VietBF
Page 1 of 18 1 234511 Last »

VietBF (https://www.vietbf.com/forum/index.php)
-   Member News | Tin thành viên (https://www.vietbf.com/forum/forumdisplay.php?f=189)
-   -   Trang của lính (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=1202507)

hoanglan22 11-03-2018 00:16

Trang của lính
 
1 Attachment(s)
http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541204145


MỤC LỤC

A
  1. Alain Delai - Viết theo Đỗ Duy Ngọc
  2. An Lộc chiến trường đi không hẹn- Hổ Xám Phạm Châu Tài
  3. Anh Về Từ Thung Lũng Tử Thần Ashau - Đinh Văn Tiến Hùng
  4. Âm Thoại Viên Theo Chân Các Đại Bàng

B
  1. Ba trái thúi -Trần Ngọc Toàn
  2. Bài Viết Về Cuộc Hải Chiến Hoàng Sa 1974 Với HQ16 - Đặng Quốc Tuấn
  3. Bán tiểu đội Biệt Kích Dù và trận đánh chớp nhoáng sau lệnh đầu hàng 30.04
  4. Báo Mộng Chương Ngô
  5. Bay Cứu Đồng Đội Ở Hạ Lào - Cựu Cơ Phi T/T Thông
  6. Bay Trên Lửa Đạn - Kiều Mỹ Duyên
  7. Bay trong lửa đạn - KingBeeMan & Lăng Tử
  8. Bẫy và Rọ - Trận Tái Chiếm Quảng Trị - Trần Trung Chính
  9. Bên Những Bờ Rừng - Phan Minh
  10. Biệt Đội Thiên Nga, Nữ Chiến Sĩ T́nh Báo- Tuyết Mai
  11. Biệt Hải trên vùng biển băo tố - Phạm Phong Dinh
  12. Bí mật của một câu kinh Phật - Phạm Thành Châu
  13. Bị Gạt - Trương Văn Út
  14. Binh Chủng Truyền Tin
  15. Bộ chiêu hồi
  16. Bông Hồng Mùa Xuân - Lư Thụy Ư
  17. Buồn vương màu áo trận ! - Đồ Sơn
  18. Buổi chào cờ không có lá Quốc Kỳ trước một cuộc hành quyết - Bao Chau Kelley
  19. bài thơ ngắn đầy ư nghĩa.
  20. Bài Viết Về Cuộc Hải Chiến Hoàng Sa 1974 Với HQ16
  21. Bức Chân Dung và Ngôi Mộ Buồn
  22. Bè da cu du ca



C
  1. Chuyến xe buưt và khúc hát người lính mù
  2. Chuyện đầu hàng của một Trung Đoàn VNCH Pháo thủ thành Carol
  3. Cầu Hiền Lương và hai bờ chiến tuyến
  4. Cổ Thành Quảng Trị : Bức Tường Thành Oan Trái
  5. Cây Cầu Biên Giới Norungi Và Đại Lộ Kinh Hoàng Quảng Trị - Mường Giang
  6. Cuộc rút quân tại Vùng IV Duyên Hải
  7. Chuyến Ra Khơi Bi Hùng
  8. Cao Nguyên: Sương Mù Hay Khói Súng?
  9. Chiếc Bánh Bột Luộc Mọt Mè Và Thau Nước Mắt Lóng lánh
  10. Chiếc Xe Cứu Mạng
  11. Chuyện Kể Thiếu Úy 9 Ngày
  12. CHUYỆN T̀NH MỘT SĨ QUAN TQLC VÀ NGƯỜI NỮ CHIẾN BINH VC
  13. CUỘC VƯỢT THOÁT KỲ DIỆU
  14. Chờ tôi với
  15. Chuyện Thật Giữa Hai Người Phi Công (A-37) VNCH và Phi Công (Mig -19) Bắc Việt 1975 phằn 1
  16. Chuyện thật giữa hai người phi công (A-37) VNCH và phi công (Mig -19) Bắc Việt sau năm 1975 phần 2
  17. Chuyện thật giữa hai người phi công (A-37) VNCH và phi công (Mig -19) Bắc Việt sau năm 1975 phần 3
  18. Câu chuyện từ một bộ quân phục
  19. Câu Chuyện Chiếc Mũ Xanh
  20. CHUẨN TƯỚNG TRẦN QUANG KHÔI : 5 NGÀY CUỐI CÙNG CỦA CUỘC CHIẾN TRANH VIỆT NAM
  21. Con Trâu Đâu Có Cải Tạo
  22. Cuộc sống của người lính chiến Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
  23. CHARLIE NGÀY ẤY VÀ CHARLIE BÂY GIỜ
  24. CHẾT TẬP-THỂ TRONG TÙ CẢI-TẠO
  25. Chuyện Buồn CHƯA ĐOẠN KẾT
  26. Cau chuyện thương tâm
  27. Cây Mai Rừng Của Người Lính Trận
  28. Cố Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn
  29. Cảnh Sát Dă Chiến VNCH
  30. Cấp Bậc trong QLVNCH
  31. CHIẾN TRƯỜNG QUẢNG TRỊ TRONG MÙA HÈ ĐỎ LỬA VỚI PHI ĐOÀN KHU TRỤC 518
  32. Chiếc xích lô chở mùa xuân
  33. Chiến Đĩnh Alpha Trên Sông Vàm Cỏ Đông
  34. Cố Chuẩn tướng Trương Hữu Đức
  35. Cuộc rút quân tại Vùng IV Duyên Hải
  36. Chuyện những con tàu : Trợ chiến hạm
  37. Chuyến xe tang về quê chồng
  38. Ca sĩ rừng xanh và người Tù Binh
  39. Các Hung Thần Trại Giam
  40. Chiến Trường B́nh Định và Mănh Sư Nguyễn Mạnh Tường
  41. Chuyện một người chiến binh trong cuộc chiến Bắc Nam: Thiếu Tá Nguyễn Văn Sơn









D
  1. Di Tản Chiến Thuật
  2. Dục Mỹ, ḷ luyện thép
  3. Dưới cờ phi luật tân,các chiến hạm vnch..
  4. Dưới Mũi Súng Quân Thù
  5. DINH ĐỘC LẬP Tiếng Súng Cuối Cùng


Đ
  1. Đoàn Khánh Ḥa 13
  2. Đôi Mắt Người Bị Xử Bắn Trong Rặng B́nh Bát
  3. ĐOẠN KẾT BI THẢM CỦA VỊ CỰU BỘ TRƯỞNG GIÁO DỤC ...
  4. Đêm bên bờ sông Ba
  5. Điệp Viên CNK/X6
  6. Đêm Giáng Sinh nổi dậy ở trại Suối Máu
  7. Đơn vị không có Binh nh́
  8. Đụng Độ Sinh Tử Giữa Tay Bắn Tỉa Mỹ & Nữ Xạ Thủ VC
  9. Đi Viếng Tro Cốt Tướng Nguyễn Khoa Nam
  10. Đôi mắt phượng
  11. Đưa anh về nhà



E
G
  1. GIÁNG SINH TRONG SINH HOẠT QLVNCH
  2. GIÀY SAUT TRONG TỬ ĐỊA
  3. Giao thừa ở Suối Máu


H
  1. H34 Trên Đồi 31
  2. Hăy Thắp Cho Anh Một Ngọn Đèn
  3. Hải Vận Hạm Lam-Giang, HQ 402 - Một Huyền Thoại
  4. HAI CHUYỆN NGẮN HAY VÔ CÙNG
  5. Hành Quân Lam Sơn 719 - Nguồn gốc và khuyết điểm
  6. Hồi Tưởng Về Một Trận Đánh Của Tiểu Đoàn 7 Dù
  7. Huynh Đệ Chi Binh là ǵ đó anh hai ...là ...
  8. Hoa vàng rừng Minh Long
  9. Hồi Ức Của Tướng Lê Quang Lưỡng

I
K
  1. Khóc Bạn
  2. KBC CỦA QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG H̉A.

L
  1. Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân với Trận Chiến An Lộc & B́nh Long
  2. LỜI THỀ bên bờ sông Mỹ Chánh
  3. LỰC LƯỢNG ĐẶC NHIỆM 99 và Đôi Lời Tâm sự của HQ Đại Tá Lê Hữu Dơng

M
  1. MỘT TRẬN CHIẾN 44 NĂM VỀ TRƯỚC
  2. Mánh Mung
  3. Mùa Xuân cho những người lính cũ: ‘Anh không chết đâu Anh ....


N
  1. NIỀM HĂNH DIỆN VÀ TỰ HÀO
  2. Nhan Sắc Cư Tang
  3. Người Thiếu Phụ Trong Mưa Phùn
    [*}năm mươi năm ( 55 năm rồi mới gặp
  4. Nữ Quân Nhân QLVNCH
  5. Người Thua Vỹ Đại.
  6. Người Góa Phụ Giờ Thứ 25
  7. Nhớ đến những người cầm súng;
  8. NGƯỜI QUÂN CẢNH CUỐI CÙNG CHẾT TẠI BỘ TỔNG THAM MƯU
  9. Những Điệp Khúc C̣n Dang Dở….
  10. Nguyễn Văn Đông & Một Thoáng Xuân Phai
  11. Ngày về
  12. Người Cận Vệ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vượt ngục tù CSVN
  13. NGƯỜI BẠN TÙ LƯ TỐNG.
  14. Người Lính Miền Nam
  15. Nhạc Sĩ Dzũng Chinh, Tác Giả “Những Đồi Hoa Sim”, Chết Trên Đồi Hoa Sim
  16. "Người Lính"
  17. Người T́nh Muôn Thuở của Lính.


O
  1. Ông Thần TQLC
  2. Ông lăo bán kem


P
  1. Phi vụ cứu người Chi khu Gia-Vực
  2. Phi-Vụ Ngược Ḍng thời-Gian...
  3. [UTL="https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=1202507&page=44"]Ponchos Buồn [/URL]


Q
R
  1. Rồi Cũng Qua Đi


S
  1. Saigon 30-4-1975 – Trung tá Nguyễn Văn Long tự sát trước tượng đài
  2. sau cuộc chiến ...
  3. Sự Trả Thù Đê Hèn Và Dă Man


T
  1. Trận M'Drack của Lữ Đoàn 3 Dù
  2. Tử Thần Trong Cụm Lục B́nh
  3. Tam tinh 1
  4. Tâm t́nh 2
  5. Tâm t́nh 3
  6. Tâm t́nh 4
  7. Trên Vùng Trời TRỊ THIÊN
  8. TĐ1 TQLC – Cuộc đổ bộ trong ḷng địch
  9. TRƯỜNG THIẾU SINH QUÂN VŨNG TÀU - QLVNCH
  10. Trung Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân như thế nào?
  11. Trời Mưa Nhớ Bạn
  12. T́nh bạn và đời lính
  13. TƯỜNG-THUẬT TRẬN HẢI-CHIẾN LỊCH-SỬ HOÀNG-SA
  14. TRẢ LẠI SỰ THẬT CHO LỊCH SỬ VỀ VIỆC SƯ ĐOÀN 3 BỘ BINH
  15. Thêm một câu chuyện về Thiếu Sinh Quân VNCH Vũng Tàu
  16. TĐ3 PB - Trước khi ngưng bắn
  17. Tháng ba định mệnh
  18. Trung Tá Phạm Phan Lang: Một Phụ Nữ Việt Nam Đáng Biết



V
  1. Vết thương 43 năm
  2. Vietnam war
  3. Viên Đạn Cuối Cùng


X
  1. Xuân đoàn tụ
  2. Xuân Lộc 1975



PHẦN PHỤ LỤC THƠ CHO LÍNH
  1. HL cảm tác bài của bác nên viết vài câu thơ
  2. trích từ túy hà trong một thời lính lác
  3. thơ
  4. NGƯỜI LÍNH VNCH ... TÔI NỢ ANH
  5. qua cầu cỏ may
  6. thêm bài thơ KBC4100 dành cho các CSVSQ/TBB/Thù Đức
  7. Để trả lời một câu hỏi
    Thơ Linh Phương
  8. Bông Hồng Mùa Xuân - Lư Thụy Ư
  9. Cảm tác bài thơ ngắn
  10. Thức dậy đi em
  11. Lá Thơ Pleime
  12. Kỷ vật
  13. NHỚ NHAU HOÀI - 44 NĂM QUỐC HẬN -Tháng Tư Đen 2019
  14. Người t́nh không chân dung
  15. Tấm thẻ bài nhạc và lời của nhạc sĩ Huyền Anh .
  16. Nhạc âm thanh không hay ,h́nh chụp không đẹp nhưng....




hoanglan22 11-08-2018 03:29

Lời ngơ ư đầu đề trong trang của lính
Tôi HL mở trang này không có mục đích tuyên truyền đả kích một cá nhân hay một đoàn thể nào chỉ là vinh danh các chiến sĩ QLVNCH nói chung và các bạn hữu của tôi đă từng cầm súng nói riêng chiến đấu cho quê hương VN . Các bạn già của tôi ở đây dù quen hay không quen vẫn là những người cùng sát vai chiến đấu với lập trường chống cộng và để nhớ lại những chiến tích của chúng ḿnh qua từng đơn vị đă tham gia . Nhất là để nhớ thương những chiến hữu TPB đă hy sinh một phần thân thể cho Tổ Quốc . HL tôi lúc nào cũng ghi nhớ , gần chục năm nay tôi vẫn thường giúp đỡ những anh em về vật chất trong những cảnh nghèo khó , nhưng tinh thần của các Anh em chúng ḿnh đều có tâm niệm là người VN cùng chung ḍng máu nhưng không chung TỔ QUỐC với bè lũ CS
Riêng đối với các bạn trẻ chưa từng cầm súng chiến đấu th́ nên noi gương những bậc cha anh của ḿnh giữ vững lập trường chống cộng , việc này đ̣i hỏi ở thế hệ các cháu đừng quên những ǵ về quê hương bọn CS đă và đang làm .

Thân chào

hoanglan22 11-08-2018 03:50

2 Attachment(s)
Trận M'Drack của Lữ Đoàn 3 Dù

Bùi Anh Trinh

I. Trận M'Drack của Lữ Đoàn 3 Dù - 5 Ngày Đầu

T́nh h́nh trước khi nổ ra trận M’Drack
Theo hồi kư của Tướng CSVN Đặng Vũ Hiệp, Chính Ủy mặt trận Tây Nguyên, th́ quân CSVN bắt đầu tấn công Ban Mê Thuột với 4 sư đoàn Bộ binh, gồm có:

- Sư đoàn 320 CSVN làm chốt chận giữa Pleiku và BMT. Tuy nhiên thực lực của Sư đoàn này chỉ có Trung đoàn 9 là c̣n nguyên vẹn, c̣n Trung đoàn 48 và Trung đoàn 64 bị thiệt hại nặng sau trận tấn công Căn cứ Pleime vào tháng 8 năm 1974.

*(Sư đoàn 320 CSVN được tướng Văn Tiến Dũng giao đánh chiếm chi khu Thuần Mẫn vào ngày 8-3-1975, làm chốt chận giữa Pleiku và BMT. Nhưng sư trưởng là Kim Tuấn “mánh” bằng cách đóng quân xa Quốc lộ 5 cây số cho nên chiều ngày 9-3 Liên đoàn 21 BĐQ từ Pleiku về Buôn Hô để tăng cường cho BMT mà quân của Kim Tuấn không chận đánh.

Thậm chí đoàn quân di tản từ Pleiku đi Phú Bổn ngang qua khu vực của sư đoàn 320 CSVN mà Kim Tuấn cũng không hay biết do v́ “trốn quá kỹ”. Chính v́ việc này mà Đại tá Kim Tuấn vẫn phải mang lon Đại tá cho tới ngày về hưu).

- Sư đoàn 10 CSVN với lực lượng c̣n nguyên vẹn nhưng Trung đoàn 66 và Trung đoàn 28 bị tổn thất khá nặng khi tấn công Căn cứ Núi Lửa và BCH/Chi khu Đức Lập vào ngày 9-3-1975. Riêng Trung đoàn 24 được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho Sư đoàn 316 CSVN đánh vào trung tâm BMT.

Sư đoàn 316 CSVN được giao nhiệm vụ làm nổ lực chính tấn công vào thị xă BMT.
*(Sở dĩ tướng Hoàng Minh Thảo giao cho Sư đoàn 316 CSVN làm nổ lực chính v́ là sư đoàn tân tuyển, ḅn vét thanh niên Nghệ An ở hạng tuổi 16 , chưa đụng trận lần nào cho nên không biết sợ chết là ǵ. C̣n nếu giao cho các sư đoàn 10 hay 320 th́ họ thừa kinh nghiệm đánh trận bằng “mánh”; nghĩa là vẫn báo cáo về phía sau giống như họ đang tấn công vũ băo nhưng thực ra họ chỉ tấn công vào những chỗ không có địch; c̣n chỗ nào có địch th́ họ né đi, vờ như đi lạc. Trong khi Trung đoàn bộ và Sư đoàn bộ ở đằng sau xa, ngoài tầm pháo binh và phi cơ).

- Trung đoàn biệt lập 95 B (Thuộc sư đoàn 325 B) cũng là trung đoàn tân tuyển từ Thanh Hóa, cũng ở hạng tuổi 16; được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho SĐ 316 CSVN đánh vào BMT.

Trung đoàn 95 A biệt lập được giao nhiệm vụ làm chốt chận trên QL.19, giữa Pleiku và Quy Nhơn.

Trung đoàn 25 biệt lập được giao nhiệm vụ làm chốt chận trên QL.21, giữa BMT và Nha Trang.

*(Đây là trung đoàn chủ lực miền của Mặt trận Tây Nguyên của CSVN, đa số là người Miền Núi, có nhiều kinh nghiệm chiến trường tại khu vực Quốc Lộ 21. Nhưng cũng như sư đoàn 10 và 320, hễ khi nào thấy “khó ăn” th́ họ biến mất vào núi rừng. Cho nên tốt nhất là cho họ làm chốt chận, nằm chết dí ở một vị trí cố định).

Rốt cuộc sau 5 ngày chiến đấu tại mặt trận BMT th́ sư đoàn 316 CSVN bị Pháo Binh VNCH tiêu diệt tại Phi trường Phụng Dực. Và sau 5 ngày chiến đấu tại mặt trận Khánh Dương th́ Trung đoàn 25/ CSVN và Trung đoàn 95 B/CSVN bị pháo binh và phi cơ VNCH tiêu diệt.



Cho nên sau khi chiếm được quân Khánh Dương vào ngày 22-3-1975 th́ thực lực của quân CSVN chỉ c̣n Sư đoàn 10 CSVN là c̣n khả năng tiếp tục chiến đấu. Trong khi đó ngày 20-3-1975 Lữ đoàn 3 Dù của VNCH đă khóa đèo M’Drack với 3 tiểu đoàn Bộ Binh và 1 tiểu đoàn Pháo Binh.

Diễn tiến trận đánh
Năm 1975, ngày 23-3, hồi kư của tướng CSVN Đặng Vũ Hiệp ghi lại: “Đại đội 5 của Tiểu đoàn 8 do chính trị viên Lê Hải Triều chỉ huy được tăng cường một trung đội ĐKZ 82 ly, 1 trung đội vận tải 1 tổ thông tin 2W được lệnh của Sư đoàn trưởng ( Sư đoàn 10 CSVN ): “hành quân trên đường 21, gặp địch đâu đánh đó” ( trang 437 ).

*(Chính trị viên đại đội mà chỉ huy đại đội th́ có nghĩa là Đại đội trưởng không c̣n. Và Tư lệnh sư đoàn mà ra lệnh cho đại đội trưởng th́ có nghĩa là Tiểu đoàn trưởng và Trung đoàn trưởng cũng không c̣n.

Ông Tư lệnh sư đoàn mà lại ra một cái lệnh “gặp đâu đánh đó” th́ ông ta không phải là sĩ quan hay tướng, mà là một ông đội trưởng du kích….Sự thực muốn ra một cái lệnh hành quân th́ trước tiên phải biết t́nh h́nh địch và ta như thế nào; rồi sau đó phải cho thám báo hay trinh sát đi dọ lại… Đằng này chỉ biết xuỵt chó vô gai, bảo con người ta cứ tiến tới trước, hễ địch đă bỏ đi th́ có nghĩa là ông Tư lệnh Sư đoàn đánh thắng, c̣n lỡ như gặp địch nó bắn cho chết thẳng cẳng th́ ông Tư lệnh quay ra t́m súi đứa khác).

Tướng Hiệp viết tiếp: "Khi đại đội này vừa đến chân đèo, địch phát hiện được, chúng dùng súng 12,8 ly trên xe M.113 bắn xối xả vào đội h́nh; đồng thời địch cho máy bay đến ném bom….Chỉ huy đại đội 5 b́nh tỉnh cho bộ đội lợi dụng con suối nhỏ chạy dọc theo đường 21 trụ lại chuẩn bị đánh chiếm đèo".

*(Bất ngờ bị súng đại liên trên xe tăng bắn như mưa, lại thêm máy bay thả bom; mà lại b́nh tỉnh trụ lại để chiếm đèo th́ quả là điên mất rồi. Địch trên đèo là 1 Lữ đoàn, khoảng 2.000 người, th́ 1 đại đội, khoảng 100 người, lấy tư cách ǵ để chiếm đèo? Trong khi đúng sách vở th́ quân tấn công bắt buộc phải gấp 3 quân pḥng thủ).

Lại viết tiếp: "Lúc này… ta phát hiện địch đă chiếm đèo Ma Đrắc (bây giờ mới biết!), liền xin pháo binh bắn chi viện cho Đại đội 5. Ba loạt đạn đầu rơi trúng khu vực đỉnh đèo. Đến loạt đạn thứ tư, 2 quả đạn 155 ly rơi trúng đội h́nh Đại đội 5 làm cho 19 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, hơn 20 đồng chí khác bị thương, gây tổn thất nghiêm trọng cho đơn vị này".

* Chú giải: Chi tiết 2 trái đạn 155 ly khiến cho các nhà quân sự học chú ư : Quân đội CSVN không có súng 155 ly và không biết sử dụng súng 155 ly của VNCH. Trong trang sau đó Tướng Hiệp cho biết kể từ lúc này quân CSVN dùng súng 155 ly tịch thu được tại BMT. Và đạn sử dụng cho súng 155 ly là đạn tịch thu tại kho đạn Mai Hắc Đế, BMT.

Sở dĩ phải dùng súng 155 ly của VNCH v́ theo hồi kư của tướng Doăn Tế, chỉ huy trưởng Pháo binh CSVN tại Tây Nguyên, th́ trong trận Ban Mê Thuột và trận Khánh Dương 2 trung đoàn pháo chiến dịch (130 ly và 122 ly) đă bắn hết số đạn 11 ngàn viên mà quân CSVN tại Tây Nguyên đang có.

Người ta ngạc nhiên là ngoài 4 khẩu 105 ly tại Phước Long bị lọt vào tay CSVN do bị phản bội, c̣n lại tất cả các khẩu pháo khác đều bị hủy bằng lựu đạn lân tinh trước khi rút lui. Ở đâu ra các khẩu 155 ly này? Rà lại chiến sự BMT trước đó th́ chỉ có 2 khẩu 155 ly của Tiểu đoàn 230 Pháo Binh nằm tại Phi trường Phụng Dực, nhưng Trung úy Pháo Binh Phạm Ngọc Phụng xác nhận 2 khẩu 155 ly này đă được phá hủy cùng với 4 khẩu 105 ly trong ngày 15-3-1975.



Ngoài ra c̣n có 2 khẩu 155 ly thuộc Tiểu đoàn 63 Pháo Binh diện địa đặt tại BCH Chi khu Khánh Dương nhưng hai khẩu này đă được kéo về đèo M’Drack lúc 10 giờ sáng ngày 22-3-1975. Vậy chỉ c̣n lại hai khẩu 155 ly duy nhất tại BCH Chi Khu Phước An, cũng thuộc Tiểu đoàn 63 Pháo binh diện địa. Có lẽ hai khẩu 155 ly này không được phá hủy khi Phước An tan hàng vào chiều ngày 17-3-1975. Súng không bị phá hủy chứng tỏ sĩ quan Trung đội Trưởng hoặc Hạ sĩ Quan Khẩu trưởng bị khống chế bất ngờ.

Tướng Hiệp ghi nhận có tất cả 4 loạt đạn nhưng 3 loạt đạn đầu rơi trên đỉnh đèo, c̣n loạt đạn thứ 4 lại trúng ngay vào quân CSVN, và mỗi loạt chỉ có 2 trái; chứng tỏ chỉ có 2 khẩu chứ không hơn. Tới đây th́ vấn đề là ai đă bắn hoặc chỉ cho CSVN cách sử dụng 2 khẩu súng đó ?

Chỉ có sĩ quan trung đội trưởng hoặc hạ sĩ quan khẩu đội trưởng mới có thể lấy yếu tố tác xạ bắn chính xác lên đỉnh đèo ngay loạt đạn đầu. Như vậy loạt đạn thứ 4 là loạt đạn được điều chỉnh lần thứ 3 th́ chắc chắn phải rơi chính xác… nhưng lại là chính xác ngay đội h́nh của quân CSVN (!). Chứng tỏ người lấy yếu tố tác xạ lẫn người quay ṇng súng đều là quân VNCH.

Những xạ thủ VNCH đă bất thần điều chỉnh cho đạn rơi vào quân CSVN thay v́ vào quân VNCH. Trước đó họ bị buộc phải bắn dưới sức ép của những họng súng kê sau ót. Nhưng họ đă quyết định chết chứ không thể nào giết chiến hữu của ḿnh, ngược lại họ đổi mạng họ với 1 đại đội quân CSVN.

Ngày 24-3, lúc 11 giờ sáng, quân Dù tại đỉnh đèo M’Drack phát hiện 5 xe tăng của quân CSVN đang di chuyển từ Khánh Dương đến M’Drack, pháo binh Dù tại giữa đèo bắn chận, phi cơ A.37 bắn hạ 3 chiếc tăng. Đồng thời phi cơ quan sát phát hiện một ổ pḥng không địch bắn lên từ khu vực Rẫy Ông Kỳ, cách M’Drack 20 cây số. Phi cơ A37 lên oanh kích, hạ 2 vị trí pḥng không.

Đây là lần đầu tiên súng cao xạ của CSVN xuất hiện sau trận Ban Mê Thuột từ ngày 10 đến ngày 13-3. Kể từ ngày đó các khẩu pḥng không của CSVN im tiếng, ngoại trừ 1 loạt đạn pḥng không bắn trúng trực thăng chở Tướng Lê Trung Tường vào ngày 16-3. Chứng tỏ quân CSVN cũng không c̣n đạn pḥng không, có lẽ giờ đây đạn pḥng không ở ngoài Bắc mới chuyển đến kịp. So lại với các sách vở của hai bên nói về cuộc di tản 8 ngày trên Liên Tỉnh Lộ 7 th́ quả nhiên không hề có một khẩu pḥng không nào xuất hiện. Quân VNCH hoàn toàn làm chủ trên Liên Tỉnh Lộ 7.

Ngày 25-3, lúc 4 giờ 30 sáng, quân CSVN pháo kích quân Dù tại đầu đèo M’Drack, trận pháo kéo dài khoảng 20 phút.

Lúc 5 giờ sáng, quân bộ binh CSVN tấn công Đại đội 53 Dù tại đầu đèo. Pháo binh Dù bắn yểm trợ quân pḥng thủ . Lúc 6 giờ 15 sáng quân CSVN rút lui, phía Dù có 1 chết, 7 bị thương.



Lúc 7 giờ sáng, xe tăng của quân CSVN bắt đầu tiến tới đầu đèo M’Drack với quân bộ binh theo sau. Hỏa tiễn Tow của quân Dù bắn hạ 2 tăng, đại bác 106 ly không giật của quân Thiết giáp VNCH bắn hạ 1 tăng.

Lúc 8 giờ 30, quân CSVN rút lui, quân Dù đếm được 20 xác, thu 10 vũ khí. Phía Dù có 2 chết 11 bị thương.

Ngày 27-3, lúc 7 giờ sáng, quân CSVN pháo 130 ly vào khu vực đỉnh đèo, làm hư 2 khẩu 105 ly của Pháo Binh Dù. 4 khẩu pháo c̣n lại được lệnh rút về giữa đèo. Phi cơ A37 tấn công pháo binh CSVN tại khu vực phi trường Khánh Dương.

Lúc 5 giờ chiều, 1 phi cơ A.37 bị bắn rơi tại khu vực đầu đèo M’Drack, phi công nhảy dù xuống khu vực kiểm soát của quân Dù.

II. Trận M'Drack của Lữ Đoàn 3 Dù - 5 Ngày Cuối

Ngày 28-3, lúc 3 giờ chiều, Trung Tá Bùi Quyền, Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn 5 Dù đang trấn giữ tại đầu đèo M’Drack nhận được lệnh của BCH Lữ đoàn 3 Dù:

(1). Gởi trả chi đoàn Thiết vận xa M113 về BCH/Lữ đoàn 3 Dù. Cắt 1 đại đội Dù đi theo chi đoàn Thiết vận xa. Đại đội Dù và chi đoàn Thiết vận xa sẽ ở lại chặn hậu cho Tiểu đoàn 5 Dù rút trước, sau đó sẽ rút cuối cùng.

(2). Tiểu đoàn 5 Dù t́m cách đoạn chiến và rút về phía sau của Tiểu đoàn 6 Dù ở giữa đèo.

(3). Lữ đoàn 3 Dù sẽ về lập pḥng tuyến mới tại đèo Rù Ŕ, Nha Trang.

Lúc 4 giờ chiều, phi cơ A37 bắn hạ 3 T54 đang di chuyển từ phi trường Khánh Dương xuống M’Drack.

Lúc chiều tối, đại đội 5/8 của Trung đoàn 25 CSVN, quân số c̣n không tới 30 người, phục kích đoàn xe tiếp tế cho quân Dù tại chân đèo M’Drack. Tiểu đoàn 2 Dù tại chân đèo đẩy lui quân tấn công nhưng toàn đoàn xe đă bị tiêu hủy.

*(Ngày 23 Trung đoàn 25 với quân số c̣n lại sau các trận đụng độ liên miên trên Quốc lộ 21 đă luồn rừng xuống giữa đèo và chân đèo mà không qua quân Dù tại M’drack. Sự kiện chận đánh đoàn xe tiếp vận khiến Lữ đoàn Trưởng Lữ đoàn 3 Dù e ngại quân CSVN từ Khánh Dương có thể đi ṿng theo đường rừng để đánh bọc hậu quân Dù).

Lúc sẩm tối, chi đoàn M113 và đại đội trên cùng của Tiểu đoàn 5 Dù rời tuyến để rút xuống phía dưới. Từng chiếc M113 chở theo quân Dù rời tuyến cách khoảng để địch không phát hiện ra âm mưu rút quân. Trước đó họ đă gài ḿn tự động để ngừa địch bám theo.

Lúc 10 giờ đêm, chi đoàn TVX và đại đội Dù vượt qua BCH Tiểu đoàn 5 Dù để xuống giữa đèo th́ toàn bộ Tiểu đoàn 5 Dù rời vị trí để băng rừng xuống chân đèo.

Lúc 10 giờ 30 đêm, băi ḿn tự động trên tuyến đầu đèo phát nổ, chứng tỏ quân CSVN ṃ vào thám sát và đă biết quân Dù đă rút. Cùng lúc đó chi đoàn M.113 bị phục kích khi tới gần vị trí của Tiểu đoàn 6 Dù ở giữa đèo, có 3 M.113 bị bắn cháy. Chi đoàn vẫn tiếp tục chạy băng về phía trước.

Ngày 29-3, lúc 1 giờ 30 khuya, một đại đội của Tiểu đoàn 5 Dù chạm địch cách vị trí 2 chiếc M.113 bị bắn cháy khoảng 800 mét. Khoảng 1 trung đội thương vong, Đại đội Trưởng tử trận; thành phần c̣n lại tạt về BCH Tiểu đoàn.

Lúc 6 giờ sáng, Tiểu đoàn 5 Dù bắt được đường ṃn di chuyển của khoảng 1 Trung đoàn CSVN đi qua trước đó. Tiều đoàn 5 Dù lần theo đường đó xuống chân đèo.

