therealrtz
06-02-2015, 14:26
Trong cuốn sách Contest for the South China sea (Cạnh tranh ở Nam Hải), đă cho thấy rơ ở Trường Sa và Hoàng Sa không có bằng chứng chủ quyền của Trung Quốc nhưng các học giả và quan chức Trung Quốc chơi tṛ ngụy tạo bằng chứng bằng tung hô những bia giả ở đây để khẳng định chủ quyền biển Đông của ḿnh.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=772012&stc=1&d=1433254760
Đảo Ba B́nh, đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam hiện đang bị Đài Loan chiếm đóng trái phép - Ảnh: Wikipedia
Trong cuốn sách này, Marwyn Samuels cho biết một bằng chứng của “chủ quyền” Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa có xuất xứ từ năm 1883.
Theo tác giả của cuốn sách, triều đ́nh nhà Thanh khi đó chính thức phản đối một chuyến đi thám hiểm của các chuyên gia Đức đến Trường Sa. Samuels trích nguồn tham khảo là bài báo trong tạp chí Minh báo số ra tháng 5-1974 mà không hề có bằng chứng nào khác.
Các tác giả Hungdah Chiu và Choo Ho Park cũng đưa ra lập luận tương tự. Sau đó, học giả Đức Dieter Heinzig dựa vào sách của Samuels để khẳng định rằng sau khi triều đ́nh nhà Thanh lên tiếng phản đối, phái đoàn thám hiểm Đức đă rút khỏi Trường Sa.
Tuy nhiên trên thực tế đây là thông tin giả mạo. Các tài liệu lịch sử của Đức cho biết các nhà thám hiểm Đức vẽ bản đồ quần đảo Hoàng Sa chứ không phải là Trường Sa từ năm 1881-1883.
Họ hoàn thành chuyến thám hiểm và xuất bản bản đồ này. Một ấn phẩm bằng tiếng Pháp được xuất bản năm 1885.
Samuels lập luận rằng Công ước Pháp - Thanh 1887 do Chính phủ Pháp đàm phán với triều Thanh để phân chia đường biên giới Bắc kỳ (Việt Nam) với Trung Quốc là thỏa thuận quốc tế công nhận quyền kiểm soát các đảo trên biển Đông cho Bắc Kinh.
Điều 3 của Công ước Pháp - Thanh quả thật là công nhận các đảo phía đông kinh tuyến Paris 105°43’ cho Trung Quốc.
Nhưng Samuels và các học giả khác vô t́nh (hay cố ư) không nhận ra rằng Công ước Pháp - Thanh được áp dụng đối với Bắc kỳ. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở xa tại phía Nam Việt Nam và hoàn toàn không nằm trong phạm vi bao trùm của Công ước Pháp - Thanh.
Các học giả Trung Quốc và thân Trung Quốc c̣n khẳng định quan chức triều Thanh chính thức công du đến quần đảo Hoàng Sa vào năm 1902 rồi trở lại vào năm 1908. Các tác giả Samuels, Greg Austin, Daniel Dzurek đều dựa vào nguồn của Minh báo để đưa ra kết luận này.
C̣n Hungdah Chiu và Choo Ho Park cho rằng chuyến đi trở lại diễn ra vào năm 1907. Tuy nhiên tài liệu do một ủy ban ở tỉnh Quảng Đông xuất bản năm 1987 cho thấy tháng 6-1937, ông Huang Qiang, lănh đạo Khu hành chính số 9 của Trung Quốc, đă bí mật đi thuyền tới quần đảo Hoàng Sa.
Thuyền của Huang Qiang chở theo 30 tấm bia đá, một số khắc năm 1902, một số là 1912 và số c̣n lại là 1921. Tại Đảo Bắc ở Hoàng Sa, đoàn Trung Quốc chôn hai tấm bia đá khắc năm 1902 và bốn bia khắc năm 1912.
Trên đảo Linh Côn họ chôn một bia khắc năm 1902, một bia khắc năm 1912 và một bia khắc năm 1921. Trên đảo Phú Lâm họ chôn hai bia khắc năm 1921. Và trên đảo Đá họ chôn một bia khắc năm 1912. Các tấm bia này bị lăng quên cho đến năm 1974.
Sau khi dùng vũ lực chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974, quân đội Trung Quốc “phát hiện” các tấm bia này và báo chí nước này đồng loạt ḥ reo khẳng định “chủ quyền” của Trung Quốc đối với Hoàng Sa. Và thế là chuyến công du chính thức 1902 tưởng tượng được đưa vào sử sách Trung Quốc như là chuyện có thật.
