Romano
06-13-2015, 09:33
Kinh tế Mỹ sẽ ra sao từ nay đến cuối năm có bất ổn hay ổn định không. Tất cả luôn là những câu hỏi mà không thể biết trước được. Cùng vietbf.com khám phá ngay.
Giáo sư Martin Feldstein dạy trường Kinh Tế George F. Baker của đại học Havard cho rằng Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang đă dùng đủ mọi cách để ngăn ngừa nền kinh Mỹ không bị ngưng trệ. Tuy nhiên, thúc đẩy nền kinh tế phát triển với tốc lực nhanh là điều khó làm.
Cali TodayNews - TÍNH ĐẾN NAY, nền kinh tế Mỹ hầu như đă phục hồi khỏi cuộc khủng hoảng tài chính năm 2009. Chính sách giữ lăi suất thấp ở mức cực kỳ thấp của Ngân hàng Dự Trữ Liên Bang (Fed) đă giúp cho thị trường chứng khoán, nhà cửa, và nhu cầu của người tiêu thụ phục hồi rất mạnh, đồng thời cũng giúp tỉ lệ thất nghiệp xuống rất thấp. Điều khó khăn bây giờ là làm thế nào để giúp nền kinh tế tiếp tục phát triển thêm trong lúc Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang (Fed) phải trở lại lăi suất b́nh thường trước đây.
T́nh trạng lăi suất quá thấp và kéo dài lâu làm cho khó khăn của Fed thêm phức tạp v́ những hậu quả ngắn hạn và dài hạn của lăi suất thấp. Mức lăi suất thấp đă xui khiến các nhà đầu tư và những định chế cho vay tiền làm nhiều việc rủi ro. H́nh thức rủi ro rơ ràng nhất là việc mua những cổ phíếu dài hạn. V́ cổ phiếu dài hạn trả tiền lăi cao hơn Công Khố Phiếu –Treasury bills- , hay trên mức của thị trường tiền tệ - money market rate. Người đầu tư ham lời nhiều bỏ tiền đâu tư vào đây. Khi lăi suất Công Khố Phiếu loại 10 năm tăng từ mức 2.2% lên đến mức lăi suất thông thường là 5%, khi đó người mua “bonds” dài hạn sẽ bị lỗ nặng, nếu họ đem bán đi trước hạn kỳ. Tương tự như vậy, rủi ra sẽ xảy ra đối với thị trường chứng khoán và thị trường nhà cửa.
BỐI CẢNH LĂI SUẤT TỒN TẠI QUÁ LÂU, kết hợp với những thay đổi trong luật lệ ngân hàng mới đây tạo nên vấn đề tôi gọi là sự bất cân xứng về thanh khoản. Lăi suất thấp đưa đến việc phát hành rất nhiều trái phiếu công ty doanh nghiệp. Những trái phiếu này thường được các công ty đầu tư như “mutual funds” và “exchange traded funds” mua vào. Những người bỏ tiền đầu tư vào các qũi này tin tưởng đúng đắn rằng khi cần tiền mặt là họ có thể lấy ra trong ṿng một ngày. Để đáp ứng lời yêu cầu của khách hàng đầu tư, công ty đầu tư “mutual funds” phải bán trái phiếu ḿnh đang giữ.
Tuy nhiên, không rơ ai sẽ đứng ra mua những “bonds” này. Thông thường ngân hàng thương mại là định chế đứng ra mua. Nhưng luật mới Dodd-Frank về ngân hàng , cũng như luật về thủ đắc vốn làm cho chí phí mua “bonds” của ngân hàng tăng lên cao. Hậu quả của t́nh trạng bất tương xứng về thanh khoản sẽ làm cho giá cả của “bonds” hạ thấp rất nhiều khi nhà đầu tư muốn bán ra..
Chính sách duy tŕ lăi suất thấp quá lâu của Fed cũng đem lại những rủi ro cho nhà đầu tư, cũng như những định chế cho vay tiền. Để duy tŕ mức lợi nhuận, ngân hàng, và các định chế cho vay tiền khác cho phép cả những người đi vay thuộc loại rủi ro cao. Đó là những người đă mang sẵn một số nợ khá cao từ trước, song vẫn được cho vay thêm. Điều kiện cho vay tiền của ngân hàng lúc gần đây tỏ ra dễ dăi hơn trước. Loại nợ gọi là “covenant-lite” loan chỉ đ̣i hỏi rất ít điều kiện ở người đi vay. Do đó, người cho vay không được bảo vệ đầy đủ.
VỀ PHẦN NGÂN HÀNG DỰ TRỮ LIÊN BANG, hay Fed, cố t́nh duy tŕ mức lăi suất thấp rất lâu. Ngân hàng Fed thừa nhận rằng lăi suất ngắn hại rồi đây sẽ phải tăng lên đến mức 4%, so với mức lăi suất gần như là zero như hiện nay. Nhưng Ủy Ban Open Market Committee, cơ quan quyết định chính sách của Fed tiên đoán rằng họ sẽ giữ lăi suất thấp hơn tỉ lệ lạm phát cho đến hết năm 2016. Sang đến cuối năm 2017, qũi vốn liên bang sẽ vượt qua tỉ lệ lạm phát khoảng 1%. Tỉ lệ này quá thấp cho một nền kinh tế đạt gần đến mức toàn dụng nhân công.