Lúc 10 giờ, theo hồi kư của Tướng CSVN Đặng Vũ Hiệp, quân CSVN mở màn tấn công quân Dù tại M’drack với một trận pháo bằng súng đại bác 155 ly của VNCH tịch thu được tại BMT. Hồi kư Tướng Hiệp:

"Mở đầu cuộc tiến công tiêu diệt Lữ đoàn 3 là trận pháo ác liệt giữa pháo binh ta và pháo binh địch làm rung chuyển cả đoạn đường đèo dài hơn 10 Km. Những khẩu pháo của ta vừa thu được ở Buôn Mê Thuột và những xe đạn pháo từ kho Mai Hắc Đế được chuyển đến đă giáng xuống các trận địa pháo của Lữ đoàn 3 Dù những đ̣n sấm sét…".

Thực ra th́ chỉ có 2 khẩu 155 ly với hằng ngàn quả đạn, nhưng súng 155 ly bắn xa 15 cây số trong khi súng 105 ly của quân Dù chỉ bắn được 10 cây số cho nên Pháo Binh Dù đành chịu trận chứ không phản pháo được.

Lúc 10 giờ 30, phi cơ A.37 thả bom tại khu vực Khánh Dương , nơi đặt súng 155 ly của CSVN.

Lúc 11 giờ 15, Tiểu đoàn 6 Dù báo cáo quân CSVN đă rút lui khỏi khu vực đánh nhau ở giữa đèo, để lại một số xác chết; quân Dù tịch thu được một số vũ khí và bắt sống 4 tù binh thuộc Trung đoàn 25 CSVN. Lúc này Tiểu đoàn 5 Dù đă di chuyển xuống tới chân đèo và chuyển hướng về hướng Nam chứ không đâm ra Quốc Lộ 21.

Ngày 30-3, lúc 6 giờ 30 sáng, quân CSVN pháo kích đủ loại súng lớn, nhỏ vào vị trí của Tiểu đoàn 6 Dù ở giữa đèo và Tiểu đoàn 2 Dù ở chân đèo. Đồng thời xe tăng CSVN từ trên đầu đèo mở đèn pha chạy xuống.

Lúc 7 giờ 20, phi cơ thả bom tấn công đoàn Tăng của CSVN. Lửa cháy lan rộng khắp vùng cỏ tranh ở giữa đèo.

Lúc 9 giờ 30 chiến trường im tiếng súng, các máy truyền tin của BCH Lữ đoàn 3 Dù và các Tiểu đoàn 6, 2 không c̣n hoạt động.

Lúc 11 giờ trưa, Tiểu đoàn 5 Dù di chuyển bằng đường rừng để về quân Diên Khánh của tỉnh Khánh Ḥa. Tiểu đoàn không liên lạc được với BCH Lữ đoàn.

Lúc 10 giờ 20 đêm, Lữ đoàn Trưởng Lữ đoàn 3 Dù là Trung Tá Lê Văn Phát liên lạc với BTL Quân đoàn II để xin yểm trợ. Tướng Phú ra lệnh “ráng chống đỡ đêm nay, ngày mai sẽ có 2 Tiểu đoàn BĐQ, và sau đó, sẽ có 1 Lữ đoàn TQLC lên chiến đấu tại mặt trận này”.



Thực ra lúc đó quân Dù cần biện pháp chế ngự pháo hạng nặng và chiến xa của quân CSVN, tức là cần vũ khí hiệu lực ngay tức thời.

Ngày 31-3, lúc 7 giờ sáng, Lữ đoàn 3 Dù báo cáo vị trí đầu đèo của Tiểu đoàn 5 Dù đă bị địch chiếm, không c̣n liên lạc được với TĐ 5 Dù. Thực ra TĐ 5 Dù đă rời tuyến đêm 28-3, hiện giờ đang trên đường băng rừng về Diên Khánh. Trong ngày có tất cả 20 phi tuần A37 thả bom yểm trợ cho quân Dù tại M’drack.

Tướng Phú xin được sử dụng 2 Tiểu đoàn BĐQ từ B́nh Định về tăng cường pḥng thủ đèo Cả lên thẳng đèo M’drack để phối hợp với quân Dù. (Tiểu đoàn 51 và Tiểu đoàn 35 thuộc Liên đoàn 6 BĐQ, trước đó 2 tiểu đoàn này pḥng thủ đèo B́nh Đê, giáp ranh với Quảng Ngăi).

Lúc 2 giờ chiều, Tướng Cao Văn Viên chấp thuận đưa 2 tiểu đoàn BĐQ lên đèo M’drack để tăng cường cho quân Dù.

Lúc 3 giờ 50, Tướng Phú cho lệnh sử dụng bom CBU để chận quân CSVN tại đèo M’drack.

Diễn tiến trận đánh từ 23-3 cho tới 30-3 được ghi theo hồi kư của Trung Tá Bùi Quyền, Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn 5 Dù VNCH.

Ngày 1-4, lúc 4 giờ sáng, Lữ đoàn Trưởng Lữ đoàn 3 Dù là Trung Tá Lê Văn Phát quyết định rút quân về Trung Tâm Huấn Luyện BĐQ Dục Mỹ, BCH Lữ đoàn và Tiểu đoàn 2 cùng với Tiểu đoàn 35 BĐQ, chi đoàn Thiết vận xa và 1 đại đội thuộc Tiểu đoàn 5 Dù rút bằng xe trong khi Tiểu đoàn 6 Dù và Tiểu đoàn 51 BĐQ ở lại chặn hậu.

Theo hồi kư của Tướng CSVN Đặng Vũ Hiệp: "Ngày 1 tháng 4, giữa lúc Sư đoàn 320 giải phóng thị xă Tuy Ḥa, th́ tại khu vực đèo Phượng Hoàng ( M’drack ) các chiến sĩ Sư đoàn 10, Trung đoàn 25 và xe tăng ta mở đợt tấn công vào toàn bộ các cụm quân của Lữ đoàn Dù 3. Sau 2 giờ chiến đấu, Lữ đoàn Dù 3 hoàn toàn bị tiêu diệt". (trang 439).

Sự thực th́ lúc đó Lữ đoàn 3 Dù đă rút, chỉ c̣n Tiểu đoàn 6 Dù và Tiểu đoàn 51 BĐQ nhưng sau đó Tiểu đoàn 51 BĐQ rút trước, Thiếu Tá Tiểu đoàn Trưởng Đổng Kim Quang tử trận. Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn 6 Dù là Trung Tá Trần Hữu Thành cùng Tiểu đoàn ở lại chặn hậu cho đến khi hết đạn. Trung Tá Thành bị bắt làm tù binh.

Lúc 6 giờ sáng, Chỉ huy Trưởng Trung tâm huấn luyện Lam Sơn là Đại tá Nguyễn Hữu Toán thấy quân Dù rút ngang qua th́ cũng cho lệnh TTHL/ Lam Sơn di tản.

Lúc 8 giờ sáng, đoàn quân của Đại Tá Toán kéo theo Trung tâm Huấn luyện Pháo Binh Dục Mỹ do Đại tá Hồ Sĩ Khải chỉ huy.

Lúc 9 giờ sáng, đoàn quân di tản ngang qua Trung tâm Huấn luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ kéo theo đoàn di tản của Trung tâm do Đại Tá Nguyễn Văn Đại chỉ huy, BCH Lữ đoàn 3 Dù cũng rút theo Trung tâm huấn luyện BĐQ.

Lúc đó tại TTHL/BĐQ có Tiểu đoàn 58 BĐQ thuộc Liên đoàn 7 BĐQ từ Tuy Ḥa rút về đang trấn giữ các cao điểm chung quanh TTHL/BĐQ Dục Mỹ, BCH Tiểu đoàn đóng tại Núi Đeo, cách TTHL 4 cây số. Thấy đoàn xe di tản đi ngang qua, Tiểu đoàn 58 liên lạc với TTHL nhưng không có trả lời, Tiểu đoàn Trưởng là Thiếu tá Phan Văn Kế bèn dẫn BCH Tiểu đoàn rút bộ về TTHL, tại đây mới hay là TTHL đă rút chạy. Tiểu đoàn trưởng TĐ.58 cho lệnh quân trên núi rút xuống quốc lộ rồi lội bộ ra Ninh Ḥa, cách 8 cây số.

Ra tới ngă Ba Quốc Lộ 1 và Quốc Lộ 21 tại Ninh Ḥa, quân Tiểu đoàn 58 thấy đoàn di tản của Phú Yên từ phía Bắc chạy về Nha Trang, đủ các loại xe cộ, và có cả chạy bộ. Thiếu Tá Kế cho lệnh tan hàng, tự t́m phương tiện về Sài G̣n, hẹn gặp nhau tại hậu cứ Liên đoàn 7 BĐQ.

Lúc 10 giờ sáng BCH Lữ đoàn 3 Dù trấn đóng đèo Rù Ŕ là cửa ngơ vào thành phố Nha Trang, Quân của các Trung tâm huấn luyện kéo thẳng vào Phan Rang. Đại tá Hồ Sĩ Khải, chỉ huy trưởng TTHL/Pháo binh Dục Mỹ nhập vào đơn vị của Sư đoàn 23 BB đang trấn giữ đèo Rọ Tượng, cách Nha Trang 28 cây số.

Buổi chiều, Tiểu đoàn 34 BĐQ đang trấn giữ đèo Cả thấy đoàn di tản từ Phú Yên chạy vào Nam loan báo quân CSVN đă chiếm Phú Yên nên cũng vội vàng lui binh theo đoàn Phú Yên, đến đèo Rọ Tượng th́ gặp quân trấn thủ của Sư đoàn 23 đang trấn đóng tại đó nên trụ lại để xin lệnh BCH Liên đoàn 6 BĐQ nhưng họ không liên lạc được v́ 2 tiểu đoàn BĐQ đă theo BCH Lữ đoàn 3 Dù và TTHL/BĐQ di chuyển về Phan Rang.

Lúc 11 giờ sáng, máy bay của Tướng Phú đáp xuống Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế để đón Tướng Phạm Quốc Thuần đi bay thị sát toàn vùng Khánh Ḥa. Thấy vậy các sĩ quan của trường cho lệnh mọi người “về nhà lo cho gia đ́nh”, nghĩa là cho lệnh tan hàng để tự túc di tản.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541649150

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541649217

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541649282





Bùi Anh Trinh

hoanglan22 11-08-2018 04:07

1 Attachment(s)
MỘT TRẬN CHIẾN 44 NĂM VỀ TRƯỚC

Khoảng cuối tháng 2-1972, một Chiến Đoàn cộng (+) gồm 2 tiểu đoàn của TRĐ8 và 2 tiểu đoàn 2/7 và 3/7 của SĐ5BB, dưới sự điều động của BCH/TRĐ8 mở một cuộc hành quân. Cuộc lục soát quy mô diễn ra trong vùng Mỏ Vẹt, khoảng giữa biên giới Việt Nam và Kampuchia. Mục đích là nhằm xác định lại tin tức t́nh báo: Việt Cộng đang chuyển quân về đây với số lượng lớn, nhằm đánh chiếm tỉnh B́nh Long, làm thủ đô cho cái lực lượng gọi là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam.

Lúc này tôi đang là ĐĐ phó ĐĐ5 của TĐ2/7. ĐĐ trưởng là Đạt, khóa 23 Vơ Bị. Đạt ra trường tháng 12-1969, về ĐĐ/TS7. Tôi ra trường tháng 2-1971 và được đưa về tiểu đoàn này lúc đó đang hành quân vùng Snuol, Kampuchia. Đạt được chuyển từ ĐĐ/TS7 về thay cho Trung úy Tâm thuyên chuyển. Mặc dù đi lính trước tôi 2 năm nhưng thời gian trên Đà Lạt, 2 quân trường chúng tôi biết nhau rất rơ. Chúng tôi mỗi năm vào mùa quân sự đều sang học nhờ bên Vơ Bị. Tôi cũng quen khá nhiều các SVSQ khóa 23VB. Có vài người từng học chung lớp hồi trung học với tôi. Thành thử giữa Đạt và tôi có sự thông cảm dễ dàng.

Đơn vị chúng tôi trên đường hành quân đă gặp những con đường khá rộng cỡ 5-6m do xe cơ giới ủi băng qua những khu rừng, những đồn điền cao su trùng điệp từ gần biên giới về sát ngoại vi tỉnh B́nh Long. Những con đường đất đỏ c̣n mới toanh. Dọc theo bên đường trải dài những bó giây điện thoại to cỡ ngón tay, bọc ngoài bằng một lớp cao su màu đen khá chắc, chưa kịp chôn dấu trong ḷng đất. Có phải bọn Việt Cộng đă quá coi thường phe ta hay v́ thời gian ấn định quá gấp rút chúng phải hoàn thành cho được nhiệm vụ cấp trên giao phó nên không thể kỹ càng ngụy trang chăng?

Tiểu đoàn chúng tôi được lệnh bung rộng và lục soát. Đă có nhiều cuộc đụng độ. Đa phần, h́nh như chúng là những toán công binh hoặc đơn vị truyền tin đi thiết lập mạng giây liên lạc, nên mỗi khi chạm trán phe ta, chúng chỉ nổ súng lấy lệ và bỏ chạy. Cuộc hành quân sang tới ngày thứ năm th́ chúng tôi được tin quận Lộc Ninh, cực bắc của tỉnh B́nh Long đă thất thủ và TRĐ9 coi như bị mất liên lạc. Chúng tôi được lệnh, bằng mọi giá phải kéo về gấp để bảo vệ thị xă An Lộc. Trên đường về, chúng tôi di chuyển như chạy. Có những đụng độ trên đường nhưng chúng tôi không thèm quan tâm đến kết quả như địch chết bao nhiêu, vũ khí cũng không cần thu lượm! Điều quan trọng hàng đầu là kéo về B́nh Long càng sớm càng tốt. Phải mất ba ngày để vào đến vùng hành quân sát biên giới nhưng chưa đầy một ngày, quân ta đă về tới thị xă và được phân chia vị trí bố quân.

Đại đội tôi, đang phiên trực chính của tiểu đoàn, được giao nhiệm vụ án ngữ phía bắc thị xă, đóng quân hai bên QL13, hướng về phía Bắc là cầu Cần Lê. Ngoài xa một chút là ngọn đồi Đồng Long, một cao điểm do một trung đội ĐPQ trấn giữ. Các đại đội c̣n lại được điều về bảo vệ mặt nam của thị xă từ QL13 kéo về hướng tây. Ngay góc tây nam thị xă là một căn cứ của ĐPQ, đồn Lam Sơn, được giao cho BCH/TĐ. Phía tay phải, TĐ3/7-SĐ5BB trách nhiệm bảo vệ mặt tây thị xă mà BCH/TĐ đóng trong Ty Hồi Chánh tỉnh. Đó là những ǵ tôi được biết về trách nhiệm của 2 tiểu đoàn thuộc TRĐ7, biệt phái cho Chiến đoàn 8 trong những ngày đầu tiên tại An Lộc. Ngoài SĐ5BB, tôi nhận thấy có sự hiện diện của LĐ3BĐQ, các TĐ/ĐPQ cơ hữu của tỉnh, một số trung đội Nghĩa Quân, Nhân Dân Tự Vệ... Tổng cộng quân số của ta trong tỉnh chỉ vỏn vẹn cỡ một sư đoàn.


Xin nói sơ qua về thị xă An Lộc. Diện tích thị trấn chính của tỉnh B́nh Long không rộng quá 2km2. Nằm dọc hai bên QL13, từ đồn điền Xa Cam phía nam lên đến đồi Đồng Long phía bắc chừng hơn cây số. Bề ngang, từ phạm vi Ty Hồi Chánh kéo qua đồn điền cao su Quản Lợi, rồi tới mấy ấp nhà dân cũng tối đa chừng 2km. Trong vài ngày đầu, không khí trong thị xă có vẻ nhốn nháo. Dân chúng khá hoang mang với cái tin Lộc Ninh đă mất vào tay Việt Cộng và bọn chúng đang sửa soạn kéo quân về đây. Tuy thấy quân ta vẫn c̣n hiện diện và đang chuẩn bị ứng phó, dân chúng vẫn không tránh khỏi lo sợ. Chỉ có điều, họ biết đi đâu bây giờ. Nhà cửa, ruộng vườn, sản nghiệp, mồ mả ông bà, tổ tiên tất cả đều ở đây. Làm sao họ nỡ rời bỏ ra đi.

Bọn Việt Cộng lúc này bắt đầu pháo kích lai rai vào thị xă. Có lẽ chúng có bọn nằm vùng cho tọa độ và chúng đang bắn thử để điều chỉnh. Sau gần một tuần hành quân trong rừng, lúc đại đội đă ổn định vị trí, tôi cũng cần mua ít đồ dùng cá nhân nên nói Đạt ra chợ một chút. Từ chỗ đóng quân ra khu chợ mới, đi bộ chưa tới 10 phút. Nhắm một quán cà phê có tiếng nhạc văng vẳng dội ra, tôi bước vào.

- Ê, Lân!
Tôi quay sang cái bàn có tiếng gọi.
- Ủa, Nguyện. Khỏe không? Cùng Trung Đoàn mà lâu quá tao mới có dịp gặp mày.

Tôn Thất Nguyện, cùng khóa với tôi, cùng trong nhóm 7 tên về TRĐ7BB, cùng nghe lời xúi dại của tôi tŕnh diện trễ, nên cả bọn bị nhốt 7 ngày trong cái bunker trước cổng Căn cứ dă chiến của Trung Đoàn nằm phía bắc sân bay Phước B́nh, dưới chân núi Bà Rá của tỉnh Phước Long.

Đúng ra chẳng phải chúng tôi có ư ba gai. Chỉ v́ ông Đại úy Măo, chỉ huy hậu cứ TRĐ7, lúc đó c̣n đặt ở Phú Văn, đă gom mấy cái căn cước quân nhân của tụi tôi cất vào ngăn tủ. Tôi đ̣i ông ta đưa lại, ông ta không trả, nại lư do lệnh TRĐ trưởng. Tôi giải thích cho ông ta biết chúng tôi là những sĩ quan hiện dịch chứ không phải tân binh quân dịch, ông không thể coi thường chúng tôi. Có lẽ ông ta nghĩ ông có cấp bậc lớn hơn và tụi tôi chỉ là đám sĩ quan mới ra trường vô phép tắc nên không thèm nói chuyện tiếp. V́ tự ái, chúng tôi đă bàn nhau đi thêm một tuần lễ nữa.

Tới ngày măn hạn, Nguyện là tay may mắn nhất, hắn được đưa về làm ĐĐ phó cho một niên trưởng Khóa 1, Trung úy Lê Bắc Việt, ĐĐ trưởng ĐĐ9/TĐ3/7. Những người c̣n lại cũng nhận đơn vị là những tiểu đoàn đang hành quân vùng nội địa. Riêng tôi có “số xuất ngoại”, được đưa về TĐ2/7 đang hành quân tận Kampuchia. Tôi phải mất một thời gian khá vất vả lúc đầu v́ không người hướng dẫn. ĐĐ trưởng của tôi khi đó là một Trung úy từ Hạ sĩ quan đặc biệt đi lên. Hắn luôn có mặc cảm với đám sĩ quan mới ra trường, nhất là sĩ quan hiện dịch. Nhưng cũng nhờ vậy mà tôi đă tự học được rất nhiều kinh nghiệm bổ ích để có thể tồn tại và tiến thân sau này.

Tôi c̣n nhớ lần đầu tiên gặp Niên trưởng Việt... Anh lái chiếc Jeep lùn, đầu đội nón sắt, có bao một lớp vải ngụy trang giống màu vải áo dù và được bao quanh bằng một sợi cao su dẹp, to bản, ép dính một hộp băng cứu thương cá nhân h́nh chữ nhật vào bên hông chiếc nón sắt. Bộ quân phục màu cứt ngựa anh mặc trên người phủ một lớp bụi màu đỏ của đất núi vùng cao nguyên. Sợi dây ba chạc anh mang, lủng lẳng khẩu Colt nằm trong cái bao da màu nâu, xệ xuống bên hông phải. Trên thành ghế là cái áo giáp, một bên túi có nhét tấm bản đồ hành quân với lớp bọc nylon trong suốt phủ bên ngoài; túi bên kia máng một cái đèn pin nhà binh màu olive. Niên trưởng nh́n đám đàn em mới ra trường với ánh mắt đầy tŕu mến. Cái anh mắt đó, tôi c̣n nhớ măi tới ngày hôm nay. Măi về sau này, tôi mới hiểu ư nghĩa cái nh́n đó. Anh đă từng lặn lội xông pha, từng đối đầu hiểm nguy chết chóc nên anh thương cho đám đàn em bắt đầu nối gót các anh với những gian nan đang chờ đợi. Là người đi trước, anh ước ǵ có thể bảo bọc cho những đứa em c̣n non nớt. Đó cũng là tâm trạng của tôi sau này. Tôi từng mong chờ, nếu có một chú Khóa 3 nào, ra trường về đơn vị, tôi cũng sẽ truyền đạt tất cả những kinh nghiệm sống của ḿnh để chú ta sẽ bớt đi những vất vả, bỡ ngỡ ban đầu, để có thể tồn tại như tôi. Nhưng, Khóa 3 chả có ai phải về các sư đoàn tác chiến cả.

Buổi gặp gỡ trong quán cà phê nhạc với Nguyện cũng nhanh chóng trôi qua. Tôi chỉ hỏi sơ qua chỗ Nguyện đóng quân để nếu rảnh có thể t́m tới nói chuyện. Khi đứng lên giă từ, tôi nhắn Nguyện cho tôi gởi lời thăm Niên trưởng Việt.

Qua ngày hôm sau, đại đội tôi được lệnh ra đóng chốt trong khu rừng cao su Xa Cam, hướng nam thị xă, cách cổng Nam cả cây số. Đại đội tôi đóng ở đây như là cái chốt tiền tiêu cho thị xă, nhằm phát hiện cũng như không để Cộng quân áp sát vào ṿng đai thị xă. Vị trí đóng quân nằm sâu trong lô cao su cách QL13 chừng 300m. Phía bên kia quốc lộ là một vùng đất trống đă được khai quang sâu cả nửa cây số. Nh́n xéo về hướng đông nam, xa xa là ngọn Đồi Gió mà sau này, quân Dù đă đổ bộ xuống và kéo vào giải tỏa áp lực ṿng vây cho thị xă.

Đạt cho bung sâu về hướng tây một trung đội, cách 200m, để giữ an ninh bên hông cho BCH đại đội. Về hướng nam, Đạt cho một tiểu đội đóng chốt cách vị trí đại đội chừng hơn 100m để quan sát từ xa. Hướng đông là QL13, địa thế trống trải, chắc chắn bọn Việt Cộng không ngu dại ǵ dùng hướng này để tấn công tụi tôi. Mặt bắc, chính là thị xă, cách chúng tôi cả cây số với một đường hào rộng, sâu đầy ḿn và chướng ngại vật mục đích để chống chiến xa, chúng tôi không cần đặt chốt nào thêm cả. Tất cả mọi người đều phải đào hầm hố có nắp kiên cố để chống pháo kích. Kinh nghiệm những lần đụng độ trên đất Kampuchia khiến chúng tôi ngày càng học được những điều hay để sinh tồn. Chúng tôi cho lính sắm những lưỡi cưa mang theo và sẵn sàng cưa những nhánh cao su để làm nắp hầm. Chỉ vài tiếng sau, chúng tôi đă ổn định vị trí. Tôi giúp Đạt ra tận trung đội tiền đồn để kiểm tra hầm hố cũng như hướng dẫn những vị trí gài ḿn tự động.

Một ngày một đêm yên tịnh trôi qua. Ở ngoài này chúng tôi không bị pháo kích như lúc c̣n nằm trong thị xă. Tụi tôi chỉ nghe thấy tiếng đạn đại bác bắn đi từ hướng bắc và tây bắc rót vào thị xă tạo những âm thanh ́ ùng bất kể ngày đêm.

Khoảng nửa đêm ngày thứ nh́, chúng tôi đang yên giấc th́ nghe có hai tiếng ḿn Claymore nổ vang dội trong rừng cao su mênh mông, cách nhau chừng một phút. Mọi người lật đật nhào xuống hố, báo động, sẵn sàng chiến đấu. Tất cả đều dơi mắt quan sát bên ngoài dù trời tối đen như mực. Không một tiếng động. Chuyện ḿn tự động nổ trong đêm khuya cũng khá b́nh thường. Nhiều khi chỉ là một cành cây khô rớt, có lúc lại là một con thú rừng vô t́nh chạy ngang chạm dây bẫy... Tuy nhiên với t́nh h́nh hiện nay, chúng tôi phải cảnh giác cao độ. Chờ chừng nửa tiếng, không có ǵ khác lạ, Đạt cho lệnh chấm dứt báo động.

Tờ mờ sáng hôm sau, trung đội tiền tiêu cho lính ra lục soát hướng có hai trái ḿn nổ đêm rồi. Trung đội gọi máy về báo có hai xác Việt Cộng và lấy được hai khẩu AK47. Tôi thay Đạt dẫn hai tên lính Quân Báo ra ngay vị trí. Hai cái xác mặc đồ bộ đội chính quy màu xanh cứt ngựa dính dầy bụi đất đỏ nằm chết ở hai vị trí cách nhau vài chục mét. Tính theo lô cao su, có lẽ chúng chia thành hai cánh, lần theo các gốc cây, để ḍ đường. Có khả năng xâm nhập ban đêm, đây phải là tụi đặc công hoặc ít ra cũng là đơn vị trinh sát tinh nhuệ. Tôi cố gắng quan sát thật kỹ nhưng v́ khu rừng cao su không có nhiều cỏ thấp nên khó có thể ước đoán số lượng toán quân địch đi chuyển là bao nhiêu người. Tôi về lại vị trí đại đội đóng quân và báo lại cho Đạt những nhận xét của ḿnh.

Chúng tôi bước sang ngày thứ ba. Một ngày nữa lại trôi qua. Lượng nước chúng tôi đem theo đă bắt đầu cạn dần mặc dù chúng tôi đă rất hạn chế. Nằm một chỗ nên lính tráng không mệt nên cũng ít uống nước. Chúng tôi, phần tiết kiệm nước, phần không muốn nhóm lửa v́ nấu nướng có khói dễ lộ vị trí. Thay vào đó, lính tráng phải đổ nước lạnh vào các bao gạo sấy và bóp cho mềm để ăn. Xin tiểu đoàn tiếp tế nước th́ được trả lời, tiểu đoàn cũng không có phương tiện, chưa kể đến t́nh trạng pháo kích thường xuyên trong thị xă cũng là một trở ngại lớn lao. Đạt ra lệnh mọi người phải tiết kiệm xử dụng nước tối đa v́ chưa biết đến khi nào mới được tiếp tế. Khi màn đêm buông xuống, trừ những người có nhiệm vụ canh gác, tất cả đều cố nhắm mắt dỗ giấc ngủ, hy vọng quên đi những căng thẳng đang ŕnh rập trong bóng đêm dầy đặc chung quanh.
Thế rồi, lại đúng khoảng nửa đêm, cũng hai tiếng ḿn nổ, xé toang cảnh tĩnh mịch trong đêm vắng. Cùng một lúc, ngay trong phạm vi đóng quân của đại đội, chúng tôi nghe có tiếng la: “Xung phong, xung phong”.

“Chết mẹ, tụi nó vào tới tuyến hồi nào mà lính gác không phát hiện được!”. Tôi thầm nghĩ trong bụng trong lúc nhào xuống vị trí trong căn hầm của BC đại đội. Những ánh lửa lóe lên, những vệt đạn bay tứ phía vào không gian. Những tiếng nổ của lựu đạn, M79, trộn lẫn tiếng súng cá nhân, những tràng đại liên M60... vang lên trong hỗn loạn. Trong hoàn cảnh này, mọi lệnh lạc chỉ huy trở thành vô nghĩa. Đại đội tôi, từng được hướng dẫn về kinh nghiệm tác chiến chống đặc công mà tôi đă trải qua khi đặc công Việt Cộng đánh trường năm xưa, bây giờ họ áp dụng khá hữu hiệu.

Cảnh hỗn loạn trong bóng đêm kéo dài chỉ khoảng chừng 15 phút rồi im bặt. Để không làm lộ vị trí, chúng tôi không xử dụng liên lạc vô tuyến. Tất cả nằm yên tại chỗ chờ cho trời sáng, bất cứ ai di chuyển trên mặt đất là địch.

Buổi sáng sớm khi sương mờ chưa tan hẳn, chúng tôi bắt đầu ḅ lên khỏi hầm hố chiến đấu và kiểm tra lại pḥng tuyến. Hai cái xác trần truồng nằm tại hai vị trí khác nhau trong phạm vi đóng quân của đại đội. Quanh bụng mỗi tên là một sợi dây, đeo lủng lẳng những trái bê-ta nội hóa vỏ bằng gỗ. Một tên mà đầu, ḿnh, tứ chi lỗ chỗ vết đạn, đủ các loại, tay c̣n cầm K54. Tên c̣n lại, một đầu đạn M79 mầu vàng xuyên thủng qua lớp da bụng c̣n nằm yên trong đó chưa kịp nổ, khẩu K54 rớt cạnh đó chừng một thước. Khoảng cách bắn quá gần. Bộ đồ ḷng của cái xác đổ ra ngoài lớp da bụng, tràn xuống mặt đất đă thẫm mầu máu thành những quầng thâm đen. Rải rác đó đây vài trái bê-ta đă rút chốt nhưng không nổ. Những thân cây cao su vô cớ lănh oan những vết đạn đủ loại đang ứa những ḍng mủ trắng chảy dài xuống mặt đất đỏ. T́nh h́nh quân ta hoàn toàn vô sự. Máy PRC25 từ trung đội tiền tiêu báo về sau khi lục soát vị trí nổ của hai trái ḿn: hai xác Việt Cộng nữa với một AK, một B40. Lục soát trong người một tên có một bức thư và trung đội trưởng toán tiền tiêu sẽ cho lính đem vào sau.

Một kết quả thật bất ngờ. Toán đặc công có 4 tên với nhiệm vụ đột nhập và phá tan cái chốt án ngữ là đại đội chúng tôi để dễ dàng cho đại quân của chúng áp sát ṿng vây tiếp cận thị xă. Hai tên đặc công không mặc quần áo để khỏi vướng víu, dễ xoay sở, đă ḅ vào tới gần phạm vi đóng quân của đại đội v́ may mắn không vướng phải ḿn. Chúng đang ḍ dẫm t́m vị trí hầm hố của chúng tôi để thảy bê-ta tấn công th́ nghe hai tiếng nổ phía sau. Đó là cánh yểm trợ với một tên mang AK, một tên cầm B40. Hai tên đi sau ỷ y đă có hai tên đi trước, không ngờ lại đá phải ḿn tự động ta gài nên bỏ mạng tại chỗ. Hai tên đặc công ḅ vào tới sát tuyến bấy giờ nghe tiếng ḿn nổ có muốn quay lại cũng không kịp nữa. Trước hết, quân ta đă báo động và xuống hố sẵn sàng chiến đấu. Ḅ lại ra ngoài gây tiếng động chỉ làm mồi ngon cho ta tác xạ. Hơn nữa biết chỗ nào có ḿn, chỗ nào không mà né bây giờ. Thôi th́ liều chết xung phong. Cuối cùng th́ chúng đă đền tội: sinh bắc tử nam như ư nguyện.

Đọc lá thư t́m được trong túi tên Việt Cộng, chúng tôi mới biết đây là toán đặc công có nhiệm vụ đi t́m tin tức hai tên đă chết hôm trước. Th́ ra chúng cùng chung một toán trinh sát đặc công, có nhiệm vụ đi trước ḍ đường cho lực lượng bộ binh phía sau sắp sửa chuyển tới nay mai. Chỉ có một cái chốt án ngữ của chúng tôi, chúng chưa làm ǵ được mà đă bỏ 6 mạng người. Chúng đánh giá là đại đội đă gài ḿn dầy đặc khắp rừng cao su quanh vị trí đóng quân. Sự thật th́ với cấp đại đội chúng tôi làm ǵ có nhiều ḿn đến độ có thể rải dầy đặc mọi chỗ. Chúng tôi chỉ gài ở những vị trí mà ḿnh nghi ngờ địch quân có thể tiếp cận mà ḿnh không quan sát được, tùy theo kinh nghiệm của người chỉ huy.

