PDA

View Full Version : Quốc hận 1975-2015 không bao giờ khuất phục!


Hanna
03-07-2015, 14:43
Một người viết bài kể lại hồi ức ngày quốc hận, họ là người tị nạn. Một bài viết đọc xong nước mắt tuôn trào. Cùng vietbf.com đọc và suy ngẫm lại nhé.

Vũ Ngọc Bích
(Bài viết cho mục Hồi Ức 30 tháng Tư và Đời Tị Nạn)

Sáng thứ sáu 25 tháng 4 năm 1975, khoảng 10 giờ, tôi đang ngồi làm việc th́ chị giúp việc thân tín và con gái tôi lúc đó 11 tuổi, bước vào văn pḥng tôi. Chị tới sát chỗ tôi ngồi, ghé tai tôi nói nhỏ:

- Thầy về nhà gấp, cô có chuyện muốn nói với thầy.

Tôi chỉ gật đầu và không muốn cho chị giúp việc nói thêm nữa, v́ tôi đă biết vợ tôi muốn nói ǵ rồi. Trước đây, vợ tôi có làm việc ở pḥng Điện toán của Hoa Kỳ tại phi trường Tân Sơn Nhứt. Để tránh việc Việt cộng sẽ trả thù những người đă cộng tác với Mỹ, chính phủ Hoa Kỳ đă cho lập danh sách ưu tiên cho nhân viên làm sở Mỹ di tản bằng cầu không vận.

Hàng ngày, những tin tức chiến sự không mấy khả quan từ miền chiến tuyến gửi về làm nản ḷng người lính ở hậu phương. Tại đơn vị tôi, lúc đó Đại tá Nguyễn Hữu Đ. tới nhậm chức Cục Trưởng Cục Măi Dịch Quân Đội đúng vào lúc xế chiều của miền Nam. Tôi cũng nhận được nghị định thăng cấp thiếu tá, sau 5 năm mang cấp bậc đại úy vào giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến.

Tới văn pḥng, từ sĩ quan cho tới anh em binh sĩ, ai cũng cầm tờ báo coi những tin tức nóng bỏng nơi trang nhất, bàn tán x́ xào. Trong ḷng mọi người, hầu như ai ai cũng bị dao động, không nhiều th́ ít.

http://vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=747543&stc=1&d=1425739226
Ḍng người di tản trước khi Sài G̣n thất thủ. (H́nh: Getty Images)


Tôi vẫn làm công tác đi thanh tra và thâu nhận hàng tại các nhà kho của quân đội. Tôi đă thấy có một vài nhà thầu và giám đốc các công ty lớn lặng lẽ ôm tiền trốn ra ngoại quốc. Họ bỏ đi, và không thi hành khế ước. Mặc dầu đơn vị tôi đă gửi văn thư cảnh cáo sẽ áp dụng biện pháp chế tài, họ vẫn bất chấp và cứ tiếp tục bỏ nước ra đi.
Việc ra đi hay ở lại cũng là vấn đề gây nhiều tranh căi sôi nổi giữa vợ chồng tôi trong suốt mấy tuần qua. Vợ tôi đă ghi tên gia đ́nh vào danh sách di tản, và chúng tôi đă nhận được “manifest” xác nhận chờ ngày đi.

Là một quân nhân, tôi cảm thấy hổ thẹn khi chưa chiến đấu ǵ mà đă bỏ đồng đội, bỏ bạn bè, lén lút ra đi.

Tôi đă gay gắt nói với vợ tôi :
Ḿnh cứ dẫn con đi trước. Tôi ở lại, một thân một ḿnh, lúc nào đi chẳng được!

Vợ tôi vừa năn nỉ, vừa giận dỗi, dùng đủ mọi cách để thuyết phục tôi cùng với nàng và bốn đứa con đi một lượt :
- Anh nói dở hơi lắm ! Bao nhiêu người chạy chọt đủ mọi cách, để xin cho được một chỗ trong “manifest”. Họ sẵn sàng bỏ ra cả ngàn đô la để đổi lấy một chỗ di tản bằng máy bay ! Anh không biết anh may mắn hơn hàng trăm ngàn người sao ?

Tôi tần ngần :
- Nhưng em không thấy vợ chồng ḿnh vất vả dành dụm mười mấy năm nay, mới mua được căn nhà nhỏ nầy. Sang đến Mỹ, anh không có nghề nghiệp ǵ chuyên môn, rồi ḿnh lấy ǵ mà sống. Vợ tôi đau khổ ngắt lời tôi :
- Một cái nhà này, chứ cả chục cái nhà nữa cũng bỏ hết! Sang đến đó, c̣n cả ngàn người như ḿnh nữa chứ. Cớ chi phải lo không có việc làm? Không làm việc này, th́ làm việc nọ !

Tôi cố vớt vát :
- Em không thấy hôm rồi, tổng thống Thiệu vừa lên TV nói ǵ sao ? Chính ông ấy cũng ở lại, sát cánh với quân đội, cùng chiến đấu bảo vệ miền Nam mà !

