Romano
01-29-2015, 20:50
Bà Nguyễn Thị Dăm (số 8B Lê Trực, phường Điện Biên, quận Ba Đ́nh, Hà Nội) vừa khóc vừa kể: Hơn 10 năm qua, cuộc sống của bà như chốn địa ngục bởi sự đảo lộn hoàn toàn từ khi xuất hiện việc thi hành án (THA) từ “trên trời rơi xuống”.
Gán nợ cả tài sản thuê của Nhà nước?
Qua t́m hiểu, chúng tôi được biết: Ngày 10/4/2000 gia đ́nh bà nhận chuyển nhượng quyền thuê nhà của Nhà nước tại số 8B phố Lê Trực, phường Điện Biên, quận Ba Đ́nh và sử dụng từ đó đến nay. Căn nhà này có người thuê ban đầu là ông Nguyễn Bá Chí.
Năm 1992, ông Chí “hỏa hồng” lại cho gia đ́nh ông Trung – bà Thanh. Đến năm 1998, ông Trung, bà Thanh ly hôn, chia đôi căn nhà. Gia đ́nh bà Dăm đă nhận một phần nhà bà Thanh thuê. Bà Thanh chỉ có thể bàn giao một phần trong khối tài sản nhà 8B Lê Trực cho gia đ́nh bà Dăm v́ bản chất đây không phải nhà thuộc sở hữu của bà, mà là nhà thuộc quyền sở hữu nhà ở của Nhà nước. Bà Thanh chỉ có thể “hỏa hồng” – chuyển quyền đi thuê Nhà nước – cho gia đ́nh bà Dăm.
Tháng 8 năm 1999, khi đang thụ án trong trại giam v́ vi phạm pháp luật, bà Thanh trở thành bị đơn vắng mặt trong một vụ kiện dân sự khác. Nguyên nhân bà Thanh bị kiện v́ nợ ông Trần Xuân Đồng 108 triệu đồng. Tại phiên ṭa sơ thẩm ngày 19/8/1998, bà Thanh thừa nhận có nợ tiền ông Đồng, và cam kết sẽ trả “khi được Nhà nước bồi thường tiền đền bù giải phóng mặt bằng”cho nhà của bà tại số 8B phố Lê Trực, phường Điện Biên. Theo bản án số 30 DSST ngày 19/8/1999 của TAND quận Ba Đ́nh, ông Đồng chỉ yêu cầu bà Thanh trả tiền và “không có thêm bất kỳ một yêu cầu ǵ khác”. Câu hỏi đặt ra là tại sao bà Thanh cam kết nhà số 8B phố Lê Trực là nhà của bà? Tuy nhiên, tại phiên xét xửngày 19/8/1999, ông Đồng lại không thỏa thuận với bà Thanh, hoặc yêu cầu ṭa án đưa căn nhà này vào diện tài sản đảm bảo cho việc THA? Lư do ở đây được hiểu, thứ nhất, đây là nhà Nhà nước cho thuê, không phải tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của bà Thanh. Thứ hai, tại thời điểm trước năm 2000, ṭa án không đưa ra kết luận các thỏa thuận dân sự liên quan tới nhà ở, đất đai mà không có “sổ đỏ” – giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do vậy, bản án số 30 DSST ngày 19/8/1999 của TAND quận Ba Đ́nh cũng không tuyên buộc bà Thanh phải giao nhà cho ông Đồng như là một giải pháp để trừ nợ.
Theo những tài liệu thể hiện trong hồ sơ mà chúng tôi thu thập được. Khi ṭa không đưa ra kết luận về kê biên nhà ở, với tư cách là tài sản thuộc sở hữu của bà Thanh, th́ THA không thể thực hiện việc này. Nhưng không hiểu v́ sao, xuất phát từ động cơ nào, đến ngày 28/5/2001, trước đại diện cơ quan THA quận Ba Đ́nh, theo yêu cầu của ông Đồng, bà Thanh kư vào biên bản với nội dung: tự nguyện giao nhà 8B Lê Trực cho ông Đồng để THA.
Sự “tự nguyện” này của bà Thanh và ông Đồng là điều khó xử với cơ quan THA. V́ đến thời điểm này bà Thanh chưa đứng tên trên hợp đồng thuê nhà 8B Lê Trực, mà người thuê ban đầu (ông Nguyễn Bá Chí). Tức là căn nhà chưa đủ điều kiện pháp lư để đưa vào diện có thể THA bản án đă tuyên giữa ông Đồng và bà Thanh. Tuy nhiên trong biên bản làm việc, cơ quan THA quận Ba Đ́nh đă yêu cầu rất tỉnh táo: “thỏa thuận này chỉ có hiệu lực khi hai bên làm thủ tục sang tên thuê nhà tại Xí nghiệp kinh doanh nhà Ba Đ́nh”. Tuy nhiên, ông Đông vàbà Thanh đều không thực hiện được yêu cầu này.