Sau khi báo cáo t́nh h́nh về cho tiểu đoàn, Đạt xin được tiếp tế nước một lần nữa. Đến đây th́ tiểu đoàn mới cho Đạt hay sự thực. Ngay cả BCH/TĐ cũng như các đại đội trong thị xă, cũng gặp rất nhiều khó khăn v́ t́nh h́nh pháo kích thường xuyên. Tiểu đoàn đồng ư để đại đội cho những toán vào thị xă lấy nước từ giếng trong các xóm nhà dân nhưng ra vào cổng nam thị xă phải có dấu hiệu nhận bạn cũng như phải thật cẩn thận khi di chuyển và coi chừng đạn pháo kích. Đạt và tôi cùng bàn bạc. Không có nước coi như chết nhưng đi lấy nước kiểu này cũng không phải là dễ dàng.

Sau khi gọi máy cho các trung đội, Đạt khuyến cáo hạn chế xử dụng nước tối đa và chỉ khi nào thật cần thiết sẽ có lệnh cho các trung đội cắt người về đại đội, tập trung thành toán đi lấy nước chung.

Một ngày lại từ từ trôi qua chậm chạp. Bóng tối bắt đầu bao phủ mọi cảnh vật. Những hạt sương đêm sa xuống bám vào những tấm Poncho trải trên mặt đất, trên nóc hầm. Những luồng gió lạnh thỉnh thoảng thổi qua, xua đi những căng thẳng ngột ngạt ban ngày. Từ trong thị xă vẫn vọng ra tiếng đạn pháo kích nổ ́ ầm. Chưa biết rồi đây số phận chúng tôi sẽ ra sao. Trong trận chiến quy mô tới cấp sư đoàn như thế này, đại đội chúng tôi chỉ là con chốt thí v́ sự an nguy của đại đơn vị bên trong. Muốn tồn tại, chúng tôi phải thật b́nh tĩnh, tỉnh táo để nhận định t́nh h́nh và t́m phương cách ứng phó tốt nhất cho ḿnh.

Tôi thiếp đi và đang mơ màng trong giấc ngủ th́ những tiếng ḿn nổ kế tiếp nhau vang dội trong khu rừng cao su. Nhào xuống hầm chỉ huy th́ anh lính gác cho biết anh nghe có nhiều tiếng leng keng như tiếng chuông của mấy cái xe bán cà-rem. Anh đang thắc mắc đó là cái âm thanh ǵ, tại sao lại có giữa đêm khuya trong rừng cao su này, th́ những tiếng ḿn nổ liên tiếp vang dội làm anh không c̣n suy nghĩ ǵ được nữa. Lại báo động, lại súng đạn vào vị trí chờ đợi. Chỉ có thế. Địch dám tấn công th́ ta sẽ trả lễ. Bằng không chỉ yên lặng chờ đợi đến sáng rồi tính.

Ánh sáng ban mai vừa hé dạng, toán tiền tiêu đă cho lính ra lục soát. Sáu cái xác trâu đen nhùi nhũi nằm rải rác chung quanh cái chốt không xa. Trong số đó có một con trâu cổ có đeo một cái ṿng lục lạc. Mỗi khi di chuyển tiếng chuông từ ṿng lục lạc đeo trên cổ sẽ phát ra cái tiếng leng keng. Ngoài 6 cái xác trâu, chúng tôi không t́m thấy ǵ khác. Th́ ra, bọn Việt Cộng đă quá ớn những trái ḿn tự động gài của chúng tôi nên đă vào ấp dân gần đó lùa bầy trâu đi chết thế mạng, cũng như nhằm phá bớt số ḿn bẫy của chúng tôi.
Tới giai đoạn này, Đạt và tôi đánh giá t́nh h́nh bắt đầu cận kề nguy hiểm. V́ nhu cầu chuyển quân áp sát ṿng vây vào thị xă, chúng sẽ bằng mọi cách bứng cái chốt của chúng tôi. Vấn đề chỉ là sớm hay muộn.

Đúng như dự đoán. Khi mặt trời vừa tỏ rơ, bọn Việt Cộng lùa quân từ hướng tây tiến vào. Chúng ẩn ḿnh sau những xác trâu, chĩa súng bắn vào toán tiền tiêu của đại đội. Thoạt đầu lính ta có bắn ra trả đũa. Nhưng Đạt gọi máy cho Trung đội trưởng ra lệnh không cho bắn để tiết kiệm đạn dược v́ có bắn cũng chả trúng ai. Hai bên cứ thế ŕnh nhau. Đến xế trưa, một cánh quân khác của Việt Cộng, từ hướng nam nhắm vành đai thị xă tiến tới. Chúng di chuyển trong khoảng giữa đại đội và toán tiền tiêu, cách chúng tôi chỉ chừng 100m. Phản ứng tự nhiên là lính ta dương súng bóp c̣. Phải thú thật đây là lần đầu tiên tôi thấy Việt Cộng ngay trước mắt và nhiều như vậy.

Chúng lúc đầu có bắn trả. Nhưng cuối cùng cả hai phe đều ngưng không thèm tác xạ nữa. Lư do cũng đơn giản. Bọn Việt Cộng di chuyển bằng cách vọt từ gốc cao su này đến gốc cao su khác. Lính ta khi thấy bóng một tên xuất hiện, từ lúc đưa súng lên nhắm đến lúc bóp c̣ và khi viên đạn ra khỏi ṇng th́ tên Việt Cộng đă ẩn ḿnh sau một gốc cây khác mất rồi. Chỉ c̣n cách bắn hú họa chận đầu th́ may ra! Việt Cộng cũng vậy, chúng bắn quân ta có vị trí ẩn núp tốt trong hầm hố th́ mong trúng được ai. Tóm lại, ta không bắn địch v́ tiết kiệm đạn, để pḥng tới giờ phút tối cần, khi địch ồ ạt xung phong tấn công, ta c̣n đủ đạn mà chống cự. C̣n bọn Việt Cộng, mục đích trước mắt của chúng là áp sát vành đai thị xă. Chúng tạm bỏ qua cái chốt nhỏ cấp đại đội của chúng tôi để tránh thiệt hại nhân mạng. Bởi nếu thực tâm chúng muốn nhổ, muốn bứng, muốn tiêu diệt đại đội chúng tôi, chúng có thừa khả năng và quân số để áp đảo. Tất nhiên để đạt được mục đích chúng sẽ phải tổn thất vài trăm mạng là chuyện dĩ nhiên. Bỏ chúng tôi ở đây, áp sát ṿng đai thị xă cũng là cách cắt đứt và cô lập chúng tôi với đơn vị lớn bên trong; chúng tôi cũng sẽ không c̣n khả năng kháng cự được bao lâu.

Bước qua ngày thứ năm th́ có một biến chuyển mới. H́nh như Bộ chỉ huy của một đơn vị cấp lớn Việt Cộng di chuyển từ hướng đồn điền Xa Trạch lên để có thể trực tiếp nắm t́nh h́nh hầu dễ điều động đám bộ binh đang bám sát vành đai thị xă. Vị trí đại đội tôi là cái gai trong mắt chúng. Đúng giữa trưa, chúng bắt đầu mở cuộc tấn công vào tuyến chúng tôi. Trước hết chúng pháo súng cối 82 và 61 ly vào vị trí đại đội đóng quân. Nhờ hầm hố chúng tôi có nắp kiên cố nên không bị chút thiệt hại nào đáng kể. Sau vài chục trái cối mở đầu, chúng cho bộ đội dàn hàng ngang xung phong. Nhờ những trái ḿn tự động cũng như hàng ḿn có dây điều khiển, đợt xung phong của chúng bị bẻ gẫy ngay từ những phút đầu. Từ trong pḥng tuyến, chúng tôi xả ra những tràng đại liên, M16, M79 nhằm chận lại bất cứ kẻ nào dám liều mạng tiến về phía chúng tôi. Có những bóng người đổ xuống từ xa. Một hồi kèn vang lên, bọn chúng từ từ rút về phía sau. Kiểm điểm lại, chúng tôi không có chút thiệt hại nào ngoại trừ số đạn dược đă bắn ra, những trái ḿn đă nổ. Lợi dụng bọn chúng thu quân, Đạt cho lính ḅ ra thay những trái ḿn mới vào những chỗ cần thiết. Chắc chắn chúng không dễ dàng chịu thua. Chúng đang “điều nghiên” để t́m cách nhổ cỏ tụi tôi.

Đạt bốc máy gọi về tiểu đoàn báo cáo t́nh h́nh đồng thời xin bổ xung đạn dược v́ nếu t́nh trạng này kéo dài, khả năng cầm cự của đại đội rất mỏng manh. Trong t́nh h́nh hiện nay, quân ta hoàn toàn chiến đấu dựa vào súng đạn cơ hữu c̣n lại được cấp phát của đơn vị. Yểm trợ bằng pháo binh ở đây không có. Mấy khẩu 105 ly pháo binh diện địa và pháo binh cơ hữu của sư đoàn đặt trong tỉnh lỵ đă bị vô hiệu. Phản pháo th́ không tới v́ pháo địch đặt xa ngoài tầm tác xạ của 105 ly.

Mọi sự yểm trợ chỉ c̣n trông nhờ vào không quân của ta và của Mỹ. Từ những phi vụ Skyraider, A37, hoặc những chuyến bay từ ngoài hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ vào thả bom, những chiếc C130, C123 hàng đêm rải đạn đại bác 105 ly hay bắn M79 từng tràng xuống vị trí nghi ngờ có địch, đến những chiếc máy bay vận tải thả dù tiếp tế và cả những chiếc trực thăng liều lĩnh đáp xuống cổng nam để tải thương…

Đúng như dự đoán, trời vừa sập tối, bọn Việt Cộng mở cuộc tấn công đợt nh́. Lần này, chúng pháo phủ đầu thật dữ dội bằng hàng chục trái cối rải đều khắp tuyến pḥng thủ. Một số hầm đă bị sạt lở, hư hại. May mắn là không có ai bị thương nhưng tinh thần binh lính th́ rất căng thẳng, đang chờ đợi đợt xung phong của địch sắp bắt đầu. Đạt đă gọi về tiểu đoàn báo cáo t́nh h́nh ngay từ những trái pháo đầu tiên rót vào vị trí.

- Nam Sương, Nam Sương, đây 45 gọi. Nghe rơ trả lời.
Một giọng nói vang lên trong cái loa của máy truyền tin. Đạt vội vàng chụp lấy ống liên hợp trả lời:
- 45 đây Nam Sương. Tôi nghe 45 năm trên năm.
45 là danh hiệu truyền tin của Tư lệnh Sư Đoàn, Đại tá Lê Văn Hưng (Tháng 3/72 ông c̣n mang cấp Đại tá).
- Cho qua biết t́nh h́nh chỗ em thế nào?
- Tŕnh 45, bọn nó đang đốt pháo bông mừng chúng tôi và sắp sửa cho em út đến dọn nhà.
- Tụi nó cách vị trí em bao xa?
- Chỉ chừng ba tờ về hướng nam.
- Được rồi, nói con cái yên tâm. Qua sẽ cho đốt lửa chào mừng tụi nó. Em đọc tọa độ đi.

Đạt bấm chiếc đèn pin dọi lên tấm bản đồ. Lấy cây bút ch́ mỡ màu đỏ, chấm cái vị trí quân địch và bắt đầu đọc:

- Tŕnh 45, đây là tư tưởng đống đa (tọa độ), chuẩn Hồng Hà, trái 20, xuống 40. Tôi lập lại, trái 20, xuống 40.
- Qua nhận rơ. Con chim sắt chừng 10 phút nữa sẽ tới điểm. Cố quan sát thật kỹ rồi cho qua biết. Qua sẽ điều chỉnh nếu cần.

Đạt đưa ống liên hợp cho gă âm thoại viên, đứng tḥ đầu ra khỏi miệng hầm quan sát một lúc th́ có tiếng động cơ ù ù trên đầu. Chỉ trong chốc lát, một tiếng rít như gió hú từ trên không trung ập xuống kèm theo những tiếng ầm ầm của những trái bom Napalm chạm vào mặt đất. Qua màn đêm tối mù, một cột lửa đỏ bùng lên, cách vị trí đại đội chừng nửa cây số.

- 45 đây Nam Sương gọi. 45 đây Nam Sương gọi.
- Nam Sương, 45 nghe.
- Xin điều chỉnh, về bắc 200.
- Qua nghe rồi, có gần chỗ em quá không?
- Xin 45 yên tâm, nhà chúng tôi có mái khá tốt. Cứ cho con rồng phun lửa gần lại mới thiêu chúng nó được.
- OK, qua nhận. Sẽ chỉnh ngay.

Không đầy 2 phút, chiếc máy bay lại rít lên và nhào xuống một lần nữa. Một luồng lửa đỏ chạy dài từ đông sang tây cả trăm thước, tính từ QL13 sâu vào khu rừng cao su Xa Cam, đúng ngay cái vị trí đóng quân mà chúng tôi đoán là BCH của Việt Cộng. Trong đêm tối, chúng tôi không nhận ra h́nh dạng chiếc máy bay. Chắc đó là một phản lực cơ oanh tạc của hạm đội Hoa Kỳ ngoài khơi bay vào yểm trợ mặt trận B́nh Long.
Sau đợt thả bom lần nh́, chiếc máy bay vút lên không trung và mất tăm trong màn đêm dầy đặc.

- 45 đây Nam Sương gọi.
- Qua nghe.
- Tŕnh 45, rồng phun lửa tuyệt đẹp. Ngay chóc luôn. Cám ơn 45 đă quan tâm em út.
- Vậy là tốt rồi. Cố gắng vận động con cái, giữ vững tinh thần. Phải giữ An Lộc bằng mọi giá hiểu không?
- Nhận rơ 45.

Cuộc điện đàm chấm dứt. Cuộc tấn công đại đội đang chờ đợi không diễn ra. Đạt chờ thêm nửa tiếng nữa không thấy động tĩnh ǵ mới cho chấm dứt báo động. Nửa đêm, trời bỗng nổi cơn giông. Gió thổi tứ phía và trên không những ánh chớp lóe lên liên tục kèm theo những tiếng sấm gầm vang dội khắp khu rừng cao su mênh mông. Không ai bảo ai, chúng tôi trải những tấm Poncho dài trên mặt đất chuẩn bị hứng những giọt nước trời ban. Nước với chúng tôi lúc này vô cùng quư giá. Con người có thể nhịn ăn năm ba ngày nhưng không thể thiếu nước quá một ngày. Qua màn đêm đen thẳm, chúng tôi không thể thấy những đám mây dầy đặc kéo tới lúc nào nhưng những hạt mưa đang bắt đầu trút xuống. Những giọt mưa xuyên qua lớp lá cây cao su trên vị trí đóng quân, rớt xuống đất, xuống những tấm Poncho đám lính đang trải trên miệng hầm, trên những hố trũng... Cả đại đội, tuy âm thầm nhưng gần như ai cũng tỉnh táo hẳn lên. Lính tráng rất lẹ làng, trong bóng đêm, ḅ sát tới những điểm nước trời cho, múc vội những ca nước trút nhanh vào những bi-đông, những cái b́nh mủ đựng nước đă cạn queo mấy ngày nay, không quên tự thưởng cho ḿnh những ngụm nước mưa mát rượi sau những ngày nhịn khát v́ dè xẻn, tiết kiệm nước theo lệnh Đạt. Trận mưa kéo dài không lâu v́ cơn giông mạnh đă đuổi đi những đám mây vần vũ. Cũng tạm đủ nước cho chúng tôi trong vài ngày không phải lo lắng.

Buổi sáng ngày thứ sáu đă bắt đầu hé dạng. Cái tiểu đội chốt cách vị trí đại đội hơn trăm mét về hướng nam, tối hôm qua, trước khi điều chỉnh máy bay thả bom Napalm, Đạt v́ an toàn đă cho rút về. Bây giờ, chúng tôi chỉ c̣n quan sát địch từ ngay vị trí pḥng thủ của đại đội. Tầm quan sát trong rừng cao su thường rất hạn chế. Xa xa, chỗ dội bom hôm qua, chúng tôi chỉ nh́n thấy những thân cây cao su cháy xám đen, trụi lá. Khúc này, ánh sáng từ bầu trời không bị lá cây cao su che phủ nên rọi xuống mặt đất khiến khu rừng như sáng hẳn ra. Những khúc rừng c̣n lại, càng về xa càng mờ mờ u ám. Bọn Việt Cộng có lẽ c̣n sớm cũng chưa thấy động tịnh. Các trung đội hỏi xin khói lửa nấu ăn. Đạt vẫn một mực gạo sấy nước lạnh. Chúng tôi không sợ lộ điểm v́ nấu nướng khói bay lên. Vị trí chúng tôi địch đă quá rơ. Không cho nấu nướng chỉ v́ Đạt muốn mọi người tập trung quan sát đề pḥng v́ địch đang bám sát chung quanh. Chúng đang ŕnh rập ta sơ hở để đột kích bất ngờ.

Qua cái khoảng trống chỗ đêm qua máy bay thả bom, chúng tôi không thấy bóng dáng tên Việt Cộng nào di chuyển qua lại. Khác hẳn với cảnh buổi chiều hôm trước khi chúng chuẩn bị tấn công xóa sổ đại đội tôi, khu rừng bây giờ hoàn toàn im ả. Có lẽ đợt bom bất ngờ tối qua đă gây thiệt hại cho chúng không nhỏ. Đạt và tôi trao đổi t́nh h́nh và cũng cảm thấy nhẹ thở phần nào. Chưa được bao lâu, trung đội tiền tiêu gọi máy về cho biết phát hiện địch đang di chuyển ngang qua vị trí bằng cách chạy nhanh qua những gốc cao su để áp sáp vào ṿng đai thị xă. Từ vị trí chúng tôi nh́n ra, chúng tôi cũng nh́n thấy những tên Việt Cộng đang lúp xúp chạy băng qua những gốc cao su. Trên vai, chúng mang những ḥm gỗ. Có lẽ đó là đạn dược hay đồ tiếp liệu dùng cho cuộc bao vây. Đạt không cho phép lính tác xạ để tiết kiệm đạn, trừ khi chúng tấn công trực diện vào tuyến. Cứ thế, mạnh ta ta ngó, mạnh địch địch đi. Tuy chúng không có ư định tấn công lúc này nhưng chúng tôi hiểu, chúng đang ŕnh rập chúng tôi thật kỹ. Chúng đặt những cái chốt bám sát chúng tôi; có những tên canh pḥng, leo lên những nhánh cây cao su quan sát mọi hoạt động của đại đội chúng tôi từ xa. Chỉ cần sơ sảy, lơ là là chúng ập tới tấn công ngay. Do đó, tuy t́nh h́nh tạm ổn nhưng chúng tôi lúc nào cũng căng thẳng tinh thần.

Nguyên một ngày một đêm trôi qua trong yên tĩnh. Sáng ngày thứ bẩy bắt đầu với một không khí u ám lạnh lẽo. Cả tuần nay, chúng tôi phải bỏ đi cái thói quen nằm vơng. Hàng đêm, chúng tôi trải Poncho nằm dài trên mặt đất sát cạnh miệng hầm. Có động tĩnh là phóng ngay xuống hố để phản ứng cho kịp. Th́nh ĺnh từ tuyến pḥng thủ từ hướng nam có tiếng lao xao.

- Có Việt Cộng đang chạy về phía ḿnh.

Tiếng một anh lính la lên hốt hoảng. Mọi người nhào xuống hố cá nhân. Đang đứng cạnh hầm chỉ huy của đại đội, tôi đưa mắt nh́n về phía có bóng người đang chạy lại. Một tràng đạn M16 nổ vang. Tôi thấy 2 bóng người chạy lại gần hơn. Người chạy trước dơ hai tay cao trên đầu, không có mang vũ khí, bóng người sau đó chừng chục thước không rơ lắm.

- Đừng bắn...

Bóng người chạy phía trước la lớn. Cũng may cho hắn, tràng M16 mà anh lính bắn v́ phản ứng quá gấp rút nên không chính xác. Cái bóng ngă bổ nhào xuống mặt đất trong ṿng đai đóng quân đại đội.

Mọi việc diễn ra quá nhanh chóng. “Không lư mấy tên Việt Cộng này chạy về phía ta xin chiêu hồi?”. Một ư nghĩ thoáng qua đầu tôi. Tôi chưa kịp thốt ra cái lệnh “Không được bắn” th́ một tiếng nổ “Uỳnh” vang lên ngay hướng bóng người thứ nh́ đang chạy vào. Một đám khói đen bốc lên kèm theo những tiếng cành cây găy rơi lộp độp trên mặt đất. Tên này xui xẻo, đá ngay trái ḿn Claymore tự động của chúng tôi. Tiếng rên la trong đau đớn vang lên thê thảm giữa rừng cao su. Đúng lúc này, cái người chạy được vào tới tuyến chúng tôi ngồi bật dậy. Anh ta cho biết anh là lính địa phương quân thuộc Chi khu Chơn Thành. Trung đội anh nằm tiền đồn và bị Việt Cộng tấn công tan tác. Anh và một đồng đội thoát được, t́m cách chạy về thị xă. Gần tới vị trí đại đội tôi, anh bị một toán Việt Cộng phát hiện và truy đuổi. Nghe anh kể, chúng tôi mới nhận ra cái phù hiệu con rùa ĐPQ trên vai áo của anh. Trong cái khu rừng cao su đất đỏ này, màu xanh của áo trận giữa ta và địch khó có thể phân biệt v́ chúng đă trộn lẫn thành mầu đỏ đất. Quân ta bắn quân bạn! Anh lính may mắn thoát chết th́nh ĺnh vùng dậy, nhào người định chạy ra ngoài tuyến, nơi người bạn anh đang nằm rên la trên mặt đất. Mấy người lính ôm chặt anh lại.

-Không ra được đâu. Tụi Vi Xi nằm đầy ngoài đó. Anh chưa ra tới nơi, chúng nó đă “dzớt” anh rồi. Vả lại, bạn anh bị ḿn kiểu đó, có đem vào cũng không cứu được đâu!

Anh lính ĐPQ bật lên tiếng khóc hu hu. Anh khóc v́ ḿnh thoát chết trong cảnh éo le. Anh c̣n sống mà phải chứng kiến bạn ḿnh nằm đó chờ chết, rên la trong đau đớn tuyệt vọng nhưng anh và mọi người đều bất lực.

Chờ anh ta nguôi ngoai một chút, Đạt kêu anh ta lại và hỏi thăm t́nh h́nh trên đường. Anh cho biết, để vào được tới đây, anh và người bạn đă phải thoát qua nhiều lớp đóng quân của Việt Cộng. Anh cho biết, chúng nó quân số rất đông, chỗ nào cũng có. Đạt bốc máy báo về tiểu đoàn. Cơn mưa đêm ngắn ngủi vừa qua cũng chỉ đem lại cho chúng tôi ít nước vừa đủ trong hai ngày tằn tiện. Như vậy, chúng tôi đă bị chúng bao vây chặt. Không cần tấn công, chúng tôi cũng sẽ trở thành bất khiển dụng trong nay mai. Không thể chết trong t́nh trạng bị cô lập này. Tôi bàn với Đạt. Cuối cùng, Đạt lên máy gọi về xin gặp tiểu đoàn trưởng trên tần số hẹn.

Với t́nh thế này, trong khả năng của ḿnh, tiểu đoàn cũng chẳng có cách nào giúp đại đội tôi được. Nằm yên tại chỗ, chắc chắn tụi tôi sẽ tiêu. Sau một lúc đắn đo, tiểu đoàn trưởng đồng ư cho chúng tôi rút vào thị xă, kèm theo một lệnh. Trước khi rút, phải phá bỏ mọi hầm hố có nắp, v́ nếu có lệnh bắt chiếm lại vị trí đă bỏ mà hầm hố c̣n nguyên vẹn th́ sự tổn thất sẽ khó có thể lường được. Lệnh được truyền xuống cho các trung đội. Kế hoạch là trung đội tiền tiêu bắt đầu rút trước và băng qua vị trí đại đội khoảng 100m th́ dừng lại, bố trí yểm trợ cho đại đội rút. Cứ thế rút theo đội h́nh nấc thang. Một trung đội được lệnh nằm lại chịu rút sau cùng, cho kéo sẵn hết mấy ống M72. Trước khi rút sẽ phóng hết số M72 đó về phía bọn Việt Cộng bám theo, cũng như có bao nhiêu ḿn Claymore giăng ngoài tuyến đều bấm cho nổ hết.

Đúng theo kế hoạch, khi những hầm hố vừa được phá bỏ, trung đội tiền tiêu cho một tiểu đội chịu lại, phóng những trái M72 về phía địch, bấm những trái ḿn dây căng sẵn ngoài tuyến rồi vừa nổ súng cá nhân vừa rút. Bọn Việt Cộng quả thật bám sát và canh pḥng chúng tôi rất kỹ. Thấy chúng tôi bắt đầu loay hoay phá hủy hầm hố, chúng đoán ngay chúng tôi đang chuẩn bị rút. Đang chuyển vũ khí đạn dược, chúng cho lệnh bám sát đuổi theo. Những trái đạn cối 82, 61 ly bắt đầu rót vào vị trí chúng tôi. Một trái rớt ngay trên nắp cái hầm BC đại đội mà lính tôi vừa mới phá. Trái đạn trúng một khúc cao su, nổ tạt miểng về phía bên kia. Một làn hơi nóng rát, phả trùm vào mặt tôi. Cái sức ép của thuốc nổ đẩy tôi ngă ngửa xuống mặt đất. Loạng choạng mất vài giây, tôi lồm cồm đứng dậy. Không có th́ giờ để quan sát thêm, chỉ biết là ḿnh may mắn v́ dù trái cối nổ sát cạnh nhưng tôi lại ở phía sau tầm sát hại. Những cái miểng cối khi nổ đều bắn về phía trước. Tôi chỉ bị sức dội và hơi nóng đẩy té xuống đất mà thôi. Trung đội tiền tiêu đă rút qua khỏi vị trí đại đội. Những tiếng hô xung phong vang dội khắp khu rừng cao su. Nhưng tiếng đạn bay chíu chíu trên không hay chạm vào lá cây cao su phát ra những âm thanh tạch tạch. Những trái B40, B41 chạm vào những thân cao su bùng ra những tiếng nổ ầm ầm kèm theo những cuộn khói đen khiến khung cảnh rút quân như lẫn trong hỗn loạn.

Trung đội nằm chịu lại bắt đầu phóng ra những trái M72 dương sẵn về hướng bọn giặc đang nhào tới. Những con cóc ḿn được bóp khai hỏa, những tiếng Claymore nổ vang dội, những bóng người đổ xuống. Những bóng đen khác vẫn cứ tràn lên, những tràng đại liên M60, những trái M79, những loạt đạn M16 đồng loạt vang lên. Trước hỏa lực quá khủng khiếp, bọn người đang truy đuổi phải khựng lại, nằm bẹp sát mặt đất. Lợi dụng cơ hội này, trung đội sau cùng nhớm lên và rút thật lẹ theo hướng ra QL13. Phía sau không xa, toán đi trước cũng đă cho người nằm lại để yểm trợ cho trung đội cuối cùng này rút qua mặt. Chúng tôi cứ thế kéo ra tới đường nhựa của QL13. Gần tới quốc lộ bọn Việt Cộng không c̣n bám theo nữa. Chỉ có những trái cối pháo theo hú họa. Chúng tôi kiểm điểm lại, thật là may mắn, chỉ có một Hạ sĩ bị thương ở cánh tay do miểng đạn súng cối. Phần đám Việt Cộng, có lẽ qua đợt truy kích vừa rồi số tổn thất của chúng không phải là nhỏ. Chúng đă phạm một lỗi lầm lớn. Chúng ép chúng tôi vào con đường t́m đường sống qua kẽ chết. Bằng mọi giá chúng tôi phải vùng lên, phải liều. Chúng tôi liều có kế hoạch, đúng bài bản và nhất là trong tinh thần kỷ luật cao độ. Nhờ đó chúng tôi rút lui an toàn. Những nguy hiểm kề cận đă khiến mọi người quên đi mọi mệt nhọc trên đường rút lui. Giờ có được b́nh yên, mọi người mới thấy đuối sức. C̣n cả cây số nữa mới vào tới phạm vi tỉnh lỵ. Không ai bảo ai, mọi người đều hối hả rảo bước trên mặt đường quốc lộ.

Vừa qua khỏi lớp hàng rào chướng ngại vật ở cổng nam An Lộc, chúng tôi đă nghe thấy những tiếng hú của những trái đạn pháo đang rót vào thị xă. Bất kể ngày đêm, từ các hướng bắc, tây bắc, tây... chúng bắn vào đây đủ loại đạn đại bác 130 ly, hỏa tiễn 122 ly... Chúng thỉnh thoảng chêm vào những trái đạn xuyên phá hầm. Loại đạn này chạm mục tiêu không nổ. Với sức xoáy của trái đạn được phóng từ một khoảng cách xa cả vài chục cây số, tới mục tiêu, chạm mặt đất chúng khoét những hố sâu hoắm. Khó có hầm hố nào chịu nổi mà không sập nếu những trái đạn loại này rớt ngay hoặc gần sát. Lúc đầu, chúng tôi ngồi trong hầm nghe tiếng đạn rớt và cảm thấy đất rung chuyển nhưng không có tiếng nổ, chúng tôi tưởng đạn lép. Đến khi thấy sự tác hại của chúng mới hiểu ra.

Vào được tới nơi an toàn, không đợi lệnh lạc, cả đám lính cởi ba-lô, bỏ súng đạn một bên nằm dài trên mặt đất thở dốc để lấy lại sức, mặc cho những trái đạn pháo muốn hú, muốn rơi chỗ nào cũng mặc. Họ quá mệt, không c̣n sức để né tránh nữa. Mặc cho lính tráng nghỉ ngơi một lúc, Đạt liên lạc với tiểu đoàn rồi cho lệnh di chuyển đến vị trí đóng quân. Trung đội đầu rẽ trái, cặp theo sân vận động thị xă đi về hướng tây. Cả đại đội đang hàng dọc cất bước, một tiếng bung binh từ xa vang lên. Chỉ chốc lát, tiếng trái đạn pháo rít ngay trên đầu rồi chỉ kịp nghe xè... xè.. xẹt và tiếp theo là tiềng uỳnh vang dội cách hàng quân không đầy vài thước. Phản ứng tự nhiên, đám lính với ba-lô c̣n đang trên lưng, tay vẫn ôm súng, phóng vội ép sát thân ḿnh vào mặt đất để tránh những miểng pháo đang văng ra tứ phía. Th́ ra từ khi kéo về B́nh Long tới giờ, chúng tôi mới chính thức nếm mùi pháo kích. Cả tuần lễ năm ngoài rừng cao su, chúng tôi chỉ nếm đạn pháo của súng cối mà thôi. Cứ thế đại đội lại tiếp tục di chuyển đến vị trí đóng quân. Chúng tôi được bố trí pḥng thủ một phần của mặt nam của thị xă, cách cổng nam chừng hơn trăm thước và trải dài về hướng tây, bắt tay với đại đội 8 tại đồn Cảnh sát Dă chiến của tỉnh. Trước mặt chúng tôi là con lộ đá chạy dài về hướng tây dẫn vào căn cứ Lam Sơn, nơi đặt BCH/TĐ. Phía ngoài con lộ trải đá là những lớp hàng rào kẽm gai, những lớp concertina rải bùng nhùng xen lẫn bên trên, bên dưới là những trái ḿn gài đủ loại: chống người, chống chiến xa... Ngoài nữa là một giao thông hào khá rộng và sâu được xe công binh đào từ lâu nên cỏ mọc um tùm che kín những chướng ngại vật dưới đáy, ḿn bẫy v.v... nhằm ngăn chận chiến xa địch thâm nhập vào thị xă. Bên kia cái giao thông hào là một khoảng đất trống chừng vài trăm thước, trước kia đă được khai quang để các đơn vị pḥng thủ bên trong có thể quan sát dễ dàng mọi sự tiến quân của địch vào thị xă. Ngoài cái vùng đất trống đă bị khai quang đó là rừng cao su bạt ngàn của đồn điền Xa Cam mà đại đội tôi vừa từ đó rút về đây. Khu đóng quân của chúng tôi thuộc phạm vi quân sự nằm cạnh đồn Cảnh sát Dă chiến nên không có dân cư ngụ. Đạt cho lính đào hầm hố dài và sát theo con lộ trải đá. BC đại đội đóng phía sau một căn nhà, có lẽ là của gia đ́nh mấy anh cảnh sát đồn bên cạnh. Họ đă bỏ đi đâu và hồi nào không biết. Bên hông nhà có một giếng nước khá sâu nhưng lúc nào cũng có nước. Cả đại đội cảm thấy thật hạnh phúc v́ không phải đi xa lấy nước, nhất là trong hoản cảnh này. Thấy phía sau bức tường nhà có sẵn một cái hầm nên chúng tôi chọn để đặt BC đại đội. Mấy tên đệ tử chỉ cần kiếm thêm ít cây đà gỗ và một số vật dụng lượm lặt dựng phía bên trên là chúng tôi có một cái hầm với hai lớp nóc khá vững chắc. Nó đă giúp chúng tôi, cả gần chục mạng chui xuống, ép sát vào nhau để thoát qua nhiều đợt pháo dữ dội. Cũng may, đă không có trái nào rơi đúng miệng hầm! Chúng tôi đă giữ vị trí này cho tới rạng sáng 14 tháng 4 năm 1972.

