Cộng Sản nhưng cũng muốn Đảng Cộng Sản xem quyền lợi dân tộc như là quyền lợi của Đảng. Họ xem xă hội chủ nghĩa qua lư tưởng của một xă hội giàu mạnh. Nhóm này đặt tinh thần yêu nước trên ư thức hệ Mác-Lê và sẵn sàng nới rộng một số quyền công dân. Tuy nhiên, khái niệm “dân chủ” của họ không hẳn là dân chủ qua h́nh thức đa đảng mà chỉ là dân chủ trong nội bộ của Đảng. Đa đảng, đa nguyên vẫn c̣n là đề tài cấm kỵ trong mọi thành phần của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhóm cải cách gồm có Nguyễn Cơ Thạch, Vơ Văn Kiệt và Nguyễn Văn An. Riêng trong trường hợp ông Nguyễn Văn Linh th́ ông Linh bắt đầu nhiệm kỳ Tổng Bí Thư với một tư tưởng cải cách nhưng đă đổi thành một người bảo thủ khi các chế độ cộng sản tại Đông Âu lần lượt sụp đổ.
Nhóm thứ ba thuộc thành phần cơ hội và chỉ biết trục lợi mà không thật sự theo đuổi một lư tưởng hay ư thức hệ nào cả. Nhóm này có lúc sẽ ngả theo phe bảo thủ hoặc phe cải cách, miễn là họ kiếm chác được. Có người cho rằng nhóm này c̣n mạnh hơn cả hai nhóm kia v́ mănh lực của đồng tiền trong một cơ chế quyền lực đóng kín. Mục đích của kinh tế thị trường là phát triển lợi nhuận ở mức tối đa. Trong khi đó thỉ chủ thuyết cộng sản kiên định việc bảo vệ độc quyền quyền lực. Hai yếu tố này tạo điều kiện để tiền có thể mua quyền và có quyền th́ đẻ ra tiền. Ông Trần Đức Lương đại diện cho nhóm này. Tuy nhiên và nếu dựa theo tiêu chuẩn này th́ tiêu biểu nhất có lẽ là Nguyễn Tấn Dũng v́ dưới hai nhiệm kỳ thủ tướng của ông trong thời gian qua th́ các nhóm lợi ích đă và đang kiếm được nhiều tiền nhất.
Việt Nam đang phải đối diện với những thách thức to lớn gồm có một nền kinh tế cạn kiệt, một xă hội bị dồn nén và sức ép của Trung Quốc về cả hai mặt kinh tế và an ninh tại Biển Đông.[5] Nguyên nhân chính của những vấn nạn kinh tế, xă hội và chủ quyền lănh hải này đều bắt nguồn từ thể chế độc đảng. Thể chế độc tài toàn trị đă tiêu diệt hết sức sáng tạo và mọi khả năng cạnh tranh của người dân Việt Nam trong lúc đồng bào ta bị lôi cuốn vào một cuộc chạy đua khốc liệt với những dân tộc khác trên thế giới trong một ngôi làng toàn cầu.
Kinh tế cạn kiệt
Từ khi Đảng Cộng Sản Việt Nam thi hành chính sách Đổi Mới th́ thành phần cơ hội là nhóm hưởng được nhiều quyền lợi nhất. Sau thời bao cấp th́ kinh tế Việt Nam có dấu hiệu phát triển đáng kể. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn th́ sự yếu kém của cơ chế gồm có hệ thống hành chánh, tư pháp, giáo dục và hạ tầng cơ sở biểu lộ rơ nét khiến nền kinh tế Việt Nam như là một chiếc xe con quá tải cứ phải ́ ạch không biết tắt máy lúc nào. Giữa năm 1988 và 1999, kinh tế Việt Nam phát triển đều đặn nhưng từ năm 2000 trở đi th́ tỷ lệ phát triển đă giảm dần. Trong năm 2000 th́ chính quyền tiến hành chương tŕnh cải cách hệ thống tư pháp và hành chánh nhưng đến nay th́ không có kết quả ǵ đáng kể. Việt Nam thiếu chuyên gia luật, thẩm phán và công chức có tầm vóc. Hệ thống giáo dục yếu kém không đào tạo được tài năng lănh đạo có viễn kiến. Hệ thống luật pháp tuy đă có tiến bộ hơn nhưng sự hiểu biết và thực thi t́nh thần thượng tôn pháp luật vẫn c̣n quá kém.[6]
Thứ hai, cấu trúc kinh tế Việt nam không được cân bằng. Doanh nghiệp nhà nước lấn át và chiếm gần phân nửa nền kinh tế nhưng lại có năng suất thấp và không có hoặc thiếu khả nănh cạnh tranh. Đó là chưa kể cán bộ xem nó như là một phương tiện làm giàu riêng thể hiện qua các vụ tham nhũng Vinashin và Vinalines với hàng tỷ Mỹ kim bị thất thoát.[7] Kinh tế Việt Nam tăng trưởng 5.42% trong năm 2013 nhưng phụ thuộc vào hàng xuất khẩu và đầu tư nước ngoài. GDP của Việt nam trong năm 2013 lên khoảng 171.4 tỷ Mỹ kim và theo tỷ lệ tăng trưởng th́ sẽ lên gần 190 tỷ Mỹ kim trong năm 2014. Giá trị hàng xuất khẩu chiếm 75% GDP so với 56% trong năm 2009.[8] Có nghĩa là kinh tế Việt Nam không đủ yếu tố nội lực và dễ bị dao động bởi t́nh h́nh kinh tế thế giới. V́ vậy, Việt Nam bị tổn thất nặng nề trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tuy xuất khẩu nhiều nhưng cán cân mậu dịch vẫn thường bị thâm hụt v́ hàng hóa Việt Nam bán ra với giá rẻ so với hàng nhập từ nước ngoài.