Vợ tôi cười nhạt :

- Anh nói vậy, là anh không biết ǵ hết rồi. Con bạn đồng nghiệp của em lấy một sĩ quan Mỹ ở cơ quan DAO. Nó vừa ghé nhà ḿnh thăm em. Nó nói chồng nó bảo sau bài diễn văn ấy, tổng thống Thiệu và gia đ́nh được Mỹ đưa đi Đài Loan rồi !

Tôi cứ bán tín bán nghi. Tân thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn vừa ra nghị đinh dọa trừng phạt bất cứ công chức quân nhân nào rời nhiệm sở. Đồng thời. Thủ tướng Cẩn ra lệnh đặt các nút chặn gồm quân cảnh lẫn cảnh sát được dàn ra trên cửa ngơ vào phi trường Tân Sơn Nhất,
biên giới và dọc bờ duyên hải.

Suốt mười mấy năm chung sống, chưa lần nào chúng tôi bất đồng ư kiến trầm trọng như lần nầy. Vợ tôi bực ḿnh phát khóc. Nàng tha thiết nói với tôi qua hàng nước mắt :

- Anh ở lại, lỡ tụi nó vào, tụi nó sẽ không tha anh đâu. Anh vừa có tội di cư năm 54, vừa là sĩ quan đă từng chống lại chúng! Anh đi với em và các con nhé. Một ḿnh em ra đi, với một bầy con như thế, làm sao em xoay sở cho được! Cứ như thế, mấy đêm rồi, tôi không ngủ được tṛn giấc bao giờ, v́ những lời nói, tiếng khóc của vợ tôi cứ lẩn quẩn trong đầu óc tôi.

Trong khi đó, mấy nhân viên trong pḥng tôi xúm lại chỗ con gái tôi. Họ đang th́ thầm hỏi chuyện con bé. Thấy tôi đưa mắt nh́n, họ lảng đi chỗ khác. Tôi bảo chị giúp việc và con gái tôi đón xe xích lô máy về trước, và nói với vợ tôi cứ chờ ở nhà.

Tôi lặng người đi phía sau bàn giấy. Trong ḷng đầy bâng khuâng, bối rối, tôi nh́n những nhân viên đă từng cộng tác với tôi trong ṿng tám năm qua tại đơn vị nầy.

Phóng tầm mắt xa hơn, tôi nh́n về phía cây tùng bách tán. Không hiểu sao, tôi thấy cây tùng bỗng trở nên thân thiết như một người bạn!

Tôi lẩm bẩm một cách vô thức ;
- Tùng Bách Tán ơi! Ta sắp xa mi rồi !

Một nhân viên dân chính, bác T., được biệt phái tới làm việc ở pḥng tôi từ ngày thành lập đơn vị. Bác với tôi thân thiết như người nhà. Bác T. thường tâm sự với tôi những chuyện riêng tư, và tôi cũng, đôi khi, chia sẻ với bác những ưu tư thời cuộc.

Đến sát bàn tôi, bác T. ngồi xuống, nh́n tôi. Chưa bao giờ tôi thấy khuôn mặt bác buồn rầu như vậy.

Bác T. chớp chớp mắt :
- Chắc bà xă của Thiếu tá cho người làm đến kêu Thiếu tá về đi Mỹ, có phải không ?

Hôm nay, ngay cả với bác T., người bạn già thân thiết nhất của tôi trong sở, tôi cũng không dám nói thật. Tôi trả lời vắn tắt, trong bụng tôi biết là bác cũng biết tôi nói dối :

- Tôi có chút việc nhà phải về gấp, xong việc có thể tôi trở lại sớm.
Rất may, trong giờ đó đa số nhân viên trong pḥng tôi đă rủ nhau xuống Câu Lạc Bộ để giải khát. Chỉ c̣n tôi và người công chức già ngồi tâm sự. Một niềm xúc động mănh liệt dâng tràn trong ḷng tôi.
Trước khi ra về, tôi lấy chiếc ch́a khóa ngăn kéo nơi bàn giấy, trong có để các hồ sơ và một số vật dụng cá nhân, đưa cho bác T.

Tôi nói :
- Bác cứ tự nhiên, dùng được cái ǵ th́ dùng .

Tôi cũng móc ví, lấy hết các giấy bạc loại lớn trong đó, dúi vào tay người công chức già một nắm tiền.

Tôi vỗ nhẹ vai bác :
- Bác giữ lấy để tiêu đi .
Người nhân viên của tôi ngạc nhiên, đưa cả số tiền trả lại :
- Thiếu tá đừng làm vậy !

Tôi nói, thật khẽ :
- Xin bác cứ yên tâm. Lúc nầy, tôi không cần tiền nữa. Nghe lời nói quả quyết của tôi, bác cám ơn rối rít, nhét tiền vào túi quần phía sau và tiễn tôi ra tận xe. Tới lúc đó, tôi mới cho bác biết là rất có thể tôi sẽ rời Sài G̣n vào chiều nay, nếu có chuyến bay đi Mỹ. Vừa nghe tới đó, bác cảm động ôm mặt khóc. Tôi nắm lấy hai vai bác T., an ủi bác; rồi mở máy, chiếc xe từ từ lăn bánh ra khỏi cổng. Người lính gác đưa tay chào tôi, và tôi giơ tay chào lại. Tôi quay nh́n lại cổng doanh trại một lần chót. Tôi thầm nghĩ, chắc hẳn bữa nay là ngày tôi giă từ đời binh nghiệp! Trước mắt tôi, bầu trời như sụp tối, thời gian như ngừng trôi.