Thi hành án cả nhà của Nhà nước?
Trong các văn bản liên quan tới việc cho thuê nhà tại thời điểm năm 2001 không có văn bản hay điều luật nào quy định cụ thể công nhận sang tên nhà Nhà nước cho thuê với lư do để thi hành án, mà chỉ cho phép công nhận việc chuyển nhượng, cho, tặng... quyền thuê nhà. Có nghĩa là không có quy định để ông Đồng làm thủ tục sang tên thuê nhà Nhà nước từ bà Thanh theo diện nhận tài sản thi hành án. Điều đó giải thích v́ sao suốt nhiều năm qua, dù biết nguyện vọng của ông Đồng, nhưng Xí nghiệp kinh doanh nhà cũng không thể làm ǵ để “giúp” ông.
Căn cứ vào tài liệu th́ có được, cho thấy nhà 8B Lê Trực là nhà của Nhà nước, chưa bao giờ thuộc quyền sở hữu của bà Thanh. V́ vậy, điều kiện cần để đưa nhà này vào diện THA là không đúng với quy định của pháp luật, chứchưa bàn tới điều kiện đủ để thi hành án. Điều đó cho thấy cơ quan THA đă nhầm lẫn khi áp dụng quy định này để xử lư tài sản của bà Thanh. Nói cách khác, cơ quan THA không thể áp dụng điều khoản này để xử lư vụ việc. Thay v́ hướng dẫn ông Đồng và bà Thanh thực hiện thủ tục khác để giải quyết món nợ trước đó mà bản án đă tuyên, ngược lại cơ quan THA lại cố t́nh thực hiện việc kê biên nhà của Nhà nước để THA một bản án dân sự giữa hai cá nhân. Từ sai lầm trong việc THA dẫn đến hệ lụy của hàng loạt sai lầm khác. Đến năm 2014, khi Nhà nước thực hiện thu hồi đất để mở tuyến đường nối đường Trần Phú với đường Kim Mă, cơ quan THA quận Ba Đ́nh tiếp tục có công văn đề nghị giữ lại phần lớn số tiền đền bù đă được tính cho gia đ́nh bà Dăm. Đáng ngạc nhiên khi số tiền mà các cơ quan có thẩm quyền quận Ba Đ́nh định đưa cho gia đ́nh bà Dăm là rất nhỏ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Dăm.
Vậy là, sau hơn 10 năm bị cơ quan Thi hành án đẩy vào cảnh có nguy cơ mất nhà, th́ giờ gia đ́nh bà Dăm lại có nguy cơ tiếp tục bị UBND quận Ba Đ́nh giữ nốt số tiền mà lẽ ra gia đ́nh bà phải được nhận theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, trong suốt qua tŕnh khiếu nại đến các cơ quan chức năng, đặc biệt là tới giai đoạn thu hồi nhà để giải phóng mặt bằng, gia đ́nh bà Dăm đă có khá nhiều đơn thư đề nghị được đối thoại trực tiếp với Ban hỗ trợ GPMB thành phố Hà Nội, để trực tiếp tŕnh bày những khuất tất trong việc tính toán đền bù tài sản nhà bà. Nhưng đáng ngạc nhiên khi Ban GPMB lại giữ thái độ im lặng, không trả lời gia đ́nh bà Dăm. Trong khi đó th́ một loạt báo cáo về trường hợp gia đ́nh bà Dăm do Ban GPMB phát ra lại chỉ căn cứ trên những báo cáo của UBND phường và UBND quận.
Liên quan đến việc bàn giao nhà cho Ban GPMB để mở tuyến đường nối đường Trần Phú với đường Kim Mă, gia đ́nh bà Dăm chỉ yêu cầu: Giao tiền đền bù cho gia đ́nh bà một lần và căn cứ vào điểm b khoản 4 điều 71 Luật Đất đai năm 2013 quy định “Ban thực hiện cưỡng chế vận động, thuyết phục, đối thoại với người bị cưỡng chế, nếu người bị cưỡng chế chấp hành th́ Ban thực hiện cưỡng chế lập biên bản ghi nhận sự chấp hành. Việc bàn giao đất được thực hiện chậm nhất sau 30 ngày kể từ ngày lập biên bản” Trong buổi làm việc ngày 27/01/2015, gia đ́nh bà Dăm vẫn khẳng định là giao đất và chấp hành đúng với quy định của pháp luật. Nhưng phải bàn giao tiền cho gia đ́nh bà đầy đủ và để cho gia đ́nh bà 30 ngày theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 để bà t́m nơi ở tạm trước khi gia đ́nh bà được mua 01 căn hộ tái định cư.
