Hanna
05-19-2015, 12:00
VBF-Có thể nói được gặp và được sống và phục vụ Bác Hồ là niềm vinh hạnh của bất ḱ người VN nào.Mời các bạn xem bài viết sau để hiểu rơ hơn về những con người đă từng được tiếp xúc lâu dài với Bác.Đại tá Nguyễn Thị Bích Thuận, nguyên Phó Cục trưởng Cục Cảnh vệ, nay là Bộ Tư lệnh Cảnh vệ, Bộ Công an, c̣n là người bạn đời, phu nhân của đồng chí Lê Văn Lương, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị.Trong lực lượng Công an nhân dân có một cán bộ lăo thành, người cán bộ Công an cách mạng ấy là Đại tá Nguyễn Thị Bích Thuận, nguyên Phó Cục trưởng Cục Cảnh vệ, nay là Bộ Tư lệnh Cảnh vệ, Bộ Công an.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=767039&stc=1&d=1432036796
Bà c̣n là người bạn đời, phu nhân của đồng chí Lê Văn Lương, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Hà Nội, một trong số cán bộ tiền bối của Đảng và Nhà nước ta. Và đằng sau đôi vợ chồng trứ danh này là câu chuyện t́nh đặc biệt, một đám cưới đặc biệt chưa từng có trong giới chính khách Việt Nam…
Từ một nữ sinh trường Đồng Khánh
Bà Bích Thuận tṛ chuyện với chúng tôi về quăng đời hoạt động cách mạng của bà và người chồng yêu quư - ông Lê Văn Lương, một trong số những nhà cách mạng, nhà lănh đạo tiền bối của Đảng ta.Mỗi lần kể cho tôi nghe những câu chuyện được bảo vệ Bác Hồ, được hoạt động cách mạng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các đồng chí lănh đạo Đảng và Nhà nước, được cách mạng chắp cánh t́nh yêu của ông bà lại một lần bà không ngăn được cảm xúc, nước mắt khôn ngăn v́ tự hào, v́ hạnh phúc...
Bà tên thật là Nguyễn Thị Bích Thuận, sinh ra và lớn lên ở Lăng Yên, nay là phường Thanh Lương (Hai Bà Trưng – Hà Nội), trong một gia đ́nh công nhân viên chức nghèo. Mẹ mất sớm, cô bé Thuận hồi nhỏ được nuôi dạy trong sự thương yêu của bà nội và bố.
Dù gia đ́nh nghèo, nhưng sau khi học xong 6 năm tại trường Armand Rousseau (trường Ḷ Đúc), nay là trường Lê Ngọc Hân, bà thi đỗ vào trường Nữ sinh Đồng Khánh (tên cũ là Colleege des jeunes filles anamites).
Sống trong khu lao động nghèo, bà hiểu được sự cơ cực mà những người lao động xung quanh ḿnh hằng ngày phải hứng chịu bởi sự áp bức bóc lột của chế độ thực dân nên khi thi đỗ vào học trường Đồng Khánh, bà vẫn giữ nếp sinh hoạt của một gia đ́nh lao động, cũng chính v́ thế mà bạn bè đặt cho bà cái biệt danh: Thuận nhà quê.
Không mặc cảm bởi xuất thân từ một gia đ́nh công nhân, bà cố gắng học giỏi. Bởi bà luôn ghi nhớ lời dặn của bố: Là con gái cũng phải có một nghề nghiệp, có tŕnh độ, nếu không th́ chồng sẽ khinh.
Và điều mà bà cho đến tận bây giờ vẫn luôn ghi nhớ, bố bà đă nói rằng: “Nếu bố không nặng về gia đ́nh th́ bố cũng tham gia cách mạng, bố chỉ tham gia Hội Ái hữu. Con phải cố gắng học cho thật tố...”.
Chính hoàn cảnh gia đ́nh, được chứng kiến những người dân sống cực khổ quanh ḿnh và thấm nhuần những lời bố dặn, bà đă sớm giác ngộ cách mạng và quyết định chọn cho ḿnh một con đường đi đầy gian khổ nhưng vô cùng vẻ vang. Bà sinh hoạt ở tổ Việt Minh cùng với các đồng chí Hà Giang, Hoàng Mười... và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10/1945.
Bí danh “Bích” được các đồng chí đặt, ghép với tên cúng cớm để thành cái tên: Nguyễn Thị Bích Thuận mà bà vẫn giữ măi cho đến bây giờ. Bà nhiệt t́nh tham gia mọi hoạt động như tuyên truyền kết nạp hội viên, bán tín phiếu, dự mít tinh, thành viên của tổ chức Phụ nữ thành Hoàng Diệu...