Chiến tranh “Ư Thức Hệ” đă gây tang tóc và đổ vỡ cho biết bao gia đ́nh. Một sự mất mát quá lớn lao. Cuộc đời tôi, từ nay, đă rẽ vào một khúc quanh mới, không biết sẽ dẫn đến đâu, mà tôi phải chấp nhận, một chấp nhận quá phũ phàng !

Tôi đă biết rơ chính sách tàn bạo, thâm độc của người Cộng Sản khi họ chiếm làng tôi. Họ đấu tố, đầy ải hàng chục gia đ́nh trung nông đă từng đóng góp tiền của, xương máu trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Suốt hơn hai mươi năm thống trị miền Bắc, họ đă bần cùng hóa nhân dân, áp đặt lối cai trị hà khắc làm cho hàng triệu người khốn khổ !

Tôi sẽ phải bỏ nước ra đi, t́m TỰ DO bằng bất cứ giá nào, v́ tôi biết tôi không thể nào sống nổi dưới chế độ Cộng Sản được, dù chỉ là một ngày, một giờ.

Vừa về đến nhà, tôi thấy vợ tôi đang chuẩn bị một số áo quần, và vài thứ vật dụng, thuốc men lặt vặt. Ngoài ra, những thứ ǵ nặng và cồng kềnh, tôi bảo nhà tôi bỏ lại hết. Đến chiều tối, tôi chất hai cái valise và vài túi xách nhỏ lên chiếc xe Austin Minivan. Vợ chồng tôi và các cháu sang chào cha mẹ tôi ở sát bên nhà tôi. Cha mẹ tôi rưng rưng nước mắt, nắm tay tôi cầu nguyện Chúa che chở chúng tôi đi được b́nh an. Tôi yên tâm ra đi, v́ biết anh chị cả tôi có ba người con lập nghiệp tại Hoa Kỳ. Các cháu, và người em ruột của chị dâu tôi đă vui ḷng bảo lănh cho anh chị và cả ông bà nội nữa.

Vợ tôi ngồi bên cạnh, và bốn đứa con tôi ngồi băng dưới. Tôi lái xe ra đi đến chỗ hẹn.

Tối hôm đó, gia đ́nh tôi, gồm vợ chồng tôi và bốn đứa con, nghỉ tạm tại nhà ông anh vợ. Chúng tôi thấp thỏm chờ đợi xe bus tới đón ra phi trường.

Các con tôi mệt, nên ngủ say sau khi tới. Chúng tôi chờ đợi suốt cả đêm, mà chẳng thấy xe bus nào tới đón. Đối với tôi, đêm hôm ấy dài vô cùng. Chúng tôi đứng bật dậy, rộn ràng , hồi hộp khi nghe thấy tiếng c̣i xe hơi ngoài ngơ, và thở dài năo nuột khi bước ra cổng, thấy đó chỉ là một chiếc taxi nào đó.

Cứ xôn xao hy vọng, rồi lại ngỡ ngàng chán nản suốt từ chập tối hôm trước đến sáng sớm hôm sau. Thế mới biết cổ nhân nói câu “ Có thức đêm mới biết đêm dài “ cũng không phải là sáo ngữ! Sáng hôm sau, vẫn chưa có xe tới đón. Ông anh vợ tôi là Đại úy Nguyễn Văn An ṭng sự tại Bộ Quốc Pḥng bảo chúng tôi cứ về nhà, chờ ở đó, và ông sẽ đích thân dùng xe Jeep đưa chúng tôi tới thẳng cơ quan DAO, tức là văn pḥng Tùy Viên Quân Lực Hoa Kỳ. Vừa về đến nhà, tôi dẹp quần áo và vật dụng linh tinh ở pḥng khách sang một bên, rồi dựa vào chiếc ghế bành, ngủ ngon lành cho đến lúc nghe tiếng nói oang oang của bầy con nít con hàng xóm làm tôi chợt thức giấc :

- Nhà nầy họ đi Mỹ, bà con ơi !
- Lại đây tụi bay, coi mấy người sắp đi Mỹ !

Tiếng ồn ào của bon trẻ con tinh nghịch làm tôi hơi bực ḿnh. Một đứa khác nói chen vào, đầy vẻ khoái trá trước sự đi hụt của chúng tôi :

- Nhà nầy không đi Mỹ đâu, tụi bay ơi ! Họ đi Mỹ Tho đó.

Và cả bọn cùng cất tiếng cười ranh mănh . Nếu là những ngày thường, có lẽ tôi cũng ra phía trước, yêu cầu bọn chúng đi ra chỗ khác chơi. Nhưng lần này, với mặc cảm của một người toan tính trốn chạy, tôi chỉ dịu giọng nói với mấy đứa trẻ trạc tuổi con ḿnh :

- Các em đi chơi chỗ khác, cho chú nghỉ ngơi một chút nhé !

Nói đoạn, tôi đưa chúng một túi kẹo chanh :
- Các cháu chia nhau ăn đi !