Từ những căn cứ cụ thể trên, liệu các ban ngành của UBND quận Ba Đ́nh đặc biệt là ban GPMB Thành phố có tiếp tục, cố t́nh làm trái với quy định của pháp luật nữa hay không?.
tm
Gán nợ cả tài sản thuê của Nhà nước?
Qua t́m hiểu, chúng tôi được biết: Ngày 10/4/2000 gia đ́nh bà nhận chuyển nhượng quyền thuê nhà của Nhà nước tại số 8B phố Lê Trực, phường Điện Biên, quận Ba Đ́nh và sử dụng từ đó đến nay. Căn nhà này có người thuê ban đầu là ông Nguyễn Bá Chí.
Năm 1992, ông Chí “hỏa hồng” lại cho gia đ́nh ông Trung – bà Thanh. Đến năm 1998, ông Trung, bà Thanh ly hôn, chia đôi căn nhà. Gia đ́nh bà Dăm đă nhận một phần nhà bà Thanh thuê. Bà Thanh chỉ có thể bàn giao một phần trong khối tài sản nhà 8B Lê Trực cho gia đ́nh bà Dăm v́ bản chất đây không phải nhà thuộc sở hữu của bà, mà là nhà thuộc quyền sở hữu nhà ở của Nhà nước. Bà Thanh chỉ có thể “hỏa hồng” – chuyển quyền đi thuê Nhà nước – cho gia đ́nh bà Dăm.
Tháng 8 năm 1999, khi đang thụ án trong trại giam v́ vi phạm pháp luật, bà Thanh trở thành bị đơn vắng mặt trong một vụ kiện dân sự khác. Nguyên nhân bà Thanh bị kiện v́ nợ ông Trần Xuân Đồng 108 triệu đồng. Tại phiên ṭa sơ thẩm ngày 19/8/1998, bà Thanh thừa nhận có nợ tiền ông Đồng, và cam kết sẽ trả “khi được Nhà nước bồi thường tiền đền bù giải phóng mặt bằng”cho nhà của bà tại số 8B phố Lê Trực, phường Điện Biên. Theo bản án số 30 DSST ngày 19/8/1999 của TAND quận Ba Đ́nh, ông Đồng chỉ yêu cầu bà Thanh trả tiền và “không có thêm bất kỳ một yêu cầu ǵ khác”. Câu hỏi đặt ra là tại sao bà Thanh cam kết nhà số 8B phố Lê Trực là nhà của bà? Tuy nhiên, tại phiên xét xửngày 19/8/1999, ông Đồng lại không thỏa thuận với bà Thanh, hoặc yêu cầu ṭa án đưa căn nhà này vào diện tài sản đảm bảo cho việc THA? Lư do ở đây được hiểu, thứ nhất, đây là nhà Nhà nước cho thuê, không phải tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của bà Thanh. Thứ hai, tại thời điểm trước năm 2000, ṭa án không đưa ra kết luận các thỏa thuận dân sự liên quan tới nhà ở, đất đai mà không có “sổ đỏ” – giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do vậy, bản án số 30 DSST ngày 19/8/1999 của TAND quận Ba Đ́nh cũng không tuyên buộc bà Thanh phải giao nhà cho ông Đồng như là một giải pháp để trừ nợ.
Theo những tài liệu thể hiện trong hồ sơ mà chúng tôi thu thập được. Khi ṭa không đưa ra kết luận về kê biên nhà ở, với tư cách là tài sản thuộc sở hữu của bà Thanh, th́ THA không thể thực hiện việc này. Nhưng không hiểu v́ sao, xuất phát từ động cơ nào, đến ngày 28/5/2001, trước đại diện cơ quan THA quận Ba Đ́nh, theo yêu cầu của ông Đồng, bà Thanh kư vào biên bản với nội dung: tự nguyện giao nhà 8B Lê Trực cho ông Đồng để THA.
Sự “tự nguyện” này của bà Thanh và ông Đồng là điều khó xử với cơ quan THA. V́ đến thời điểm này bà Thanh chưa đứng tên trên hợp đồng thuê nhà 8B Lê Trực, mà người thuê ban đầu (ông Nguyễn Bá Chí). Tức là căn nhà chưa đủ điều kiện pháp lư để đưa vào diện có thể THA bản án đă tuyên giữa ông Đồng và bà Thanh. Tuy nhiên trong biên bản làm việc, cơ quan THA quận Ba Đ́nh đă yêu cầu rất tỉnh táo: “thỏa thuận này chỉ có hiệu lực khi hai bên làm thủ tục sang tên thuê nhà tại Xí nghiệp kinh doanh nhà Ba Đ́nh”. Tuy nhiên, ông Đông vàbà Thanh đều không thực hiện được yêu cầu này.
Thi hành án cả nhà của Nhà nước?