Bà kể cho tôi nghe, vào một ngày hè năm 1945, bà nhận lời khâu một lá cờ đỏ sao vàng để treo ở hồ Hoàn Kiếm. T́nh h́nh lúc đó rất rối ren, muốn làm được cờ th́ phải có vải đỏ, vải vàng, ra chợ mua những loại vải này rất dễ bị lộ.
Sau nhiều đêm trăn trở, ngước nh́n lên bàn thờ gia tiên, bà đă đi đến một quyết định: Trên ngai thờ tổ của gia đ́nh bà có phủ một mảnh vải đỏ c̣n đẹp, tươi màu, khổ vải cũng rộng. Bà cắt tấm vải đỏ thành một h́nh chữ nhật khoảng 40x50cm để may cờ, phần vải c̣n lại bà đặt lên ngai thờ.
Cho đến sau này, bà vẫn luôn tâm niệm rằng: “Nếu có biết, chắc bố tôi hiểu việc tôi làm”. Bà phấn khởi, tự hào v́ đă đóng góp một phần bé nhỏ vào sự hiện diện vẻ vang của lá cờ đỏ sao vàng tung bay giữa Thủ đô Hà Nội trước sự canh pḥng cẩn mật của quân Nhật thời kỳ trước cách mạng tháng Tám.
Ḥa cùng không khí sôi sục khí thế cách mạng Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945, bà được vinh dự đi trong đoàn Phụ nữ cứu quốc tiến về Ba Đ́nh dự Lễ Độc lập 2/9/1945.
Đó là lần đầu tiên bà được nh́n thấy Bác Hồ ở vị trí rất gần và bà đă không cầm được xúc động khi nghe Người nói. Sau ngày tham gia Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, bà được tham gia Liên khu bộ Việt Minh, làm Bí thư Phụ nữ cứu quốc Liên khu II và tham gia cấp ủy Liên khu II. Nhớ lại những ngày đầu nước nhà vừa giành được độc lập, bà cùng các đồng chí Trần Vỹ, Hà Giang được vinh dự theo học lớp học ngắn hạn, đặc biệt, đào tạo cán bộ cốt cán do Bác Hồ, đồng chí Trường Chinh, đồng chí Lê Duẩn giảng tại Bắc Bộ phủ. Hồi đó, t́nh h́nh chính trị và trật tự xă hội hết sức phức tạp nên việc đi lại thường hay bị bọn địch bắt cóc. Sự vất vả, hiểm nguy dường như không làm cô thiếu nữ khi ấy một chút nao núng.
Tối tối, bà vẫn chăm chỉ đến lớp và lắng nghe những lời giảng của Bác Hồ. Chính những bài học ban đầu đó đă giúp bà rất nhiều trong công tác vận động quần chúng. Và thật cảm động biết bao khi sau này, các đồng chí lănh đạo vẫn c̣n nhắc tới lớp học đó và nhận bà là học tṛ của ḿnh.
Những Đảng viên được đào tạo đă trở thành những cán bộ lănh đạo của Đảng, chiến đấu lập nhiều chiến công, cản bước tiến của quân xâm lược Pháp, hỗ trợ cho Liên khu I bám trụ, duy tŕ sức chiến đấu giữa thành phố.
Gặp Hoàng hậu Nam Phương
Cuối năm 1946, bà và đồng chí Ban, một nữ lăo thành cách mạng được đồng chí Lê Đức Thọ, giao nhiệm vụ vào Huế dự Đại hội Phụ nữ Trung Bộ, đồng thời là thành viên Đoàn cán bộ của Trung ương Đảng phái vào gặp bà Nam Phương (vợ vua Bảo Đại, ông vua cuối cùng của Việt Nam) để thông báo về sự quan tâm của Bác Hồ, của Trung ương với Bảo Đại.
Một điều khá thú vị mà đến tận bây giờ, bà Bích Thuận mới tiết lộ rằng, trong cuộc gặp gỡ diễn ra tại dinh Khải Định ấy, bà chỉ nói: “Hiện ông Bảo Đại khỏe, là cố vấn của Chính phủ”. Nghe đến đó, hoàng hậu Nam Phương nói trong sự cảm động: “Giờ th́ ông ấy sướng rồi”.
Thế nhưng, nh́n bà hoàng đẹp lộng lẫy, bà Thuận thấy áy náy trong ḷng v́ giấu nhẹm đi chuyện ông Bảo Đại lăng nhăng, đa t́nh ở Hà Nội. Thậm chí, ngày bà vào Huế, ở Hà Nội đang xôn xao chuyện Bảo Đại “cặp” với một kỹ nữ nổi tiếng Hà thành lúc đó. Ngoài ra, ông ta c̣n cả tá nhân t́nh, quên lẳng đi mẹ, vợ con ở Huế...
Chuyện đến đây, bà Thuận trầm ngâm: “Trở về, tôi giữ măi kư ức hai lần giáp mặt bà Nam Phương. Lần đầu tiên tại trường Đồng Khánh khi tôi c̣n là cô học tṛ nhỏ năm thứ hai nghênh đón hoàng hậu đến thăm trường.