Ngân hàng Fed theo đưổi chính sách duy tŕ lăi suất thấp lâu v́ hai lư do. Lư do thứ nhất là họ muốn tăng mức cầu để làm giảm tỉ lệ thất nghiệp hiện nay, xuống thấp thêm nữa. Trong lúc có nhiều người muốn đi làm toàn thời gian, nhưng không t́m ra việc làm, đó là điều hiển nhiên, ngân hàng Fed muốn giảm tỉ lệ thất nghiệp xuống mức 5%, là tỉ lệ tốt về nhân dụng. Song tỉ lệ này sẽ đưa đến lạm phát tăng nhanh. Lư do thứ hai là ngân hàng Fed lo sợ rằng thị trường tài chánh sẽ phản ứng trước áp lực tăng lăi suất ngắn hạn bằng cách đẩy lăi suất dài hạn, mở rộng tín dụng, và giảm giá trị equity. Đổi lại, sự việc này sẽ làm cho nền kinh tế bị bất ổn.
Qua việc tŕ hoăn không cho tăng lăi suất, ngân hàng Fed sẽ bị ép buộc phải chấp nhận tỉ lệ lạm phát gia tăng sắp xảy ra. Ngân hàng Fed chống đỡ bằng cách tăng ngân khoản tài trợ của liên bang nhanh hơn dự đoán của thị trường tài chánh. Điều này sẽ gây thêm bất ổn trong thị trường “bonds” và “equity”, và đem hậu qủa tai hại cho nền kinh tế.
Ngân hàng Fed cố t́m cách tăng lăi suất trở lại mức thông thường, và không làm cho nền kinh tế bị xao xuyến, bất ổn. Đó là mục tiêu dễ hiểu, và nên làm, nhưng không dễ ǵ thực hiện được. Ngân hàng Fed dùng chính sách tiền tệ bất thường qua việc duy tŕ rất lâu lăi suất thấp để chữa trị căn bệnh suy thoái quá nặng trước đây. Ngân hàng Fed đă thành công trong mục tiêu này, nhưng đất nước chúng ta sẽ phải trả giá cho việc này. Khi nào việc trả giá sẽ xảy ra, chỉ có thời gian mới có thể trả lờ́ được.
Bài phân tích của G.S Kinh Tế Martin Feldstein trên báo TIME ngày 15/6/2015
Nguyễn Minh Tâm dịch
Giáo sư Martin Feldstein dạy trường Kinh Tế George F. Baker của đại học Havard cho rằng Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang đă dùng đủ mọi cách để ngăn ngừa nền kinh Mỹ không bị ngưng trệ. Tuy nhiên, thúc đẩy nền kinh tế phát triển với tốc lực nhanh là điều khó làm.
Cali TodayNews - TÍNH ĐẾN NAY, nền kinh tế Mỹ hầu như đă phục hồi khỏi cuộc khủng hoảng tài chính năm 2009. Chính sách giữ lăi suất thấp ở mức cực kỳ thấp của Ngân hàng Dự Trữ Liên Bang (Fed) đă giúp cho thị trường chứng khoán, nhà cửa, và nhu cầu của người tiêu thụ phục hồi rất mạnh, đồng thời cũng giúp tỉ lệ thất nghiệp xuống rất thấp. Điều khó khăn bây giờ là làm thế nào để giúp nền kinh tế tiếp tục phát triển thêm trong lúc Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang (Fed) phải trở lại lăi suất b́nh thường trước đây.
T́nh trạng lăi suất quá thấp và kéo dài lâu làm cho khó khăn của Fed thêm phức tạp v́ những hậu quả ngắn hạn và dài hạn của lăi suất thấp. Mức lăi suất thấp đă xui khiến các nhà đầu tư và những định chế cho vay tiền làm nhiều việc rủi ro. H́nh thức rủi ro rơ ràng nhất là việc mua những cổ phíếu dài hạn. V́ cổ phiếu dài hạn trả tiền lăi cao hơn Công Khố Phiếu –Treasury bills- , hay trên mức của thị trường tiền tệ - money market rate. Người đầu tư ham lời nhiều bỏ tiền đâu tư vào đây. Khi lăi suất Công Khố Phiếu loại 10 năm tăng từ mức 2.2% lên đến mức lăi suất thông thường là 5%, khi đó người mua “bonds” dài hạn sẽ bị lỗ nặng, nếu họ đem bán đi trước hạn kỳ. Tương tự như vậy, rủi ra sẽ xảy ra đối với thị trường chứng khoán và thị trường nhà cửa.