Tụi trẻ đi rồi, tôi đảo mắt nh́n các vật dụng trong nhà, từ bộ bàn ghế tiếp khách mầu gụ chúng tôi mới sắm, chiếc đàn piano hiệu YAMAHA chúng tôi mới mua cho đứa con gái lớn cách đó sáu tháng, khi cháu bắt đầu học tại tư gia của nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi ở khu Tân Định. Căn nhà vợ chồng tôi dành dụm bao nhiêu năm mới mua được này, tôi vừa thuê thợ sửa sang cho rộng. Chiếc xe Austin sáu chỗ, tháng trước, tôi đưa làm máy và sơn một lớp sơn mới, chạy thật tốt.

Tôi nghĩ tới sự khó nhọc của hai vợ chồng tôi trong mười hai năm trường mới tạo dựng được chút sản nghiệp khiêm tốn như ngày hôm nay. Bỗng dưng một sớm một chiều, chúng tôi sắp mất hết.

Nghĩ tới đó, tôi bỗng đổi ư, và nói với vợ tôi :
- Em nầy, mới hôm qua, ở tạm nhà anh của em một đêm, không phải nhà ḿnh, mà anh thấm thía câu nói “ Sẩy nhà ra thất nghiệp “ rồi ! Thôi, anh không muốn đi đâu hết. Nhà ḿnh, ḿnh ở. Ra đi, với tương lai vô định, không nhà không cửa. Anh không muốn đi một chút nào nữa !

Vợ tôi ngạc nhiên :
- Anh ơi, anh nghĩ quẩn rồi ! Chiều hôm qua, anh nói với em là anh nhất quyết ra đi v́ không sống nổi với Việt Cộng. Bây giờ, chỉ v́ xe bus chưa tới đón, anh đă nản ḷng , không chịu đi nữa !

Tôi nói :
- Nhưng mà c̣n nhà cửa, bao nhiêu thứ mà anh và em vất vả xây dựng bấy lâu nay ?

Vợ tôi gào lên :
- Những thứ đó, bỏ lại hết ! Mai mốt ḿnh sẽ xây dựng lại. C̣n người, c̣n của, mà anh?

Tôi cù nhầy :
- Anh Nghiêm, anh Chỉnh, anh An, chú Cảnh, chú Hiền, cũng đều là quân nhân, có ai đi đâu ? Anh ở lại với các anh em của anh. Em có đi, th́ dẫn các con đi đi !

Đến lúc nầy, vợ tôi đă mất hết b́nh tĩnh. Nàng khóc nấc lên, vừa khóc vừa kể lể :
- Anh đă có thời sống gần tụi nó ở ngoài Bắc. Các bác của anh ở lại đă bị tụi nó cắt cổ, đấu tố, đầy đi tù rồi, anh không nhớ sao ? Rồi vụ tết Mậu Thân, chỉ là trung sĩ, cũng bị chúng nó bắt đi, đập đầu hoặc sỏ giây kẽm gai chôn sống tập thể, anh không biết sao ? Huống chi anh là thiếu tá. Tụi nó gặp anh là bắn liền ! Thử hỏi lúc đó, nhà cửa này, của cải dành dụm này, anh có chắc hưởng được không ?

Rồi nàng tiếp, dùng t́nh cảm thuyết phục tôi :
- Anh cũng phải nghĩ đến tương lai bốn đứa con anh nữa chứ ? Đi ra khỏi nước, dù anh và em không làm nên tṛ trống ǵ, con cái ḿnh sẽ có cơ hội tiến thân . Em cũng chẳng biết chúng nó sẽ làm ǵ, nhưng chắc chắn sẽ có nhiều cơ hội hơn là ở nhà rồi!

Trong lúc tôi ngồi thừ người ra, đầu óc hoang mang, không biết phải nói ǵ, nghĩ ǵ, vợ tôi vừa khóc vừa chạy sang nhà cha mẹ tôi ở kế sát bên. Nàng tin rằng chỉ có mẹ tôi khuyên giải tôi mới nghe ra. Đúng như nàng nghĩ, mẹ tôi qua ngay tức khắc. Bà nắm tay tôi, nhẹ nhàng khuyên bảo :
- Con ơi, con nên nghĩ lại. Sáng nay, anh chi Chang sẽ đến đón cha mẹ ra đi. Cha mẹ đă từng ở với bọn chúng rồi. Cha con đă từng bị chúng nó bắt đi, chỉ v́ cha con là công chức. Suưt nữa chúng nó đă thủ tiêu cha rồi đó. Giữa năm 54, ông bà ngoại con đă hơn 70 tuổi, mà c̣n liều chết trốn đi. V́ ở lại là chúng nó sẽ đấu tố, làm nhục cho đến chết !

Bà nh́n vợ tôi, rồi tiếp :
- Con may mắn lắm mới có vợ con đảm đang, xông xáo, lo cho con và các cháu ra đi. Hai anh Nghiêm và anh Chỉnh của con muốn đi lắm, mà không có cơ hội như con. Hai anh đang lo, mà không biết cách nào đi được. Con có cơ hội tốt. Đừng bỏ lỡ cơ hội hiếm có nầy!