Lần thứ hai, trong khí thế cách mạng của Việt Nam độc lập, dân chủ tại cố đô Huế với danh nghĩa thành viên của đoàn cán bộ do Đảng phái vào, được tiếp đón ngang hàng, b́nh đẳng”. Cũng vào những tháng cuối năm đó, khi Hà Nội mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc, bà nhận nhiệm vụ mới với công tác “mật mă”.
Những người mai mối đặc biệt
Nhớ lại những ngày đầu nước nhà vừa giành được độc lập, bà cùng các đồng chí Trần Vỹ, Hà Giang được vinh dự theo học lớp học ngắn hạn, đặc biệt, đào tạo cán bộ cốt cán do Bác Hồ, đồng chí Trường Chinh, đồng chí Lê Duẩn giảng tại Bắc Bộ phủ.
Hồi đó, t́nh h́nh chính trị và trật tự xă hội hết sức phức tạp nên việc đi lại thường hay bị bọn địch bắt cóc. Sự vất vả, hiểm nguy dường như không làm cô thiếu nữ khi ấy một chút nao núng. Tối tối, bà vẫn chăm chỉ đến lớp và lắng nghe những lời giảng của Bác Hồ.
Chính những bài học ban đầu đó đă giúp bà rất nhiều trong công tác vận động quần chúng. Và thật cảm động biết bao khi sau này, các đồng chí lănh đạo vẫn c̣n nhắc tới lớp học đó và nhận bà là học tṛ của ḿnh. Những Đảng viên được đào tạo đă trở thành những cán bộ lănh đạo của Đảng, chiến đấu lập nhiều chiến công, cản bước tiến của quân xâm lược Pháp, hỗ trợ cho Liên khu I bám trụ, duy tŕ sức chiến đấu giữa thành phố.
Cũng vào những tháng cuối năm 1946, khi Hà Nội mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc, bà nhận nhiệm vụ mới với công tác “mật mă”. Trước Tết Nguyên Đán Đinh Hợi (1947), đồng chí Trần Quốc Hoàn phân công bà mă bức điện mật của Bác Hồ gửi vào Mặt trận Liên khu I, bà đă không tránh khỏi xúc động khi mă bức điện của Bác Hồ: “...Các em quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” và dịch bức điện do đồng chí Lê Trung Toản thay mặt cán bộ, chiến sỹ Liên khu I hứa với Bác với ḷng quyết tâm vô hạn: “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”.
Giữa năm đó, Trung ương mở lớp Ngô Gia Tự đào tạo cán bộ khóa V, bà được gọi về học. Và cũng từ đây, nảy nở một t́nh yêu giữa người con gái Hà Nội và người cán bộ tiền bối cách mạng yêu nước Lê Văn Lương (nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Hà Nội, ông đă được trao tặng Huân chương Sao Vàng). Lần đầu tiên bà gặp ông trong đoàn cán bộ đi dự Đại hội Đảng bộ Hà Nội lần thứ nhất tại trụ sở Thành ủy Hà Nội ở phố Trần Hưng Đạo. Ông ngồi cách bà một dăy bàn phía cuối pḥng họp.
Ông là đại biểu của đoàn cán bộ báo Sự thật. Sau đó, ông và bà bị cuốn vào làn sóng cách mạng đang trào dâng trong toàn quốc, nhất là ở Thủ đô Hà Nội. Mỗi người một vị trí công tác, chưa ai để ư đến ai. Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, ông theo cơ quan Trung ương lên Việt Bắc. Bà cũng được điều động lên Việt Bắc.
Ông bà thực sự được tiếp xúc với nhau vào năm 1947, bà được gọi về cử đi học lớp Ngô Gia Tự. Trường đóng ở Văn Lăng, chân đèo Khế - Thái Nguyên. Bà gặp lại ông khi ông là giảng viên, c̣n bà là học viên. Cùng giảng dạy lớp học này c̣n có các đồng chí Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Vơ Nguyên Giáp.
“Lúc đó, trông anh cao gầy, nước da trắng, mặc bộ quần áo nâu, chân đi guốc trông rất thư sinh. Anh đến lớp chỉ chú tâm vào việc giảng bài, giảng xong rồi về, không hề gặp gỡ tṛ chuyện với nữ học viên chúng tôi.
Anh giảng về công tác cách mạng, bài giảng đă khô khan, giảng viên lại ít nói, hầu như không gặp gỡ chúng tôi trong suốt khóa học nên chẳng để lại ấn tượng trong chúng tôi như anh Trường Chinh và anh Lê Đức Thọ. Trong thời gian đó, có một chị bạn cứ trêu tôi “Tờ, Lờ”, nhưng tôi đâu hiểu được nên vẫn thản nhiên”, bà Bích Thuận nhớ lại.