Trong suốt thời gian hơn một tháng trời tại đây, bọn Việt Cộng từ ngoài khu rừng cao su thường dùng dàn thun bắn những trái lựu đạn mini, khi th́ lựu đạn nổ, khi th́ lựu đạn hơi cay hoặc câu vào những trái B40, B41 thậm chí cả M79 nữa vào pḥng tuyến chúng tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng trả lễ bằng những tràng đại liên M60, những trái M79. Tuyệt nhiên không một phát súng cá nhân AK hay M16. Súng cá nhân trong t́nh huống này gần như vô hiệu quả nên cả hai bên đều không xài tới. Một buổi sáng sớm, Đạt cầm cái xẻng ra phía sau nhà làm chuyện vệ sinh, từ ngoài rừng cao su, bọn Vẹm phóng vào một quả M79. Sau tiếng nổ, tôi thấy Đạt chạy vào, từ trên miệng hầm tḥ mặt vào nói với tôi:

- Tao bị thương rồi.

Chỉ có thế. Tôi chưa kịp nh́n và hỏi thăm xem vết thương thế nào th́ Đạt đă khuất dạng. Nửa tiếng sau, TĐ trưởng gọi máy xuống muốn gặp ĐĐ trưởng. Tôi báo cáo sự việc Đạt bị thương. Cuối cùng th́ tiểu đoàn cũng được tin Đạt đă chạy ra cổng nam và leo lên trực thăng tản thương về Lai Khê rồi. Tôi được lệnh xử lư chức vụ ĐĐ trưởng.

V́ pháo binh ta không thể xử dụng, mọi yểm trợ cho bộ binh của ta đều nhờ vào không quân. Từ những phi vụ thả dù tiếp tế, trực thăng tản thương đến máy bay C123, C130 hàng đêm rải đại bác 105 ly, bắn M79 vào những vị trí nghi ngờ có địch, B52 thả bom cỡ nhỏ, những phản lực cơ oanh tạc từ Hạm đội Hoa Kỳ ngoài khơi bay vào, những phi tuần A37, Skyraiders của Không quân Việt Nam... tất cả đă tỏ ra rất hữu hiệu giúp quân ta giữ vững tinh thần chiến đấu và cuối cùng đă bẻ găy mọi đợt tấn công của chúng vào thị xă An Lộc.

Chỉ trong ṿng 3 tháng từ khi bọn Việt Cộng mở màn cuộc tấn công vào tỉnh lỵ nhỏ bé này, không một mái nhà nào trong thị trấn này c̣n nguyên vẹn. Số lượng đạn chúng pháo vào An Lộc không biết bao nhiêu mà kể. Nội trong đêm 13/4/1972, chúng bắt đầu pháo từ 6 giờ chiều đến 6 giờ sáng ngày hôm sau, 12 tiếng liên tục, hơn 10.000 trái đạn!

Trong lúc mọi người gần như ù tai v́ những tiếng nổ của đủ loại đạn pháo th́ chúng cho chiến xa T54, PT76 ồ ạt băng giao thông hào, ủi sập các chướng ngại vật, cán qua hàng rào pḥng thủ tràn vào tỉnh lỵ. Khi nghe tiếng động cơ gầm rú, tiếng xích xe cán rầm rập trên con lộ đá, tôi leo ra khỏi hầm để quan sát. Chỉ có mấy chiếc xe tăng đang chạy về hướng chúng tôi trên con lộ đá từ hướng tây, không thấy bóng một tên bộ đội nào phía sau cả. Tôi bốc máy ra lệnh cho các trung đội cho con cái ra khỏi hầm hố, t́m cách bám theo và tiêu diệt xe tăng. Loại súng duy nhất có thể xử dụng là những ống phóng M72 mà chúng tôi thường dùng để phá hầm, phá công sự pḥng thủ. Chả biết chúng có công hiệu để diệt xe tăng với lớp thép dày hay không nữa. T́nh thế khẩn cấp trước mắt, không c̣n cách nào khác hơn. Chiếc T54 đang lù lù tiến sát, nó cán sập một căn hầm mà lính đại đội vừa ra khỏi. Một anh lính bạo dạn kéo ống M72 nhắm pháo tháp bóp c̣. Một tiếng nổ lớn, một luồng khói trắng tuôn ra đằng sau ống phóng, trái đạn bay về phía trước chạm một bên cái pháo tháp rồi bay mất tiêu! Cái xe không xuy xuyển vẫn tiếp tục ủi tới. V́ không có bộ đội tùng thiết, mấy tên trên xe tăng núp kín trong thùng xe không thấy ló mặt ra ngoài. Một anh lính khác, kéo cây M72 chạy ṿng qua hông nhắm vào bánh xích bóp c̣. Lại một tiếng nổ vang dội. Chiếc T54 khựng lại một chút rồi chồm lên lao mạnh về phía trước ủi sập bức tường nhà mà phía sau là cái hầm của BC đại đội. Cái ṇng dài của khẩu đại bác 100 ly trên pháo tháp xuyên thủng qua lớp tường bên kia gác cái ṇng dài trên nóc cái hầm mà tôi vừa leo lên chưa được bao lâu. Chiếc xe tăng nằm kẹt tại chỗ nhưng tiếng máy càng rú dữ tợn hơn. Coi bộ M72 không phải là vũ khí diệt tăng hiệu quả. Một anh lính khác lợi dụng xe đang kẹt, leo lên tận pháo tháp đang t́m chỗ trống thẩy lựu đạn vào th́ th́nh ĺnh nắp pháo tháp có tiếng lịch kịch từ bên trong. Anh lính né sang một bên, chĩa súng và quan sát chờ đợi. Cái nắp pháo tháo được từ từ nâng lên từ bên trong. Hai bàn tay rồi cánh tay, cái đầu và cuối cùng một anh bộ đội run rẩy chui lên khỏi ḷng xe. Anh ta cho biết c̣n một tên nữa. Sau đó tên này cũng leo ra khỏi xe. Cả hai tên bộ đội c̣n rất trẻ, chưa tới 20, người trắng trẻo nhưng nước da tái xanh. Chúng cho biết đúng ra tổ xe tăng có 3 người tất cả. Tên thứ ba mới bị miểng bom A37 của ta thả trúng thiệt mạng cách đây vài hôm. Chúng chưa được bổ xung v́ quân số thiếu hụt. Qua t́m hiểu, chúng tôi mới biết thiết kế trên xe tăng của chúng hoàn toàn trái ngược với ta. Bàn đạp ga khi buông ra có nghĩa là cho xe chạy tốc độ mạnh nhất. Hèn chi, khi trái M72 bắn vào hông chiếc T54, chúng ngồi trong thùng xe, tuy không xây xát nhưng sức nổ gây chấn động mạnh làm cả hai ngất xỉu. V́ thế tên lái xe không c̣n điều khiển được chân ga nên cái xe cứ thế nhào về phía trước. Nó chỉ dừng lại khi chạm vào bức tường nhà. Một trung đội khác, gọi máy báo về, đă diệt được một T54 khác. Chiếc này đang loay hoay ḅ lên từ cái giao thông hào chống chiến xa ngay phía trước tuyến pḥng thủ đại đội tôi. Cái hào khá sâu nên khi leo lên được khỏi th́ chường ngay cái bụng lên trên không. Chưa kịp hạ bánh xích bám lên mặt con lộ đá nó đă lănh nguyên hai trái M72, lật ngược về phía sau rớt xuống nằm gọn dưới đáy giao thông hào. Đợt tiến công bằng xe tăng của Việt Cộng vào tuyến của tiểu đoàn tôi đă bị bẻ găy.

Sau khi báo cáo kết quả trận đánh về tiểu đoàn tôi xin Ban 2 cho người xuống dẫn độ 2 tên tù binh đi. Cũng qua hệ thống liên lạc truyền tin, có một tin không vui. Tiểu đoàn bạn bên cánh phải, TĐ3/7, v́ địa thế pḥng thủ ở hướng tây không mấy thuận lợi, đă bị tràn ngập bởi chiến xa Việt Cộng và coi như tan hàng v́ mất liên lạc hoàn toàn. Thật bàng hoàng. Người bạn cùng khóa với tôi, Tôn Thất Nguyện, và Niên trưởng Lê Bắc Việt, người tôi từng ngưỡng mộ lúc mới ra trường bây giờ ra sao? C̣n sống hay đă chết? Đành rằng, với những người lính ở đơn vị tác chiến như chúng tôi, chuyện chết chóc làm sao tránh khỏi. Nhưng việc xảy ra quá đột ngột. Cùng một lúc mất đi hai người đồng đội, hai người anh em đồng môn quả thật không thể không đau đớn, xót xa.

Sau khi kiểm tra lại pḥng tuyến, tôi chỉ cho các trung đội trưởng những việc cần chỉnh đốn lại. Ăn cơm trưa vừa xong có lệnh gọi tôi về tiểu đoàn họp. Thường th́ với t́nh h́nh pháo kích liên tục ở đây, ít khi tiểu đoàn kêu các ĐĐ trưởng về họp. Chắc hẳn đây là chuyện quan trọng. Cũng có thể v́ bảo mật. Qua việc TĐ3/7 tan hàng, một số máy móc truyền tin có thể đă bị địch lấy dùng để theo dơi mọi điều động vô tuyến của ta không chừng. Đúng như tôi dự đoán, tiểu đoàn gọi các ĐĐ trưởng về họp để trao tận tay một bản đặc lệnh truyền tin mới. Tất cả tần số, danh xưng của các đơn vị đều thay đổi. Một đại đội sẽ được chỉ định đi trám lại pḥng tuyến bị chọc thủng tối qua của TĐ3/7 cùng với một số đơn vị bạn nữa. Không đợi tiểu đoàn cắt cử, tôi xin t́nh nguyện. Tôi thừa hiểu đây là một nhiệm vụ khá khó khăn. Chúng tôi sẽ phải luồn lách thật cẩn thận qua những khu nhà đổ nát, ṃ lên vị trí gần nhất nơi bọn Việt Cộng vừa lấn chiếm tối qua, trụ lại chận không cho chúng tiến thêm nữa. Chỉ cần vượt qua chừng hai con phố chúng sẽ áp sát bức tường rào pḥng thủ của Ṭa Hành Chánh tỉnh, mà căn hầm dưới nền nhà là nơi đặt bản doanh của BTL/SĐ.

Tôi t́nh nguyện v́ nóng ḷng muốn t́m xem tông tích hai người bạn đồng môn ra sao. Cách tốt nhất là đến tận chỗ và đây là cơ hội. Nguy hiểm đang chờ đợi phía trước là chuyện tất nhiên. Nhưng tại thành phố chiến tranh này, chả có chỗ nào là an toàn cả. Khoác lên người bộ quân phục, về đơn vị tác chiến, là sĩ quan hiện dịch, tôi đă chấp nhận cái chết có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Chúng tôi sẽ bất chấp tất cả một khi bạn bè, đồng đội thân thương của ḿnh đang gặp khó khăn phía trước.

Tôi trở về vị trí đóng quân của đại đội. Cho mời các trung đội trưởng vào họp, trao cho họ xấp đặc lệnh truyền tin mới, tôi truyền đạt những việc phải chuẩn bị cho một cuộc chuyển quân sắp bắt đầu. Xong xuôi, đúng 3:00 chiều ngày 14/4/1972, chúng tôi bắt đầu xuất phát.

Trung đội đầu ngược lên hướng bắc, luồn qua mấy dăy nhà đổ nát ra tới ŕa sân vận động tỉnh th́ rẽ trái. Băng qua một khu phố nhà cửa đổ nát, không một bóng người, rồi vượt qua một con lộ nhỏ, chúng tôi nh́n thấy căn nhà hai tầng của Ṭa Hành Chánh tỉnh. Men theo hông trái của ṿng đai bên ngoài, chúng tôi bọc về phía sau lưng Ṭa Hành Chánh. Tôi ra lệnh cho hai trung đội đầu căng hàng ngang bắt đầu lục soát từng căn nhà đổ nát để từ từ tiến về phía trước, hướng tây. Mục tiêu của chúng tôi là Ty Chiêu Hồi tỉnh. Chờ cho hai trung đội này khuất hẳn trong khu nhà đổ nát, tôi kéo BC đại đội băng qua con đường tiến vào một khoảng sân trống phía sau một căn nhà nóc đă bay mất chỉ c̣n trơ lại mấy vách tường nửa vời, cố đứng gượng chịu lại sức tàn phá của đạn pháo. Những trái pháo của địch vẫn cứ thỉnh thoảng giă gạo. Chúng rớt đâu đó thây kệ. Chỉ khi nào chúng tôi nghe tiếng xè xè nghĩa là chúng sắp rơi sát cận kề, chúng tôi mới nhào nằm né tránh miểng mà thôi. Đưa cái ống nḥm đeo trên cổ lên mắt, tôi ló đầu qua khỏi bức tường đổ lưng chừng cố quan sát thật xa về hướng tiến quân. Không quá 200m, chỉ cách chỗ tôi đừng độ chừng vài khu phố, tôi phát hiện một cái ṇng đại bác của chiếc T54 ló ra phía ngoài của bức tường nhà. Chiếc xe tăng ẩn kỹ sau căn nhà nhưng cái ṇng súng th́ quá dài nên không thể dấu hết. Tôi bốc máy hỏi vị trí hai trung đội. Họ lần lượt báo đang tiến lên nhưng rất chậm v́ phát hiện có bóng dáng địch lố nhố phía trước không xa và có cả xe tăng nữa. Tôi hạ lệnh, bằng mọi cách, trước 5:00 giờ chiều phải lên đến vị trí ấn định gần địch nhất có thể. Nhà binh, hai tiếng “Hạ lệnh” nghe rất đơn giản dễ dàng. Trên thực tế, thi hành lệnh không phải dễ mà ra lệnh lại càng khó hơn. Ra lệnh mà không nắm chắc t́nh h́nh, không cân nhắc tính toán th́ cầm chắc đưa quân vào chỗ chết. Thi hành lệnh là nhiều khi biết cái chết đang chờ đợi phía trước vẫn phải lao ḿnh tiến tới. Tôi ra lệnh bằng mọi cách phải đến được vị trí đóng quân gần địch nhất trước 5:00 giờ chiều để c̣n kịp đào hầm hố tránh pháo cũng như có vị trí chiến đấu tốt để trụ lại chống trả nếu địch tấn công bất thần. Nếu không có vị trí vững chắc để trụ lại, để làm điểm tựa cho cuộc phản công sẽ diễn ra vào sáng ngày mai th́ coi như nhiệm vụ của đại đội tôi coi như cầm chắc thất bại. Tôi đang nóng ḷng tiến lên phía trước hầu có được phần nào tin tức về hai người anh em cùng trường đang lặng tiếng im hơi. Bằng mọi giá phải dành lại phần đất đă lọt vào tay địch. Phần BC đại đội, tôi lựa một căn nhà có một căn hầm của dân đào sẵn từ trước, cho mấy chú đệ tử chỉnh đốn thêm một lớp hầm nổi bên trên nóc nữa để pḥng xa. Căn hầm không rộng lắm, chỉ đủ chỗ cho tôi trải tấm Poncho làm chỗ nằm qua đêm. Anh lính mang đồ cho tôi, một lao công đào binh, vóc dáng khỏe mạnh vừa được phục hồi và bổ xung về đại đội ít ngày trước cuộc hành quân bắt đầu, ngồi bó gối dựa vách tường ngủ v́ không đủ chỗ duỗi chân. Bên cạnh, cũng ngủ ngồi là một anh lính truyền tin dự pḥng thứ ba. Hai âm thoại viên chính, căng hai cái vơng sát nóc hầm ngay phía trên chỗ tôi nằm. Hai cái máy PRC25 đặt dưới đất cạnh chỗ tôi nằm để tiện cho tôi khi cần liên lạc.

Trung đội vũ khí nặng, toán Quân Báo và mấy y tá đại đội t́m những căn nhà kế cận làm hầm hố trú ẩn qua đêm. Trung đội c̣n lại là lực lượng trừ bị đóng ở khu phố phía sau không xa BC đại đội bao nhiêu.

Sau khi các trung đội báo cáo đă ổn định vị trí, tôi dặn ḍ các trung đội trưởng phải đích thân kiểm soát lại v́ trong t́nh thế này, tôi không thể làm được chuyện đó. Hồi trưa, trước khi chuyển quân, tôi đă cho lệnh nấu nướng sẵn. Bây giờ chỉ có ăn chứ không được nổi khói lửa v́ sẽ lộ vị trí. Xong xuôi, tôi chấm tọa độ các vị trí đóng quân và gửi về ban 3 tiểu đoàn. Qua một ngày đầy căng thẳng mệt nhọc, tôi đặt lưng trên tấm poncho và thiếp vào giấc ngủ lúc nào không biết mặc cho tiếng xè xè, khẹt khẹt từ hai cái máy truyền tin bên cạnh cứ liên tục phát ra, mặc cho những trái đại pháo 130 hay hỏa tiễn 122 ly cứ thỉnh thoảng bay hú trên ṿm trời và chạm nổ đâu đó trong thị xă.

hoanglan22 11-08-2018 04:09

3 Attachment(s)
tiếp tục


Khoảng 5:00 giờ sáng, một tiếng nổ long trời ngay trên nóc hầm khiến tôi giật ḿnh thức dậy. Hai cái thân người trên hai cái vơng rớt gần như cùng một lúc xuống hai bên đùi tôi. Hai anh lính âm thoại viên lồm cồm ngồi dậy, không nói một câu, ḅ lẹ ra khỏi hầm. Trong bóng đêm c̣n mù mịt, tôi vẫn cảm giác được mùi thuốc nổ lẫn với cát bụi đang lùa vào mũi, vào họng tôi qua mọi kẽ hở. Tôi ngồi dậy, cố định thần xem chuyện ǵ đă xảy ra th́ từ bên trái, tiếng anh lính mang đồ cho tôi vang lên, trong rên rỉ đau đớn:

- Tôi bị thương rồi ông thầy ơi!
Phản ứng tự nhiên, tôi buột miệng:
- Cố gắng chịu đựng một chút, để tao tính cho.

Một cảm giác ê ê, không đau lắm xuất phát từ bàn chân trái của tôi. “Chết mẹ, không lư ḿnh bị thương?”. Đầu th́ suy nghĩ trong khi tôi đưa bàn tay phải lần xuống chỗ có cái cảm giác ê ê nhoi nhói đó. Bàn tay tôi rờ thấy cái vớ nhà binh tôi mang trong khi ngủ đă bay mất một mảng. Những ngón tay tôi đang lướt qua những phần thịt bầy nhầy của gót chân bên trái lẫn trong ḍng máu đang ứa tuôn ra. Một làn hơi lạnh từ gáy tôi chạy dài xuống sống lưng. “Tiêu rồi”. Bị thương chân trong cuộc chiến này sẽ không khá nổi. Không thuốc men cầm máu, không trụ sinh, khó tranh dành lên máy bay tản thương được...Nhiều anh lính đă phải cưa chân vài lần v́ nhiễm trùng. Nhưng thôi, dẹp qua cái ư nghĩ đó trong lúc này. B́nh tĩnh lại, tôi rà lại khắp thân ḿnh từ trên xuống, không có chỗ nào khác đau đớn nữa. Chỉ có cái gót chân trái mà thôi. Tôi với chiếc giầy vải Mỹ thọc bàn chân phải vào. Khoác cái áo giáp vào người và đội chiếc nón sắt lên đầu xong, tôi ṃ cái giây ba chạc, mở bao súng lấy khẩu Colt 45 nhét vào bụng. Tôi cũng không quên lấy cái túi có cái mặt nạ pḥng hơi độc choàng vào cổ. Xong xuôi, quay sang phía anh lính, lúc này coi bộ cơn đau hành hạ không chịu nổi nên tiếng rên la càng lúc càng bi thảm hơn, tôi dặn:

- Mày ngồi yên đây, tao ḅ sang hầm y tá kêu tụi nó qua băng bó cho mày. Cố gắng lên nghe.

Nói xong tôi định chống tay ḅ ra khỏi hầm. Không biết nghĩ sao, tôi lại tiếc chiếc giày c̣n lại. Chân trái bị thương, không thể mang giày nhưng bỏ th́ phí quá. Tôi bèn xỏ bàn tay trái vào trong chiếc giày c̣n lại và từ từ ḅ ra phía cửa hầm.

Ra tới miệng hầm, một tay tôi rướn lên bám vào thanh đà gỗ trên nóc và kéo người đứng dậy. Đưa mắt quan sát chung quanh, trên nắp hầm, xác anh hạ sĩ gác nằm chết gục tại chỗ máu đổ thành vũng quanh phần cổ đă bị miểng pháo chém đứt ĺa. Cái đầu không biết đă bị thổi văng mất nơi đâu. Nh́n lên bức tường nhà, tôi nhận định được, trái pháo rớt ngay bức tường, phá bay phần trên, những cái miểng v́ thế tạt ngược lại xuống phía miệng hầm. Anh Hạ sĩ ngồi gác trên nóc hầm lănh đủ chết tại chỗ. Những cái miểng c̣n lại chia nhau chui sâu xuống hầm. Hai cái miểng chém ngọt đứt hai sợi dây vơng của hai anh truyền tin khiến họ rớt trên người tôi làm họ hoảng hồn bỏ chạy mất tiêu sau đó. Anh lính phụ máy không biết có bị ǵ không mà không thấy tăm dạng. Một cái miểng đă làm anh lính mang đồ cho tôi đang rên rỉ trong căn hầm. Phần tôi th́ cái gót chân trái đang nát bấy. Quan sát t́m hiểu cũng đă đủ, tôi nhắm hướng hầm mấy tên y tá ḅ tới. Chưa đầy vài phút tôi đă tới miệng hầm. Một y tá đại đội vừa ngó thấy bóng tôi liền lật đật chạy tới đỡ tôi đứng dậy d́u vào trong hầm. Cái lưng tôi vừa lọt qua khỏi cửa hầm th́ hai tiếng “Vu..u..út”, “Uỳnh” kế tiếp nhau rất nhanh. Cái bức tường nhà đổ ập xuống phía sau lưng tôi lấp kín miệng hầm. Chờ cho cát bụi lắng xuống, hai anh lính y tá rọi đèn pin và lau chùi cái chân và bắt đầu băng bó cho tôi.

Trái đạn pháo vừa rồi chắc chắn là đạn đại bác 100 ly từ pháo tháp T54 bắn tới. Từ khi khai hỏa đến khi nổ rất nhanh. Chúng cách chúng tôi rất gần và có lẽ chúng đă quan sát được vị trí khi chúng tôi ḅ lên chiều hôm qua. Bây giờ bị nhốt trong căn hầm, tôi không có cách ǵ liên lạc được với tiểu đoàn, thậm chí với các trung đội của ḿnh. Hai cái máy truyền tin PRC25 đang nằm gọn trong căn hầm BC đại đội.

Măi tới 8:00 giờ sáng, một toán tiếp cứu đă t́m tới, moi miệng hầm và đem chúng tôi ra. Tiểu đoàn khi mất liên lạc với tôi đă qua tần số nhỏ liên lạc với các trung đội. Ngoại trừ cái hầm BC đại đội bị trúng đạn, các trung đội c̣n lại vẫn yên ổn. Tiểu đoàn cử một sĩ quan khác thay tôi coi đại đội. Cuộc phản công vẫn tiếp tục. Tôi không c̣n cơ hội để t́m ra dấu vết hai người bạn cùng trường kể từ đó. Tôi là người duy nhất gần gũi họ, dám làm tất cả v́ họ nhưng bây giờ th́ đành bất lực.

Hai người lính thay phiên cơng tôi về phía Ṭa Hành Chính tỉnh lỵ. Tới chân bức tường gạch mà phía bên trên chồng lên mấy lớp concertina. Họ bồng tôi lên cao và đẩy dưới mông tôi, cố nâng tôi cao ngang lớp hàng rào. Phía trong có mấy người y tá TĐ5 Quân Y đang đợi sẵn. Chuyển tôi vào bằng cách này là gần nhất không phải đi một ṿng xa qua cổng phía trước. Cũng nhờ chiếc giày c̣n lại trong tay, tôi dùng nó ép cái ṿng concertina bùng nhùng và lăn qua với sự trợ giúp của hai anh lính tản thương. Thân ḿnh tôi vừa ngả qua được phía bên kia hàng rào th́ hai anh y tá TĐ5QY đă đỡ gọn và bồng tôi xuống rồi khiêng vào bên trong ṭa nhà đặt tôi nằm dài trên mặt đất. Vào đến đây, tôi đă thấy anh lính mang đồ đang ngồi dựa lưng vào tường nhà miệng luôn rên rỉ. Y chang cái vị thế ngồi trong căn hầm hồi hôm. Bây giờ tôi mới có dịp quan sát kỹ thương tích của hắn. Cái chân trái đă bị tiện đứt ngang bắp đùi. Chân phải cũng vậy nhưng phần chân c̣n lại chưa ĺa khỏi v́ c̣n sợi gân giữ lại. Vài phút sau, Đại úy Hùng, Y sĩ TĐ trưởng QY, đi lên từ căn hầm phía dưới. Ông ta lại ngay chỗ anh lính đang rên la, hỏi han ǵ đó. Nghe hắn trả lời mót tiểu quá mà đi không được. Từ phía sau lưng, tôi chỉ thấy ông bác sĩ lắc đầu nhè nhẹ, không làm ǵ thêm, ông quay lại phía tôi. Chỉ vài phút sau hắn nấc lên vài tiếng và trút hơi thở cuối cùng. Ông bác sĩ tháo lớp băng tên y tá đại đội băng tạm cho tôi, lấy lọ thuốc sát trùng dội lên vết thương rồi bảo người phụ tá đưa cho ông kim chỉ. Giờ đây chỗ vết thương càng lúc càng nhức nhối, khó chịu kinh khủng. Cái nhức buốt từ trong xương thốn ra tới ngoài da thịt. Cái miểng pháo xuyên từ gót chân, trổ xéo qua kẽ hở giữa bàn chân và mắt cá. C̣n may. Nếu nó xuyên bể cái mắt cá chân th́ chắc chắn cái bàn chân tôi phải cưa bỏ. Phần thịt xương chỗ gót chân tôi bể vụn nát bấy. Ông bác sĩ cứ thế dùng kim chỉ khâu, kéo những miếng da bên ngoài bao lại phần thịt nát bầy nhầy bên trong. Phải dùng danh từ “khâu sống” ở đây cho đúng nghĩa. Khâu không có thuốc tê, thuốc mê ǵ cả. Làm ǵ có được những thứ xa xỉ ấy nơi chiến trường sôi động này. Ngay cả thuốc cầm máu cũng không. Tôi chỉ biết dương mắt nh́n vết thương dưới chân tiếp tục rỉ máu.

Tôi cảm giác được mũi kim xuyên qua lớp da kéo theo sợi chỉ, nhưng đau đớn th́ không hề, bởi v́ cái đau nhức từ xương tủy lan ra c̣n hơn gấp bội. Sau tôi c̣n hai sĩ quan nữa cùng tiểu đoàn bị thương nhẹ hơn tôi một chút. Ông bác sĩ Quân y cũng băng bó cho họ xong xuôi và rút lại xuống hầm, bản doanh của Bộ Tư Lệnh SĐ.

Kể từ giờ phút này tôi trở thành bất khiển dụng. Tiểu đoàn cho một anh lính, tên Bốn, vào chăm sóc chung cho ba ông sĩ quan thương binh. Phải nói anh lính này rất chịu khó. Anh ta xông xáo đào cho chúng tôi một cái hầm có nắp đàng hoàng ngay trên cái sân cạnh ṭa nhà. Anh gỡ những khung cửa sổ, t́m khuân về những khúc gỗ làm thành cái hầm khá chắc chắn. Hai cái vơng được giăng phía trên cho tôi và Liêm, một Thiếu úy của đại đội 6. Một Chuẩn úy (lâu ngày tôi đă quên tên) và Bốn trải poncho nằm dưới đất.

Ba ngày đêm liền vết thương của tôi tiếp tục rỉ máu v́ không có thuốc cầm. Nằm trên vơng, Bốn làm cho tôi một cái đai chỉ huyết ngay bắp đùi. Chừng 10, 15 phút, tôi lại nới ra cho máu có thể lưu thông xuống dưới bàn chân. Một lúc sau, tôi lại tḥ tay xuống khều khều Bốn ngồi dậy cột lại cho tôi.

Đúng ba ngày sau, vết thương mới hết rỉ máu.
Tôi phải chịu đựng thêm cả tháng trời nữa ở đây. Tôi mang ơn anh lính tên Bốn v́ anh đă chạy ra tận băi thả dù tiếp tế, không dành thuốc lá, không dành đồ ăn mà chờ mọi người đi hết, anh moi t́m nhưng ống trụ sinh về chích cho tôi. Nhiều lần nghe tin có trực thăng tản thương, anh cơng tôi ra băi đáp ngoài cổng Xa Cam. Có khi đang đi nửa chừng th́ bị pháo, anh quẳng tôi xuống và hai thầy tṛ chỉ biết nằm ngửa nh́n trời ngóng chờ định mạng. Cũng có khi ra được tới băi đáp th́ anh không c̣n đủ sức cơng tôi chạy đua với những thương binh có cặp gị khỏe mạnh.

Khoảng cuối tháng 5/72, quân dù đă vào được thành phố và phe ta đă phản công lại đẩy ṿng vây địch ra xa ngoài phạm vi thị xă. Nghe tin TT Thiệu sẽ đáp xuống An Lộc để ủy lạo binh sĩ, BTL/SĐ cho cắt một toán QC làm an ninh băi đáp. Tôi được ưu tiên ra cổng tản thương. Bốn cơng tôi đến tận chiếc trực thăng tản thương. Tay tôi chạm vào cái sàn máy bay, một cảm giác mát lạnh chưa hề có trong đời. Tôi sắp an toàn ra khỏi địa ngục khói lửa.

Điều u uất trong ḷng măi măi vẫn là tin tức hai người bạn. Có thể họ đă hy sinh, có thể đă mất tích nghĩa là trong chiến tranh, chết không t́m được xác. Với cuộc chiến khốc liệt như vậy, điều này không thể tránh khỏi. Nếu tôi có may mắn hơn, không bị thương và giải tỏa được vị trí lấn chiếm của Việt Cộng, chưa chắc tôi đă có cơ may để t́m thấy vị trí chôn cất họ như có người từng nói. Cái giả thuyết họ bị bắt làm tù binh càng khó có thể chấp nhận. Biết bao sĩ quan cao cấp hơn như Đại tá Vĩnh, TRĐ trưởng TRĐ9 bị bắt tại Lộc Ninh c̣n được trao trả tù binh. Không lư hai sĩ quan cấp úy như Niên trưởng Việt và Nguyện lại bị chúng bắn bỏ! Nếu họ là tù binh chắc chắn họ đă trở về.

