Hanna
02-04-2015, 13:20
Bọn TQ đúng là ngày càng quá quăt. Đă đến lúc chúng ta cần phải đứng lên chiến đấu để ngăn chặn sự bành trướng hết sức trơ tráo này. Hăy cho TQ biết thế nào là sức mạnh của đoàn kết....
Ai sẽ tôn trọng cái loại luật này? Người ta dễ dàng tưởng tượng các tàu cá Việt Nam fax những đơn xin phép để được khai thác đáy biển mà họ đă làm ăn từ đời tám hoánh. Nhưng vấn đề không phải ở đó. Đúng hơn, vấn đề là, dưới mắt Bắc Kinh, đây là sự chuẩn bị có bài bản để bảo đảm đến một ngày nào đó kiểm soát những biển này, trong khuôn khổ một chiến lược rất dài hạn.
Dyer đă bảo vệ các luận cứ của ḿnh rất hiệu quả, bằng cách phân tích t́nh h́nh hiện tại đối chiếu với lịch sử nước Mỹ. Năm 1823, Hoa Kỳ tuyên bố “học thuyết Monroe” trứ danh, khẳng định rằng tất cả những mưu toan mới của các cường quốc châu Âu nhằm chiếm thuộc địa hoặc can dự vào công việc nội bộ của các nước Bắc Mỹ hoặc Nam Mỹ đều bị coi là xâm lược, và buộc Hoa Kỳ phải ra tay can thiệp. Đó chỉ là một lời khoác lác đơn thuần. Nước này khi ấy chưa có hải quân xứng đáng với tên gọi của nó, và nước Anh tiếp tục hành động theo cách của nó, đặc biệt trong vùng biển Caribe, một vùng biển cũng gần và quan trọng đối với Washington như biển Hoa Nam đối với Bắc Kinh. Măi đến năm 1890, năm ra đời cuốn sách của Mahan, hải quân Mỹ vẫn c̣n là mục tiêu để trêu chọc.
Nhưng tuyên bố 1823 đă đặt một cột mốc. Từ đó đến cuối thế kỉ XIX, Hoa Kỳ đă phát triển một lực lượng Hải quân khiến người ta phải tôn trọng. Và cuối cùng nó đă đặt được sự thống trị của nó trên vùng biển Caribe, nơi nước Anh đă mất ảnh hưởng. Có thể kịch bản ấy ngày nay được tái diễn, với Trung Hoa và Hoa Kỳ đóng những vai chính.
Viễn cảnh xa vời này nhắc tôi nhớ lại lần đọc một bài báo năm 2013 trên tờ New York Times về số phận của Ayungin, một băi cát thuộc quần đảo Trường Sa. Nằm cách Philippines 105 hải lí, dải đá ngầm này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của nó, và Manila đă tuyên bố chủ quyền. Nhưng, trong nhiều năm, hải quân Trung Hoa đă bắt đầu tuần tra xung quanh băi này, và nói tóm lại đă nuốt gọn, giống như họ đă làm với ḥn đảo nhỏ Mischief trong những năm 1990, biến nó thành căn cứ quân sự.
Lo ngại thủ đoạn này lặp lại, Manila đă đưa vào đấy một tàu chiến cũ, trên đó hiện nay đặt tám lính Philippines, họ canh giữ tốt trong những điều kiện xứng với đại tá Kurtz trong “Trái tim của Bóng tối” (“Coeur de ténèbres” của Joseph Conrad). Trong thời gian này, tàu thuyền Trung Hoa bao vây giải san hô lộ thiên, cấm các tàu tiếp tế đến gần. Những người trên đó chỉ được tiếp tế khi có tàu cá Philippines qua lại gần đó lẩn vào [hoặc khi lương thực thực phẩm được máy bay thả dù xuống]. Nhưng phần c̣n lại, đất và biển bao quanh băi đá ấy đă mất vào tay Trung Hoa. Bài báo đó vạch ra t́nh trạng hỗn loạn tràn ngập Philippines và cái cách mà Trung Hoa kiên nhẫn chờ cơ hội của nó.