Tuy nhiên nhà địa lư học người Pháp Francois-Xavier Bonnet đă lột trần sự giả dối này. Trong nghiên cứu năm 1997, tác giả Jianmeng Shen cũng khẳng định năm 1932 chính quyền Trung Quốc xem xét lại tên các đảo ở biển Đông.
Nhưng các tài liệu của chính Trung Quốc cho thấy nước này chỉ đơn giản dịch tên quốc tế hoặc tên tiếng Anh của các đảo ra tiếng Hoa. Và Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và pháp lư cho thấy triều đ́nh nhà Nguyễn đă thực hiện chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ rất lâu trước khi Trung Quốc nḥm ngó biển Đông.
Lời phản đối tưởng tượng
Một lập luận mà các học giả Trung Quốc hay sử dụng để khẳng định “chủ quyền” đối với quần đảo Trường Sa là nước này chính thức phản đối việc Pháp, với tư cách là nhà nước bảo hộ Việt Nam, khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa tháng 7-1933.
Tuy nhiên trên thực tế Trung Quốc không hề đưa ra bất kỳ lời phản đối chính thức nào. Trong nghiên cứu năm 1975, tác giả Tao Cheng dẫn nguồn một tờ báo Thượng Hải nói Trung Quốc chính thức phản đối Pháp vào năm 1935. Sau đó Chiu và Park cũng viết “có bằng chứng cho thấy Trung Quốc phản đối”.
Nhưng sau đó chính Chiu và Park thừa nhận ngày Trung Quốc gửi công hàm phản đối không tồn tại trong tài liệu nào, cũng không được ghi nhận trong Biên bản ghi nhớ về bốn quần đảo lớn của Trung Quốc ở Nam Hải do Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố tháng 2-1974.
Các tài liệu của Jianmeng Shen dẫn nguồn tham khảo của Tao Cheng cùng Chiu và Park, nhưng đều không đưa ra được bằng chứng cần thiết. Trên thực tế, học giả Pháp Francois-Xavier Bonnet t́m thấy tài liệu ở Mỹ cho thấy sau khi Pháp ra tuyên bố chủ quyền với Trường Sa, Trung Quốc đă không đưa ra lời phản đối chính thức nào.
Học giả Bonnet cho biết các tài liệu từ Trung Quốc cho thấy hội đồng quân sự nước này đă nhóm họp vào tháng 9-1933 và xác định quần đảo Trường Sa không thuộc chủ quyền của Trung Quốc nên không lên tiếng phản đối.
Sau đó, đến năm 1946 chính quyền Trung Quốc ghi vào tài liệu nhà nước rằng năm 1933 có lên tiếng phản đối chính thức như thể chuyện đó từng xảy ra. Nhưng sự thật là không hề có bất kỳ lời phản đối nào của Bắc Kinh.
Trong nghiên cứu năm 2002, Jianmeng Shen hùng hồn mô tả Trung Quốc đă tổ chức ba chuyến thăm ḍ quy mô lớn ở Trường Sa vào năm 1932, 1935 và 1947. Nhưng các tài liệu lịch sử cho thấy Trung Quốc chẳng hề tổ chức một cuộc thăm ḍ nào ở Trường Sa cả mà chỉ copy các tấm bản đồ quốc tế mà thôi. Nhưng rồi Trung Quốc vẫn cứ nhận vơ rằng Trường Sa là lănh thổ cực nam của nước này.
Thêm những dối gạt
Bộ Ngoại giao Trung Quốc và các học giả nước này c̣n lập luận rằng trong Tuyên bố Cairo 1943, các nước đồng minh trao quyền kiểm soát các đảo trên biển Đông cho Trung Quốc.
Nhưng thực tế là Tuyên bố Cairo chỉ nhắc đến việc trục xuất lực lượng Nhật ra khỏi các vùng lănh thổ bị họ chiếm đóng, chẳng có ǵ nói đến việc trao các vùng lănh thổ này cho Trung Quốc.
Các tác giả Trung Quốc c̣n nhắc đến việc lực lượng Trung Quốc tiếp nhận sự đầu hàng của đơn vị đồn trú Nhật tại Hoàng Sa và Trường Sa sau Thế chiến II. Có ư kiến c̣n cho rằng quân đội Mỹ đă đưa lính Trung Quốc tới Hoàng Sa và Trường Sa để thực hiện việc tiếp nhận này.
Nhưng các tài liệu quân sự của Mỹ và Úc khẳng định đó cũng là những lập luận giả mạo. Trong Thế chiến II, Nhật có căn cứ quân sự ở đảo Phú Lâm và đảo Hoàng Sa thuộc quần đảo Hoàng Sa cùng đảo Ba B́nh ở Trường Sa. Tàu ngầm Mỹ USS Pargo bắn phá đảo Phú Lâm vào ngày 6-2-1945. Đến ngày 8-3 máy bay Mỹ ném bom cả đảo Phú Lâm và đảo Hoàng Sa.