Câu hỏi của chị Kiều Trang có thể không ai trả lời được. Tôi, một trong những sĩ quan TRĐ7 c̣n sống sót sau trận B́nh Long, lại là người có liên quan khá gần gũi với anh Việt, cũng không thể làm ǵ khác hơn để giải đáp cái thắc mắc này cho chị được. Thời gian đă trôi qua quá lâu. Câu chuyện đă trở thành quá khứ, gần như huyền thoại. Chúng ta hăy quên đi, hăy khép lại... Câu trả lời đang chờ đợi chúng ta ở phía trước. Chẳng c̣n bao lâu nữa đâu, chị ạ!

NT2 Đinh Hồng Lân.
Có một vài chi tiết trong bài của tác giả Giao Chỉ (có thể v́ viết theo lời kể của chị Kiều Trang), tôi thấy không chính xác nên xin được nêu lên:
● Trận chiến B́nh Long đă bắt đầu khởi sự từ đầu tháng 3/72, ngay sau khi Lộc Ninh thất thủ. Đến tháng 4/72 th́ QL13 đă bị cắt đứt. Chị Kiều Trang không có cách nào đáp xe đ̣ lên B́nh Long được vào tháng 4/72.
● TĐ3/7 cùng với 2/7 từ biên giới Việt-Miên rút về pḥng thủ An Lộc ngay. Không có chuyện TĐ3/7 về Lai Khê rồi lại bốc lên v́ t́nh h́nh lúc đó rất khẩn cấp.
● Chị nói ở cùng với anh Việt 2 tháng trời, chịu pháo kích. Nếu chị lên An Lộc vào tháng 4/72 th́ phải đến tháng 6/72 chị mới về tới Sàig̣n. Xin hỏi chị về bằng cách nào vào tháng 6 khi mà lực lượng của ta các SĐ18, SĐ21, Dù... đang dồn nỗ lực giải tỏa QL13 cũng như nhẩy vào thành phố. Rồi chị vừa về tới Sàig̣n th́ anh Thiếu úy hậu cứ đến nhà báo tin anh Việt tử trận (tháng 6/72).
Như tôi mô tả, nếu quả thật Anh Lê Bắc Việt và Tôn Thất Nguyện đă hy sinh th́ đó là vào đêm 13/4/1972 rạng sáng ngày 14/4/1972. Chuyện hậu cứ đến tháng 6 mới báo tin là v́ thủ tục hành chánh, phải chờ kiểm kê tổn thất chắc chắn sau cùng.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541650529
http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541650535
http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541650535

hoanglan22 11-08-2018 05:09

NIỀM HĂNH DIỆN VÀ TỰ HÀO
BCD. LÊ ĐẮC LỰC

“Nhân sinh từ cổ thùy vô tử.
Lưu thủ đan tâm chiếu hản thanh"

Trước năm 1975, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa là một lực lượng Quân Đội được coi là hùng mạnh nhất vùng Đông Nam Á. Quân số có lúc đă lên đến một triệu ba trăm năm mươi mốt ngàn chiến sĩ. (1,351.000).

Nhiệm vụ chính yếu của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa là bảo vệ Miền Nam Việt Nam trước hiểm họa bành trướng, xâm lăng của Cộng Sản. Đối đầu trực diện với giặc Cộng trên khắp các chiến trường dầu sôi lửa bỏng là các đơn vị tổng trừ bị tác chiến nổi danh, đă từng xông pha chiến đấu anh dũng, lập được nhiều chiến công hiển hách, gây cho kẻ thù những tổn nặng nề trên khắp 4 vùng chiến thuật. Đó là các: Sư Đoàn Nhảy Dù, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến và 17 Liên Đoàn Biệt Động Quân đặt trực thuộc các Vùng Chiến Thuật.

Tuy nhiên trong số đó vẫn c̣n có một đơn vị tổng trừ bị mà hiệu năng tác chiến, công trạng ít có ai biết đến, nhưng giặc Cộng th́ khi nghe đến danh xưng, cũng phải kinh hồn khiếp sợ mà né tránh đụng độ và thường truyền khẩu cùng nhau câu nhật tụng:

“Bất cứ “giặc ngụy” nào cũng đánh.
Nhưng phải tránh đánh Biệt Cách Dù.”

Vâng, đúng vậy. Đơn vị đó là “Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù”, thường được gọi tắt là “Biệt Cách Dù”.

* * *

Trong năm 1970, các hoạt động thả các Toán Biệt Kích thâm nhập ra miền Bắc hoặc các vùng dọc theo biên giới Việt Miên Lào, không c̣n mang lại những hiệu quả thích đáng. Cùng lúc, Liên Đoàn 5 Special Force của Quân Đội Hoa Kỳ theo lệnh đă triệt thoái ra khỏi Việt Nam. Binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt thiếu hụt ngân sách, khí tài để hoạt động nên đă bị giải tán. Các sĩ quan và binh lính đa số được thuyên chuyển sang Biệt Động Quân, số ít c̣n lại th́ về Nha Kỹ Thuật, Nhảy Dù. Riêng hai đơn vị tác chiến của Binh chủng là Trung Tâm Hành Quân Delta và Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù được sát nhập lại, với danh xưng là Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, có phù hiệu mới, nhưng vẫn được giữ nguyên chiếc nón xanh (Green Beret) và phù hiệu của Binh chủng LLĐB. Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn là Trung Tá Phan Văn Huấn. Đến năm 1972, ông được thăng cấp đặc cách đại tá tại mặt trận B́nh Long, An Lộc.

* * *

Đại Tá Phan Văn Huấn, sinh trưởng tại tỉnh Thừa Thiên, Huế. Xuất thân Khóa 10 Trần B́nh Trọng (1954), trường Vơ Bị Liên Quân Đà Lạt, ông là một cấp chỉ huy tài trí, mưu lược, đạo đức, và liêm chính. Ông sống rất b́nh dân, giản dị, và gần gũi với thuộc cấp. Ông coi trọng tính mạng của binh sĩ c̣n hơn tính mạng của bản thân.

Lúc c̣n là Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Hành Quân Delta (1967-1970), một đơn vị được xem là t́nh báo chiến thuật, phối hợp hoạt động chung với Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ, cung cấp các Toán Thám Sát Lôi Vũ thâm nhập len lỏi trong rừng sâu, dọc theo biên giới Việt Miên Lào trên dăy núi Trường Sơn, để thu lượm tin tức, khám phá các mật khu, căn cứ địa của địch quân, hay phục kích bắt sống tù binh để đem về khai thác địch t́nh. Trước khi thâm nhập, Ông rất chu đáo kỹ càng theo dơi buổi tŕnh bày kế hoạch hành quân của các Toán. Ông đặt ra từng câu hỏi cho từng biến cố có thể xảy ra để các Toán Trưởng giải tŕnh đối phó hợp lư. Trong suốt 7 ngày các Toán di hành là 7 ngày Ông có mặt tại Trung Tâm Hành Quân để theo dơi. Trường hợp các Toán bất ngờ đụng độ với địch quân, bị tổn thất nhân mạng, hay bị phân tán là coi như Ông ăn ngủ không yên, một mặt Ông đưa các Đại Đội Myke Force xung kích gấp rút vào tải thương, lấy xác về, một mặt Ông dùng L.19 hoặc Trực Thăng UH.1B bay lượn bao vùng suốt ngày, để t́m kiếm các Toán viên đang thất lạc, cho đến khi t́m kiếm được, hướng dẫn họ đến các băi trống an toàn, rồi điều động trực thăng đến bốc trở về căn cứ hành quân. Lúc đó, Ông mới thở phào nhẹ nhơm.

Kể từ sau biến cố Tết Mậu Thân (1968), t́nh h́nh chiến sự đă trở lại sôi động. Giặc Cộng vẫn nuôi dưỡng ư định xảo trá, tái diễn cái tṛ lấn đất dành dân, nên ồ ạt chuyển quân qua biên giới, ém quân trong các mật khu, căn cứ địa, ngỏ hầu mở các đợt tấn công qui mô vào các quận lỵ hay thị xă lân cận, để làm áp lực trong cuộc Hội Đàm 4 bên tại Paris, Pháp Quốc.

Trong cương vị Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù (1970-1975), để đối phó với sự gian manh, thủ đoạn của giặc cộng, cũng như để binh sĩ thuộc quyền luôn duy tŕ, cũng cố khả năng tác chiến, đề cao cảnh giác trước mọi t́nh huống có thể xảy ra, Đại Tá Phan Văn Huấn chỉ thị cho mỗi Biệt Đội Xung Kích, ứng chiến tại căn cứ hành quân ở Căn cứ Suối Máu, Biên Ḥa hay nghỉ dưỡng quân tại hậu cứ ở ngă tư An Sương, Hốc Môn, phải thường xuyên được huấn luyện và rèn luyện:

- Vơ thuật Vovinam.

- Chiến thuật du kích và phản du kích.

- Mưu sinh thoát hiểm.

- Đổ bộ, triệt xuất bằng trực thăng UH.1B.

- Điều chỉnh phi cơ, pháo binh oanh kích tác xạ các mục tiêu.

- Theo học các khóa nhảy dù tại Sư Đoàn Dù.

Ngoài ra, Khối CTCT c̣n tổ chức huấn luyện về thái độ tác phong đối với dân chúng tại những nơi đồn trú, trong các vùng hành quân, ngơ hầu thu phục nhân tâm, để họ đứng về phía Quốc Gia, không để Việt cộng tuyên truyền, dụ dỗ đi theo bọn chúng.

Chính nhờ vào tài lănh đạo chỉ huy tài ba, năng động, khắt khe: “Văn ôn vơ luyện”như đă nêu trên của Đại Tá mà Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đánh giặc giỏi, áp dụng nhiều chiến thuật thích ứng với chiến trường Việt Nam, như:“gậy ông đập lưng ông”, có nghĩa là dùng chiến thuật du kích của địch để đánh du kích với địch, và đầy sáng tạo như áp dụng chiến thuật tác xạ súng cối, trọng pháo 7/3 để đánh lừa địch hay xử dụng ḿn tự chế để tiêu diệt chiến xa, đục tường, xử dụng dao găm, lựu đạn và vơ thuật Vovinam để bắt sống tù binh, diệt chốt, gặt hái được nhiều chiến công hiển hách. Điển h́nh là các trận:

- Mậu Thân Nha Trang và Ngă Ba Cây Thị, Cây Quéo.Gia Định (1968).

- Tiêu diệt đoàn xe Molotova tại Mật Khu Ashau (1969)

- Tiêu diệt đoàn xe Molotova tại chiến trường Tam Biên, Kontum (2/1971).

- Tái chiếm B́nh Long, An Lộc (6/1972)

- Tái chiếm Cổ Thành, Quảng Trị (9/1972).

- Giải tỏa Bến Thế, B́nh Dương (1/1973).

- Giải tỏa Tha La Xóm Đạo, Trảng Bàng, Tây Ninh (3/1973).

- Giải tỏa QL.I, Tân Phú Trung, Hốc Môn (1/1974).

- Tịch thu nhiều kho vũ khí tại Chiến Khu D (3/1974).

- Giải tỏa QL.I tại Rừng Lá - Mật Khu Mây Tào (6/1974).

- Tiếp cứu Phước Long (2/1975).

Dù bộn bề quân hành vạn nẻo, Đại Tá rất quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần, tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của quân nhân các cấp, nhất là các thương binh, liệt sĩ và gia đ́nh Cô Nhi Qủa Phụ, Tử Sĩ. Ông chỉ thị cho Chỉ Huy Hậu Cứ, Khối CTCT, thường xuyên thăm viếng và phải t́m đủ mọi cách để giúp cho họ có một cuộc sống đầy đủ, lành mạnh vui tươi, bù đắp những mất mát lớn lao mà các Cô Nhi Qủa Phụ phải gánh chịu. Hay sau mỗi cuộc hành quân, binh sĩ phải được nghỉ ngơi thoải mái, lành mạnh, ngơ hầu quên đi bao gian khổ, hiểm nguy, cận kề cái chết trên các chiến trường trận địa thập tử nhất sinh.

Không những thế, Đại Tá Phan Văn Huấn là một con người đầy nhân bản, trung hậu, chí t́nh chí nghĩa. Đề cao và tri ơn thâm sâu sự hy sinh xương máu của đồng đội chiến hữu. Trong mặt trận B́nh Long, An Lộc (6/1972). Ông đă chỉ thị các đơn vị trưởng thuộc quyền, dẫu dù dưới làn mưa đạn, bất cứ giá nào cũng phải tải thương, đưa xác tử sĩ về tập trung chôn cất tại băi đất trống trước mặt Chợ B́nh Long. Kể từ đó Nghĩa Trang Biệt Cách Dù đă đi vào Quân Sử với hai câu thơ bất tử:

“An Lộc địa sử lưu chiến tích.

Biệt Cách Dù vị quốc vong thân.”

Đại Tá Huấn sống ḥa đồng, thân thiện và cởi mở với mọi thuộc cấp, nhưng rất nghiêm khắc, và cứng rắn trong quân phong quân kỷ. Không thiên vị mà rất b́nh đẳng trước công tội, từ sĩ quan cấp tá cho đến binh nh́ của đơn vị. Vui chơi là vui chơi, quân hành là quân hành, không thể lẫn lộn, nhập nhằng với nhau được.

Đại Tá Huấn là một con người qủa cảm, khí khái, quang minh chính trực và đại trượng phu, không trốn tránh trách nhiệm để đổ lỗi, qui tội cho thuộc cấp hay đơn vị bạn tăng phái, đă cùng đổ máu sống chết với ḿnh trong lửa đạn đao binh. Điển h́nh, sau khi Phước Long thất thủ, Không Đoàn 43 Chiến Thuật bị đưa ra điều trần trước Hội Đồng Tướng Lănh, về sự chậm trể đổ quân giải cứu Phước Long. Đại Tá Phan Văn Huấn đă đích thân đến trước Hội Đồng, xin được phát biểu trước, với những lời lẽ đầy cương quyết, thẳng thắn:

- “Mất Phước Long, lư do tại sao, quư vị đều biết nhưng không ai nói ra. Phần 81 Biệt Cách Dù chúng tôi vào chỗ chết đă đành, bởi nghề nghiệp chúng tôi là chọn chỗ chết để đi vào. Riêng với anh em Không Quân, các phi hành đoàn trực thăng đă làm quá bổn phận của họ, chết lây với chúng tôi thật tội nghiệp. Nay đưa họ ra ṭa là điều tôi cho là vô lư. Nếu có lỗi làm mất Phước Long, tôi nhận lỗi. Xin quư vị ở lại tiếp tục họp và cho tôi biết kết quả. Tôi xin phép ra về v́ c̣n nhiều việc phải làm.”

Hành động nêu trên của Đại Tá Huấn, có thể dẫn đến một hậu qủa nghiêm trọng, ảnh hưởng đến con đường binh nghiệp, nhưng dễ có mấy ai đă làm được như Ông. Chính v́ thế mà Đại Tá Huấn chiếm được hầu hết cảm t́nh, sự tôn kính, khâm phục, không những của thuộc cấp trong mà cả ngoài đơn vị cho măi tới tận bây giờ trong cuộc sống tha phương nơi đất khách quê người.

Ngoài tài thao lược, Đại Tá Huấn c̣n là một đơn vị trưởng liêm khiết, trong sạch. Không tài sản, không tư gia. Cũng giống như binh sĩ, gia đ́nh của ông gồm một vợ và tám người con, cũng ở trong 3 căn nhà Khu Gia Binh của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, ngay góc Quốc Lộ I và Ngă Tư An Sương, Hốc Môn. (Xa lộ Đại Hàn).

Vào những ngày cuối cùng trước khi tàn cuộc chiến tháng 4 năm 1975, tại căn cứ hành quân ở Suối Máu, Biên Ḥa, với một BCH Hành Quân của Liên Đoàn, cộng thêm 2 BCH Chiến Thuật 1 và 2, quân số lên đến 2.000 quân, Đại Tá Huấn vẫn đưa các Biệt Đội xung kích, rải quân pḥng thủ ở hướng Bắc phi trường Biên Ḥa, để sẵn sàng chiến đấu, và thả các Toán Thám Sát, tiếp tục thâm nhập vào chiến khu D, để thu lượm tin tức, theo dơi các hoạt động của địch quân.

Trong lúc t́nh thế đang nhiễu nhương nguy biến, bất thần có một vài chiếc trực thăng UH.1B, do Bộ Tổng Tham Mưu đă sắp đặt sẵn kế hoạch, bay đến các BCH Hành Quân, các căn cứ địa, tiền đồn, nhằm để đón các vị chỉ huy cao cấp di tản khỏi Việt Nam. Nhưng với Đại Tá Huấn, như đă nói, là một người khí phách, dũng cảm, kiên cường và đầy trung nghĩa, cho dù bất cứ hoàn cảnh nào, cũng không rời bỏ binh sĩ, quyết cùng sống chết có nhau. Ông đă dứt khoát tuyên bố:

- “Tôi có một vợ và tám con. Tôi có thể bỏ lại Gia Đ́nh, nhưng không thể bỏ lại hai ngàn Chiến Sĩ của tôi, để mà ra đi trong hoàn cảnh như thế nầy được.”

Sau đó Ông đă ở lại chiến đấu cùng đơn vị đến giây phút cuối cùng, cho đến khi nghe lệnh của Đại Tướng Dương Văn Minh, Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa (lúc đó) kêu gọi toàn thể quân nhân buông súng đầu hàng.

Về sau này, khi ra định cư tại Hoa Kỳ, đă có lần Ông tâm sự trong xúc động, về giây phút có quyết định sinh tử tối hậu, sau khi nghe lệnh truyền buông súng đầu hàng, trong khi các Chiến sĩ Biệt Cách Dù vẫn ngay hàng thẳng lối đứng bao quanh chờ lệnh, trong một khu đất trống gần ngă tư Thủ Đức và Xa lộ Đại Hàn:

- “Lúc này trên đầu tôi không c̣n ai nữa, một quyết định sai lầm sẽ làm biết bao sinh mạng phải bỏ đi. Chúng tôi đă sát cánh với nhau đến giờ phút cuối cùng. Nh́n anh em tôi không cầm được nước mắt...”

Cuối cùng, sau khi đă họp các cấp Chỉ Huy trong Liên Đoàn, tất cả đều đành phải chấp hành mệnh lệnh, trong nỗi uất hận, đớn đau, ê chề bất tận.

Sau ngày Nước mất Nhà tan, Đại Tá Phan Văn Huấn phải bị 13 năm trong ngục tù cộng sản, lưu đày khổ sai, sống dở chết dở, ở các trại tập trung, mang xảo từ “cải tạo”, nơi những vùng đất hoang vu, xa xăm, khỉ ho c̣ gáy ở Việt Bắc trong mịt mù tăm tối thê lương.

Suốt 13 năm trong ṿng lao lư, trải qua các trại tù từ miền Nam ra đến miền Bắc, trên núi rừng Hoàng Liên Sơn, Yên Bái, Nam Hà và cuối cùng là trại Z.30 Khu A, gần Núi Chứa Chan, Tỉnh Long Khánh, Đại Tá Huấn vẫn luôn giữ vững tư cách và nhân cách, vẫn biểu lộ tính khí khái, kiêu hùng không khiếp nhược, vẫn bảo toàn danh dự, giá trị duy nhất của một chiến sĩ, một cấp Chỉ Huy của một đơn vị lừng danh 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Ông đă được anh em đồng tù kính phục, như nhà báo Vũ Ánh với bài viết: “Anh Cả Gia Đ́nh 81 BCND”, hay nhà văn Hoàng Khởi Phong ca tụng qua tác phẩm “Cây Tùng Trước Băo” với một trích đoạn sau đây:

“Trong ánh sáng và bóng tối của một ngày vừa tàn và đêm đang tới, tôi mơ hồ nh́n thấy Ông trong bộ quân phục với cái mũ kết trên đầu có một cái khiên. Trong cái khiên này, tôi nhớ có in h́nh chạm nổi của một con chim đại bàng và một hàng chữ: ”Tổ Quốc - Danh Dự -Trách Nhiệm”. Đó là 3 tín niệm mà một sĩ quan phải đội ở trên đầu. Không hiểu xưa kia và bây giờ, trong chúng ta đă có bao nhiêu người c̣n nhớ? Bao nhiêu người đă quên? Qua kính chiếu hậu tôi nh́n thấy Ông trở vào trong nhà. Lưng thật thẳng, mặt ngước cao, Ông có dáng của một Cây Tùng chẳng bao giờ cong lưng trước băo.”

Vào năm 1988 ra khỏi trại tù, Ông sống cùng vợ và 8 người con rất cơ cực, thiếu thốn với tấm thân bệnh tật v́ những thương tích chiến trận, v́ lao tù hành hạ, trong một căn nhà gỗ, mái tôn vách ván cũ kỹ tạm bợ, tại Ấp Tân Thái Sơn, cạnh Tân Phú, Quận Tân B́nh.

Nếu không có những người lính Biệt Cách Dù năm xưa, những người đồng tù, vẫn tồn tại ǵn giữ măi trong ḷng sự tôn phục, nể v́ về tài năng, khí tiết và yêu thương về nhân cách, đức độ, để hết ḷng thường xuyên thăm viếng, chia xẻ tinh thần, vật chất và tận tụy chăm sóc thương tật cho Ông, chắc chắn Ông sẽ không c̣n sống đến ngày hôm nay, trên đất khách quê người trong cuộc sống lưu vong.

Là một cựu Toán Trưởng Thám Sát Delta, một Biệt Đội Trưởng, Trưởng Khối CTCT của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, tôi đă từng sống làm việc dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Phan Văn Huấn, trong suốt 9 năm làm lính trận, ít nhiều tôi cũng hiểu rơ về nhân cách, biệt tài lănh đạo chỉ huy của Ông. Cũng nhờ đó mà Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đánh đâu thắng đó, mang lại nhiều chiến thắng vẻ vang, được ghi vào Quân Sử, được đồng bào hoan hô, mến mộ và ngưỡng phục từ đó cho tới ngày nay hay luôn cả mai sau vẫn măi tồn tại..

Sự kiện minh chứng hùng hồn sáng giá nhất về tài năng điều binh thao lược của Đại Tá, đó là vào tháng 6 năm 1972, tại chiến trường B́nh Long, An Lộc. Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn III, đă thừa lệnh Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, gắn vinh thăng đặc cách tại mặt trận cấp bậc đại tá cho Trung Tá Phan Văn Huấn, Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù.

Tôi cảm thấy rất vinh hạnh và may mắn v́ trong suốt quăng đời Binh Nghiệp, đă được phục vụ dưới quyền của ông, trong một đơn vị kiêu hùng, thiện chiến của Quân Lực VNCH, đó là: “Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù”.

* * *

Mỗi người chúng ta khi được sinh ra và lớn lên trên thế gian này đều có một thần tượng để ngưỡng mộ, tôn sùng. Tuy nhiên tùy thuộc vào bản tính, sở năng từng người mà có sự chọn lựa về thần tượng của họ. Riêng tôi có lẽ từ thưở thiếu thời, đă tiềm ẩn ḍng máu nhà binh trong người, nên sau khi vào lính, theo đơn vị rày đây mai đó trên các trận mạc, để tiêu diệt giặc thù cộng sản, bảo vệ Tổ Quốc, th́ thần tượng của tôi không ai khác, chính là vị Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù: Đại Tá Phan Văn Huấn, một cựu SVSQ Khóa 10 Trần B́nh Trọng, Trường Vơ Bị Liên Quân Đà Lạt. “Đại Tá Phan Văn Huấn chính là niềm hănh diện tự hào chung cho Trường Sĩ Quan Vơ Bị Đà Lạt và các Chiến Sĩ 81 Biệt Cách Nhảy Dù, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.”

hoanglan22 11-08-2018 14:17

4 Attachment(s)
Tử Thần Trong Cụm Lục B́nh
Nguyễn Đ́nh Sài

Ḍng Cái Lớn chứa đầy tôm cá
Vùng Kiên Hưng giặc phá như tinh
Trên bờ phong cảnh hữu t́nh
Dưới sông ḿn ẩn lục b́nh ngược xuôi

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541686547

Trong thời gian lưu lại Kiên Hưng, ngoài những cuộc hành quân thường bị địch bắn trộm B40 và B41, mọi người c̣n chịu đựng những cơn ác mộng v́ lo ngại tàu bị ḿn. Nhất là vào những chiều hôm, trước khi đi ngủ, nhân viên luôn luôn thay phiên canh gác để kịp thời phát hiện những đám bèo (lục b́nh) trôi lại gần tàu.

Tử thần ẩn nấp trong các cụm lục b́nh!!!

Miền Hậu Giang Việt Nam có một hệ thống sông ng̣i chằng chịt như một tổ nhện, nối liền các thị trấn, quận xă bằng đường thủy. Những danh từ như rạch, sông, kinh, được dùng để đặt cho các thủy lộ ấy. “Rạch” là ḍng nước nhỏ hẹp, chừng vài mét bề ngang. “Sông” là ḍng nước thiên nhiên, rộng lớn chừng vài chục mét hoặc hơn. “Kinh” thường là ḍng nước nhân tạo, do người xưa đào từ lâu đời, có đoạn thẳng tắp dọc theo đường liên tỉnh lộ, v́ con đường được xây nên bởi đất đào làm kinh.

Có nhiều con sông hai đầu đều thông ra biển, không có thượng nguồn, hạ ḍng ǵ cả. Thủy triều lên xuống không tạo nên ḍng nước chảy xiết như nước sông Cửu Long. Hầu như lúc nào ḍng nước trong các sông rạch cũng lửng lờ trôi, buổi sáng về đông, buổi chiều sang tây, hay ngược lại. V́ con nước không chảy xiết, lục b́nh sinh sôi nảy nở rất nhiều trên sông rạch như trên nước ao hồ. Lục b́nh kết tụ thành đám, thay h́nh đổi dạng liên miên như mây trời, nên mới có thành ngữ “hợp rồi tan như bèo mây”.

Lợi dụng sự di động chậm của ḍng nước, Việt Cộng gài ḿn có buộc phao, thả nổi ngụy trang vào bên các cụm lục b́nh. Ḿn có gắn nam châm, khi đến gần thành sắt của giang đĩnh th́ bị hút vào.
Nạn tàu ch́m v́ ḿn nổi xảy ra rất thường trên các kinh rạch vùng Hậu Giang. Có loại ḿn tối tân, nổ tự động khi chạm vào thành sắt, nhưng rất hiếm thấy. Phần lớn là các loại ḿn nội hóa thô sơ có giây điện gắn theo dài tới vài trăm thước. Đầu giây điện nối vào cục pin điện để trên bờ, gần hàng đáy. “Hàng đáy” là những cọc cây đước, do ngư dân cắm xuống ḷng sông, ra tận giữa sông để gắn lưới chài tôm và cá.

Chờ lúc con nước chảy về phía có tàu đậu, địch bơi ra giữa ḍng, buộc ḿn vào mấy cụm lục b́nh, quàng giây điện vào một cọc đáy, rồi lên bờ, nới dây điện dài ra cho đến khi ḿn trôi theo các cụm lục b́nh đến gần tàu và bám vào hông tàu nhờ sức hút của nam châm gắn trên ḿn. Ở trên bờ thượng ḍng, bên hàng đáy, khi thấy giây điện không c̣n bị kéo dài ra nữa, địch có thể đoán biết được ḿn đă bị hút vào hông tàu. Nhấn chốt nối ḍng điện, ḿn liền nổ tung. Ở trên bờ, địch sẽ khoái trá nh́n chiếc tàu tung lên rồi từ từ ch́m xuống, lôi theo thân xác của những người lính Hải Quân nạn nhân vào ḍng nước đục.

Thấm thoắt mà đă gần ba tháng kể từ ngày tân đáo đơn vị. Tôi dần dần quen thuộc các sinh hoạt thường nhật và tên gọi của nhân viên trong Giang Đoàn, nhất là trong thời gian xử lư thường vụ cho Chỉ Huy Trưởng đi phép.

Một hôm mùa Hạ, trời khá nóng nực, tôi đang ngồi nghiên cứu bản đồ địa phương, cố thuộc ḷng các địa thế, địa danh thôn xóm và kinh rạch, th́ Thiếu Tá Điền tới vỗ vai và nói:
– Này, sao đăm chiêu thế toa? Nhớ nhà hả?

Tôi chỉ cười, chờ đợi mà không trả lời câu hỏi. Tánh anh Điền lúc nào cũng bặt thiệp và hào sảng nên hẳn là anh có chuyện ǵ vui muốn nói.
– Ngày mai, toa lấy một chiếc Alpha về Rạch Sỏi rồi bảo Hạ Sĩ Năng lấy xe jeep chở về thăm nhà!

Tôi vui mừng đáp:
– Cảm ơn ông “Trưởng”. Tôi định xin phép th́ ông đă “đi guốc” trong bụng tôi rồi. Có điều nhà tôi ở măi tận Nha Trang, đi về mất mấy ngày, không biết thời gian tiêu chuẩn đi phép 10 ngày có thấm thía ǵ không?

– Th́ toa đi hai tuần! Anh Điền đáp một cách thản nhiên. Nhưng lúc nào trở lại nhớ mang mấy kư mực khô Nha Trang để nhậu với rượu nếp than nhé!

– Bắt buộc! Nhưng mà tôi biết lái xe và có bằng lái. Tôi muốn tự lái xe về thăm nhà, không phiền đến Hạ Sĩ Năng.

– Thế à. Tùy toa. Giang Đoàn ḿnh có hai chiếc jeep. Toa lấy một chiếc mà về thăm nhà.

Khi tôi măn phép trở lại Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của LLTB tại Rạch Sỏi th́ liền nhận hung tin: Tối hôm trước, chiếc giang đĩnh của Thiếu Tá Điền bị ḿn lật úp và anh đă bị mất tích! Tôi bèn vội gọi máy vô tuyến rồi lên xe jeep của Giang Đoàn đến băi sông Tắc Cậu chờ tàu về đón ra vùng hành quân.
Chờ một lúc th́ hai chiếc Alpha từ ngoài Sông Cái Lớn ghé vào. Tư Lệnh Lực Lượng Thủy Bộ Hoàng Cơ Minh bước lên bờ. Sau khi tiếp nhận cái chào kính của tôi, ông ra lệnh:
– Tôi chỉ định Đại Úy tạm thời Quyền Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 75 thay thế Thiếu Tá Nguyễn Xuân Điền, cho đến khi có lệnh mới. Bây giờ anh ra Kiên Hưng cố gắng điều động giang đoàn tuần tiểu bảo vệ chiếc tàu bị ch́m cho đến khi toán Người Nhái t́m được tung tích hoặc xác của Thiếu Tá Điền!

Tôi vội đứng nghiêm, đưa tay chào kính lần nữa:
– Tuân lệnh!

Kế rồi Đại Tá Minh quay lưng, lên xe jeep của ông ấy đă chờ sẵn, ra hiệu cho tài xế lái đi luôn.

Tôi xuống chiếc giang đĩnh, trở lại vùng Kiên Hưng.

Ra đến vùng Thới An – Hốc Ḥa, tôi thấy vài chục chiếc giang đĩnh đang tuần tiểu quanh một chiếc tàu bị nạn, lúc bấy giờ đang lật úp, lườn tàu phía trước nhô lên khỏi mặt nước. Toán Người Nhái vừa vớt được hai người thủy thủ bị chết đuối trong ḷng tàu. Họ không t́m thấy anh Điền đâu cả. Hỏi ra mới biết chiếc tàu bị nạn ấy là một chiếc Tango của GĐ74TB chứ không phải chiếc Tango 97 của Chỉ Huy Trưởng GĐ75TB.

Toán Người Nhái lặn t́m măi, chỉ kiếm được xác của hai nhân viên bị chết đuối v́ kẹt trong tàu. Vài hôm sau, họ lại vớt được hai tử thi của hai nhân viên khác nổi lên ở mấy địa điểm khá xa chiếc tàu ch́m. Riêng tung tích anh Điền th́ vẫn bặt tăm, nên được xem là “mất tích”.