BỐI CẢNH LĂI SUẤT TỒN TẠI QUÁ LÂU, kết hợp với những thay đổi trong luật lệ ngân hàng mới đây tạo nên vấn đề tôi gọi là sự bất cân xứng về thanh khoản. Lăi suất thấp đưa đến việc phát hành rất nhiều trái phiếu công ty doanh nghiệp. Những trái phiếu này thường được các công ty đầu tư như “mutual funds” và “exchange traded funds” mua vào. Những người bỏ tiền đầu tư vào các qũi này tin tưởng đúng đắn rằng khi cần tiền mặt là họ có thể lấy ra trong ṿng một ngày. Để đáp ứng lời yêu cầu của khách hàng đầu tư, công ty đầu tư “mutual funds” phải bán trái phiếu ḿnh đang giữ.
Tuy nhiên, không rơ ai sẽ đứng ra mua những “bonds” này. Thông thường ngân hàng thương mại là định chế đứng ra mua. Nhưng luật mới Dodd-Frank về ngân hàng , cũng như luật về thủ đắc vốn làm cho chí phí mua “bonds” của ngân hàng tăng lên cao. Hậu quả của t́nh trạng bất tương xứng về thanh khoản sẽ làm cho giá cả của “bonds” hạ thấp rất nhiều khi nhà đầu tư muốn bán ra..
Chính sách duy tŕ lăi suất thấp quá lâu của Fed cũng đem lại những rủi ro cho nhà đầu tư, cũng như những định chế cho vay tiền. Để duy tŕ mức lợi nhuận, ngân hàng, và các định chế cho vay tiền khác cho phép cả những người đi vay thuộc loại rủi ro cao. Đó là những người đă mang sẵn một số nợ khá cao từ trước, song vẫn được cho vay thêm. Điều kiện cho vay tiền của ngân hàng lúc gần đây tỏ ra dễ dăi hơn trước. Loại nợ gọi là “covenant-lite” loan chỉ đ̣i hỏi rất ít điều kiện ở người đi vay. Do đó, người cho vay không được bảo vệ đầy đủ.
VỀ PHẦN NGÂN HÀNG DỰ TRỮ LIÊN BANG, hay Fed, cố t́nh duy tŕ mức lăi suất thấp rất lâu. Ngân hàng Fed thừa nhận rằng lăi suất ngắn hại rồi đây sẽ phải tăng lên đến mức 4%, so với mức lăi suất gần như là zero như hiện nay. Nhưng Ủy Ban Open Market Committee, cơ quan quyết định chính sách của Fed tiên đoán rằng họ sẽ giữ lăi suất thấp hơn tỉ lệ lạm phát cho đến hết năm 2016. Sang đến cuối năm 2017, qũi vốn liên bang sẽ vượt qua tỉ lệ lạm phát khoảng 1%. Tỉ lệ này quá thấp cho một nền kinh tế đạt gần đến mức toàn dụng nhân công.
Ngân hàng Fed theo đưổi chính sách duy tŕ lăi suất thấp lâu v́ hai lư do. Lư do thứ nhất là họ muốn tăng mức cầu để làm giảm tỉ lệ thất nghiệp hiện nay, xuống thấp thêm nữa. Trong lúc có nhiều người muốn đi làm toàn thời gian, nhưng không t́m ra việc làm, đó là điều hiển nhiên, ngân hàng Fed muốn giảm tỉ lệ thất nghiệp xuống mức 5%, là tỉ lệ tốt về nhân dụng. Song tỉ lệ này sẽ đưa đến lạm phát tăng nhanh. Lư do thứ hai là ngân hàng Fed lo sợ rằng thị trường tài chánh sẽ phản ứng trước áp lực tăng lăi suất ngắn hạn bằng cách đẩy lăi suất dài hạn, mở rộng tín dụng, và giảm giá trị equity. Đổi lại, sự việc này sẽ làm cho nền kinh tế bị bất ổn.
Qua việc tŕ hoăn không cho tăng lăi suất, ngân hàng Fed sẽ bị ép buộc phải chấp nhận tỉ lệ lạm phát gia tăng sắp xảy ra. Ngân hàng Fed chống đỡ bằng cách tăng ngân khoản tài trợ của liên bang nhanh hơn dự đoán của thị trường tài chánh. Điều này sẽ gây thêm bất ổn trong thị trường “bonds” và “equity”, và đem hậu qủa tai hại cho nền kinh tế.
Ngân hàng Fed cố t́m cách tăng lăi suất trở lại mức thông thường, và không làm cho nền kinh tế bị xao xuyến, bất ổn. Đó là mục tiêu dễ hiểu, và nên làm, nhưng không dễ ǵ thực hiện được. Ngân hàng Fed dùng chính sách tiền tệ bất thường qua việc duy tŕ rất lâu lăi suất thấp để chữa trị căn bệnh suy thoái quá nặng trước đây. Ngân hàng Fed đă thành công trong mục tiêu này, nhưng đất nước chúng ta sẽ phải trả giá cho việc này. Khi nào việc trả giá sẽ xảy ra, chỉ có thời gian mới có thể trả lờ́ được.
Bài phân tích của G.S Kinh Tế Martin Feldstein trên báo TIME ngày 15/6/2015
Nguyễn Minh Tâm dịch