Thế rồi một buổi chiều, trên căn nhà sàn của đồng bào dân tộc ngay cạnh trường, đồng chí Lê Đức Thọ gọi bà lên nói chuyện. Đồng chí Thọ khen ông về nhiều mặt và bảo có ư định giới thiệu ông với bà.
Quá bất ngờ, bà nói chưa muốn lập gia đ́nh để dành thời gian cho công tác. Rồi đồng chí nói: “Anh chỉ muốn Lương và em, những đồng chí tốt gặp nhau. Chính câu nói này của anh Thọ có sức thuyết phục tôi, làm tôi phải suy nghĩ”, bà tâm sự. Những ngày sau đó, bà suy nghĩ nhiều. Trước đây, khi sống trong khu lao động nghèo, chứng kiến cảnh nghèo khổ, vợ chồng căi nhau, đánh chửi nhau, xă hội lúc đó c̣n nặng nề tư tưởng “trọng nam khinh nữ” nên dù tuổi đôi mươi, bà vẫn chưa một lần cùng ai hẹn ước mà chỉ quan hệ bạn bè.
Giờ đây, khi nghe đồng chí Thọ nói vậy, bà bỗng nghĩ về ông nhiều hơn, đắn đo với câu hỏi: Ông là một người nhiều tuổi hơn bà, vừa là cán bộ hoạt động cách mạng đă lâu, từ khi bà c̣n là một cô học tṛ nhỏ, quyết định gắn bó cuộc đời bà vào cuộc đời ông có nên không? Tin được ông không?... Sau khi bế giảng lớp học chính trị, trước lúc chia tay, ông bà hẹn gặp nhau nói chuyện tại “Quán ông già”.
Ông vẫn ít nói, không hề yêu cầu bà “cung khai” lư lịch. C̣n bà cũng chẳng hỏi ông về quá tŕnh công tác. Lúc đó, bà chưa biết ông đă có mặt trong Xứ ủy Nam Bộ và cuộc đời trong “xà lim án chém” của ông. Bà cũng không kể với ông chuyện của bản thân ḿnh. Suốt buổi, ông bà chỉ nói chuyện bâng quơ nhưng cũng đủ để ông hỏi địa chỉ và viết thư, v́ thư về cơ quan, các chị bóc xem lại trêu chọc.
Sau đó, anh Thọ gặp tôi, trách và nói: “Thôi, để anh bảo Lương viết thư cho em”, bà kể. Sau đó, bà c̣n một vài lần gặp lại ông khi th́ ở cơ quan giao thông Trung ương ở Quảng Nạp, khi th́ tại La Hiên lúc cơ quan rời Định Hóa sang Vơ Nhai, thời kỳ Pháp nhảy dù xuống Bắc Kạn.
Nhưng cho đến thời điểm đó, những ấn tượng ông để lại trong bà chỉ vỏn vẹn là h́nh ảnh một người anh hiền lành, chân thành và ít nói. Thời gian sau, ông ở lại An toàn khu Định Hóa, c̣n bà về cơ quan phụ nữ khu Việt Bắc. Ông vẫn thường xuyên viết thư cho người ḿnh yêu, khiêm tốn và không bay bướm. Trong lá thư nào cũng kết thúc bằng “mong thư em”.
Và rồi, có lẽ những lá thư chân thành và chứa đựng t́nh yêu thương của ông đă làm cho bà lâu rồi cũng thấy nhớ mong và giúp bà có một niềm tin ở nơi ông. Cuối năm 1947, đồng chí Lê Thu Trà giao cho bà trực tiếp phụ trách lớp huấn luyện cán bộ phụ nữ cấp huyện của hai tỉnh Cao Bằng – Bắc Kạn.
Như là một định mệnh, đúng lúc bà đă chuẩn bị xong xuôi, chờ ngày lên đường th́ nhận được thư ông, mong bà sớm về cơ quan Trung ương nhận công tác. “Anh nhờ tôi xin lỗi chị Trà v́ đă tách một cán bộ được chị tin yêu khỏi chị. Cùng lúc đó, chị Lê Thu Trà cũng nhận được điện của Trung ương yêu cầu điều động tôi về Trung ương công tác và t́m người khác đi Bắc Kạn thay tôi”, bà tiếp tục câu chuyện.
Chắp cánh một mối t́nh
Về cơ quan Trung ương, bà được phân công công tác tại Ban tổ chức Trung ương do đồng chí Lê Đức Thọ phụ trách. Ông th́ đang ở Văn pḥng Trung ương. Hai cơ quan lúc đó vẫn ở nhờ nhà dân ở Bản Bắc, cách nhau một thửa ruộng và một ngọn đồi thấp. Chiều chiều, ông sang bên đồng chí Thọ ngồi nói chuyện với mọi người và cũng để được gần người ḿnh yêu.