Những láng giềng của Trung Hoa bắt đầu đánh trả. Tổng thống Philippines Benigno S. Aqiono III hồi tháng Hai vừa qua (2014) đă đến mức so sánh t́nh h́nh đất nước ông với t́nh h́nh Tiệp Khắc ngay trước Thế Chiến II, bị ép buộc phải bỏ nhiều phần đất nước ḿnh cho Đức. Nhiều nước châu Á đă tăng ngân sách quốc pḥng, đặc biệt là Nhật Bản, và Ấn Độ bắt đầu những cuộc thử tên lửa đạn đạo mới có tầm với tới Trung Hoa.
Trung Hoa đă rút ra bài học về cách trở thành cường quốc lớn mà cuốn sách của Mahan đă chỉ ra, bằng cách có phương pháp lập ra những căn cứ của nó ở nước ngoài. Nhà chiến lược Mỹ này đă cổ vũ nước Mỹ thủ đắc những căn cứ cho phép hạm đội của nó tự cung cấp chất đốt. Chính thời gian này, cuối thế kỉ XIX Mỹ đă làm tất cả để sáp nhập Hawai, và vươn xa hơn nữa vào Thái B́nh Dương bằng cách chiếm lấy quần đảo Midway (sở dĩ tên như vậy là v́ nó nằm giữa đường từ Bắc Mỹ đi châu Á). Sau đó ít lâu, nó có được căn cứ Guantanamo để bảo vệ kênh đào Panama. Ngày nay Trung Hoa cũng làm như thế khi nó xây dựng những cảng và những căn cứ trong vùng nước sâu trong những “nước bạn” đặc biệt là Myanma, Pakistan và Sri Lanka. Một số trong các dự án này dường như có thiên hướng chủ yếu về thương mại, nhưng Dyer cho rằng một ngày nào đó nó có thể thành những căn cứ cho hải quân Trung Hoa. Ít ra là ư đồ này đă có.
Một yếu tố khác, mơ hồ hơn cũng xuất hiện trong bức tranh này. Trong cả hai trường hợp (Mỹ và TH, -Nd), sự vươn lên là kết quả của những thay đổi sâu sắc trên b́nh diện kinh tế, và trong tâm lí tập thể. Nếu cuốn sách của Mahan đă có một tác động mạnh mẽ đến thế, th́ chính là v́ nó đă nắm bắt được tinh thần của thời đại. Xuất hiện trong một thời đại khác, hay trong một nước khác, chắc chắn nó đă có ít tiếng vang hơn. Trái lại, một người như chủ ngân hàng J.P. Morgan đă đánh giá nó quan trọng đến mức ông tài trợ để xuất bản nó.
Một công luận vang dội
Cùng theo cách đó, sự củng cổ và bành trướng sức mạnh quân sự Trung Hoa cho ta cảm giác phát ra từ những lực lượng khác hơn chỉ là ư muốn của nhà nước. Sự phát triển các cơ sở hạ tầng hậu cần của cảng Kyaukpyu ở Myanmar chẳng hạn, được trợ lực bởi một công ti dầu khi Trung Hoa. Công ti này dự tính việc vận chuyển dầu từ Trung Đông đến Myanmar bằng đường biển, rồi bằng ống dẫn dầu đến Trung Hoa, chắc chắn hơn là xuất khẩu trực tiếp đến Trung Hoa qua eo Malacca [thường bị cướp biển]. Sau đó cần tính đến dư luận mới sinh, thường vang dội và rầm rộ hơn những phát biểu chính thức của quan chức. Nói cách khác, không phải các căn cứ hải quân luôn luôn được xây dựng từ một chiến lược lớn được các đầu óc siêu việt ở Bắc Kinh hay Washington soạn thảo công phu; nó phải có nguồn cội sâu xa hơn thế.