Một tàu ngầm khác của Mỹ là USS Cabrilla đến đảo Phú Lâm ngày 2-7. Máy bay Mỹ ném bom đảo Ba B́nh ngày 1-5-1945. Sáu tháng sau, hải quân Mỹ đưa lực lượng do thám tới Ba B́nh và phát hiện lực lượng Nhật đă rút đi.
Măi đến tháng 12-1946, một đoàn Trung Quốc dùng tàu chiến đă cũ do Mỹ cho hải quân Trung Quốc mới ṃ đến đảo Ba B́nh. Trên thực tế người Pháp đă đến Ba B́nh hai tháng trước đó và tuyên bố chủ quyền ở đây nhưng chẳng tài liệu Trung Quốc nào nhắc đến sự kiện này.
Người Trung Quốc đổi tên đảo thành Taiping theo tên tàu Taiping chở họ. Trước đó tàu Taiping có tên là USS Decker khi c̣n phục vụ hải quân Mỹ.
Nhà báo Bill Hayton b́nh luận nếu Mỹ không cung cấp mấy tàu chiến cũ cho Trung Quốc th́ Bắc Kinh đừng ḥng lên giọng đ̣i chủ quyền Trường Sa một cách vô lư.
Với các phân tích trên, nhà báo Bill Hayton đánh giá trên thực tế Trung Quốc chẳng hề có chủ quyền lịch sử ǵ đối với biển Đông và hoàn toàn không kiểm soát vùng biển này trong nhiều thế kỷ, chính quyền Trung Quốc chỉ quan tâm đến biển Đông từ thế kỷ 20.
Và các tài liệu tiếng Anh do Trung Quốc xuất bản và công bố dù được giới học giả phương Tây nghiên cứu và tham khảo, nhưng đều dựa trên những bằng chứng ngụy tạo, vô căn cứ, mù mờ.
Điều đáng tiếc là nhiều ấn phẩm phương Tây đă trích dẫn các tài liệu thiếu thuyết phục này, khiến nhiều người tưởng nhầm đó là sự thật.
“Không thể cổ vũ cho đ̣i hỏi chủ quyền của Trung Quốc dựa trên những bằng chứng vô căn cứ như vậy” - nhà báo Bill Hayton nhấn mạnh.
therealrtz © VietBf
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=772012&stc=1&d=1433254760
Đảo Ba B́nh, đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam hiện đang bị Đài Loan chiếm đóng trái phép - Ảnh: Wikipedia
Trong cuốn sách này, Marwyn Samuels cho biết một bằng chứng của “chủ quyền” Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa có xuất xứ từ năm 1883.
Theo tác giả của cuốn sách, triều đ́nh nhà Thanh khi đó chính thức phản đối một chuyến đi thám hiểm của các chuyên gia Đức đến Trường Sa. Samuels trích nguồn tham khảo là bài báo trong tạp chí Minh báo số ra tháng 5-1974 mà không hề có bằng chứng nào khác.
Các tác giả Hungdah Chiu và Choo Ho Park cũng đưa ra lập luận tương tự. Sau đó, học giả Đức Dieter Heinzig dựa vào sách của Samuels để khẳng định rằng sau khi triều đ́nh nhà Thanh lên tiếng phản đối, phái đoàn thám hiểm Đức đă rút khỏi Trường Sa.
Tuy nhiên trên thực tế đây là thông tin giả mạo. Các tài liệu lịch sử của Đức cho biết các nhà thám hiểm Đức vẽ bản đồ quần đảo Hoàng Sa chứ không phải là Trường Sa từ năm 1881-1883.
Họ hoàn thành chuyến thám hiểm và xuất bản bản đồ này. Một ấn phẩm bằng tiếng Pháp được xuất bản năm 1885.
Samuels lập luận rằng Công ước Pháp - Thanh 1887 do Chính phủ Pháp đàm phán với triều Thanh để phân chia đường biên giới Bắc kỳ (Việt Nam) với Trung Quốc là thỏa thuận quốc tế công nhận quyền kiểm soát các đảo trên biển Đông cho Bắc Kinh.
Điều 3 của Công ước Pháp - Thanh quả thật là công nhận các đảo phía đông kinh tuyến Paris 105°43’ cho Trung Quốc.