Có lần, ông hỏi bà: “Em có biết làm ăn ǵ không?”. Bà ngạc nhiên về câu hỏi quá chất phác của ông, bèn nói: “Em đi học, rồi giác ngộ cách mạng đi hoạt động, chẳng biết làm ăn ǵ cả”. Sau này, bà mới biết ông và một số anh em ở Văn pḥng Trung ương đều có thành kiến với cán bộ nữ; cho rằng cán bộ nữ không biết nội trợ...
vk
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=767039&stc=1&d=1432036796
Bà c̣n là người bạn đời, phu nhân của đồng chí Lê Văn Lương, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Hà Nội, một trong số cán bộ tiền bối của Đảng và Nhà nước ta. Và đằng sau đôi vợ chồng trứ danh này là câu chuyện t́nh đặc biệt, một đám cưới đặc biệt chưa từng có trong giới chính khách Việt Nam…
Từ một nữ sinh trường Đồng Khánh
Bà Bích Thuận tṛ chuyện với chúng tôi về quăng đời hoạt động cách mạng của bà và người chồng yêu quư - ông Lê Văn Lương, một trong số những nhà cách mạng, nhà lănh đạo tiền bối của Đảng ta.Mỗi lần kể cho tôi nghe những câu chuyện được bảo vệ Bác Hồ, được hoạt động cách mạng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các đồng chí lănh đạo Đảng và Nhà nước, được cách mạng chắp cánh t́nh yêu của ông bà lại một lần bà không ngăn được cảm xúc, nước mắt khôn ngăn v́ tự hào, v́ hạnh phúc...
Bà tên thật là Nguyễn Thị Bích Thuận, sinh ra và lớn lên ở Lăng Yên, nay là phường Thanh Lương (Hai Bà Trưng – Hà Nội), trong một gia đ́nh công nhân viên chức nghèo. Mẹ mất sớm, cô bé Thuận hồi nhỏ được nuôi dạy trong sự thương yêu của bà nội và bố.
Dù gia đ́nh nghèo, nhưng sau khi học xong 6 năm tại trường Armand Rousseau (trường Ḷ Đúc), nay là trường Lê Ngọc Hân, bà thi đỗ vào trường Nữ sinh Đồng Khánh (tên cũ là Colleege des jeunes filles anamites).
Sống trong khu lao động nghèo, bà hiểu được sự cơ cực mà những người lao động xung quanh ḿnh hằng ngày phải hứng chịu bởi sự áp bức bóc lột của chế độ thực dân nên khi thi đỗ vào học trường Đồng Khánh, bà vẫn giữ nếp sinh hoạt của một gia đ́nh lao động, cũng chính v́ thế mà bạn bè đặt cho bà cái biệt danh: Thuận nhà quê.
Không mặc cảm bởi xuất thân từ một gia đ́nh công nhân, bà cố gắng học giỏi. Bởi bà luôn ghi nhớ lời dặn của bố: Là con gái cũng phải có một nghề nghiệp, có tŕnh độ, nếu không th́ chồng sẽ khinh.
Và điều mà bà cho đến tận bây giờ vẫn luôn ghi nhớ, bố bà đă nói rằng: “Nếu bố không nặng về gia đ́nh th́ bố cũng tham gia cách mạng, bố chỉ tham gia Hội Ái hữu. Con phải cố gắng học cho thật tố...”.
Chính hoàn cảnh gia đ́nh, được chứng kiến những người dân sống cực khổ quanh ḿnh và thấm nhuần những lời bố dặn, bà đă sớm giác ngộ cách mạng và quyết định chọn cho ḿnh một con đường đi đầy gian khổ nhưng vô cùng vẻ vang. Bà sinh hoạt ở tổ Việt Minh cùng với các đồng chí Hà Giang, Hoàng Mười... và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10/1945.
Bí danh “Bích” được các đồng chí đặt, ghép với tên cúng cớm để thành cái tên: Nguyễn Thị Bích Thuận mà bà vẫn giữ măi cho đến bây giờ. Bà nhiệt t́nh tham gia mọi hoạt động như tuyên truyền kết nạp hội viên, bán tín phiếu, dự mít tinh, thành viên của tổ chức Phụ nữ thành Hoàng Diệu...
Bà kể cho tôi nghe, vào một ngày hè năm 1945, bà nhận lời khâu một lá cờ đỏ sao vàng để treo ở hồ Hoàn Kiếm. T́nh h́nh lúc đó rất rối ren, muốn làm được cờ th́ phải có vải đỏ, vải vàng, ra chợ mua những loại vải này rất dễ bị lộ.
Sau nhiều đêm trăn trở, ngước nh́n lên bàn thờ gia tiên, bà đă đi đến một quyết định: Trên ngai thờ tổ của gia đ́nh bà có phủ một mảnh vải đỏ c̣n đẹp, tươi màu, khổ vải cũng rộng. Bà cắt tấm vải đỏ thành một h́nh chữ nhật khoảng 40x50cm để may cờ, phần vải c̣n lại bà đặt lên ngai thờ.