Tôi nghe lời mẹ, hứa sẽ đưa gia đ́nh đi. Quyết định của tôi đă làm thay đổi hẳn cuộc đời của chúng tôi và tương lai các con tôi!

Sáng Chủ Nhật 27 tháng Tư năm 1975, gia đ́nh tôi sửa soạn để đi nhà thờ. Tôi cũng đang ăn dở dang tô phở do chị giúp việc vừa mua về th́ anh cả của vợ tôi, Đại úy Nguyễn Văn An, cũng vừa lái xe Jeep tới đậu ngay trước cửa nhà tôi. Anh cho biết chúng tôi chỉ có đúng 10 phút chuẩn bị hành lư. Tôi bỏ đũa, giúp vợ tôi sắp xếp hành lư lần chót. Anh An giúp tôi chất hai chiếc valise lên xe Jeep. Vợ tôi đưa trả tiền công cho chị giúp việc, và tặng thêm cho chị một tháng lương nữa. Tôi đă gọn gàng trong bộ đồ dân sự, vợ tôi và bốn cháu ăn mặc thật giản dị. Cả gia đ́nh tôi ngồi gọn trên chiếc xe Jeep, trực chỉ hướng Tân Sơn Nhất. Anh An nói, anh sẽ đưa chúng tôi tới thẳng cơ quan DAO.

Gần đến nơi, tôi chứng kiến cảnh người di tản chen chúc, giành giật nhau một chỗ đứng sát cổng vào bên trong. Những chiếc xe Mercedes, Peugeot, Ford, Toyota c̣n mới toanh, không người lái, nằm ngổn ngang dọc theo bờ rào sát phi trường. Anh vợ tôi dừng xe trước một trạm gác. Một trung sĩ quân cảnh Việt Nam và một quân cảnh Mỹ đang làm công việc xét giấy. Người quân cảnh Việt Nam xem sự vụ lệnh công tác và tờ “manifest” do ṭa Đại sứ Mỹ cấp, rồi trao cho người quân cảnh Mỹ soát lại lần chót. Sau khi xem xét giấy tờ và nh́n vào trong xe kiểm soát, hai quân cảnh Mỹ Việt giơ tay chào, và ra hiệu cho xe đi.

Thế là chúng tôi đă vào trong cơ quan DAO và tŕnh giấy tờ trong khi các chuyến xe bus của ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ lần lượt chở các nhân viên và thân nhân tới. Khung cảnh thật là náo nhiệt, tiếng người nói chuyện, bàn tán thật ồn ào. Trên bầu trời, từng đoàn trực thăng bay tới bay lui như những con chuồn chuồn khổng lồ, hết chiếc nầy vừa đáp xuống th́ chiếc kia lại bốc lên, có lẽ để đi đón người di tản ở một địa điểm khác. Chúng tôi được chia ra làm từng toán, mỗi toán hai mươi người. Bây giờ chỉ c̣n việc đợi xe bus tới chở ra máy bay. Trong lúc chờ đợi, tôi đảo mắt nh́n xung quanh, qua hai lớp hàng rào giây kẽm gai bao bọc cơ sở này. Những người di tản tới cơ quan DAO bằng xe taxi đều bị chặn lại ngay tại cổng để kiểm soát giấy tờ.

Tiếp bên dưới

Hanna
03-07-2015, 14:44
Một chiếc taxi vừa dừng lại phía ngoài cổng. Trên xe một thanh niên trạc hăm ba tuổi, một phụ nữ trẻ bế đứa bé khoảng hai tuổi, và một cặp vợ chồng lớn tuổi lần lượt bước xuống. Tôi đoán chừng ông bà nầy là cha mẹ của người phụ nữ, và chàng thanh niên là con rể. Chàng thanh niên đưa xấp giấy tờ cho người cảnh sát gác cổng; người này xem qua rồi đưa cho viên trung sĩ quân cảnh đứng cạnh. Người quân cảnh nói ǵ với chàng thanh niên, và ra hiệu cho anh đứng sang một bên. Người phụ nữ bế con tiến lại phân trần với người quân cảnh, rồi người đàn ông lớn tuổi cũng đến, dường như vừa thuyết phục vừa năn nỉ, nhưng chỉ nhận được cái lắc đầu từ chối.

Một lát sau, xe quân cảnh đi ngang. Chàng thanh niên bị mời lên xe. Người phụ nữ gào khóc, nắm chặt cánh tay người thanh niên, không cho lên xe. Đứa bé cũng khóc thất thanh, ôm lấy chân anh ta. Thế là một cảnh giằng co xẩy ra, làm huyên náo một góc cổng gác. Người phụ nữ trẻ cố năn nỉ hai quân cảnh Việt Nam tha cho chàng thanh niên. Tiếng gào khóc của chị nghe thật thương tâm!

Tôi để ư nh́n hai quân cảnh Mỹ đứng gần đó. Họ không can thiệp ǵ cả. Hai trung sĩ quân cảnh trên xe nói ǵ với người thanh niên. Anh ta th́ thầm điều ǵ đó với người phụ nữ. Chị và đứa bé không gào khóc, níu kéo nữa. Người thanh niên lên xe. Chiếc xe Jeep quân cảnh đi đâu, không ai biết. Tôi chỉ thấy cặp vợ chồng lớn tuổi và người phụ nữ trẻ, cùng đứa bé leo lên một chiếc taxi khác vừa đổ người xuống. Chiếc xe đi ngược về phía cửa ngơ vào thành phố. Tôi chắc gia đ́nh họ trở về nhà.