Nhưng Samuels và các học giả khác vô t́nh (hay cố ư) không nhận ra rằng Công ước Pháp - Thanh được áp dụng đối với Bắc kỳ. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở xa tại phía Nam Việt Nam và hoàn toàn không nằm trong phạm vi bao trùm của Công ước Pháp - Thanh.
Các học giả Trung Quốc và thân Trung Quốc c̣n khẳng định quan chức triều Thanh chính thức công du đến quần đảo Hoàng Sa vào năm 1902 rồi trở lại vào năm 1908. Các tác giả Samuels, Greg Austin, Daniel Dzurek đều dựa vào nguồn của Minh báo để đưa ra kết luận này.
C̣n Hungdah Chiu và Choo Ho Park cho rằng chuyến đi trở lại diễn ra vào năm 1907. Tuy nhiên tài liệu do một ủy ban ở tỉnh Quảng Đông xuất bản năm 1987 cho thấy tháng 6-1937, ông Huang Qiang, lănh đạo Khu hành chính số 9 của Trung Quốc, đă bí mật đi thuyền tới quần đảo Hoàng Sa.
Thuyền của Huang Qiang chở theo 30 tấm bia đá, một số khắc năm 1902, một số là 1912 và số c̣n lại là 1921. Tại Đảo Bắc ở Hoàng Sa, đoàn Trung Quốc chôn hai tấm bia đá khắc năm 1902 và bốn bia khắc năm 1912.
Trên đảo Linh Côn họ chôn một bia khắc năm 1902, một bia khắc năm 1912 và một bia khắc năm 1921. Trên đảo Phú Lâm họ chôn hai bia khắc năm 1921. Và trên đảo Đá họ chôn một bia khắc năm 1912. Các tấm bia này bị lăng quên cho đến năm 1974.
Sau khi dùng vũ lực chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974, quân đội Trung Quốc “phát hiện” các tấm bia này và báo chí nước này đồng loạt ḥ reo khẳng định “chủ quyền” của Trung Quốc đối với Hoàng Sa. Và thế là chuyến công du chính thức 1902 tưởng tượng được đưa vào sử sách Trung Quốc như là chuyện có thật.
Tuy nhiên nhà địa lư học người Pháp Francois-Xavier Bonnet đă lột trần sự giả dối này. Trong nghiên cứu năm 1997, tác giả Jianmeng Shen cũng khẳng định năm 1932 chính quyền Trung Quốc xem xét lại tên các đảo ở biển Đông.
Nhưng các tài liệu của chính Trung Quốc cho thấy nước này chỉ đơn giản dịch tên quốc tế hoặc tên tiếng Anh của các đảo ra tiếng Hoa. Và Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và pháp lư cho thấy triều đ́nh nhà Nguyễn đă thực hiện chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ rất lâu trước khi Trung Quốc nḥm ngó biển Đông.
Lời phản đối tưởng tượng
Một lập luận mà các học giả Trung Quốc hay sử dụng để khẳng định “chủ quyền” đối với quần đảo Trường Sa là nước này chính thức phản đối việc Pháp, với tư cách là nhà nước bảo hộ Việt Nam, khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa tháng 7-1933.
Tuy nhiên trên thực tế Trung Quốc không hề đưa ra bất kỳ lời phản đối chính thức nào. Trong nghiên cứu năm 1975, tác giả Tao Cheng dẫn nguồn một tờ báo Thượng Hải nói Trung Quốc chính thức phản đối Pháp vào năm 1935. Sau đó Chiu và Park cũng viết “có bằng chứng cho thấy Trung Quốc phản đối”.
Nhưng sau đó chính Chiu và Park thừa nhận ngày Trung Quốc gửi công hàm phản đối không tồn tại trong tài liệu nào, cũng không được ghi nhận trong Biên bản ghi nhớ về bốn quần đảo lớn của Trung Quốc ở Nam Hải do Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố tháng 2-1974.
Các tài liệu của Jianmeng Shen dẫn nguồn tham khảo của Tao Cheng cùng Chiu và Park, nhưng đều không đưa ra được bằng chứng cần thiết. Trên thực tế, học giả Pháp Francois-Xavier Bonnet t́m thấy tài liệu ở Mỹ cho thấy sau khi Pháp ra tuyên bố chủ quyền với Trường Sa, Trung Quốc đă không đưa ra lời phản đối chính thức nào.
Học giả Bonnet cho biết các tài liệu từ Trung Quốc cho thấy hội đồng quân sự nước này đă nhóm họp vào tháng 9-1933 và xác định quần đảo Trường Sa không thuộc chủ quyền của Trung Quốc nên không lên tiếng phản đối.