Cho đến sau này, bà vẫn luôn tâm niệm rằng: “Nếu có biết, chắc bố tôi hiểu việc tôi làm”. Bà phấn khởi, tự hào v́ đă đóng góp một phần bé nhỏ vào sự hiện diện vẻ vang của lá cờ đỏ sao vàng tung bay giữa Thủ đô Hà Nội trước sự canh pḥng cẩn mật của quân Nhật thời kỳ trước cách mạng tháng Tám.
Ḥa cùng không khí sôi sục khí thế cách mạng Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945, bà được vinh dự đi trong đoàn Phụ nữ cứu quốc tiến về Ba Đ́nh dự Lễ Độc lập 2/9/1945.
Đó là lần đầu tiên bà được nh́n thấy Bác Hồ ở vị trí rất gần và bà đă không cầm được xúc động khi nghe Người nói. Sau ngày tham gia Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, bà được tham gia Liên khu bộ Việt Minh, làm Bí thư Phụ nữ cứu quốc Liên khu II và tham gia cấp ủy Liên khu II. Nhớ lại những ngày đầu nước nhà vừa giành được độc lập, bà cùng các đồng chí Trần Vỹ, Hà Giang được vinh dự theo học lớp học ngắn hạn, đặc biệt, đào tạo cán bộ cốt cán do Bác Hồ, đồng chí Trường Chinh, đồng chí Lê Duẩn giảng tại Bắc Bộ phủ. Hồi đó, t́nh h́nh chính trị và trật tự xă hội hết sức phức tạp nên việc đi lại thường hay bị bọn địch bắt cóc. Sự vất vả, hiểm nguy dường như không làm cô thiếu nữ khi ấy một chút nao núng.
Tối tối, bà vẫn chăm chỉ đến lớp và lắng nghe những lời giảng của Bác Hồ. Chính những bài học ban đầu đó đă giúp bà rất nhiều trong công tác vận động quần chúng. Và thật cảm động biết bao khi sau này, các đồng chí lănh đạo vẫn c̣n nhắc tới lớp học đó và nhận bà là học tṛ của ḿnh.
Những Đảng viên được đào tạo đă trở thành những cán bộ lănh đạo của Đảng, chiến đấu lập nhiều chiến công, cản bước tiến của quân xâm lược Pháp, hỗ trợ cho Liên khu I bám trụ, duy tŕ sức chiến đấu giữa thành phố.
Gặp Hoàng hậu Nam Phương
Cuối năm 1946, bà và đồng chí Ban, một nữ lăo thành cách mạng được đồng chí Lê Đức Thọ, giao nhiệm vụ vào Huế dự Đại hội Phụ nữ Trung Bộ, đồng thời là thành viên Đoàn cán bộ của Trung ương Đảng phái vào gặp bà Nam Phương (vợ vua Bảo Đại, ông vua cuối cùng của Việt Nam) để thông báo về sự quan tâm của Bác Hồ, của Trung ương với Bảo Đại.
Một điều khá thú vị mà đến tận bây giờ, bà Bích Thuận mới tiết lộ rằng, trong cuộc gặp gỡ diễn ra tại dinh Khải Định ấy, bà chỉ nói: “Hiện ông Bảo Đại khỏe, là cố vấn của Chính phủ”. Nghe đến đó, hoàng hậu Nam Phương nói trong sự cảm động: “Giờ th́ ông ấy sướng rồi”.
Thế nhưng, nh́n bà hoàng đẹp lộng lẫy, bà Thuận thấy áy náy trong ḷng v́ giấu nhẹm đi chuyện ông Bảo Đại lăng nhăng, đa t́nh ở Hà Nội. Thậm chí, ngày bà vào Huế, ở Hà Nội đang xôn xao chuyện Bảo Đại “cặp” với một kỹ nữ nổi tiếng Hà thành lúc đó. Ngoài ra, ông ta c̣n cả tá nhân t́nh, quên lẳng đi mẹ, vợ con ở Huế...
Chuyện đến đây, bà Thuận trầm ngâm: “Trở về, tôi giữ măi kư ức hai lần giáp mặt bà Nam Phương. Lần đầu tiên tại trường Đồng Khánh khi tôi c̣n là cô học tṛ nhỏ năm thứ hai nghênh đón hoàng hậu đến thăm trường.
Lần thứ hai, trong khí thế cách mạng của Việt Nam độc lập, dân chủ tại cố đô Huế với danh nghĩa thành viên của đoàn cán bộ do Đảng phái vào, được tiếp đón ngang hàng, b́nh đẳng”. Cũng vào những tháng cuối năm đó, khi Hà Nội mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc, bà nhận nhiệm vụ mới với công tác “mật mă”.