Một tuần sau th́ Liên Đoàn được lệnh điều động về Kiên An. Hành quân vùng Kiên An, Tắc Cậu và Kinh Cán Gáo, tương đối an toàn hơn ở Kiên Hưng và Cánh Đồng Thơm Chương Thiện.
Ba tháng kế tiếp là thời gian tôi làm Quyền CHT/GĐ75TB và đă trở lại Kiên Hưng để hành quân một lần nữa, sẽ thuật lại sau. Ở đây xin kể nốt tin tức về Thiếu Tá Điền.

Sáu tháng sau, một hôm tôi đang nghỉ phép ở Nha Trang th́ Thiếu Tá Điền bước vào nhà bố vợ tôi. Anh em mừng rỡ ôm chầm lấy nhau. Với giọng Bắc Kỳ di cư và tài nói chuyện dí dỏm, anh kể chuyện bị Việt cộng bắt và chuyện vượt ngục trở về, ly kỳ như chuyện phim:

Chiều hôm ấy, Thiếu Tá Điền được Trung Tá Liên Đoàn Trưởng TTT gọi sang tàu ông ấy ăn cơm và bàn chuyện hành quân. Cơm nước, thảo luận đến lúc tối mịt, anh Điền định về tàu ḿnh th́ bỗng có tiếng nổ lớn: Chiếc Tango bị trúng ḿn VC, bể mất một mảng lườn, nước vô xối xả, tàu nghiêng đi rất nhanh. Trung Tá T và mọi người nhảy xuống nước và được các chiến đĩnh khác vớt lên. Riêng anh Điền c̣n nán lại để giúp vài nhân viên của GĐ74TB bị choáng váng trong tàu v́ sức chấn động của ḿn nổ và đang bơi b́ bơm trong ḷng tàu lúc bấy giờ đă ngập nước.

Đang vói tay kéo mấy nhân viên lên th́ chiếc tàu đột nhiên lật úp v́ nước vào quá nhiều. Anh và hai nhân viên bị kẹt trong đó mấy tiếng đồng hồ, chỉ thở được bằng bọng không khí bên trong.

Tàu ch́m dần xuống gần đáy sông. Ba người cố gắng lặn xuống để chui ra ngoài, nhưng áp lực nước quá mạnh làm tức ngực, chịu không nổi, phải trồi lên thở bằng bọng không khí. Lần lặn cuối cùng chỉ có anh Điền may mắn đủ hơi sức thoát ra được, c̣n hai nhân viên vẫn bị kẹt ở trong tàu. Anh leo lên ngồi trên lườn tàu đă lập úp, chỗ phần phía trước tàu c̣n nhô lên khỏi mặt nước, chờ anh em đến cứu. Nhưng đoàn tàu đă dời xuống hạ ḍng, cách xa khoảng vài cây số. Khi trời mờ sáng anh Điền có thể nh́n thấy những giang đĩnh đi tuần nhưng chờ măi vẫn không thấy chiếc nào đến gần.

Thế rồi một chiếc ghe đuôi tôm từ bên bờ Bắc miệt Thới An chạy sang Hốc Ḥa, gần chỗ chiếc giang đĩnh bị ch́m. Anh Điền mừng rỡ đứng lên vẫy gọi. Chiếc ghe đổi hướng về phía tàu ch́m. Đến gần, anh nhận ra một cậu thiếu niên lái ghe chở một nhà sư mặc áo tỳ kheo màu vàng úa. Nhà sư nh́n thấy anh nhưng đột nhiên không chịu cứu độ người gặp nạn, ra hiệu cho thiếu niên bẻ lái chiếc ghe chạy luôn sang Hốc Ḥa.

Một lát sau th́ có một chiếc ghe đuôi tôm từ miệt Hốc Ḥa chạy thẳng về hướng chiếc tàu ch́m. Trên ghe có hai người đàn ông trung niên mặc áo bà ba đen. Khi ghe đến gần, một người rút trong ḿnh một khẩu súng colt, ra lệnh anh Điễn nhảy xuống ghe. Chiếc ghe bèn quay hướng chạy về Hốc Ḥa. Lên bờ, anh bị mấy tên du kích VC chờ sẵn, trói tay chân và bịt mắt miệng, nhốt trong hầm trú ẩn gần bờ, khuất sau mấy bụi chà là (dừa nước).

Một thời gian thật lâu sau, anh nghe tiếng tàu chạy qua lại rất gần bờ và có tiếng người nói chuyện trên máy vô tuyến. Anh nghe cả tiếng kêu gọi tên ḿnh nữa. Chung quanh hầm không c̣n nghe tiếng bọn du kích, anh Điền đoán là bọn chúng sợ bị lộ nên đă bỏ anh nằm một ḿnh và chạy trốn rồi. Anh muốn vùng vẫy mở khăn bịt miệng để kêu cứu nhưng chúng cột chặt quá, không thoát được.

Anh chịu đựng t́nh trạng thúc thủ như thế rất lâu. Đến khi bọn du kích trở lại mở khăn bịt mắt cho anh th́ trời đă tối. Chúng dẫn anh đi vào sâu trong xóm, cho ăn uống rồi dẫn vào rừng U Minh Thượng, phía nam lưu vực Sông Cái Lớn. Nơi ấy anh gặp rất nhiều tù binh, đại đa số là sĩ quan đủ các loại binh chủng Bộ Binh, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động, Nhảy Dù, v.v., duy nhất chỉ có anh Điền là sĩ quan Hải Quân.

Bị nhốt ở rừng U Minh khoảng 6 tháng, ngày nào anh cũng bị tra hỏi về các chiến thuật hành quân của LLTB nói riêng và của Hải Quân nói chung.

Đám tù bị di chuyển thường xuyên. Lần sau cùng ra gần bờ sông lớn, v́ nơi ấy đă cảm thấy gió mát từ sông thổi vào.
Những ngày có dịp đi ra ngoài làm lao động canh tác sản xuất, anh đă cố gắng ghi nhận hướng di chuyển của mặt trời và địa thế, đối chiếu với các h́nh thể địa dư trên bản đồ hành quân mà anh c̣n nhớ, để phỏng đoán vị trí của trại tù. Anh đoán là ḿnh đang bị di chuyển về hướng tây nam và đang ở trong rừng U Minh Hạ, gần sông Trèm Trẹm hoặc sông Ông Đốc. Đêm đêm, nhóm tù binh nh́n về hướng Tây Bắc, thấy có những hỏa châu bắn lên từ một vị trí cố định, họ đoán nơi ấy là đồn bót hay quận lỵ, chớ không phải là hoả châu di động của các cuộc hành quân.

Một đêm trời không trăng nhưng đầy sao, lợi dụng lúc bọn quản canh ngủ say, anh đă cùng một số sĩ quan bạn thi hành kế hoạch vượt thoát đă chuẩn bị từ lâu. Mới đầu họ chạy về hướng Nam khoảng vài cây số. Đến khi gặp một con rạch nhỏ th́ chạy theo giữa gịng nước khoảng vài trăm thước rồi mới vượt sang bờ bên kia và chạy về hướng tây. Khoảng một giờ, họ lại đổi về hướng bắc, có cḥm sao Bắc Đẩu vằng vặc trên trời, đằng trước mặt. Họ băng sang nhiều con rạch mà đi khoảng vài giờ, th́ thấy có những đốm hỏa châu thỉnh thoảng lại lóe lên từ chân trời. Họ lại xác định vị trí các hỏa châu bằng cách đối chiếu với sao trời và chạy về hướng đó. Các đốm hoả châu càng lúc càng lớn dần.

Cuối cùng, đến gần sáng anh Điền và đồng bạn tù đă trốn thoát đến được Chi Khu Thới B́nh gần bên sông Trèm Trẹm. Nơi đây, sau khi kiểm chứng danh tánh, anh Điền đă được trực thăng của LLTB đón về Rạch Sỏi. Sau thời gian tŕnh diện, điều trần, và báo cáo tại Cục An Ninh Hải Quân, anh được đổi ra Trại Tây Kết, vùng 2 Duyên Hải - Nha Trang. Nhờ đó anh đă có dịp ghé thăm tôi nhân dịp tôi về phép.

Sau năm 75, Thiếu Tá Nguyễn Xuân Điền ở lại và bị bắt đi tù cải tạo. Năm 1992 anh đă sang Mỹ theo diện HO, và đang cư ngụ tại trị trấn Covina, phía đông Los Angeles, California. Mùa Hè năm 1999, tôi đă được gặp lại anh, đă cùng anh nâng ly bia uống mừng ngày tái ngộ và ôn lại những kỷ niệm của những ngày tháng gian khổ trong vùng U Minh hung hiểm.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541686547[IMG]http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541686547[/IMG]

Nguyễn Đ́nh Sài

florida80 11-08-2018 17:44

Ba N.Y khi xưa cũng là lính

Và làm Thư Kư cho Hải Quân trước 75

Chúc chu'nhiều ủng hộ........... Thân chào !:hafppy::hafppy:

ez4me 11-08-2018 17:58

Quote:

Originally Posted by hoanglan22 (Post 3536653)
Lời ngơ ư đầu đề trong trang của lính
Tôi HL mở trang này không có mục đích tuyên truyền đả kích một cá nhân hay một đoàn thể nào chỉ là vinh danh các chiến sĩ QLVNCH nói chung và các bạn hữu của tôi đă từng cầm súng nói riêng chiến đấu cho quê hương VN . Các bạn già của tôi ở đây dù quen hay không quen vẫn là những người cùng sát vai chiến đấu với lập trường chống cộng và để nhớ lại những chiến tích của chúng ḿnh qua từng đơn vị đă tham gia . Nhất là để nhớ thương những chiến hữu TPB đă hy sinh một phần thân thể cho Tổ Quốc . HL tôi lúc nào cũng ghi nhớ , gần chục năm nay tôi vẫn thường giúp đỡ những anh em về vật chất trong những cảnh nghèo khó , nhưng tinh thần của các Anh em chúng ḿnh đều có tâm niệm là người VN cùng chung ḍng máu nhưng không chung TỔ QUỐC với bè lũ CS
Riêng đối với các bạn trẻ chưa từng cầm súng chiến đấu th́ nên noi gương những bậc cha anh của ḿnh giữ vững lập trường chống cộng , việc này đ̣i hỏi ở thế hệ các cháu đừng quên những ǵ về quê hương bọn CS đă và đang làm .

Thân chào

Lăo ủm hộ tối đa nhe.

:):):):):):):):eek::eek::eek::eek::eek::eek::eek:

Đôla Trăm 11-09-2018 01:50

Quote:

Originally Posted by daibac5656 (Post 3537132)
Tụi bay phải kể lể "giai đoạn lịch sử" đào ngũ trước địch quân nữa nghen bay....

Tao muốn nghe thứ đó 1 cách đàng hoàng, chứ tao chán đọc mấy thứ "mũ xanh", "mũ đỏ", "mũ vàng", "mũ trắng" ǵ đó mà éo làm nên tích sự ǵ....

Đốm cút ngay !Đă đem mày đi thiến rồi ,mà vẫn chưa chừa thói sủa bậy .Quen thói chó dại ,chó hoang có ngày xe bắt chó tṛng tḥng lọng vào cổ , lúc đó từ chó ghẻ thành chó chết đó nghe chưa đốm ?Cút ngay ra gầm chuồng gà lẹ lên ...:hafppy::hafppy:

hoanglan22 11-09-2018 03:26

Tôi muốn nhắn nhủ chú daibac một điều . Tôi mở trang này như đầu đề đă nói không đả kích bất cứ cá nhân nào hay một đoàn thể . Các bạn nào thích th́ vào đọc không thích th́ đi ra khỏi trang này .
Trang này không phải là trang để post bậy bạ với những lời nói như chú , chú nên tự trọng bản thân ḿnh nếu nghĩ rằng ḿnh là con người có hiểu biết và học thức . Hy vọng chú hiểu những ǵ tôi nói .:thankyou:

hoanglan22 11-09-2018 04:48

5 Attachment(s)
Chuyện đầu hàng của một Trung Đoàn VNCH
Pháo thủ thành Carol


Khi Cố vấn bỏ Trung đoàn:
Một trong những quy luật quan trọng là cố vấn không được bỏ đơn vị tại chiến trường nếu không có phép của cấp trên. Cách đây 37 năm, ngày 2 tháng 4-1972 trung tá William Camper, cố vấn trưởng trung đoàn 56 đóng tại Camp Carroll điện về ban cố vấn sư đoàn 3 xin di tản. Ông được lệnh phải ở lại, nhưng trung tá Camper cúp máy và t́m đường thoát thân

30 năm sau, năm 1972, vị cố vấn trung đoàn, William Camper đă viết lại câu chuyện v́ sao cố vấn Hoa Kỳ phải bỏ đơn vị.

Lúc đó Trung tá Camper đă là 1 tay đầy kinh nghiệm. Nhiệm kỳ 1964 ông cố vấn cho Trung đoàn 2 tại Vùng I. T́nh nguyện thêm nhiệm kỳ thứ hai năm 1972 ông làm cố vấn trưởng cho Trung tá Phạm văn Đính, trung đoàn trưởng 56 thuộc sư đoàn 3 Bộ binh. Đây là trung đoàn yếu của sư đoàn hỏa tuyến. Nhưng trung đoàn trưởng lại được coi là 1 sỹ quan xuất sắc. Anh hùng Tết Mậu thân, chỉ huy đơn vị Hắc báo Sư đoàn 1, lính của ông được vinh dự kéo cờ trong bức h́nh lịch sử 1968 tại Thành Nội. Trung tá Trung đoàn trưởng 28 tuổi, vừa đem đơn vị vào nhận căn cứ Carroll được mấy ngày. Cố vấn Camper cũng là tay cừ khôi. Có phụ tá là thiếu tá Brown lỳ lợm. Camp Carroll nằm ở phía nam Cam Lộ, trên đường 9, lối đi vào Hạ Lào.

Trước đây Carroll là căn cứ của sư đoàn Nhẩy dù Hoa Kỳ 101 có cả tiểu đoàn pháo binh cơ động 175 ly. Đây là một căn cứ hỏa lực mạnh nhất vùng I chiến thuật yểm trợ cho Khe Sanh và bao vùng toàn thể mặt trận tây bắc Quảng Trị.

Cho đến cuối tháng 3-1972 báo cáo của trung tá William Camper ghi nhận căn cứ Carroll có 1.800 binh sĩ, 1 tiểu đoàn bộ binh, Bộ chỉ huy trung đoàn, và nhiều đơn vị trực thuộc. Một tiểu đoàn pháo 155 tăng cường gồm 4 pháo đội 4 góc. Hai pháo đội 105. 1 pháo đội 155. Đặc biệt có 1 pháo đội 175 với súng đại bác ṇng dài được gọi là vua chiến trường. Quân dụng này do pháo binh Hoa Kỳ khi rút khỏi Carroll đă bàn giao lại.

Nội trong tháng 3-72 địch đă uy hiếp các tiền đồn quanh căn cứ Carroll phải rút. Gần như không c̣n đơn vị nào ở phía Bắc và Tây bắc. Trại Carroll đă ngửi thấy mùi của Bắc quân. Vào lúc 11:30 ngày 30-3-1972 toàn bộ trung đoàn pháo Bông Lau của cộng sản với 40 đại bác 130 và 122 tập trung hỏa lực dứt điểm Carroll.

Sau 1 ngày 1 đêm, tinh thần binh sĩ giao động nhưng ban cố vấn nghĩ rằng vẫn c̣n chịu đựng được. Sẵn sàng cho trận đánh cuối cùng khi bộ binh cộng sản tấn công.

Lúc đó trung tá Camper đang nóng ḷng chờ đợi thiếu tá cố vấn phó Joseph Brow đi lănh tiếp tế chưa thấy về đồn. Đến chiều ông này vượt ṿng vây về được Carroll.

Hai anh sĩ quan Mỹ hết sức cô đơn giữa đơn vị Việt Nam, có cả anh trung đoàn phó Việt Nam thù Mỹ ra mặt. Tương lai chưa biết ra sao. Bèn lấy 2 lon coca nguội cuối cùng uống mừng lễ Easter tháng 4-1972. Chưa bao giờ những chiến binh Hoa Kỳ phiêu lưu này có được ngày lễ Phục sinh lạ lùng như vậy. Quay đi quay lại chợt Camper không thấy có sỹ quan Việt Nam. Họ đi đâu hết. Vội vàng nhào lên bộ chỉ huy trung đoàn và được biết ông trung tá Đính họp bộ tham mưu khẩn cấp và loan báo Camp Carroll sẽ đầu hàng.

Căn cứ Carrol.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541738500
Trong câu chuyện kể lại 30 năm sau, Trung tá Camper cho biết, ông từ chối việc đầu hàng và liên lạc về Sư đoàn 3 xin lệnh cố vấn trưởng cho phép t́m đường máu mà ra đi. Lệnh từ cố vấn sư đoàn bắt phải ở lại v́ nghĩ rằng viên cố vấn trung đoàn mất tinh thần nên t́m đường trốn khỏi đơn vị.

Sau cùng, cứ như phim ciné, 2 tay cố vấn liều chết được trực thăng Mỹ vô t́nh bay ngang có phản lực hộ tống đáp xuống cứu thoát, đem theo hơn 30 binh sĩ Việt Nam cùng thoát hiểm với vũ khí đầy đủ.

Khi về đến Ái Tử rồi đến Quảng Trị, cố vấn trưởng và tướng Giai, tư lệnh sư đoàn 3 vẫn không tin là trung đoàn 56 đầu hàng. Về sau khi binh sĩ chạy về kể chuyện đơn vị treo cờ trắng và cho đến khi nghe tiếng của trung tá Đính trên đài phát thanh Hà Nội, tướng Giai ngỏ lời xin lỗi trung tá Camper.

Tuy nhiên, trong báo cáo tường tŕnh của viên cố vấn có 1 đoạn viết như sau: “Khi trực thăng cấp cứu đưa được cố vấn ra khỏi trại, phi công nh́n thấy cả trung đoàn đang chuẩn bị đầu hàng. Vải trắng bay phất phới mọi nơi. Trung tá Camper cảm thấy hết sức bất măn, quả là thảm kịch. Chưa bao giờ quân miền Nam lại đầu hàng cả trung đoàn. Tuy nhiên, ông viết tiếp, phải ghi nhận rằng không phải tất cả các chiến binh Việt Nam tại đồn Carroll đă lựa chọn giải pháp đầu hàng. Một pháo đội thủy quân lục chiến Việt Nam duy nhất đóng tại Carroll với nhiệm vụ yểm trợ bao vùng. Đơn vị này đă gửi điện văn về Mai Lộc cho biết họ sẽ không đầu hàng. Khi Bắc quân tiến vào cổng trại, pháo đội B của lính mũ xanh hạ ngang ṇng súng tiếp tục chiến đấu đến giờ phút cuối cùng. Rồi cũng chẳng phải tất cả các lính bộ binh khác đều theo lệnh trung tá Đính. Trên 300 binh sĩ của tiểu đoàn đă phá ṿng vây để t́m đường tự giải thoát. Cho đến giữa tháng 4-1972 đă có gần 1.000 chiến binh của trung đoàn 56 vượt qua pḥng tuyến của Bắc quân mà về miền Nam.”

Đó là nguyên văn báo cáo của Camper mới được phổ biến mấy năm gần đây.

Người anh hùng và kẻ phản bội trong quân lực Việt Nam Cộng Ḥa

Trên đường đi ngược ḍng lịch sử, t́m về cuộc chiến mùa Phục sinh năm 1972, chúng tôi đọc tất cả tài liệu và đi hỏi rất nhiều người. Đặc biệt muốn t́m cho ra, ai là nhân chứng cho thủy quân lục chiến của pháo đội B, trấn thủ Camp Carroll vào tháng 4 năm 1972. Và ai là người pháo đội trưởng đă không chịu đầu hàng. Ai đă từ chối treo vải trắng trong khu vực trách nhiệm. Nếu giờ này c̣n sống th́ anh ở đâu.

Lang thang trong rừng lịch sử chiến tranh trên sách báo Mỹ, tôi t́m thấy tác phẩm Người anh hùng và kẻ phản bội, trong Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa(Heroism and Betrayal in The ARVN) Tác giả Andrew A. Wiest.

Cuốn sách này viết về 2 nhân vật của quân lực miền Nam. Đó là trung tá Huế và trung tá Đính.

Cả hai đều là chiến hữu xuất thân từ miền Trung Việt Nam. Hoàn cảnh đưa đẩy cùng vào sinh ra tử trong nhiều trận. Trung tá Đính, như chúng ta đă biết, đầu hàng cộng sản đầu tháng tư 72, và được tuyên dương rất ồn ào. Được phong cấp bậc trung tá “quân đội nhân dân”. Về sau lên thượng tá, và ngày nay giải ngũ về sống tại Huế.

Trung tá Huế th́ đi tù cộng sản và được HO qua sống tại Hoa Kỳ. Ông Huế lẫm liệt từ đầu tới cuối, anh dũng trong chiến tranh, can trường trong chiến bại khi đi tù cải tạo. Sau cùng qua Mỹ làm lại cuộc đời. Hoàn cảnh của ông cũng như hàng ngàn chiến sĩ miền Nam và tác giả gọi là anh hùng.

Phần ông trung tá Đính, với ngọn cờ trắng tại Camp Carroll và những lời xu nịnh kẻ thù trên radio, tác giả xếp ông vào loại phản bội. Dù trước đó ông Đính đă từng là anh hùng của quân lực Việt Nam Cộng Ḥa. Đă được gọi là “Young lion”. Xếp hạng sĩ quan trẻ xuất sắc như các tiểu mănh sư.

Tuy nhiên, toàn bộ cuốn sách vẫn không t́m thấy bóng dáng của Pháo đội B thủy quân lục chiến tại Camp Carroll vào tháng 4-1972.

Ngoài ra, quyết định đầu hàng của Trại Carroll và trung tá Đính là một mất mát đau thương chưa từng xẩy ra cho miền Nam. Dù cho có sự tuyên bố phản bội rơ ràng, nhưng thật sự cũng c̣n nhiều lư do rất phức tạp chưa ai hiểu rơ.

Chuyện “Mùa hè Cháy“

Cuộc chiến mùa phục sinh 1972, phe ta gọi là mùa hè đỏ lửa theo tác phẩm rất nổi tiếng của Phan Nhật Nam. Phe miền Bắc cũng có tác phẩm của đại tá pháo binh Quư Hải.

Sách có tựa đề là Mùa Hè Cháy. Đây là cuốn nhật kư chiến tranh gần 300 trang viết về đọan đường hành quân kéo pháo từ miền Bắc vào đánh trận Quảng Trị. Đơn vị pháo của tác giả có tên là trung đoàn Bông Lau, trực tiếp bắn pháo tập trung vào căn cứ Carroll và sau cùng chính trung đoàn pháo này được coi như có công đầu trong việc thúc ép Carroll đầu hàng.

Tác phẩm này đă tả chi tiết con đường của miền Bắc đưa pháo vào chiến trường và chính khả năng pháo binh rất mảnh liệt từ 122 đến 130 và 152 ly của khối Cộng đă đạt được thắng lợi trong giai đoạn đầu của chiến dịch Quảng Trị mùa hè 72. Trang 211 tác giả đă có dịp ghi rơ vào ngày 1 tháng 5 năm 1972 Bắc quân tràn vào thị xă Quảng Trị, sau khi sư đoàn 3 tan hàng rút đi. Chính vào giờ phút đó lính và dân chạy loạn chen chúc trên quốc lộ số 1 th́ pháo 122 và 130 của trung đoàn 38 bắn chụp lên toàn bộ đoạn đường Quảng trị-La Vang và làm thành 1 thảm cảnh mà chính cộng sản cũng biết là rất tàn khốc, khủng khiếp.

Đó là nguyên văn tài liệu của đại tá pháo binh cộng sản Nguyễn Quư Hải tả về con đường mà sau này báo chí miền Nam gọi là Đại lộ Kinh hoàng. Trong cuốn sách này, tác giả của pháo binh miền Bắc đă xử dụng nhiều bài viết của người Việt tại hải ngoại để dành đọc thêm phần tham khảo.

Chúng ta có dịp thấy rơ văn chương của phe cộng sản dù cố viết trung thực, vẫn c̣n nhiều đoạn tuyên truyền giáo điều làm hỏng giá trị lịch sử của tác phẩm.

Trong khi đó bài viết của người Việt tự do rất đơn giản và khách quan. Không có đoạn nào tuyên truyền b́nh luận chính trị làm người đọc chán nản.

Tuy nhiên điều quan trọng nhất là khi viết về vụ đầu hàng của căn cứ Carroll, không có hàng chữ nào của cộng sản viết về hành động không chịu đầu hàng của pháo đội thủy quân lục chiến.

Và chúng tôi vẫn phải tiếp tục đi t́m.

Lời rao đă gởi lên các báo, radio, và các trang điện toán. Vẫn c̣n phải đi t́m người pháo thủ của thành Carroll

Người pháo thủ Thành Carrollhttp://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541738500

Khi tôi gọi điện từ California về Florida lần đầu, nghe tiếng trả lời rất từ tốn. Vâng, tôi là Tâm đây. Đúng vậy, 37 năm trước tôi là đại úy Tâm, pháo đội trưởng pháo đội B thủy quân lục chiến ở Camp Carroll.

Và như vậy là chúng tôi đă t́m được người pháo thủ thành Carroll của trận Mùa Hè 1972.

Đầu đuôi như thế này: Tại thành phố Lutz của tiểu bang Florida có anh Thịnh là chiến hữu của anh Bẩy Saigon. Đây là tên hiệu của đại úy Nguyễn văn Tâm.

Anh Thịnh đọc bản tin trên điện báo thấy có người hỏi về pháo binh thủy quân lục chiến ở Camp Carroll bèn liên lạc với ông Bẩy và mặt khác nhắn tin cho chúng tôi.

Và bây giờ là chuyện của của người pháo binh mũ xanh tự coi như quân đội và cả cuộc đời bỏ quên anh từ 1972.

Anh Tâm cho biết là dân Bắc kỳ di cư, cả nhà đạo gốc, đi Thủ Đức khóa 12 ra trường năm 1962 về thủy quân lục chiến rồi đi học pháo binh. Du học Mỹ 1 năm, lập gia đ́nh. Đầu năm 1972 đem pháo đội B của tiểu đoàn 1 pháo binh TQLC ra Huế, đóng tại Camp Carroll, yểm trợ cho lữ đoàn 259.

Nói đến căn cứ Carroll, người pháo thủ của chúng ta hết sức dè dặt. Anh cho biết khi các cố vấn Mỹ thấy ông Đính ra lệnh đầu hàng th́ chỉ có đơn vị pháo binh thủy quân lục chiến không chấp nhận. Cả hai ông cố vấn bèn t́m đến khu vực của pháo đội B nói chuyện. Anh Tâm cũng muốn thảo luận để phối hợp hành động. Tuy nhiên bên cố vấn cũng chưa biết tính đường nào. Có thể họ nghĩ rằng phá vây đơn lẻ th́ dễ thoát. Do đó mạnh ai tính lấy chuyện của ḿnh.

Đại úy Tâm về họp các sĩ quan, và hạ sĩ quan ṇng cốt. Tất cả đồng ư không hàng. Anh Tâm bèn chia ra nhiều toán và chỉ thị sẽ tùy nghi chiến đấu t́m đường tẩu thoát. Anh ủy cho 1 sỹ quan người địa phương biết địa lư. Cố thoát về được để báo cáo cho Bộ chỉ huy TQLC. Tất cả anh em đều đồng ư không chịu kéo cờ hàng.

Sau cùng kết cục cũng không phải là trận đẫm máu như đă dự trù. Trong lúc các đơn vị bộ binh đầu hàng, địch ở ngay sau lưng thủy quân lục chiến nên hầu hết các sỹ quan pháo binh của pháo đội đều bị bắt làm tù binh. Trên 50% lính phá rào chạy thoát cùng với 1 sỹ quan đă được ông Tâm ủy nhiệm dẫn anh em chạy.

V́ là sỹ quan thủy quân lục chiến cao cấp nhất trong nhóm, lại không chịu cộng tác nên đại úy Tâm được coi là tù binh, bị tách riêng và giải đi 10 ngày 11 đêm đường bộ vào Quảng B́nh rồi đưa lên xe ra Hà nội.

Suốt từ đầu tháng 4-1972 anh hoàn toàn biệt lập, giao về ở chung với các tù binh VNCH bị bắt ở Hạ Lào. Đến 1973 cũng không được trao trả tù binh theo Hiệp Định Paris.

Cộng sản nói là miền Nam nếu muốn th́ phải nói chuyện với Pathet Lào. Đă có lúc anh bị đưa vào Hỏa ḷ Hà Nội rồi lại đưa lên miền Bắc. Đến 1975 anh củng vẫn không được đưa về cùng trại với các sỹ quan tập trung cải tạo. V́ không ở chung với anh em nên anh chàng pháo binh thủy quân lục chiến hết sức cô đơn và hoàn toàn không có tin tức ǵ về thế giới miền Nam. Chỉ biết sống với đói rét. Vợ anh ở nhà không biết tin tức ǵ để thăm nuôi. Nghe đồn chồng đă chết ngay từ tháng 4-72 tại căn cứ Carroll.

Nhưng nàng không tin và vẫn chờ đợi. Hai vợ chồng mới cưới, chưa có con, bà xă làm cho Hội Việt Mỹ Saigon, năm 1975 đă có giấy cho cả nhà ra đi nhưng vẫn cố ở lại với hy vọng. Lúc đó anh bị giam ngoài Bắc chẳng hề biết tin tức ǵ về cuộc di tản tại Saigon. Tuy nhiên, con người vẫn có phần số riêng. Năm 1978 một số anh em cấp úy diện tù binh được đưa vào miền Nam ngay tại trại Suối Máu.

Lúc đó anh mới t́m cách báo tin về cho gia đ́nh.

Tuy nhiên, ngay đến lúc được tha cũng không biết trước. Anh phải tự lần ṃ t́m đường về. Về đến Sài g̣n, bỏ gói đồ đầu ngơ, lén đi qua nhà. Anh em bạn tù chỉ dẫn. Mày ŕnh bên ngoài, ngó vào nhà thấy người lạ, có nón cối, th́ đi ngay chỗ khác chơi cho khỏi bẽ bàng.

Anh Tâm làm đúng như lời dặn. Thấy trong nhà không có nón cối. Thấy vợ c̣n ngồi với bố mẹ. Anh bèn quay lại đầu ngơ để lấy túi xách. Yên tâm trở về.

Ông bố nói rằng: “Ai như tao thấy bóng thằng Tâm trở về.

Hóa ra Tâm về thật.

Bây giờ ở đọan cuối th́ chuyện nhà ai cũng tương tự.

Ông bà HO 5 (1991).

Cô vợ của Hội Việt Mỹ một thời vẫn chung thủy chờ đợi anh. May quá, chỉ xa cách có 6 năm. Xem ra từ lúc nhập ngũ 62 đến 72 là 10 năm pháo thủ cho thủy quân lục chiến.

Lại không chịu treo cờ trắng đầu hàng mà chỉ bị tù binh 6 năm cũng là nhẹ. Anh không cho rằng v́ cộng săn nhân đạo đối với cá nhân. Tất cả là nhờ ơn Thiên Chúa. Cả nhà anh theo đạo gốc. Đức tin giữ cho anh sống để chờ đoàn tụ. Đức tin cũng giữ cho vợ anh sống để chờ đoàn tụ. Anh phải sống thêm 3 năm biệt lập ở kinh tế mới Hố Nai.