Tổng thống Trần Văn Hương nhậm chức chỉ có mấy ngày, nhưng ông đă phải đương đầu với cảnh “dầu sôi lửa bỏng “ của đất nước. Trên mặt báo, tôi đọc thấy tân thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn đă ra lệnh cho các viên chức có trách nhiệm phải ngăn chặn mọi thành phần quân cán chính trong hạn tuổi của quân đội, không cho những người nầy xuất ngoại bằng bất cứ phương tiện ǵ, đường hàng không, đường bộ và kể cả đường biển nữa. Lệnh này được áp dụng triệt để. Báo chí thời đó tường thuật rơ ràng những trường hợp cơ quan công lực bắt giữ một số viên chức trong chính quyền, kể cả quân đội, đang trên đường vượt biên.

Riêng trường hợp người thanh niên bị bắt giữ lại, tôi nghĩ cả người vợ và gia đ́nh bên vợ cũng kẹt ở lại luôn. Tôi không thể quên được tiếng khóc nức nở của người phụ nữ trẻ, khi người chồng bị bắt lại, và xe quân cảnh đưa đi. Tôi nghĩ, các viên chức Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ, khi chứng kiến cảnh bắt giữ thương tâm đó, có lẽ cũng bị “mất mặt” phần nào, v́ chính phủ Hoa Kỳ đă đồng ư cấp giấy tờ cho cả gia đ́nh người ta đi Mỹ, mà quân cảnh Việt Nam lại có quyền bắt giữ lại? Tôi thấy hai viên chức Hoa Kỳ ở băi đậu xe, đứng gần chỗ chúng tôi đang chờ đợi, dùng máy liên lạc vô tuyến, gọi đi một chỗ nào đó; có lẽ với giới chức cao cấp Việt Nam và ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ chăng ?

Bởi v́, khoảng 15 phút sau, tôi không c̣n thấy quân cảnh và cảnh sát ở ngoài cổng cơ quan DAO nữa.

Tôi nhớ lại những ngày tới Quân Vụ Thị Trấn Sài G̣n, chỉ huy toán tuần tiễu hỗn hợp gồm cảnh sát, quân cảnh, để bắt đào binh và những người trốn quân dịch. Tới giờ cơm trưa, tôi dẫn toán tuần tiễu của tôi vào tiệm phở Tầu Bay đăi mỗi người một tô phở xe lửa và ly cà phê sữa đá. Chúng tôi ngồi ăn uống và nói chuyện vui vẻ trong t́nh đồng ngũ, coi nhau như những người thân thiết trong đại gia đ́nh quân đội.

Bây giờ, gặp lại mấy người quân cảnh và cảnh sát, cũng trong sắc phục đó, nhưng ở trong hoàn cảnh thật éo le nầy, tôi mặc y phục dân sự, v́ đă từ bỏ nhiệm sở để ra đi, c̣n những anh em đó vẫn c̣n ở lại, tiếp tục nhiệm vụ của ḿnh, ḷng tôi đâm ra e dè, sợ sệt, đầy mặc cảm; nên không c̣n cái cảm giác thân thiết với những người đă từng cùng ở trong đại gia đ́nh với tôi nữa !

Tôi thực sự cảm thấy không được thoải mái cho lắm khi phải đối diện với họ; mặc dù sau việc xẩy ra hồi sáng và sự can thiệp của nhân viên ṭa Đại sứ Mỹ, cảnh sát và quân cảnh Việt Nam chỉ c̣n nhiệm vụ giữ an ninh trật tự thôi, chứ không bắt giữ hay làm khó dễ những người di tản nữa. Nh́n sang toán kế bên, tôi gặp Trung tá P.

Tôi quen biết ông mỗi lần tôi đi họp ở Tổng Cục Tiếp Vận, Bộ Tổng Tham Mưu. Thấy ông trong y phục dân sự, tôi quen miệng chào ông theo cấp bậc quân đội. Ông ghé sát tai tôi nói nhỏ :

- Thôi “toa” miễn cho “moa” đi.

Tới lúc đó, tôi biết ḿnh lỡ lời, vội vàng nắm tay ông cười giả lả. Có lẽ lúc này, ông cũng mang chung một tâm trạng xấu hổ v́ đă trốn chạy khỏi nhiệm sở như tôi, nên không muốn ai nhắc đến cấp bậc của ḿnh.

Khoảng 3 giờ chiều Chủ Nhật 27 tháng 4, một toán xe bus gồm năm chiếc tới đậu ở ngay trước lối vào văn pḥng cơ quan DAO. Chúng tôi lần lượt xếp hàng lên xe. Khoảng mười phút sau, đoàn xe hướng về khu vực nơi máy bay C.130 đậu, gần phía cuối phi đạo.

Khi c̣n cách chỗ máy bay khoảng 40 thước, các xe bus ngừng lại. Người hướng dẫn trên xe yêu cầu chúng tôi xuống, sắp hàng một để đi về phía máy bay.