Thứ ba, nợ công ở Việt Nam đă vượt qua ngưỡng báo động 65% GDP. Theo đồng hồ nợ công toàn cầu của báo Economist tính tới ngày 30/10/2014 th́ nợ công của Việt Nam đă lên tới 85 tỷ Mỹ kim, tức gần $1,000 mỗi đầu người. Nhưng nếu cộng thêm nợ của doanh nghiệp nhà nước th́ tỷ lệ chắc chắn sẽ cao hơn 65% rất nhiều. Nếu so với các nước láng giềng th́ Việt Nam có tỷ lệ nợ công cao nhất ví dụ như nợ công của Nam Dương chỉ là 24% GDP, Thái Lan 46%, Phi Luật Tân 50%, Lào 46% và Mă Lai Á 55%. Mặt khác, thu nhập trung b́nh của Việt Nam lại thấp hơn rất nhiều và chỉ xấp xỉ $1,400 Mỹ kim một năm cho mỗi đầu người so với Phi Luật Tân là $4,700 Mỹ kim, Nam Dương $5,200 Mỹ kim và Mă Lai Á $17,500 Mỹ kim. Dân số Việt Nam th́ lại lăo hóa mau hơn các nước khác ở mức 7% so với Lào là 4%, Nam Dương và Ấn Độ là 5%. Trong khi đó th́ năng suất lao động ở Việt Nam ngày càng giảm và thấp nhất khu vực châu Á – Thái B́nh Dương và thua Singapore gấp 15 lần, Nhật Bản 11 lần, Hàn Quốc 10 lần, Mă Lai Á 5 lần và Thái Lan 2.5 lần. Trong khi đó, Việt Nam phải dùng tới 25% ngân sách để trả tiền lời nợ công trong năm 2014 và dự kiến sẽ tăng lên tới 30% trong năm 2015.[9] Đây là một tỷ lệ rất cao cho một quốc gia kém phát triển. Nếu chiều hướng không thay đổi th́ Việt Nam khó thoát khỏi nguy cơ vỡ nợ.
Ngoài nợ công th́ Việt Nam cũng đang gặp nhiều khó khăn với nợ xấu. Theo báo cáo của chính phủ Việt Nam trong tháng 11 vừa qua th́ nợ xấu đă giảm đi một nửa xuống c̣n 5.43% so với 17% trong năm 2012. Nhưng sự thiếu minh bạch trong việc thống kê ở Việt Nam th́ không có cơ sở nào để có thể tin vào các con số do nhà nước đưa ra. Ví dụ như Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam th́ cho rằng tỷ lệ nợ xấu khoảng 8.6%. C̣n các công ty quốc tế như Standard and Chartered Bank ấn định con số cao hơn nhiều từ 15-20% (tính tới cuối năm 2012).[10]
Tóm lại, nền kinh tế Việt Nam đang đi vào ngơ cụt bởi 3 yếu tố cơ chế có liên quan với nhau. Đó là Việt Nam không có một ngân hàng trung ương độc lập để có thể điều hành chính sách tiền tệ một cách linh động và mau chóng đáp ứng được với những biến chuyển quy mô của t́nh h́nh kinh tế thế giới. Hệ thống hành chánh và tư pháp của Việt Nam lại quá kém cỏi và thiếu minh bạch. Tệ hại nhất, sự độc quyền chính trị của Đảng Cộng Sản Việt Nam đă bóp nghẹt mọi sức sáng tạo cần thiết để doanh nghiệp tư nhân có thể phát triển đúng mức. Chính Bộ Trưởng Kế Hoạch Đầu Tư Bùi Quang Vinh cũng phải thú nhận là đến thời điểm này th́ nền kinh tế Việt Nam đă hết động lực phát triển. Trong thời gian qua, tăng trưởng kinh tế dựa vào “vốn và bán tài nguyên dạng thô như dầu khí, than đá và các quặng khác. Trong khi lao động th́ không phải dựa vào tăng năng suất mà lại nhờ giá rẻ. Các nước đang phát triển, chậm phát triển th́ dựa vào các yếu tố trên. Nhưng 3 động lực ấy giờ đă cạn kiệt rồi. Việt Nam cần cơ chế, chính sách mới để phát triển”.[11]
Xă hội dồn nén