Cuốn sách của Dyer có sức hấp dẫn như nó thành công trong việc nhân tính hóa quân đội Trung Hoa. Nó dẫn chúng ta đến gặp Liu Huaqing (Lưu Hoa Thanh), một cựu tư lệnh hải quân năm 1987 đă tuyên bố “Nếu tôi không nh́n thấy những chiếc tàu sân bay trước khi tôi chết, th́ tôi chết không nhắm mắt”. Vài ngày trước khi ông ta chết, năm 2011, chiếc Liêu Ninh bắt đầu chạy thử. Nhiều lần Dyer cho ta thấy các chính khách và những người lập kế hoạch Trung Hoa đă say mê ở điều ǵ và có trí nhớ tốt như thế nào. Ông nhắc chúng ta rằng những khát vọng của Trung Hoa không có ǵ là mới, chỉ có khả năng thực hiện những khát vọng ấy là mới mà thôi.
Hẳn là, chúng ta có thể bỏ qua những tham vọng này, và coi chúng là không hiện thực trong thời hạn ngắn và vừa, dù sao, ngân sách quốc pḥng của Mỹ từ lâu đă là nhất thế giới. Cần nhiều thập niên mới đuổi kịp nó. Nhưng dù sao đây là dự án của Bắc Kinh trong dài hạn – và nó không nói ǵ rơ ràng về chuyện này – th́ sự trỗi dậy địa chính trị của nước này hệ trọng ngay từ bây giờ. V́ Trung Hoa không thử cạnh tranh với Mỹ từng cái một: căn cứ với căn cứ, tàu sân bay với tầu sân bay trên toàn thế giới. “Sự phát triển quân đội của nó có xu hướng làm thay đổi dần dần những tính toán của các chỉ huy quân đội Hoa Kỳ, để can ngăn họ dự tính những hoạt động quân sự lân cận bờ biển Trung Hoa và từ từ đẩy họ lui ra khoảng rộng hơn ở Thái B́nh Dương. Và để thay đổi thế cân bằng chiến lược, nước này đơn giản cần thực hiện chính sách “từ chối tiếp xúc”bằng cách sử dụng đủ vũ trang, can thiệp đắt giá vào Hoa Kỳ.
Về phương diện nào đó, chúng ta đă đi đến bước ngoặt này rồi. Tôi đă tới Đài Loan trong cuộc bầu cử tổng thống dân chủ đầu tiên ở nước này, năm 1996. Lúc này Trung Hoa phản đối cuộc bỏ phiếu quan trọng mà Đài Loan đă đủ độc lập để lựa chọn lănh đạo xứng đáng của ḿnh. Để tỏ giận dữ, Trung Hoa đă bắn nhiều tên lửa đạn đạo rơi xuống lănh hải của đảo này. Và cuộc khủng hoảng chỉ chấm dứt khi Washington gửi hai đoàn không quân thuộc hải quân Mỹ đến Đài Loan. Ngày nay liệu Mỹ có làm thế không? Hăy thử tưởng tượng trong chuyến chạy thử khánh thành của nó hồi tháng 12 và tháng 1 vừa qua, tàu sân bay Liêu Ninh bị một tàu khu trục Đài Loan chạy cắt ngang qua, liệu Mỹ có mạo hiểm để xảy ra một cuộc đung độ như cuộc mà nó xuưt để xảy ra hồi tháng 12 không?
Những thiết bị quân sự cũng đắt giá như đoàn không quân thuộc hải quân đặt ra những vấn đề sâu xa về sức mạnh kinh tế ngầm của một nước. Nước Mỹ chi tiêu cho quốc pḥng gần bằng cả phần c̣n lại của thế giới cộng lại. Vị trí của nó dường như không thể tấn công được. Trung Hoa đứng thứ hai nhưng c̣n cách xa, ngân sách quân sự của nó tăng trưởng ở mức hai chữ số, từ tháng 3 (2014), chính phủ thông báo mức tăng 12.2%, và hiện nay nó đứng vững vàng trong vai tṛ một nước duy nhất có khả năng đối đầu quân sự với Mỹ. Ngoài ra, nó không phải chịu những vết thương như Mỹ gần đây phải chịu, theo phân tích của Dyer: “Trong khi Mỹ đánh một trận thua ở Afghanistan, trong hơn mười năm Mỹ phải bơm cả tỉ tỉ đô la vào một Iraq tan hoang th́ Trung Hoa tỉ mỉ theo đuổi mức tăng trưởng quân sự mạnh nhất thế giới.”