Những người mai mối đặc biệt
Nhớ lại những ngày đầu nước nhà vừa giành được độc lập, bà cùng các đồng chí Trần Vỹ, Hà Giang được vinh dự theo học lớp học ngắn hạn, đặc biệt, đào tạo cán bộ cốt cán do Bác Hồ, đồng chí Trường Chinh, đồng chí Lê Duẩn giảng tại Bắc Bộ phủ.
Hồi đó, t́nh h́nh chính trị và trật tự xă hội hết sức phức tạp nên việc đi lại thường hay bị bọn địch bắt cóc. Sự vất vả, hiểm nguy dường như không làm cô thiếu nữ khi ấy một chút nao núng. Tối tối, bà vẫn chăm chỉ đến lớp và lắng nghe những lời giảng của Bác Hồ.
Chính những bài học ban đầu đó đă giúp bà rất nhiều trong công tác vận động quần chúng. Và thật cảm động biết bao khi sau này, các đồng chí lănh đạo vẫn c̣n nhắc tới lớp học đó và nhận bà là học tṛ của ḿnh. Những Đảng viên được đào tạo đă trở thành những cán bộ lănh đạo của Đảng, chiến đấu lập nhiều chiến công, cản bước tiến của quân xâm lược Pháp, hỗ trợ cho Liên khu I bám trụ, duy tŕ sức chiến đấu giữa thành phố.
Cũng vào những tháng cuối năm 1946, khi Hà Nội mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc, bà nhận nhiệm vụ mới với công tác “mật mă”. Trước Tết Nguyên Đán Đinh Hợi (1947), đồng chí Trần Quốc Hoàn phân công bà mă bức điện mật của Bác Hồ gửi vào Mặt trận Liên khu I, bà đă không tránh khỏi xúc động khi mă bức điện của Bác Hồ: “...Các em quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” và dịch bức điện do đồng chí Lê Trung Toản thay mặt cán bộ, chiến sỹ Liên khu I hứa với Bác với ḷng quyết tâm vô hạn: “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”.
Giữa năm đó, Trung ương mở lớp Ngô Gia Tự đào tạo cán bộ khóa V, bà được gọi về học. Và cũng từ đây, nảy nở một t́nh yêu giữa người con gái Hà Nội và người cán bộ tiền bối cách mạng yêu nước Lê Văn Lương (nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Hà Nội, ông đă được trao tặng Huân chương Sao Vàng). Lần đầu tiên bà gặp ông trong đoàn cán bộ đi dự Đại hội Đảng bộ Hà Nội lần thứ nhất tại trụ sở Thành ủy Hà Nội ở phố Trần Hưng Đạo. Ông ngồi cách bà một dăy bàn phía cuối pḥng họp.
Ông là đại biểu của đoàn cán bộ báo Sự thật. Sau đó, ông và bà bị cuốn vào làn sóng cách mạng đang trào dâng trong toàn quốc, nhất là ở Thủ đô Hà Nội. Mỗi người một vị trí công tác, chưa ai để ư đến ai. Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, ông theo cơ quan Trung ương lên Việt Bắc. Bà cũng được điều động lên Việt Bắc.
Ông bà thực sự được tiếp xúc với nhau vào năm 1947, bà được gọi về cử đi học lớp Ngô Gia Tự. Trường đóng ở Văn Lăng, chân đèo Khế - Thái Nguyên. Bà gặp lại ông khi ông là giảng viên, c̣n bà là học viên. Cùng giảng dạy lớp học này c̣n có các đồng chí Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Vơ Nguyên Giáp.
“Lúc đó, trông anh cao gầy, nước da trắng, mặc bộ quần áo nâu, chân đi guốc trông rất thư sinh. Anh đến lớp chỉ chú tâm vào việc giảng bài, giảng xong rồi về, không hề gặp gỡ tṛ chuyện với nữ học viên chúng tôi.
Anh giảng về công tác cách mạng, bài giảng đă khô khan, giảng viên lại ít nói, hầu như không gặp gỡ chúng tôi trong suốt khóa học nên chẳng để lại ấn tượng trong chúng tôi như anh Trường Chinh và anh Lê Đức Thọ. Trong thời gian đó, có một chị bạn cứ trêu tôi “Tờ, Lờ”, nhưng tôi đâu hiểu được nên vẫn thản nhiên”, bà Bích Thuận nhớ lại.
Thế rồi một buổi chiều, trên căn nhà sàn của đồng bào dân tộc ngay cạnh trường, đồng chí Lê Đức Thọ gọi bà lên nói chuyện. Đồng chí Thọ khen ông về nhiều mặt và bảo có ư định giới thiệu ông với bà.