Sau đó, đến năm 1946 chính quyền Trung Quốc ghi vào tài liệu nhà nước rằng năm 1933 có lên tiếng phản đối chính thức như thể chuyện đó từng xảy ra. Nhưng sự thật là không hề có bất kỳ lời phản đối nào của Bắc Kinh.
Trong nghiên cứu năm 2002, Jianmeng Shen hùng hồn mô tả Trung Quốc đă tổ chức ba chuyến thăm ḍ quy mô lớn ở Trường Sa vào năm 1932, 1935 và 1947. Nhưng các tài liệu lịch sử cho thấy Trung Quốc chẳng hề tổ chức một cuộc thăm ḍ nào ở Trường Sa cả mà chỉ copy các tấm bản đồ quốc tế mà thôi. Nhưng rồi Trung Quốc vẫn cứ nhận vơ rằng Trường Sa là lănh thổ cực nam của nước này.
Thêm những dối gạt
Bộ Ngoại giao Trung Quốc và các học giả nước này c̣n lập luận rằng trong Tuyên bố Cairo 1943, các nước đồng minh trao quyền kiểm soát các đảo trên biển Đông cho Trung Quốc.
Nhưng thực tế là Tuyên bố Cairo chỉ nhắc đến việc trục xuất lực lượng Nhật ra khỏi các vùng lănh thổ bị họ chiếm đóng, chẳng có ǵ nói đến việc trao các vùng lănh thổ này cho Trung Quốc.
Các tác giả Trung Quốc c̣n nhắc đến việc lực lượng Trung Quốc tiếp nhận sự đầu hàng của đơn vị đồn trú Nhật tại Hoàng Sa và Trường Sa sau Thế chiến II. Có ư kiến c̣n cho rằng quân đội Mỹ đă đưa lính Trung Quốc tới Hoàng Sa và Trường Sa để thực hiện việc tiếp nhận này.
Nhưng các tài liệu quân sự của Mỹ và Úc khẳng định đó cũng là những lập luận giả mạo. Trong Thế chiến II, Nhật có căn cứ quân sự ở đảo Phú Lâm và đảo Hoàng Sa thuộc quần đảo Hoàng Sa cùng đảo Ba B́nh ở Trường Sa. Tàu ngầm Mỹ USS Pargo bắn phá đảo Phú Lâm vào ngày 6-2-1945. Đến ngày 8-3 máy bay Mỹ ném bom cả đảo Phú Lâm và đảo Hoàng Sa.
Một tàu ngầm khác của Mỹ là USS Cabrilla đến đảo Phú Lâm ngày 2-7. Máy bay Mỹ ném bom đảo Ba B́nh ngày 1-5-1945. Sáu tháng sau, hải quân Mỹ đưa lực lượng do thám tới Ba B́nh và phát hiện lực lượng Nhật đă rút đi.
Măi đến tháng 12-1946, một đoàn Trung Quốc dùng tàu chiến đă cũ do Mỹ cho hải quân Trung Quốc mới ṃ đến đảo Ba B́nh. Trên thực tế người Pháp đă đến Ba B́nh hai tháng trước đó và tuyên bố chủ quyền ở đây nhưng chẳng tài liệu Trung Quốc nào nhắc đến sự kiện này.
Người Trung Quốc đổi tên đảo thành Taiping theo tên tàu Taiping chở họ. Trước đó tàu Taiping có tên là USS Decker khi c̣n phục vụ hải quân Mỹ.
Nhà báo Bill Hayton b́nh luận nếu Mỹ không cung cấp mấy tàu chiến cũ cho Trung Quốc th́ Bắc Kinh đừng ḥng lên giọng đ̣i chủ quyền Trường Sa một cách vô lư.
Với các phân tích trên, nhà báo Bill Hayton đánh giá trên thực tế Trung Quốc chẳng hề có chủ quyền lịch sử ǵ đối với biển Đông và hoàn toàn không kiểm soát vùng biển này trong nhiều thế kỷ, chính quyền Trung Quốc chỉ quan tâm đến biển Đông từ thế kỷ 20.
Và các tài liệu tiếng Anh do Trung Quốc xuất bản và công bố dù được giới học giả phương Tây nghiên cứu và tham khảo, nhưng đều dựa trên những bằng chứng ngụy tạo, vô căn cứ, mù mờ.
Điều đáng tiếc là nhiều ấn phẩm phương Tây đă trích dẫn các tài liệu thiếu thuyết phục này, khiến nhiều người tưởng nhầm đó là sự thật.
“Không thể cổ vũ cho đ̣i hỏi chủ quyền của Trung Quốc dựa trên những bằng chứng vô căn cứ như vậy” - nhà báo Bill Hayton nhấn mạnh.
therealrtz © VietBf