vk
Ai sẽ tôn trọng cái loại luật này? Người ta dễ dàng tưởng tượng các tàu cá Việt Nam fax những đơn xin phép để được khai thác đáy biển mà họ đă làm ăn từ đời tám hoánh. Nhưng vấn đề không phải ở đó. Đúng hơn, vấn đề là, dưới mắt Bắc Kinh, đây là sự chuẩn bị có bài bản để bảo đảm đến một ngày nào đó kiểm soát những biển này, trong khuôn khổ một chiến lược rất dài hạn.
Dyer đă bảo vệ các luận cứ của ḿnh rất hiệu quả, bằng cách phân tích t́nh h́nh hiện tại đối chiếu với lịch sử nước Mỹ. Năm 1823, Hoa Kỳ tuyên bố “học thuyết Monroe” trứ danh, khẳng định rằng tất cả những mưu toan mới của các cường quốc châu Âu nhằm chiếm thuộc địa hoặc can dự vào công việc nội bộ của các nước Bắc Mỹ hoặc Nam Mỹ đều bị coi là xâm lược, và buộc Hoa Kỳ phải ra tay can thiệp. Đó chỉ là một lời khoác lác đơn thuần. Nước này khi ấy chưa có hải quân xứng đáng với tên gọi của nó, và nước Anh tiếp tục hành động theo cách của nó, đặc biệt trong vùng biển Caribe, một vùng biển cũng gần và quan trọng đối với Washington như biển Hoa Nam đối với Bắc Kinh. Măi đến năm 1890, năm ra đời cuốn sách của Mahan, hải quân Mỹ vẫn c̣n là mục tiêu để trêu chọc.
Nhưng tuyên bố 1823 đă đặt một cột mốc. Từ đó đến cuối thế kỉ XIX, Hoa Kỳ đă phát triển một lực lượng Hải quân khiến người ta phải tôn trọng. Và cuối cùng nó đă đặt được sự thống trị của nó trên vùng biển Caribe, nơi nước Anh đă mất ảnh hưởng. Có thể kịch bản ấy ngày nay được tái diễn, với Trung Hoa và Hoa Kỳ đóng những vai chính.
Viễn cảnh xa vời này nhắc tôi nhớ lại lần đọc một bài báo năm 2013 trên tờ New York Times về số phận của Ayungin, một băi cát thuộc quần đảo Trường Sa. Nằm cách Philippines 105 hải lí, dải đá ngầm này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của nó, và Manila đă tuyên bố chủ quyền. Nhưng, trong nhiều năm, hải quân Trung Hoa đă bắt đầu tuần tra xung quanh băi này, và nói tóm lại đă nuốt gọn, giống như họ đă làm với ḥn đảo nhỏ Mischief trong những năm 1990, biến nó thành căn cứ quân sự.
Lo ngại thủ đoạn này lặp lại, Manila đă đưa vào đấy một tàu chiến cũ, trên đó hiện nay đặt tám lính Philippines, họ canh giữ tốt trong những điều kiện xứng với đại tá Kurtz trong “Trái tim của Bóng tối” (“Coeur de ténèbres” của Joseph Conrad). Trong thời gian này, tàu thuyền Trung Hoa bao vây giải san hô lộ thiên, cấm các tàu tiếp tế đến gần. Những người trên đó chỉ được tiếp tế khi có tàu cá Philippines qua lại gần đó lẩn vào [hoặc khi lương thực thực phẩm được máy bay thả dù xuống]. Nhưng phần c̣n lại, đất và biển bao quanh băi đá ấy đă mất vào tay Trung Hoa. Bài báo đó vạch ra t́nh trạng hỗn loạn tràn ngập Philippines và cái cách mà Trung Hoa kiên nhẫn chờ cơ hội của nó.