Quá bất ngờ, bà nói chưa muốn lập gia đ́nh để dành thời gian cho công tác. Rồi đồng chí nói: “Anh chỉ muốn Lương và em, những đồng chí tốt gặp nhau. Chính câu nói này của anh Thọ có sức thuyết phục tôi, làm tôi phải suy nghĩ”, bà tâm sự. Những ngày sau đó, bà suy nghĩ nhiều. Trước đây, khi sống trong khu lao động nghèo, chứng kiến cảnh nghèo khổ, vợ chồng căi nhau, đánh chửi nhau, xă hội lúc đó c̣n nặng nề tư tưởng “trọng nam khinh nữ” nên dù tuổi đôi mươi, bà vẫn chưa một lần cùng ai hẹn ước mà chỉ quan hệ bạn bè.
Giờ đây, khi nghe đồng chí Thọ nói vậy, bà bỗng nghĩ về ông nhiều hơn, đắn đo với câu hỏi: Ông là một người nhiều tuổi hơn bà, vừa là cán bộ hoạt động cách mạng đă lâu, từ khi bà c̣n là một cô học tṛ nhỏ, quyết định gắn bó cuộc đời bà vào cuộc đời ông có nên không? Tin được ông không?... Sau khi bế giảng lớp học chính trị, trước lúc chia tay, ông bà hẹn gặp nhau nói chuyện tại “Quán ông già”.
Ông vẫn ít nói, không hề yêu cầu bà “cung khai” lư lịch. C̣n bà cũng chẳng hỏi ông về quá tŕnh công tác. Lúc đó, bà chưa biết ông đă có mặt trong Xứ ủy Nam Bộ và cuộc đời trong “xà lim án chém” của ông. Bà cũng không kể với ông chuyện của bản thân ḿnh. Suốt buổi, ông bà chỉ nói chuyện bâng quơ nhưng cũng đủ để ông hỏi địa chỉ và viết thư, v́ thư về cơ quan, các chị bóc xem lại trêu chọc.
Sau đó, anh Thọ gặp tôi, trách và nói: “Thôi, để anh bảo Lương viết thư cho em”, bà kể. Sau đó, bà c̣n một vài lần gặp lại ông khi th́ ở cơ quan giao thông Trung ương ở Quảng Nạp, khi th́ tại La Hiên lúc cơ quan rời Định Hóa sang Vơ Nhai, thời kỳ Pháp nhảy dù xuống Bắc Kạn.
Nhưng cho đến thời điểm đó, những ấn tượng ông để lại trong bà chỉ vỏn vẹn là h́nh ảnh một người anh hiền lành, chân thành và ít nói. Thời gian sau, ông ở lại An toàn khu Định Hóa, c̣n bà về cơ quan phụ nữ khu Việt Bắc. Ông vẫn thường xuyên viết thư cho người ḿnh yêu, khiêm tốn và không bay bướm. Trong lá thư nào cũng kết thúc bằng “mong thư em”.
Và rồi, có lẽ những lá thư chân thành và chứa đựng t́nh yêu thương của ông đă làm cho bà lâu rồi cũng thấy nhớ mong và giúp bà có một niềm tin ở nơi ông. Cuối năm 1947, đồng chí Lê Thu Trà giao cho bà trực tiếp phụ trách lớp huấn luyện cán bộ phụ nữ cấp huyện của hai tỉnh Cao Bằng – Bắc Kạn.
Như là một định mệnh, đúng lúc bà đă chuẩn bị xong xuôi, chờ ngày lên đường th́ nhận được thư ông, mong bà sớm về cơ quan Trung ương nhận công tác. “Anh nhờ tôi xin lỗi chị Trà v́ đă tách một cán bộ được chị tin yêu khỏi chị. Cùng lúc đó, chị Lê Thu Trà cũng nhận được điện của Trung ương yêu cầu điều động tôi về Trung ương công tác và t́m người khác đi Bắc Kạn thay tôi”, bà tiếp tục câu chuyện.
Chắp cánh một mối t́nh
Về cơ quan Trung ương, bà được phân công công tác tại Ban tổ chức Trung ương do đồng chí Lê Đức Thọ phụ trách. Ông th́ đang ở Văn pḥng Trung ương. Hai cơ quan lúc đó vẫn ở nhờ nhà dân ở Bản Bắc, cách nhau một thửa ruộng và một ngọn đồi thấp. Chiều chiều, ông sang bên đồng chí Thọ ngồi nói chuyện với mọi người và cũng để được gần người ḿnh yêu.
Có lần, ông hỏi bà: “Em có biết làm ăn ǵ không?”. Bà ngạc nhiên về câu hỏi quá chất phác của ông, bèn nói: “Em đi học, rồi giác ngộ cách mạng đi hoạt động, chẳng biết làm ăn ǵ cả”. Sau này, bà mới biết ông và một số anh em ở Văn pḥng Trung ương đều có thành kiến với cán bộ nữ; cho rằng cán bộ nữ không biết nội trợ...
vk