Bản chất toàn trị và độc đoán của chế độ cộng sản không có chỗ để cho người dân xả áp lực và bày tỏ bức rức. Hiện tượng “dân oan” chỉ xuất hiện trong lịch sử Việt Nam trong vài thập niên nay. Nhưng chỉ từ năm 2008 tới 2011 th́ có tới 1.570.000 người nộp đơn khiếu kiện[12] và có tới 700.000 vụ khiếu kiện liên quan tới đất đai.[13] Theo nghĩa thường dùng hiện nay th́ dân oan là nạn nhân của sự bất công, mà tại Việt nam thành phần dân oan đông đảo nhất là những người dân đang sống b́nh thường bỗng nhiên bị mất đất, mất nhà, trở thành không có chỗ ở, không có việc làm và không có thu nhập để sống. Chế độ “đất đai thuộc sở hữu toàn dân” đă được khai thác triệt để dẫn đến hậu quả là có nhiều người nông dân mất hết tài sản, đất đai. Đối với nông dân th́ đó là tài sản quư giá nhất v́ đất đai của họ không chỉ là nơi cư ngụ mà c̣n là cơ sở kinh tế nuôi sống cả gia đ́nh.
Có hàng ngàn vụ thu hồi đất đai có liên quan tới các nhóm lợi ích chiếm đoạt bất động sản và thu hồi đất đai nhưng không bồi thường thỏa đáng. Chính quyền các cấp th́ hầu như vô cảm và vô lương tâm. Mỗi năm có hàng chục ngàn cuộc biểu t́nh phản đối của dân oan. Tuy không có con số thống kê nào nhưng “ước tính tầng lớp dân oan đất đai ở Việt Nam phải lên đến ít nhất 3-4 triệu người – tương đương với số lượng đảng viên trong đảng cầm quyền.”[14] Khi người dân oan đi khiếu kiện th́ họ bị đá như quả bóng từ huyện tới tỉnh lên tới trung ương rồi về lại địa phương mà không ai xét xử. Khi bị đẩy vào đường cùng th́ họ phải liều ḿnh sử dụng bạo lực hoặc tự sát như trường hợp của Đoàn Văn Vươn và Đặng Ngọc Viết.
Thứ hai, vấn nạn tham nhũng tại Việt Nam coi như hết thuốc chữa. Trong cuộc phỏng vấn với Bảo Tuổi Trẻ năm 2005, cựu Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu đă trả lời là “tham nhũng ở nước ta là do cả cơ chế lẫn con người, từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên”. Gần đây hơn, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đă phải lên tiếng: “hiện tượng hư hỏng, tham nhũng, tiêu cực đúng là lắm lúc nghĩ hết sức sốt ruột, nh́n vào đâu cũng thấy, sờ vào đâu cũng có”.[15] Theo chỉ số của Tổ Chức Minh Bạch Quốc Tế th́ Việt Nam là một trong những quốc gia có t́nh trạng tham nhũng cao nhất thế giới.
Một vấn đề khác cũng nghiêm trọng không kém là vấn nạn lạm phát cán bộ, quan chức và tướng lĩnh. Cả nước ưóc lượng có khoảng 139.000 cơ quan hành chính tức là có khoảng 139.000 cấp trưởng và gấp 2-3-4 lần cấp phó và có cơ quan có 5-6, 7-8 cấp phó. Cứ tính mỗi cấp phó hàng năm ngân sách chi thêm khoảng 30 triệu đồng th́ chỉ với 139.000 cấp phó đă phải chi hơn 4.000 tỷ đồng. Nên số tiền mỗi năm cả nước phải chi thêm có thể hơn cả 16 ngàn tỉ đồng. Đây là một con số khủng khiếp, nhất là với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, khi nợ công đang tăng lên hàng ngày. Đến nỗi Đại Biểu Trần Du Lịch đă phải nghẹn ngào thốt lên “Không dân nào đóng thuế nuôi nổi bộ máy này”.[16]