Những láng giềng của Trung Hoa bắt đầu đánh trả. Tổng thống Philippines Benigno S. Aqiono III hồi tháng Hai vừa qua (2014) đă đến mức so sánh t́nh h́nh đất nước ông với t́nh h́nh Tiệp Khắc ngay trước Thế Chiến II, bị ép buộc phải bỏ nhiều phần đất nước ḿnh cho Đức. Nhiều nước châu Á đă tăng ngân sách quốc pḥng, đặc biệt là Nhật Bản, và Ấn Độ bắt đầu những cuộc thử tên lửa đạn đạo mới có tầm với tới Trung Hoa.
Trung Hoa đă rút ra bài học về cách trở thành cường quốc lớn mà cuốn sách của Mahan đă chỉ ra, bằng cách có phương pháp lập ra những căn cứ của nó ở nước ngoài. Nhà chiến lược Mỹ này đă cổ vũ nước Mỹ thủ đắc những căn cứ cho phép hạm đội của nó tự cung cấp chất đốt. Chính thời gian này, cuối thế kỉ XIX Mỹ đă làm tất cả để sáp nhập Hawai, và vươn xa hơn nữa vào Thái B́nh Dương bằng cách chiếm lấy quần đảo Midway (sở dĩ tên như vậy là v́ nó nằm giữa đường từ Bắc Mỹ đi châu Á). Sau đó ít lâu, nó có được căn cứ Guantanamo để bảo vệ kênh đào Panama. Ngày nay Trung Hoa cũng làm như thế khi nó xây dựng những cảng và những căn cứ trong vùng nước sâu trong những “nước bạn” đặc biệt là Myanma, Pakistan và Sri Lanka. Một số trong các dự án này dường như có thiên hướng chủ yếu về thương mại, nhưng Dyer cho rằng một ngày nào đó nó có thể thành những căn cứ cho hải quân Trung Hoa. Ít ra là ư đồ này đă có.
Một yếu tố khác, mơ hồ hơn cũng xuất hiện trong bức tranh này. Trong cả hai trường hợp (Mỹ và TH, -Nd), sự vươn lên là kết quả của những thay đổi sâu sắc trên b́nh diện kinh tế, và trong tâm lí tập thể. Nếu cuốn sách của Mahan đă có một tác động mạnh mẽ đến thế, th́ chính là v́ nó đă nắm bắt được tinh thần của thời đại. Xuất hiện trong một thời đại khác, hay trong một nước khác, chắc chắn nó đă có ít tiếng vang hơn. Trái lại, một người như chủ ngân hàng J.P. Morgan đă đánh giá nó quan trọng đến mức ông tài trợ để xuất bản nó.
Một công luận vang dội
Cùng theo cách đó, sự củng cổ và bành trướng sức mạnh quân sự Trung Hoa cho ta cảm giác phát ra từ những lực lượng khác hơn chỉ là ư muốn của nhà nước. Sự phát triển các cơ sở hạ tầng hậu cần của cảng Kyaukpyu ở Myanmar chẳng hạn, được trợ lực bởi một công ti dầu khi Trung Hoa. Công ti này dự tính việc vận chuyển dầu từ Trung Đông đến Myanmar bằng đường biển, rồi bằng ống dẫn dầu đến Trung Hoa, chắc chắn hơn là xuất khẩu trực tiếp đến Trung Hoa qua eo Malacca [thường bị cướp biển]. Sau đó cần tính đến dư luận mới sinh, thường vang dội và rầm rộ hơn những phát biểu chính thức của quan chức. Nói cách khác, không phải các căn cứ hải quân luôn luôn được xây dựng từ một chiến lược lớn được các đầu óc siêu việt ở Bắc Kinh hay Washington soạn thảo công phu; nó phải có nguồn cội sâu xa hơn thế.