Trốn tránh đi theo phục quốc nhưng chuyện bất thành. Sau xoay được hộ khẩu Sài G̣n, mười năm nội trợ nuôi con cho vợ đi làm. Dù sống khó khăn nhưng rồi vợ chồng cũng HO được hai con trai qua Mỹ năm 91. Các cháu học hành đỗ đạt, có nghề chuyên môn vững chắc. Cha mẹ cũng vậy. Chuyện cũ bao năm qua anh không hề nhắc đến một lần. Đời binh nghiệp vẫn cảm thấy lẻ loi, cô đơn như 37 năm về trước. Những ngày bị bắt, rồi bị xếp loại tù binh Hạ Lào hết sức vô lư. Đại úy Tâm dè dặt tâm sự. Dù vậy, anh cũng có đôi điều muốn nói thêm. Anh cảm ơn sự chờ đợi thủy chung của bà xă. Hoàn cảnh của chị cũng hết sức đặc biệt. Đa số vợ con người ta đều biết tin để thăm nuôi. Riêng anh Tâm của chị hoàn toàn không có tin tức ngay từ tháng tư năm 1972. Hiệp định Paris 1973 đem lại chút hy vọng mong manh nhưng rồi lại tuyệt vọng. Có tin anh đă chết tại Carroll. Lại có tin anh đầu hàng đi theo cộng sản. Từ 72 cho đến 75, miền Nam sống trong cơn hồng thủy nên gia đ́nh cũng chẳng nhận được tin tức. Cho đến khi người tù thực sự trở về. Chị vẫn tiếp tục giữ các kỷ niệm của anh cho đến ngày nay. Ngồi bên người vợ đă tuyên hứa một đời theo thánh lễ, anh nói lời cảm ơn vợ hiền qua điện thoại để xin niên trưởng viết thành câu, in thành chữ cho nhà em đọc.

Đoạn cuối một chuyện t́nh.

Phần thứ hai có thể c̣n quan trọng hơn khi anh hết sức ca ngợi các sỹ quan và binh sĩ Thủy quân lục chiến của pháo đội B rất nhỏ bé gần như bị bỏ quên tại căn cứ Carroll từ tháng 3 năm 1972. Cũng là lính mũ xanh, cũng mặc áo rằn mầu biển, những anh lính trẻ thủy quân lục chiến cũng xâm trên tay hai chữ Sát Cộng và trong ngực đủ 4 chữ Thương nhớ mẹ hiền. Những cậu lính vừa tṛn 18 tuổi, chết không sợ, nhưng rất sợ bị địch bắt. Sát Cộng mà đầu hàng th́ quê biết chừng nào.

Ngày 2 tháng 4-1972, trong khi toàn thể căn cứ Carroll đều bỏ súng, treo vải trắng, chuẩn bị đầu hàng th́ riêng 100 TQLC của pháo đội B vẫn cầm súng. Tất cả đều đồng ư với anh là không đầu hàng. Dù sau đó không phải là pháo đội đă chiến đấu hy sinh cho đến người lính cuối cùng như bài tuyên dương huyền thoại của trung tá Camper. Sự thực một nửa vượt rào chạy thoát, một nửa bị bắt. Các sĩ quan của pháo đội B đều ở lại để lính phá rào vượt trại. Ngoại trừ một trung úy dân miền Trung, được anh ủy nhiệm phải t́m mọi cách đi thoát để báo cáo cho lữ đoàn. Nhưng sau cùng anh sỹ quan này cũng bị bắt trở lại.

Đại úy Tâm c̣n nhớ như mới hôm qua, khi anh họp đơn vị báo tin trung đoàn đầu hàng, nhưng anh quyết định Thủy quân lục chiến sẽ không hàng. Pháo thủ của anh đều biết rằng cả trại gần 2000 binh sĩ đều bỏ súng th́ 100 lính mũ xanh ăn nhằm ǵ. Địch bao vây chung quanh. Hơn 40 đại bác 130 và 122 của cộng sản đă bắn mở màn vào ngày 30 tháng 3. Súng lớn của bên ta hoàn toàn vô dụng v́ các tiền đồn làm hàng rào pḥng thủ đă rút hết. Vả lại, pháo đội B chỉ toàn súng 105 ly chẳng giúp ǵ cho cận chiến. Hàng ngũ sĩ quan cán bộ toàn thiếu úy mới ra trường. Ai biết ǵ đâu mà góp ư kiến.



Chính trong cái giây phút đó, t́nh chiến hữu của đơn vị, làm anh nhớ măi đến hôm nay. Rất b́nh tĩnh và cương quyết, anh em hoàn toàn trông cậy vào ông đại úy Bắc kỳ di cư 54. Trong tinh thần đó, anh đă quyết định không hàng. Pháo đội B chạy thoát được một nửa. Một nửa bị bắt, nhưng được gọi là tù binh, không phải là hàng binh, vẫn c̣n vinh quang một chút cho mầu cờ sắc áo.

Anh muốn nhắn tin và hỏi han từng người một, nhưng mà suốt 37 năm qua sao chẳng gặp ai. Pháo đội B, TD 1 PB/TQLC của Camp Carroll 1972, ai c̣n nghe được tiếng gọi năm xưa, xin hăy đáp lời.

“Đây là Bẩy Sài G̣n, pháo đội trưởng, pháo đội B thành Carroll, các anh có nghe tôi rơ không? Trả lời...”

Giao Chỉ, San Jose

================================================== ================================================== ====

PHÚT CUỐI TÂN LÂM

Thiếu tá TÔN THẤT MĂN
Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/56/SĐ3/BBhttp://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541738500

Sau mấy tháng hành quân yểm trợ công tác b́nh định và trấn giữ một số căn cứ vùng Gio Linh, vào hạ tuần tháng 3/72, Tiểu đoàn 1/56 được về dưỡng quân và làm trừ bị cho Trung đoàn tại căn cứ Ái Tử - nơi đặt bản doanh BTL/ SĐ3 BB. Sau khi sắp xếp bố trí mọi công việc cho đơn vị, chiều 29/3/1972 Thiếu tá Tôn thất Măn, Tiểu đoàn trưởng vào thăm nhà ở Huế để nh́n mặt đứa con gái vừa sinh mấy tháng.
Đêm 30/3, vừa chợp mắt một lúc, nghe tiếng điện thoại reo, đầu dây là giọng của Trung tá Đính - Trung đoàn trưởng, ra lệnh phải ra gấp Ái Tử để đưa Tiểu đoàn lên căn cứ Tân Lâm.
Sáng 31/3/1972, đơn vị được xe chở đến Chi Khu Cam Lộ và từ đây, hành quân bộ lên căn cứ. Áp lực địch lúc này rất nặng, một vành đai lửa dậy lên từ căn cứ C1 ở phía Bắc, đến căn cứ Phượng Hoàng ở Tây Nam, nhiều tiền đồn đă phải di tản, địch đang dồn hỏa lực để đập nát Tân Lâm ... Tiểu đoàn được lệnh bố trí quân tại ngọn đồi phía Bắc để cùng với Tiểu đoàn 3/56 đang trấn giữ Khe Gió h́nh thành một tuyến pḥng ngự trên Quốc Lộ 9, sau khi căn cứ Fuller bị tràn ngập.
Ngày 1/4, Thiếu tá Măn lại nhận được lệnh dẫn BCH Tiểu đoàn và một Trung đội vào ngay Trung tâm để bảo vệ BCH Trung đoàn. Tân Lâm lúc này như một biển lửa, Thiếu tá Măn, bàn giao công việc cho Đại úy Đỗ Triền - Tiểu đoàn phó - vất vả lắm, đến 3 giờ chiều toán quân này mới đến được vị trí quy định. Trung tá Đính cho anh biết sơ qua t́nh h́nh: Hỏa lực cơ hữu tại đây rất hùng hậu, nhưng không hoạt động được v́ bị pháo địch kềm chế, hỏa lực yểm trợ không có, đặc biệt là không quân.
Sáng mồng 2/4, Trung tá Đính triệu tập cuộc họp Ban Chỉ huy Trung đoàn và các Đơn vị trưởng tăng phái gồm có:
- Trung tá Phạm văn Đính - Trung đoàn trưởng
- Trung tá Vĩnh Phong - Trung đoàn phó
- Thiếu tá Thuế - Pháo Binh, phụ tá hỏa lực
- Thiếu tá Tôn Thất Măn - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/56
- Đại úy Hoàng Quốc Thoại - Trưởng ban 3
- Đại úy Nhơn - Trưởng ban 2
- Đại úy Hoàng Trọng Bôi - Pháo đội trưởng 175
- Đại úy Nguyễn văn Tâm - Pháo đội trưởng TĐ1/PB/TQLC.
- Trung úy Lê Văn Kiểu - Pháo đội 105
- Thiếu úy Thái Thanh B́nh - Chi đội trưởng Thiết Giáp
- …………….
Sau khi nêu t́nh h́nh nguy ngập của căn cứ sau 3 ngày bị pháo hủy diệt, mặc dầu chưa có bộ binh địch tấn công, nhưng khả năng của đơn vị trú pḥng không thể cầm cự lâu dài, viện binh, không yểm không có, ông Đính đă tŕnh với Tướng Giai và được trả lời toàn quyền quyết định, tiếp đó ông đưa ra 3 hướng giải quyết để mọi người lựa chọn:
1. Tử thủ, chiến đấu đến giây phút cuối cùng
2. Mở đường máu để rời khỏi căn cứ
3. Đầu hàng
Bên ngoài pháo địch bắn liên hồi, nhưng trong pḥng họp im phăng phắc. Mọi người đang chờ đợi một quyết định lịch sử, bỗng người ta nghe một giọng nói vang lên - Chậm, rơ ràng nhưng cương quyết:
- Tôi chọn một trong 2 điều trước và bác bỏ điều thứ 3. Tôi không chấp nhận đầu hàng.
Mọi người cùng nh́n về phía phát ra tiếng nói ấy: Thiếu tá Tôn Thất Măn. Nhưng ư kiến của anh như tiếng vọng giữa sa mạc, chẳng ai quan tâm như trong hồi kư của Đại Tá Turkley - Cố Vấn Sư Đoàn TQLC - có kể rằng khi vị Cố vấn đề nghị sử dụng Chi đội M - 41 làm mũi tấn công mở đường máu, th́ ông Đính trả lời: “Tất cả sĩ quan đă đồng thuận đầu hàng!” Thiếu tá Măn đâu biết rằng ngay đêm trước ông Đính đă t́m cách liên lạc với Chỉ huy Trung đoàn Pháo Bông Lau để tŕnh bày ư định của ḿnh. Vị Tiểu đoàn trưởng gọi máy thông báo sự việc và chia tay với Đại úy Triền, đồng thời để ông tùy nghi giải quyết !
Ngay từ giây phút ấy, cuộc đời binh nghiệp oai hùng của anh khép lại để bước vào một giai đoạn trầm luân khổ ải và chính câu nói khẳng khái ấy đă là nguyên nhân để anh bị đày đọa gần 12 năm trong các trại tù từ Bắc chí Nam !
Như bao chàng trai cùng thời, người con xứ Kim Long hiền ḥa cũng đă " xếp bút nghiên theo việc kiếm cung ", theo học Khóa 12 tại trường Bộ binh Thủ Đức Tháng 10/62, măn khóa, phân bổ về Sư đoàn 25 Bộ binh. Cuối năm 1963, về Huế cưới vợ - người t́nh của tuổi học tṛ năm nào, lúc chàng học Bán Công, nàng học Bồ Đề.
Sau 3 năm chiến đấu tại chiến trường miền Nam, năm 1965, anh xin thuyên chuyển về nguyên quán, lúc này anh chị có đứa con đầu ḷng. Phục vụ tại Trung đoàn 54/ SĐ1/ BB với cấp bậc Trung úy Đại Đội trưởng hoạt động vùng La Sơn, Tây Nam Huế.
Tháng 6/1967, qua làm Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 2/3, Tiểu đoàn trưởng là Thiếu tá Phạm văn Đính, phụ trách khu vực Phong Điền, Quảng Điền, ông Đính kiêm luôn Chi khu trưởng Quảng Điền.
Ngày 30 Tết Mậu Thân, anh về nhà nhưng buổi chiều vô lại đơn vị. Đêm hôm đó Cộng quân xâm nhập thành phố, cứ tưởng anh c̣n trong nhà, chúng ra lệnh cho mẹ và vợ anh đi t́m để giao nạp, nếu không sẽ bị giết. Cộng quân vào nhà không thấy anh, chúng dẫn chị đến nơi hành quyết, nhưng hai đứa con khóc quá, đành cho về. Lúc đó TĐ 2/3 đang ở Xước Dủ, Hương Trà, được lệnh hành quân về thành phố để bảo vệ BTL/SĐ, đơn vị được tàu Hải quân vận chuyển từ Trường Kiểu Mẫu, men theo Cồn Hến vào Cửa Trài, Mang Cá và từ đó xuyên qua Thành Nội đánh ra cửa Thượng Tứ. Chính TĐ này có vinh dự hạ cờ VC và kéo cờ vàng lên tại cột cờ Phú Văn Lâu, cụ thể là do binh sĩ Đại đội 3/2/3 của Đại úy Huỳnh Quang Tuân.
Sau chiến thắng này, anh được Quân Đội Hoa Kỳ gắn Huy Chương Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Đồng. Do thành quả của những chiến công đă đạt được và để tạo điều kiện trau dồi thêm khả năng chỉ huy và tiến thân, đầu năm 1970, anh được cử đi học Khóa Chỉ Huy và Tham Mưu tại Đà Lạt, giữa năm được thăng cấp Thiếu tá. Đầu năm 71, tham dự hành quân Lam Sơn 719 là đơn vị dự bị cho Trung đoàn giữ an ninh khu vực Tà Cơn, Lao Bảo. Sau đó, anh được đưa ra Trung đoàn 2, làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5/2.

**********

Sau hành quân Lam Sơn 719, Bộ Tổng Tham Mưu xét thấy t́nh h́nh chiến sự tại Vùng I ngày càng sôi động, có nhiều chỉ dấu Cộng quân gia tăng áp lực để có những hoạt động qui mô trong tương lai và để giữ những khu vực mà quân đội Mỹ bàn giao lại, do đó đă tŕnh Bộ Quốc Pḥng để thành lập riêng vùng Hỏa tuyến Quảng Trị, một đơn vị cấp Sư đoàn nhằm h́nh thành pḥng tuyến bảo vệ vững chắc khu vực chiến lược quan trọng này, đồng thời tạo ṿng đai an toàn để các đơn vị địa phương làm tốt công tác B́nh Định Nông Thôn.
Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 1/10/1971, Sư đoàn 3 được thành lập, đặt Bộ Tư Lệnh tại căn cứ Ái Tử, cạnh chùa Sắc Tứ nơi mà 413 năm trước Chúa Tiên Nguyễn Hoàng từ Thăng Long vào dừng lại đặt bản doanh gọi là Dinh Cát làm đầu cầu mở mang bờ cơi vào phía Nam sau này.
Trung đoàn 2 của SĐ1 đang có mặt thường xuyên tại khu vực hỏa tuyến được giữ lại làm nồng cốt, chủ lực cùng với 2 Trung đoàn Tân Lập 56 và 57 Tiểu đoàn 5 của Trung đoàn 2 được tách ra, làm căn bản để thành lập Trung đoàn 56, như thế, đơn vị và chức vụ của Thiếu tá Tôn Thất Măn bây giờ là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/56/SĐ3 BB.

Sáng 2/4/1972, sau khi Trung tá Đính thông báo lệnh đầu hàng, ngoài Thiếu tá Tôn Thất Măn, c̣n 2 sĩ quan khác chống lại (sau khi trở về đơn vị của ḿnh), đó là Đại úy Nguyễn văn Tâm - Pháo đội trưởng B/TĐ1/PB/TQLC và Thiếu úy Thái Thanh B́nh - Chi đội trưởng Thiết đoàn 11 Kỵ Binh. Ngay giờ phút ấy, Cố vấn Trung đoàn liên lạc được với trực thăng đang tiếp tế cho căn cứ Mai Lộc đă đáp xuống để bốc 2 vị này, một số chiến sĩ VNCH lên theo, trong đó có Thiếu úy B́nh.
Lúc này Trung tá Đính ra lệnh Đại úy Nhơn - Trưởng ban 2, cởi chiếc áo lót màu trắng ra treo trước cổng để làm tín hiệu chấp nhận đầu hàng (chuyện cờ trắng như vừa tŕnh bày là do Thiếu tá Măn kể, nhưng theo Thiếu tá Hà Thúc Mẫn được Đại úy Hoàng Quốc Thoại - Trưởng Ban 3 thuật lại lúc cùng nhau ở trong tù th́ Trung tá Đính lệnh cho Trung sĩ Sừng xé tấm drap trải giường làm đôi. Trong một bài tùy bút của Nguyễn Thắng - phóng viên chiến trường Quân Đội BV cũng viết như thế: “Sau khi sai lính lấy tấm vải trắng trải giường nằm, kéo lên cột cờ, anh Đính đă gọi cho chúng tôi : Alô, Bông Lau đâu, đă trông thấy cờ trắng chưa ?”).
Làm đúng theo điều kiện của cấp chỉ huy Trung đoàn 38, Pháo Bông Lau, mọi người đi theo hàng đôi ra hướng Quốc Lộ 9 theo thứ tự cấp bậc Tá - Úy - Hạ Sĩ Quan ..., bốn vị cấp Tá được tách riêng để khai thác và tuyên truyền.
Sáng 3/4, tất cả bị áp tải ra Bắc, chiều tối, lúc đến Bến Than, Bến Tắt chuẩn bị vượt sông Bến Hải th́ anh Măn cùng một số khác đă t́m cách bỏ trốn, tuy nhiên lúc này địch quân đă tràn ngập khắp nơi và có lẽ đă được báo động để lùng sục, nên sau 5 ngày đào thoát, anh bị bắt lại ... Riêng Đại úy Nhơn - Trưởng ban 2 trốn được, lần t́m về khu vực Ái Tử, có hành động ǵ đó làm cho các chiến sĩ TQLC nghi ngờ, tạm giữ rồi chuyển giao cho Sư Đoàn, sau đó đưa vào Sở 1 An Ninh Quân Đội tại Đà Nẵng, có những ẩn khuất nào đó không ai biết hay do anh Nhơn là người cầm cờ trắng ra trước cổng căn cứ Tân Lâm để làm tín hiệu chấp nhận đầu hàng ?
Đoàn tù và hàng binh đi bộ 10 ngày đến Quảng B́nh, tại đây có xe đưa ra Thanh Hóa và lên tàu đến trại giam Bất Bạt, Sơn Tây, thời gian này liên tục bị hỏi cung, viết bản tự khai, kiểm điểm. Đặc biệt là công an bắt tất cả những sĩ quan có đi du học Mỹ phải tường tŕnh đầy đủ những ǵ đă lănh hội được và giao cho ông Đính tổng hợp tŕnh lên chúng.
Trong khoảng thời gian này, lănh đạo trại giam mở đợt vận động tuyên truyền, kêu gọi tất cả sĩ quan đứng lên tự giác từ bỏ lư lịch căn cước QL/VNCH để trở về với Quân Đội Nhân Dân. Thiếu tá Tôn Thất Măn đă khí khái quyết liệt phản đối chiêu bài này. Khi được trực tiếp đặt vấn đề, anh nói với tên Thiếu tá phản gián Nguyễn Phương: “ Ngay từ lúc ở căn cứ Tân Lâm, tôi đă chống lại việc đầu hàng của Trung đoàn trưởng, mặc dầu mọi người đều im lặng, nhưng lúc đó tôi không nghĩ đến sự an nguy của tính mạng ḿnh và đă chống đối đến cùng. Đời lính thắng bại là chuyện thường t́nh, bây giờ tôi sa cơ thất thế bị các ông bắt, hăy xem tôi như là một tù binh chiến tranh, tôi hoàn toàn chấp nhận vị trí ấy, tôi luôn luôn trung thành với lư tưởng mà tôi đă phụng thờ : TỔ QUỐC - DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM, đồng thời tôi không phản bội những chiến hữu dưới quyền đă hy sinh”.
Tên Thiếu tá lên tiếng: “ Tôi được phân công xuống giúp đỡ anh, tạo điêu kiện cho anh trở về với cách mạng, phục vụ nhân dân, lập công chuộc tội, nhưng anh vẫn ngoan cố, đó là quyền của anh, có ǵ đừng ân hận. Tôi sẽ báo cáo với trên”.
Sau hôm ấy, anh bị đưa đi giam riêng, được một thời gian, chúng chuyển anh xuống Hỏa Ḷ Hà Nội, nhốt vào xà lim.
Trong lúc thân phận anh như thế, ở bên ngoài, CSBV tổ chức một buổi lễ rầm rộ cho ông Phạm văn Đính và ông Vĩnh Phong đăng đàn, nêu lên những tội ác và sai lầm khi theo " Đế quốc Mỹ " dày xéo đất nước và nay thấy rơ đường lối chính đáng của Cách mạng nên đă đem Trung đoàn về với nhân dân, xin được đứng trong hàng ngũ Quân Đội Nhân Dân để chống lại kẻ thù xâm lược !
Cả hai ông Đính và Phong đều được giữ nguyên cấp bậc Trung tá và hưởng lương từ tháng 4/1972. Theo chỉ thị của chính quyền CS, ông Đính viết lịch sử miền Nam, phân tích nghệ thuật và h́nh thái tác chiến của QL/VNCH. Ngoài ra, c̣n có những kư sự để tuyên truyền xuyên tạc và ca ngợi chính quyền miền Bắc như : “ Saigon - Phủ Đầu Rồng ", " Cây Đa Bến Cũ ", " Một cái ǵ mới " . Tháng 4/1994, cả hai ông ra Hà Nội để được gắn lon Thượng tá và Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng nhất !
Hai ông Đính và Phong trong buổi lễ của CSBV
Những ngày tháng nằm trong xà lim, anh không đau đớn cho thân xác bởi cực h́nh và thiếu đói, mà xót xa nhiều điều: Mười năm lính, lúc ở Sư đoàn 25 BB, t́nh h́nh tương đối yên tĩnh, chủ yếu là lo công tác an ninh, bảo vệ dân chúng an tâm làm ăn trong những vùng xa thường bị địch quân về quấy rối ... Nhưng khi được trở về chiến đấu trên quê hương Trị Thiên là thời kỳ gian khổ, ác liệt nhất ... Bước chân anh đă đi qua mọi miền từ Lăng Cô, Bạch Mă đến Gio Linh, từ đồng bằng ven biển đến biên giới Lào Việt, kể cả những lúc tác chiến trong thành phố.
Có những thời khắc, mạng sống như ngh́n cân treo sợi tóc, phải chiến đấu để chiếm từng thước đất, ngọn đồi, từng bờ tường, con phố, nhưng bằng mưu trí và sự can trường, anh đă dẫn đơn vị đi qua và chiến thắng, đôi khi có những t́nh huống hết sức nghiệt ngă! Thế mà đến đầu tháng 4/1972, đó chưa phải là giờ thứ 25 của cuộc chiến, tại một căn cứ hỏa lực hùng hậu, có ưu thế pḥng thủ với trên 1000 tay súng và một Ban Chỉ huy dày dạn chiến trường …. và anh, một người chỉ huy tác chiến … Tất cả chưa bắn một phát súng nào, chưa có đơn vị bộ binh nào của địch xuất hiện, cũng không có lời kêu gọi áp đảo tinh thần, mà chỉ mới là những quả đạn pháo binh được bắn vào căn cứ liên tục, đồng ư là địch có ưu thế hỏa lực, áp dụng chiến thuật phong lôi, cả một Trung đoàn Pháo cùng lúc bắn vào mục tiêu, nhưng như thế chưa phải là hoàn toàn bế tắc, để không thể tổ chức chiến đấu, thế mà chúng tôi đă phải buộc ḷng quy giáp đầu hàng.
Đầu hàng ! Tại sao lại như thế. Động cơ nào? Đó là câu hỏi nhức nhối dày xéo tâm can anh! Anh cũng đă thẳng thắn nói ra những ư nghĩ ấy cho đối phương là Nguyễn Quư Hải, tác giả của hồi kư Mùa Hè Cháy, nguyên Tiểu đoàn trưởng Pháo Binh thuộc Trung đoàn Bông Lau, đơn vị trực tiếp gây áp lực buộc Trung đoàn 56 đầu hàng. Trong quyển sách này, tác giả kể lại cảm nghĩ của Thiếu tá Măn về sự thất bại của Trung đoàn56 trước sức tấn công như vũ băo của Trung đoàn 38 Pháo Bông Lau, Thiếu tá Măn đă trả lời: “ Tôi hết sức ngạc nhiên, không thể tin nổi là số phận của một căn cứ hỏa lực mạnh nhất Quân Đoàn đă được quyết định chỉ trong ṿng năm phút !” Hôm nay anh vẫn xác nhận như thế và tŕnh bày thêm: “Sau khi tuyên bố 3 hướng giải quyết, ông Đính đă không có sự thảo luận với tất cả sĩ quan có mặt và sau lời phản đối của anh Măn, ông Đính liền ra lệnh Đại úy Nhơn cởi áo lót làm tín hiệu ...”.
Quả thật lúc này chúng ta mới biết 3 cách giải quyết được đưa ra như là một thông báo, chứ không phải để bàn bạc, bởi v́ mọi chuyện đă được quyết định và Trung tá Đính không có th́ giờ !


Trong bài viết: " N+3 Một Ngày Oanh Liệt ", Đại tá Cao Sơn - Trung đoàn trưởng Pháo binh Bông Lau ghi lại cuộc nói chuyện và những điều kiện ông ra lệnh cho Tr. Tá Đính: " ... Yêu cầu tuân thủ nghiêm những quy định sau :
1. Kéo cờ trắng lên
2. Bắt hai tên Cố Vấn Mỹ cùng ra hàng
3. Để nguyên vũ khí, phương tiện chiến đấu tại chỗ. Cả chỉ huy và binh sĩ đứng trên mặt đất, xếp hàng đôi đi theo con đường duy nhất tới Đầu Mầu, sẽ có người đón. CHÚNG TÔI NGỪNG BẮN 30 PHÚT ĐỂ CÁC ANH CHẤP HÀNH NHỮNG QUY ĐỊNH TRÊN " .
H́nh Th.T Măn tại căn cứ Tân Lâm trong ngày 2-4-1972
(người đội nón sắt chụp chính diện)

Anh kể chuyện tôi nghe, trong bao năm cận kề chiến đấu, vào sinh ra tử bên nhau với Trung đoàn trưởng, anh đă có sự liên hệ thân t́nh, kính mến. Phút cuối ở Tân Lâm, có thể có những lư do thầm kín nào đó để ông Đính đưa đến quyết định tai hại ấy! Ḷng anh có đôi chút thông cảm, tuy nhiên, qua những việc ông cư xử với anh em trong trại tù, cũng như sự hăng say hợp tác với đối phương sau này làm anh thất vọng, bao nhiêu niềm tin và sự kính phục đă không c̣n nữa!
Khi c̣n ở trong tù năm 1973, mọi người được biết về Hiệp Định Ngưng Bắn, trao trả tù binh, riêng cá nhân anh và Thiếu tá Thuế Pháo Binh không được nằm trong danh sách ! Các anh đặt vấn đề với cán bộ trại, được trả lời là sẽ đề đạt lên cấp trên giải quyết, nhưng chẳng bao giờ nhận được câu trả lời ! Cho đến năm 1975, khi nghe tin miền Nam mất, tất cả đều nghẹn ngào, chua xót, cùng bảo với nhau: Thế là hết ... đất nước mất, Quân Đội mất, chúng ta không c̣n ǵ để nương tựa, để trở về !
Cuối năm 1975, từ Bất Bạt Sơn Tây, anh bị đưa lên giam tại Cao Bằng, năm sau lại chuyển qua Sơn La, lúc này Bắc Việt cũng đă ồ ạt đưa những sĩ quan QL/VNCH từ miền Nam ra Bắc - đây là những trại tù khổ sai khủng khiếp đă được nhiều người nhắc đến.
Đầu năm 1979, trước khi Trung Cộng mở đợt tấn công qua biên giới, chúng lại chuyển các anh về trại Đầm Đùn Sơn Tây.
Ở đây cho đến năm 1981, được đưa về Nam, giam tại trại Z30D cho đến cuối năm 1983, anh mới được trả về với gia đ́nh !
Tính từ tháng 4/1972 đến lúc ấy, thân xác anh bị đày đọa gần 12 năm trong những trại tù nổi tiếng ác độc nhất. Công bằng mà thấy, sau 30/4/1975, một vị Tiểu đoàn trưởng bị giam khoảng 10 năm, nhưng Thiếu tá Măn - Tiểu đoàn trưởng TD 1/56/SĐ3/BB đă phải trải qua thời gian trong lao lư dài như thế, chỉ v́ một câu nói bất khuất !
Khi trở về, anh phải tạm trú với mẹ ở Kim Long bởi v́ sau 1975, vợ anh bỏ căn nhà thuê ở Huế, về nương náu quê ngoại tại Long Thọ. Cô nữ sinh năm nào bây giờ chân lấm tay bùn với đồng ruộng !
Những tưởng đất nước đă thống nhất, ḥa b́nh lập lại, các anh sẽ được đối xử công bằng sau thời gian " đền tội " trong tinh thần ḥa hợp dân tộc như đă được nghe cán bộ tuyên bố trước lúc ra trại . Nhưng không, trong mấy tháng đầu, hàng đêm chúng bắt anh phải đến Trạm Công an xă để ngủ và sau đó anh được " biên chế " vào tổ khai thác đót (một nguyên liệu để làm chổi ) tại núi rừng Tây Thừa Thiên với chỉ tiêu MỘT TẤN mỗi ngày ! Không chịu nổi sự kham khổ cực nhọc, đày đọa đủ điều, tháng 7/1984, anh trốn vào Nam, xin đi làm thuê tại một Công Ty Cao su ở Đồng Nai tại ấp Cấp Ráng ... Cũng tưởng là sẽ được b́nh yên ở vùng đất xa lạ này, nhưng lam sơn chướng khí và những loài rắn độc đă ngày đêm đe dọa, tấm thân ốm yếu bây giờ thêm c̣m cơi !
Bà chị ruột cầm ḷng không đậu trước hoàn cảnh bi thương ấy, đă cưu mang anh đem về Saigon, chăm sóc, bồi dưỡng và hàng ngày phụ với đứa cháu có nghề sửa xe ... anh sống âm thầm, lặng lẽ như thế giữa Saigon náo nhiệt, cứ nghĩ ḿnh là kẻ sống ngoài lề và bị xă hội bỏ quên !
Nhưng niềm vui lại đến khi nhân dân và chính phủ Hoa Kỳ bảo trợ cho những tù nhân chiến tranh bị CS giam giữ. Một lần nữa, bà chị của anh lại phải chạy đôn chạy đáo tốn kém tiền bạc để lo cho anh đầy đủ giấy tờ hợp lệ để được định cư tại Mỹ. Hồ sơ HO 29 của anh đă được phái đoàn Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ xét duyệt đôn lên HO 22 và anh đến Mỹ năm 1994.
Anh Măn tâm sự: Tôi tuổi Mậu Dần, cầm tinh con Cọp, mà con cọp th́ bao giờ cũng chỉ đi một ḿnh, có khi nó là chúa sơn lâm. Ngẫm nghĩ lại, cuộc đời tôi cũng thế, lúc nào cũng cô đơn, mặc dầu ở chỗ đông người ! Tôi không có cái vinh quang của con cọp, mà đơn độc trong những t́nh huống đôi khi quá oan nghiệt, ngay cả lúc đứng giữa những người gọi là chiến hữu ! Tôi cũng đă ở trong rừng, nhưng không phải để " cất vang tiếng thét " mà bị dẫn đi từ trại tù đến một căn cḥi lá vào lúc 1,2 giờ sáng, dưới ngọn đèn leo lét, mặt đối mặt với tên công an thẩm vấn ! Cũng thế, với cây rựa trong tay, một ḿnh cùng rừng đót ngút ngàn hoặc với những cây cao su ngang dọc thẳng tắp ! Tưởng chừng như Con Cọp Cầm Tinh mệnh số của anh chẳng bao giờ thét, nhưng thật ra anh đă dùng ư chí để nói với Tổ Quốc và bạn bè chiến đấu anh dũng bên cạnh anh rằng: Anh đă nghĩ đúng và làm đúng những ǵ anh nghĩ để không thẹn ḷng và thẹn với non sông. Chẳng có điều ǵ làm anh ân hận, cho đến bây giờ, anh vẫn nhớ và thực hành đúng bài học địa h́nh căn bản ở Trường Bộ Binh Thủ Đức 47 năm trước: Luôn luôn phải xác định điểm đứng. Phải xác định vị trí ḿnh đang đứng để biết bạn đang ở đâu, địch đang ở đâu, để có những quyết định chính xác. Hậu quả của những quyết định ấy đôi lúc là tai hoạ, nhưng vượt qua được, ta cảm thấy trưởng thành hơn, đúng đắn với lư tưởng ḿnh phụng thờ và nhân cách đạo lư đă được giáo dục.
Có người bảo là ḿnh bị quân đội bỏ quên, tôi th́ không bao giờ có ư nghĩ ấy bởi v́ ngay lúc này, mỗi cá nhân chúng ta đă là quân đội, phải làm sao để xứng đáng với tên gọi linh thiêng ấy, mặc dầu h́nh tướng tổ chức không c̣n !
Những buổi tối lái xe về nhà ở Baton Rouge, Louisiana sau 14 giờ với hai công việc nặng nhọc khác nhau, ḷng tôi dâng lên bao nỗi ngậm ngùi khi nghĩ đến Mẹ tôi, người có tấm ḷng biển cả rộng lượng vô biên. Những lúc canh khuya thức giấc, nghe tiếng sóng vỗ bên này mà nhớ đến Mẹ già bên kia bờ đại dương quay quắt. Từ ngày rời ghế nhà trường đến nay, tôi chưa bao giờ có được một khoảng thời gian b́nh yên thật trọn vẹn để chăm sóc bà, mà ngược lại, tôi luôn luôn là nỗi nhớ thương, lo lắng, trông ngóng trong ḷng bà kể từ khi tôi bước chân vào những ngày binh lửa, rồi gian truân với những năm dài tù tội, đến quăng đời lao động cực nhọc ở một xó xỉnh nào đó!
Năm nay bà đă 97 tuổi, sáng chiều đứng ngồi với một tâm trạng bồn chồn như thế trong căn nhà nhỏ của cô em út trong thành nội. Ở bên này tâm tôi cũng không yên, đôi khi thảng thốt v́ một cuộc điện thoại từ Việt Nam, vẫn biết bây giờ Mẹ như cây đèn giữa khoảng không, chỉ cần một làn gió nhẹ … nhưng tôi lo sợ bàng hoàng nếu một ngày nào đó nhận được tin ấy.
Gia đ́nh anh đến lúc này vẫn chưa hoàn toàn đoàn tụ, c̣n đứa con ở VN đợi ngày qua bên này định cư ... Bởi thế đă qua tuổi về hưu, anh vẫn gắng làm 2 jobs để ngoài việc trang trải chi phí ở đây, giúp thêm được phần nào hay phần đó cho những người thân ở quê nhà.
Tôi đă đọc “ Một Quân Đội Bị Bỏ Quên - Anh Hùng và Bội Phản " của Andrew Wiest và bài viết " Chàng Pháo Thủ Thành Carroll " của nhà văn Giao Chỉ . Cả hai tác phẩm đều nhắc về những nhân vật có liên quan đến Tân Lâm. Tôi khâm phục sự can trường, hy sinh cho thuộc cấp ngoài mặt trận và lẫm liệt, kiên cường trong trại giam của Thiếu tá Huế. Cũng là người lính, nhưng tôi cảm thấy bé nhỏ và tầm thường trước sự quyết đoán kịp thời, dũng mănh bảo vệ sự an toàn cho anh em trong đơn vị của Đại úy Tâm - chàng Pháo thủ Cọp Rằn thành Carroll, không chịu đầu hàng, chấp nhận ở lại để chiến sĩ ḿnh rút đi ... Nhưng đối với Thiếu tá Tôn Thất Măn, sự cảm kích, ngưỡng mộ, kính phục và thương mến gấp nhiều lần hơn ! Bởi vị trí của anh hoàn toàn khác, rất đặc biệt. Anh đă thẳng thắn bày tỏ quan điểm, ư chí bất khuất của một Sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa: Cái dũng khí của một kẻ sĩ ngay trước mặt cấp chỉ huy và chiến hữu khi chống lại tư tưởng chủ bại, đầu hàng của những con người ấy, sau đó trên đường áp tải đă t́m cách trốn thoát, không chịu đội trời chung với Cộng sản và rất đáng phục, rất oai phong khi trong gông cùm của địch đă dứt khoát chối từ, bác bỏ luận điệu tuyên truyền dụ dỗ để quy phục, luôn luôn giữ tấm ḷng sắt son với lư tưởng và đồng đội !
Tôi biết anh không cần thiết, bận tâm đến sự vinh danh, anh nói chỉ làm những việc b́nh thường của một người lính với tinh thần " Uy vũ bất năng khuất " !
Rất tiếc khả năng viết lách của tôi có hạn, nên không diễn bày được hết những oai hùng và đoạn đường gian khổ mà anh Măn đă kinh qua ... Tôi cố gắng trong những ǵ có thể làm được với tất cả tấm ḷng chân thật, để mọi người biết Quân Lực của chúng ta đă có một con người, một cấp chỉ huy minh định vững vàng, kiên cường lập trường trong mọi t́nh huống như thế.
Riêng cá nhân ḿnh, xin trang trọng nói rằng: ANH LÀ NGƯỜI HÙNG CỦA TÔI.