Tôi nh́n ra phía trước. Bên chiếc máy bay phản lực C.130, đă có sẵn hai người lính quân cảnh Việt Nam đứng chờ, ngay cửa phía sau đuôi máy bay.

Chúng tôi lần lượt bước xuống xe bus, theo đoàn người di tản. Vợ và các con tôi đi trước. C̣n tôi, một tay bồng cháu gái út Hồng Bảo, lúc đó mới hơn hai tuổi.

Đi sát phía sau tôi là một đôi vợ chồng trẻ và đứa con nhỏ, cùng trong toán tôi. Người chồng là một kỹ sư điện làm việc cho một cơ quan tiếp liệu Hoa Kỳ. Có lẽ hồi sáng, anh chị nầy đă chứng kiến cảnh người thanh niên bị bắt giữ lại, nên người vợ tỏ ra hết sức lo lắng khi nh́n thấy hai viên quân cảnh Việt Nam to lớn đứng nơi chân máy bay.

Chị quay về phía tôi hỏi nhỏ :
- Anh có biết tại sao quân cảnh Việt Nam vẫn c̣n ở đó không ? Liệu chồng tôi đang trong lứa tuổi quân dịch có bị bắt lại không, thưa anh?

Tôi đưa mắt nh́n chị đang bồng đứa con gái trạc tuổi đứa con gái út tôi, c̣n anh th́ xách một valise, và trên vai đeo một cái cặp nữa.

Làm ra vẻ thông thạo, tôi trấn an cặp vợ chồng trẻ:
- Theo tôi, nhiệm vụ của hai người quân cảnh này chỉ là canh gác máy bay, đề pḥng phá hoại thôi. Giờ phút nầy, họ không c̣n bắt giữ ai như hồi sáng nữa đâu.

Tôi nói tiếp :
- Chị nên trao cháu nhỏ cho anh bế ! Ḿnh cứ tự nhiên mà đi, đừng để ư ǵ đến họ. Không sao đâu !

Người vợ trao đứa bé cho chồng, và đỡ hộ anh ta chiếc cặp trên vai. Chúng tôi đi trong toán di tản cuối cùng, và chẳng bao lâu đă tới cửa phía sau của chiếc máy bay C.130. Tôi cố giữ nét mặt b́nh thản, nh́n về phía trước. Nhưng lúc đi ngang qua hai người quân cảnh, tôi biết chắc chắn họ đang chăm chú nh́n tôi. Chúng tôi vừa bước vào thân tàu, th́ anh chồng đi phía sau tôi đặt đứa bé xuống sàn máy bay cho người vợ giữ. Anh lách ḿnh, vượt qua tôi; vội vàng đi thẳng vào pḥng vệ sinh, đóng sập cửa lại.

Khi người di tản cuối cùng đă vào hẳn trong máy bay, nhân viên phi hành kiểm soát một lần chót; rồi bấm nút; chiếc cánh cửa vĩ đại phía sau đuôi máy bay từ từ đóng lại.

Chúng tôi ngồi vào chỗ, được hướng dẫn cài dây an toàn, và những ǵ phải làm khi gặp trường hợp khẩn cấp. Mùi nhiên liệu phi cơ, mùi mồ hôi, mùi kim loại tỏa ra dưới nắng chiều gay gắt làm không khí chờ đợi thật ngột ngạt và căng thẳng. Động cơ chạy mạnh hơn, và chiếc máy bay lăn bánh, tiến dần ra phi đạo. Rồi tiếng máy rú lên, vận tốc tăng nhanh; chiếc C. 130 nhẹ nhàng cất cánh. Vừa lúc đó, người kỹ sư trẻ tuổi cũng từ pḥng vệ sinh vội vàng bước ra; mặt anh xanh mét, như không c̣n hồn vía ǵ.

Tôi đă đoán biết v́ sao anh vào trong đó, nhưng cũng giả vờ hỏi :
- Bộ anh đau bụng lắm hay sao mà ngồi trong nhà vệ sinh lâu quá vậy ?

Anh thật thà trả lời :
- Dạ, em có đau bụng ǵ đâu! Sáng nay chứng kiến cảnh bắt giữ người thanh niên, đến giờ này em c̣n sợ; nên phải trốn vào pḥng vệ sinh, chờ máy bay cất cánh mới dám đi ra.

Tôi cười nhẹ, thông cảm với nỗi lo sợ của cặp vợ chồng này.

Trạm đầu tiên cho người tỵ nạn xuống là đảo Guam. Chúng tôi được phân phối tạm trú trong những căn lều thật lớn do công binh Mỹ vừa dựng lên, mỗi căn lều có sức chứa cả ngàn người. Buổi sáng hôm sau, tôi lên văn pḥng trại ghi danh và điền vài mẫu giấy tờ hành chánh cho việc chuyển trại. Khi đang ngồi chờ ở trước văn pḥng, cha mẹ tôi và cháu trai con ông anh cả tôi bước vào. Gặp lại tôi, mẹ mừng lắm, hỏi han ríu rít. Thế là gia đ́nh anh chị cả đă mang được cha mẹ tôi đi cùng, và chỉ đi sau tôi khoảng 4 tiếng đồng hồ, trên một chuyến máy bay khác.