Cuốn sách của Dyer có sức hấp dẫn như nó thành công trong việc nhân tính hóa quân đội Trung Hoa. Nó dẫn chúng ta đến gặp Liu Huaqing (Lưu Hoa Thanh), một cựu tư lệnh hải quân năm 1987 đă tuyên bố “Nếu tôi không nh́n thấy những chiếc tàu sân bay trước khi tôi chết, th́ tôi chết không nhắm mắt”. Vài ngày trước khi ông ta chết, năm 2011, chiếc Liêu Ninh bắt đầu chạy thử. Nhiều lần Dyer cho ta thấy các chính khách và những người lập kế hoạch Trung Hoa đă say mê ở điều ǵ và có trí nhớ tốt như thế nào. Ông nhắc chúng ta rằng những khát vọng của Trung Hoa không có ǵ là mới, chỉ có khả năng thực hiện những khát vọng ấy là mới mà thôi.
Hẳn là, chúng ta có thể bỏ qua những tham vọng này, và coi chúng là không hiện thực trong thời hạn ngắn và vừa, dù sao, ngân sách quốc pḥng của Mỹ từ lâu đă là nhất thế giới. Cần nhiều thập niên mới đuổi kịp nó. Nhưng dù sao đây là dự án của Bắc Kinh trong dài hạn – và nó không nói ǵ rơ ràng về chuyện này – th́ sự trỗi dậy địa chính trị của nước này hệ trọng ngay từ bây giờ. V́ Trung Hoa không thử cạnh tranh với Mỹ từng cái một: căn cứ với căn cứ, tàu sân bay với tầu sân bay trên toàn thế giới. “Sự phát triển quân đội của nó có xu hướng làm thay đổi dần dần những tính toán của các chỉ huy quân đội Hoa Kỳ, để can ngăn họ dự tính những hoạt động quân sự lân cận bờ biển Trung Hoa và từ từ đẩy họ lui ra khoảng rộng hơn ở Thái B́nh Dương. Và để thay đổi thế cân bằng chiến lược, nước này đơn giản cần thực hiện chính sách “từ chối tiếp xúc”bằng cách sử dụng đủ vũ trang, can thiệp đắt giá vào Hoa Kỳ.
Về phương diện nào đó, chúng ta đă đi đến bước ngoặt này rồi. Tôi đă tới Đài Loan trong cuộc bầu cử tổng thống dân chủ đầu tiên ở nước này, năm 1996. Lúc này Trung Hoa phản đối cuộc bỏ phiếu quan trọng mà Đài Loan đă đủ độc lập để lựa chọn lănh đạo xứng đáng của ḿnh. Để tỏ giận dữ, Trung Hoa đă bắn nhiều tên lửa đạn đạo rơi xuống lănh hải của đảo này. Và cuộc khủng hoảng chỉ chấm dứt khi Washington gửi hai đoàn không quân thuộc hải quân Mỹ đến Đài Loan. Ngày nay liệu Mỹ có làm thế không? Hăy thử tưởng tượng trong chuyến chạy thử khánh thành của nó hồi tháng 12 và tháng 1 vừa qua, tàu sân bay Liêu Ninh bị một tàu khu trục Đài Loan chạy cắt ngang qua, liệu Mỹ có mạo hiểm để xảy ra một cuộc đung độ như cuộc mà nó xuưt để xảy ra hồi tháng 12 không?
Những thiết bị quân sự cũng đắt giá như đoàn không quân thuộc hải quân đặt ra những vấn đề sâu xa về sức mạnh kinh tế ngầm của một nước. Nước Mỹ chi tiêu cho quốc pḥng gần bằng cả phần c̣n lại của thế giới cộng lại. Vị trí của nó dường như không thể tấn công được. Trung Hoa đứng thứ hai nhưng c̣n cách xa, ngân sách quân sự của nó tăng trưởng ở mức hai chữ số, từ tháng 3 (2014), chính phủ thông báo mức tăng 12.2%, và hiện nay nó đứng vững vàng trong vai tṛ một nước duy nhất có khả năng đối đầu quân sự với Mỹ. Ngoài ra, nó không phải chịu những vết thương như Mỹ gần đây phải chịu, theo phân tích của Dyer: “Trong khi Mỹ đánh một trận thua ở Afghanistan, trong hơn mười năm Mỹ phải bơm cả tỉ tỉ đô la vào một Iraq tan hoang th́ Trung Hoa tỉ mỉ theo đuổi mức tăng trưởng quân sự mạnh nhất thế giới.”
vk