Trong các văn bản liên quan tới việc cho thuê nhà tại thời điểm năm 2001 không có văn bản hay điều luật nào quy định cụ thể công nhận sang tên nhà Nhà nước cho thuê với lư do để thi hành án, mà chỉ cho phép công nhận việc chuyển nhượng, cho, tặng... quyền thuê nhà. Có nghĩa là không có quy định để ông Đồng làm thủ tục sang tên thuê nhà Nhà nước từ bà Thanh theo diện nhận tài sản thi hành án. Điều đó giải thích v́ sao suốt nhiều năm qua, dù biết nguyện vọng của ông Đồng, nhưng Xí nghiệp kinh doanh nhà cũng không thể làm ǵ để “giúp” ông.
Căn cứ vào tài liệu th́ có được, cho thấy nhà 8B Lê Trực là nhà của Nhà nước, chưa bao giờ thuộc quyền sở hữu của bà Thanh. V́ vậy, điều kiện cần để đưa nhà này vào diện THA là không đúng với quy định của pháp luật, chứchưa bàn tới điều kiện đủ để thi hành án. Điều đó cho thấy cơ quan THA đă nhầm lẫn khi áp dụng quy định này để xử lư tài sản của bà Thanh. Nói cách khác, cơ quan THA không thể áp dụng điều khoản này để xử lư vụ việc. Thay v́ hướng dẫn ông Đồng và bà Thanh thực hiện thủ tục khác để giải quyết món nợ trước đó mà bản án đă tuyên, ngược lại cơ quan THA lại cố t́nh thực hiện việc kê biên nhà của Nhà nước để THA một bản án dân sự giữa hai cá nhân. Từ sai lầm trong việc THA dẫn đến hệ lụy của hàng loạt sai lầm khác. Đến năm 2014, khi Nhà nước thực hiện thu hồi đất để mở tuyến đường nối đường Trần Phú với đường Kim Mă, cơ quan THA quận Ba Đ́nh tiếp tục có công văn đề nghị giữ lại phần lớn số tiền đền bù đă được tính cho gia đ́nh bà Dăm. Đáng ngạc nhiên khi số tiền mà các cơ quan có thẩm quyền quận Ba Đ́nh định đưa cho gia đ́nh bà Dăm là rất nhỏ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Dăm.
Vậy là, sau hơn 10 năm bị cơ quan Thi hành án đẩy vào cảnh có nguy cơ mất nhà, th́ giờ gia đ́nh bà Dăm lại có nguy cơ tiếp tục bị UBND quận Ba Đ́nh giữ nốt số tiền mà lẽ ra gia đ́nh bà phải được nhận theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, trong suốt qua tŕnh khiếu nại đến các cơ quan chức năng, đặc biệt là tới giai đoạn thu hồi nhà để giải phóng mặt bằng, gia đ́nh bà Dăm đă có khá nhiều đơn thư đề nghị được đối thoại trực tiếp với Ban hỗ trợ GPMB thành phố Hà Nội, để trực tiếp tŕnh bày những khuất tất trong việc tính toán đền bù tài sản nhà bà. Nhưng đáng ngạc nhiên khi Ban GPMB lại giữ thái độ im lặng, không trả lời gia đ́nh bà Dăm. Trong khi đó th́ một loạt báo cáo về trường hợp gia đ́nh bà Dăm do Ban GPMB phát ra lại chỉ căn cứ trên những báo cáo của UBND phường và UBND quận.
Liên quan đến việc bàn giao nhà cho Ban GPMB để mở tuyến đường nối đường Trần Phú với đường Kim Mă, gia đ́nh bà Dăm chỉ yêu cầu: Giao tiền đền bù cho gia đ́nh bà một lần và căn cứ vào điểm b khoản 4 điều 71 Luật Đất đai năm 2013 quy định “Ban thực hiện cưỡng chế vận động, thuyết phục, đối thoại với người bị cưỡng chế, nếu người bị cưỡng chế chấp hành th́ Ban thực hiện cưỡng chế lập biên bản ghi nhận sự chấp hành. Việc bàn giao đất được thực hiện chậm nhất sau 30 ngày kể từ ngày lập biên bản” Trong buổi làm việc ngày 27/01/2015, gia đ́nh bà Dăm vẫn khẳng định là giao đất và chấp hành đúng với quy định của pháp luật. Nhưng phải bàn giao tiền cho gia đ́nh bà đầy đủ và để cho gia đ́nh bà 30 ngày theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 để bà t́m nơi ở tạm trước khi gia đ́nh bà được mua 01 căn hộ tái định cư.
Từ những căn cứ cụ thể trên, liệu các ban ngành của UBND quận Ba Đ́nh đặc biệt là ban GPMB Thành phố có tiếp tục, cố t́nh làm trái với quy định của pháp luật nữa hay không?.
tm