Những ngày sống nơi trại tạm cư ở Guam, ngoài những bữa ăn, gồm toàn món Mỹ, chúng tôi thường đi bộ ra bờ biển Guam hóng mát, nhất là lúc xế trưa.

Buổi tối, ban chỉ huy trại cho chiếu phim giải trí. Một số nghệ sĩ Việt Nam cũng họp nhau lại mỗi buổi chiều, tŕnh diễn giúp vui cho đồng bào tị nạn.

Điều đau buồn nhất đối với chúng tôi, là chiều 30 tháng 4 năm 1975, khi hai đài phát thanh BBC và VOA loan tin Sài G̣n bị thất thủ, và cả miền Nam đă rơi vào tay giặc Cộng. Chúng tôi ai nấy đều ngậm ngùi, xót xa chia sẻ niềm đau đớn của đồng bào ruột thịt, từ nay sẽ sống dưới ách cai trị của bọn Cộng Sản độc tài và bạo tàn.

Tất cả mọi người chúng tôi đều mang chung một tâm trạng đau buồn. Tôi đă chứng kiến những người thiếu phụ trẻ bên nách một đàn con thơ nheo nhóc, họ ngồi bên góc lều trại, hộc lên khóc, tiếng khóc đau đớn, năo nề, ai oán kéo dài từng hồi. Những lúc như thế, vợ tôi lại chạy tới, dỗ dành, an ủi họ. Rồi tiếp đến căn lều bên cạnh, như bị xúc động giây chuyền, có người đă bật ra tiếng khóc, nhất là các bà các cô, vốn rất nhạy cảm.

Chung quanh căn lều tạm trú, tôi nghe những tiếng khóc nức nở đầy vẻ căm phẫn. Những người đàn ông biểu lộ nỗi đau thương một cách lặng lẽ hơn. Tôi thấy những khuôn mặt trầm lắng, đanh lai, những đôi mắt đỏ hoe, những giọt nước mắt tủi hờn vừa mới lau khô.

Ai ai đều ngậm ngùi trước cảnh gia đ́nh tan tác, vợ xa chồng; cha mẹ xa con; anh chị em lưu lạc khắp bốn phương trời…Tuy không nói ra, nhưng trong thâm tâm, tôi biết chắc chắn kể từ giờ phút nầy, tôi sẽ phải chấp nhận Hoa Kỳ là quê hương thứ hai.

'30 Tháng Tư, 1975 – 2015: Tị Nạn và Hội Nhập'

Hăy Viết Cùng Chúng Tôi
"30 Tháng Tư, 1975 – 2015: Tị Nạn và Hội Nhập" là trang mục đặc biệt trên Người Việt Online và Nhật Báo Người Việt, trong chương tŕnh tưởng niệm 40 năm biến cố 30 tháng Tư, 1975.

Ṭa Soạn xin mời quư độc giả cùng chia sẻ những hồi ức của quư vị về biến cố này cũng như kinh nghiệm trải qua trong những ngày đầu định cư tại quê hương mới. Mỗi cá nhân, cho dầu rời Việt Nam bằng phương cách nào, tị nạn, thuyền nhân, H.O. hay đoàn tụ gia đ́nh, đều có những kinh nghiệm rất riêng, cần được kể lại.

Chẳng hạn, quư độc giả có thể viết về cảm tưởng của ḿnh khi nghe Tổng Thống Dương Văn Minh đọc lời đầu hàng ngày 30 tháng Tư, 1975. Thời khắc đó, quư vị đang làm ǵ, ở đâu, và nghĩ ǵ?

Quư vị cũng có thể viết về những kỷ niệm, kinh nghiệm, trong những ngày đầu ở trại tị nạn, ở trại tiếp cư hay khi hội nhập vào đời sống ở Mỹ hay các quốc gia đến tị nạn.

Quư vị cũng có thể kể về sự vượt khó của con cái thế hệ thuyền nhân hay chương tŕnh H.O., ngay cả những kinh nghiệm học tập trong các trường trung học, đại học... và hơn hết là thành công của quư vị trong ngày hôm nay.

Bài viết xin gởi về Ṭa Soạn tại địa chỉ email: toasoan@nguoi-viet.com, hoặc gởi bằng thư tay đến Nhật Báo Người Việt, 14771 Moran Street, Westminster, CA 92683.
Nhật báo Người Việt

canhdieubay
03-07-2015, 15:47
thang nao la cang lon lai cang ve vn om ga o vn nhieu hhehehehhe

okko
03-09-2015, 10:45
Hohohho... Lại "quốc" với "hận"....
Cắm đầu đào ngũ, tan hàng c̣n hơn bầy chuột cống.... Can đi! Hohohoho....
Chỉ là một "Ziệt Nem Khộng Què" hèn nhát, khiếp nhược, toàn lũ ăn hại...
"Danh dự" đách... "Tổ Quốc" đách... "Trách Nhiệm" đách....

cha12 ba
03-11-2015, 03:18
thang nao la cang lon lai cang ve vn om ga o vn nhieu hhehehehhe

hohohoho...diều đứt dây đếch biết bỏ dấu ....hohohohoho