LÊ VĂN TRẠCH
(Bản hiệu đính 2011)

Ghi chú của tác giả:
Đây là LỜI VIẾT CỦA CỰU CHUẨN TƯỚNG VŨ VĂN GIAI - TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN 3 BỘ BINH gởi cho CỰU TRUNG TÁ NGUYỄN TRI TẤN sau khi đọc PHÚT CUỐI TÂN LÂM :
" Đính không nói với tôi trước khi đầu hàng mà chỉ nhờ Đại Tá Chung Tư lệnh phó chuyển lời chào từ biệt - v́ ngày hôm đó tôi vào Huế gặp TT Thiệu ra thăm, tới chiều tôi về mới biết. Đính đầu hàng mà không ai báo cáo ǵ cho tôi cả ! Tôi đâu có cho Đính toàn quyền quyết định ! Tôi đă gặp ngay cố vấn của Đính được trực thăng bốc về và tôi đă nghe ông ta nói những ǵ đă xảy ra . Nếu tôi biết được tôi đă ngăn cản ".

STARS and STRIPES - Thursday, May 4, 1972
The Cost Of Being A General
HUE, Vietnam (UPI) --The commander of a South Vietnamese division routed in the fighting in Quang Tri Province issued an emotional letter Tuesday night claiming "full responsibility" for the retreat.

In what he called a "letter from the heart" to men of the 3rd Div. at Hue, Brig. Gen. Vo Van Giai declared:

"The capital of Quang Tri Province is in ruins. Our food, our ammunition and all our fuel supplies are gone. Our force is exhausted.

"I see no further reason why we should stay on in this ruined situation. I ordered you to withdraw in order to fortify our units again from a new front to annihilate remaining Communist forces if they still engage in this wrongful war."

The letter was unprecedented in the Vietnam conflict. In it, Giai declared, "I bear full responsibility for history and the law for this withdrawal."

Giai has set up a new headquarters base about 18 miles north of Hue, the former imperial capital on Highway 1, about 400 miles north of Saigon.

Source: http://www.thebattleofkontum.com/stars/083.html

Ngày 4 – 5 - 72 trên tờ nhật báo Pacific Stars and Stripes của quân đội Hoa Kỳ, người ta đọc được bức thư của Tướng Giai bằng Anh ngữ, trong đó ông viết: “… Tôi chấp nhận hoàn toàn trách nhiệm trước lịch sử và pháp luật về cuộc triệt thoái này. Thị xă Quảng Trị đă hoang tàn đổ nát. Lương thực, đạn dược và nhiên liệu dự trữ đă cạn . Các đơn vị tác chiến đă quá mệt mỏi. Tôi thấy không c̣n lư do nào chính đáng để ở lại bảo vệ những hoang tàn đổ nát ấy. Tôi ra lệnh cho các đơn vị dưới quyền triệt thoái trong trật tự, để tái củng cố lực lượng, thiết lấp pḥng tuyến và mặt trận mới, để tấn công lại đối phương, nếu chúng vẫn c̣n duy tŕ cuộc chiến tranh đầy sai trái này…"

*** chú thích
Tác phẩm Người anh hùng và kẻ phản bội, trong Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa(Heroism and Betrayal in The ARVN) Tác giả Andrew A. Wiest.
Cuốn sách này viết về 2 nhân vật của quân lực miền Nam. Đó là thiếu tá Huế và trung tá Đính.
Cả 2 ông đều đă ở Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 3 của Sư đoàn 1 Bộ binh( gọi tắt là TĐ 2/3 ) luôn Th/tá Tôn Thất Măn cũng xuất thân từ đơn vị này. Là 1 trong 5 Tiểu đoàn thành lập đầu tiên của QLVNCH ,là đơn vị có nhiều vị Tướng đă từng chỉ huy Tiểu đoàn và DQY cũng may mắn về phục vu tại đây.
Nói thêm về những hành động bội phản hèn hạ của ông Đính : Ngay sau ngưng bắn 1973 ,khi trận chiến Cửa Việt xảy ra do VC vi phạm Hiệp định ,ông Đính đă bắt loa tuyên truyền ,kêu gọi anh em sỉ quan binh lính chúng ta bỏ hàng ngủ ,quay súng mà đi theo VC ,nhưng không một ai nghe theo.
Sau sụp đổ 04/75 ,ông Đính đă được VC đưa tới các trại tập trung tù gọi là cải tạo !! để mạt sát ,lên lớp dạy dổ anh em tù ,trong một buổi học chính trị ở trại tù Cồn Tiên ,Ái Tử ,ông Đính kể lại 1 câu chuyện về quảng thời gian trước ,khi ông c̣n là Tr/tá QLVNCH. Lúc đó ông Đính ngồi trên xe Jeep do anh H/sỉ tài xế lái từ Quảng Trị về Huế ,khi đến ngả ba Huế phải ngừng lại để kiếm soát do nhóm hổn hợp Quân cảnh Mỹ-Việt .Một anh Trung sỉ MP Mỹ đứng kế xe ,nh́n thấy cấp bậc Tr/tá của ông mà không chào. Ông Đíng bước xuống gọi anh chàng MP Mỹ và hỏi : Tại sao anh không chào kính tôi?
Anh MP Mỹ hỏi lại :Thế Trung tá có biết khẩu súng colt đang đeo bên hông ,chiếc xe jeep và cả tiền lương của Trung tá ở đâu mà có không ?,là của đất nước Hoa Kỳ chúng tôi đấy !!.
**********
Rồi ông Đính nh́n đám tù ngồi dưới đất và kết luận :- Các anh thấy không ,quân đội miền Nam các anh là tay sai của Đế quốc Mỹ xâm lược.
Chợt có một cánh tay đưa lên xin có ư kiến ,đó là anh Th/tá Hà thúc Mẫn nguyên Tiểu đoàn trưỡng TĐ 3/3 đứng lên và nói :
-Thế Tr/tá Đính cho tôi hỏi?
- Được rồi anh cứ hỏi đi.
- Khẩu K.54 Trung tá mang ,cái xắc cốt bên hông ,bộ kaki Nam định ,cái nón cối trên đầu ,xe cộ và vủ khí đạn dược ,mà ngay cả muối ăn là của Trung quốc. Vậy quân đội miền Bắc là cái ǵ của Trung cộng?
Ông Đính cùng đám quản giáo ,vệ binh tím mặt ,giải tán lớp và đem Th/tá Mẫn đi cùm.
Thời gian sau này ông Đính cũng bị đá ra ,hết xôi rồi việc ,trở về Huế ông Đính được VC giao cho làm trưỡng ban vệ sinh ,quét dọn sân vận động thành phố Huế.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541738500http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541738500

hoanglan22 11-09-2018 04:56

BA TRÁI THÚI

Giữa năm 1974, Tiểu Đoàn 4 TQLC được lệnh rời vùng biển Mỹ Thuỷ, Quảng Trị chuyển quân bàn giao vị trí pḥng ngự ở vùng núi rừng ở phía Tây Quốc Lộ 1, dưới chân rặng Trường Sơn với căn cứ Hoả lực "Barbara" do TQLC Hoa Kỳ giao lại sau cuộc giao tranh đẫm máu giữa lực lượng Nhảy Dù và quân Cộng Sản Bắc Việt vào mùa Hè năm 1972, trên đường tiến quân tái chiếm Quảng Trị.

Từ Quốc Lộ về phía Tây, những ngọn núi cỏ trọc, nằm nhấp nhô bên bờ Bắc sông Mỹ Chánh nối liền vào chân dăy núi Trường Sơn với rừng cây rậm rạp nay đă trơ trụi v́ thuốc khai quang do quân đội Mỹ rải xuống để tránh bị địch xâm nhập đột kích, Tù căn cứ Hoả lực "Barbara" nh́n về hướng Tây là con đường dọ quân Cộng Sản mới khai mở sau năm 72 nằm vắt vẻo, uốn khúc nối liền trục xâm nhập với tên gọi là Đường ṃn Hồ Chí Minh. Ở đây, quân lính TQLC ngày và đêm nh́n từng đoàn xe chở lính và đại pháo của Cộng quân lũ lượt xuôi Nam, ngang nhiên dưới bóng tàng của Hiệp Định Đ́nh Chiến Paris kư kết giữa Mỹ và Hànội năm 73. Người lính nào cũng biết sẽ c̣n ít nhất một trận đánh long trời lở đất nữa mới mong hết chiến tranh. Thuỹ Quân Lục Chiến là lực lượng Tổng Trừ Bị của miền Nam, trước đấy đă nhẩy vào các trận địa nóng bỏng trên khắp các mặt trận từ Mũi Cà Mau lên Pleiku, Kontum ra tận Bồng Sơn, Tam Quan, Huế, Quảng Trị, nay đă trở thành lính địa phương chống giữ phần đất địa đầu giới tuyến của Miền Nam.

Ngày và đêm, ngoài các cuộc tuần tiễu, phục kích chống xâm nhập c̣n tự đặt ra các chương tŕnh huấn luyện, thao dượt để luôn sẵn sàng ứng chiến. Việt Cộng cũng không ngừng luồn người vào trong các địa bàn hoạt động, móc nối sơ sở cũ và quấy rối trị an như pháo kích, gài ḿn, bắn tỉa. Thậm chí, có khi chúng bất thần đánh thốc qua tuyến pḥng ngự của TQLC để thăm ḍ. Quân Đoàn I lại càng chắc mẩm xin giữ giữ chân TQLC tại Quảng Trị để "bảo toàn lănh thổ".

Tuy vậy, công việc giữ đất dành cho TQLC ngày càng nhàm chán. Hầu hết quân lính vốn quê ở tận trong Nam. Mỗi ngày một chuyến bay liên lạc C. 130 của Không Quân cho người đi phép, tiếp tế, bổ sung cũng không đủ khoả lấp khoảng trống của người lính xa nhà. Được một tuần lễ sau, khi cuộc điều quân đă ổn định, một buổi chiều mưa dầm ở Quảng Trị, Thiếu Tá Nguyễn Tri Nam, Sĩ quan Hành quân của Tiểu Đoàn, nguyên xuất thân khoá 22 Vơ Bị, đă mời vị Tiểu Đoàn trưởng vào ỏơ hầm hành quân ỏơ để tiếp chuyện với ỏơ Đại Bàng Thái Dương ỏơ. Thạch vừa chui ra khỏi cửa hầm ngủ vừa lẩm bẩm :

- Không hiểu có chuyện ǵ nữa đây?

Cái thằng "Thày Đồ tẩm ngẩm" này! "Đại Bàng Thái Dương" là Trung Tá Đỗ Hữu Tùng quyền Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 147 (LĐ147) TQLC. "Cái thằng Thày Đồ" là bạn cùng khoá Vơ Bị với Thạch, ra trường về cùng đơn vị và trải qua cuộc chiến 10 năm nay lại gặp nhau. Tùng là cấp chỉ huy của Thạch.

- Tuyên Đức tôi nghe Thái Dương.

- Qua tần số cùi nhỏ, tao có chuyện muốn nói với mày.

- Cùi nhỏ, năm trên năm. Dứt.

Ở vùng hành quân, qua hệ thống máy liên lạc vô tuyến AN/PRC25, đám bạn cùng khoá Vơ Bị của Thạch ở các đơn vị đă nghĩ ra hai hệ tần số liên lạc riêng dựa vào Khu Bưu Chính (KBC) 027 của Trường Vơ Bị ngày xưa, cùi nhỏ là 4025 và cùi lớn là 4030. Thạch chuyển qua máy dự bị vặn cần vào tần số 4025.

- Thái Dương đây Tuyên Đức.

- Một chút nữa sẽ có trực thăng "Slick" vào đón mày ra ngoài này ăn tối chung với tao và thằng Tây Sơn. Có cả Kilô ở Saigon mới ra nữa.

- Nhận rơ. C̣n ǵ tiếp.

- Gặp mày sau. Dứt.

"Thằng Tây Sơn" là Trung Tá Nguyễn Đằng Tống, Lữ Đoàn phó LĐ 147 TQLC và cũng là bạn cùng khoá Vơ Bị với Thạch, ra cùng đơn vị từ đầu năm 1963 đến nay. Tống, Tùng và Thạch là 3 Thiếu Uư vừa ngoài 20 tuổi, tốt nghiệp khoá 16 của Trường Vơ Bị Đà Lạt, t́nh nguyện về TQLC sau ngày măn khoá. Hai ngày sau khi tŕnh diện Bộ Tư Lệnh Liên Đoàn TQLC ở Thị Nghè, cả ba được phát quân trang rằn ri của TQLC, rồi được đưa thẳng ra bến Bạch Đằng xuống tầu Hải Quân HQ 401 để đáo nhậm đơn vị lúc ấy đang hành quân ở vùng Năm Căn, Cái Nước ở Cà Mau. Tống sinh sau Thạch một ngày ở tại Nha Trang, nên khi đổi sang số quân Hải Quân cả hai đă mang hai con số khít nhau là 701.162 và 701.163. Ông Cụ của Tống là một thâm nho, từ Quảng Nam vào Nha Trang để dạy học và sau đó được đổi vào Sàig̣n làm cho Bộ Giáo Dục chuyên về cổ học Hán Nôm. Tống có khá đông anh chị em, vốn ḍng dơi hoạt động yêu nước trong các Chi bộ Quốc Dân Đảng. Anh Chị của Tống khá lớn tuổi đă làm việc và dạy học, lập gia đ́nh khi mẹ của Tống đă mất sớm. Sau Tống, c̣n có một cô em gái và một người em trai. Tống học ở trường Trung Học Vơ Tánh tại Nha Trang. Sau khi đỗ Tú Tài, Tống đă t́nh nguyện vào trường Vơ Bị. Khi tốt nghiệp vào cuối năm thứ 3, Tống là một trong mười người đứng đầu của một khoá với 226 sĩ quan ra trường.

Với vóc người cao tầm thước, ứng biến nhanh lẹ và mau mồm mau miệng, Tống đă thành công trong việc lănh đạo chỉ huy đơn vị từ một Trung đội trưởng với hơn 40 người lính lên đến một Tiểu Đoàn TQLC với quân số gần 900 tay súng thiện chiến. Năm 65, khi hành quân ở Điện Bàn, Quảng Nam, Tống bị trúng đạn vào bụng được chuyển về Quân Y Viện Qui Nhơn. Khi gặp lại Thạch, Tống kể: "Lúc tao bị trúng bụng, ngă xuống, không cục cựa ǵ được, chợt nhớ đến mày bị ba phát đạn ở B́nh Giă c̣n ḅ mấy ngày mấy đêm được". Thạch bị đạn vào đùi và bắp chân. C̣n viên đạn thứ ba cháy xém ngoài da ngực trái. Đạn vào bụng như Tống gây phá nguy hiểm hơn, thường dễ bị lưu huyết nội mà chết. Tống sống sót trở về tŕnh diện Bộ Tư Lệnh lúc ấy đă dời về trại Lê Thánh Tôn, sau lưng bến Bạch Đằng. Thạch bị lơm thịt đùi ở B́nh Giă nên được đi học khoá 3 Sĩ Quan Căn Bản Quân Cảnh ở Vũng Tàu rồi về làm Đại Đội Trưởng Đại Đội 202 Quân Cảnh của Binh chủng TQLC. Trong lúc ấy c̣n dưỡng thương, Tống được vị Tiểu Đoàn trưởng cũ là Thiếu Tá Nguyễn Kiên Hùng, nguyên tham dự đảo chánh 11/11/60, thất bại chạy sang ẩn náu ở Cao Miên rồi trở về thay Thiếu Tá Lê Hằng Minh làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 4TQLC. Thiếu Tá Hùng được bổ nhiệm ra làm Tỉnh Trưởng Nha Trang đă đem Tống theo, lúc ấy Tống c̣n là Trung Uư, ra làm Quận Trưởng Quận Ninh Hoà. Vốn là Sĩ quan Tác chiến kiên cường và liêm chính, Thiếu tá Hùng không ngồi lâu ở nơi "xôi thịt" đă bị trả lên Quân Đoàn II và sau đó ông xoay sở về làm Huấn Luyện Viên cho trường Chỉ Huy và Tham Mưu. C̣n Tống từ đơn vị 2 Quản trị đă nhất quyết đ̣i về lại TQLC và cuối cùng được toại nguyện. Dù trên da bụng của Tống c̣n dấu vết con rết dài sau cuộc giải phẫu, Tống nói đùa với Thạch : "Bụng tao có cái Fermeture để lâu lâu mở ra coi". Hồi Tống đi làm Quận Trưởng ở Ninh Hoà, do quân số c̣n ở TQLC nên đă uỷ nhiệm cho Thạch hàng tháng đến pḥng Quân lương lănh tiền gửi ra cho Tống. Tống viết thư bảo: "Mỗi tháng tao cho mày một ngàn xài chơi, c̣n bao nhiêu gửi ra cho tao".

Làm Quận Trưởng chỉ vài tháng với tuổi trẻ độc thân lại khẳng khái, Tống chẳng dư dả được bao nhiêu. Vốn tính gan ĺ và dũng lược, Tống cầm sự vụ lệnh đi Tiểu Đoàn TQLC trở lại làm Đại Đội Trưởng. Với các công trận lừng lẫy trên khắp các mặt trận từ Miền Tây ra Miền Đông lên đến Đức Cơ, Pleime, Tống đă từng bước lên cho đến ngày được bổ nhậm làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1/TQLC. Năm 68, Tiểu Đoàn của Tống đă vây bắt được 120 tên Việt Cộng xâm nhập vùng Ngă Ba Cây Thị, cầu B́nh Lợi. Tống được đi học khoá Amphibious Warfare ở Quantico, Virginia, Hoa Kỳ rồi trở lại đơn vị hành quân tái chiếm Quảng Trị. Bị thương lần thứ hai, Tống được kéo về làm Chánh Văn Pḥng cho Thiếu Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC. Vẫn thích cười cợt, vui đùa, Tống bảo: "Bây giờ tao làm Skinman tức là gia nhân đó!". Người hùng coi thường tử sinh đó cuối cùng đă trở ra đơn vị tác chiến và làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 4/TQLC, lên cấp Trung Tá với Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương sau cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị năm 72.

Lúc ba Thiếu Uư trẻ măng xuống tàu HQ.401 trực chỉ Cà Mau, leo lươí xuống tàu LCU đổ bộ lên Rạch Ông Năm với quân phục mới tinh chưa cắt chỉ, balô đời Pháp từ trường Vơ Bị mang theo cồng kềnh đủ thứ trên lưng và hai bàn tay không, cúi đầu chạy theo đám lính TQLC râu tóc xồm xoàm, chiến phục bạc màu nước muối, đổ bộ lên bờ sông nhăo nhoẹt śnh lầy với rừng cây Đước, cây Mắm xoải rễ dài chằng chịt như muốn níu kéo đôi chân người lính vốn đă trơn trợt. Tŕnh diện Đại Uư Bùi Thế Lân, Tiểu Đoàn Trưởng xong, cả ba được lănh ba cây súng Shotgun với dây đạn như phim cao bồi và được phân ra đi theo Ba Đại Đội tác chiến để "quan sát". Nhờ đă trải qua khoá Rừng Núi Śnh Lầy của Biệt Động Quân ở Dục Mỹ nên cả ba đều thích ứng nhanh chóng. Chấm dứt cuộc hành quân gần một tháng sau, đơn vị được rút trở về Hậu cứ ở Vũng Tầu. Ba người bạn lại càng khắng khít với nhau hơn, dù ở ba Đại Đội khác nhau, đi đâu cũng như h́nh với bóng. Khi được cấp giấy phép một tuần lễ, cả ba cùng rủ nhau đi chung xe đ̣ về Sàig̣n. Đầu tiên ghé thăm nhà ông Cụ của Tống đang ở trong một hẻm nhỏ bên Đakao. Gặp cô em gái của Tống là Trúc, Thạch đă ngă ḷng. Trúc lúc ấy đang học ở Gia Long, vừa đẹp, vừa thuỳ mị, hiền. Về lại đơn vị, Thạch mới nói vài câu ư muốn xin bàn tay cô em gái của Tống. Tống đă giẫy nẫy la lối: "Thôi đi mày. Mày bê bối, chơi bời bừa băi. Không được đâu!". Thạch không vừa đáp lại: "Từ hồi nào tới giờ, tao đi đâu cũng có mày mà, làm ǵ nói tao bê bối, chơi bời bừa băi". Ở tuổi mới lớn, thấy cô gái đẹp nào cũng mê. Anh Chị lớn bận bịu gia đ́nh riêng, nên Trúc vừa đi học vừa lo chăm sóc Cha già và đứa em trai không Mẹ. C̣n Thạch lặn lội hành quân. Khi trở về hậu cứ nghỉ quân, bô ba Thạch, Tống và Tùng đi đâu cũng dắt díu nhau như anh em ruột thịt, luôn cả xóm Ngă Ba nước mắm ở Vũng Tàu. Đi ăn uống, nhảy đầm cả ba gom chung tiền túi giao cho một người giữ trả. Lúc lănh tiền "rappel" Thiếu Uư được 7, 8 ngàn, Thạch và Tùng mua hai chiếc Vélo Solex để đèo nhau đi chơi chung. Có khi vào quán Càphê có người đẹp. Lúc lại thả rong theo chân mấy cô bé Trung học Vũng Tàu. Lúc nào Thạch cũng tỏ ra nhường nhịn hai bạn, nếu chỉ có hai người đẹp phải theo. Từ đó, mấy cô gái mới lớn ở Vũng Tàu mới đặt cho ba anh chàng Thiếu Uư nhỏ tuổi có tên cùng vần chữ T. là "Ba Trái Thúi" trong lúc ba chàng tự nhận ḿnh là "Ba Chàng Ngự lâm Pháo Thủ".

Đỗ Hữu Tùng xuất thân trong gia đ́nh gia giáo, đông anh em ở Đà Nẵng, lớn hơn Thạch và Tống, một tuổi, dáng vẻ thấp bé hơn nhưng thâm trầm, kín tiếng với nét đạo mạo "Cụ Non", nên bị hai người bạn đặt tên là "Thày Đồ". Tùng ít nói nhưng khi mở miệng th́ tuôn ra câu cú văn hoa ư nghĩa thâm thuư. Lại c̣n có tật để bụng không thích nói ra. Khi cần chàng lôi cuốn sổ tay ra có ghi chép mọi "sự việc" đầy đủ, đâu ra đó. Với nước da ngăm ngăm, Tùng có nét mặt và dáng vẻ thư sinh hơn là vơ biền, khoan thai và từ tốn. Măi một năm sau, khi đến đơn vị, hai người bạn mới phát giác ra Tùng đă có người yêu từ hồi c̣n ở Trung học, khi nàng bất chợt ghé xuống Vũng Tàu. Người thiếu nữ tên Lan c̣n giữ nguyên dáng vẻ, giọng nói và cử chỉ của một cô gái Huế, dù lớn lên ở Đà Nẵng với Tùng. Hồi mới ra trường, sau cuộc hành quân "thử lửa" ở Cà Mau trở về, Tống và Tùng đều được các Đại Đội Trưởng lo chu đáo từ việc sắp xếp đặt pḥng ngủ bên cư xá Sĩ Quan độc thân trước mặt doanh trại. Riêng Tùng có được một căn pḥng riêng rẽ nằm kín đáo phía sau. Thấy Thạch chưa có chỗ tạm trú, Tùng rủ bạn cho ở cùng pḥng. Tính Thạch lại bừa băi, cẩu thả nên ngày nào nghỉ ở hậu cứ Tùng cũng lo dọn dẹp gọn gàng sạch sẽ cho bạn. Thậm chí c̣n đi mua sắm khăn phủ giường, gối và mền cho Thạch "Đâu phải ra đó như hồi c̣n trong trường Vơ Bị". Khi Lan đến thăm với quà cáp tươm tất và thức ăn, bánh trái đầy giỏ, Tùng chia phần cho hai bạn rất đồng đều và không quên nhắc khéo Thạch.

- "Tối nay, mày có quyền ở nhà chị Ba Cây Dừa qua đêm được rồi".

Chị Ba Cây Dừa nuôi nhiều em út. Có một em chừng 17, 18 tuổi tự khoe ḿnh là tay đă tạt át xít vào mặt cô Cẩm Nhung là người t́nh của Trung Tá Trần Ngọc Thức năm 61, 62 ǵ đó. Sau lần gặp đầu tiên, cô nàng bảo Thạch: Anh không cần cưới em đâu. Chỉ khi nào hành quân về ghé ở lại với em là được rồi. Thế cũng đỡ phiền ḷng và mất th́ giờ theo tán tỉnh mấy cô học sinh Trung học trong trắng. Ở đơn vị tác chiến đâu biết số Ông chết ngày nào. Thạch vui vẻ đáp ứng ngay yêu cầu của Tùng trước cặp mắt ḍ hỏi của Lan. Đă thế, Tống c̣n bồi thêm một câu:

- "Thằng này chỉ giỏi ăn chơi trác táng".

Làm cho Lan càng thêm thắc mắc. Hết hy vọng "cua" em gái của Tống rồi. Lần sau hành quân trở về hậu cứ, Tùng vọt ngay về Sàig̣n thăm bạn gái. Nên khi có lệnh cấp tốc đưa quân lên SàiG̣n chống đảo chánh của Tướng Lâm Văn Phát chỉ có hai Đại đội của Thạch và Tống lên máy bay Air Viet Nam từ phi trường Vũng Tàu về Tân Sơn Nhất. Dù vậy, khi Tiểu Đoàn lên nằm ứng chiến ở Thị Nghè, Tùng cũng theo hai bạn đi ăn và đi nhảy đầm ở Tour D'Ivoire. Dưới thời Tổng Thống Diệm, lương Thiếu Uư khá dư dả đối với ba chàng tuổi trẻ độc thân. Chẳng bù sau này lên đến cấp Tá với phụ cấp này nọ cũng không dám ghé vào nhà hàng Tây. Do hành quân liên miên sau ngày đảo chính 1/11/63, "Ba Trái Thúi" dù có những ngày về nghỉ ở hậu cứ theo đuổi cô này, cô nọ nhưng chẳng đâu vào đâu cả. Cuối cùng chỉ ghé thăm chị Ba Cây Dừa rồi lại lên đường ra "biên ải".

Ở mặt trận B́nh Giă, khi Tùng được lệnh đem Đại Đội vào rừng cao su Quảng Giao t́m xác chiếc trực thăng và phi hành đoàn 4 người của Mỹ, Thạch và Tống lo lắng dặn ḍ bạn phải cẩn thận, Tùng bảo:

- "Tin tức mấy ngày nay đă rơ là quân số Việt Cộng tập trung lên đến cả Trung Đoàn. Nếu tụi nó c̣n quanh quẩn tại đây, Đại Đội của tao vào là bị tụi nó nuốt chững. Lệnh của cấp trên ra là tao phải vào thôi" !

Thạch nói như an ủi bạn :

- "Thôi được, có ǵ tao với thằng Tống sẽ nhào vô ngay"!

Chỉ một tiếng đồng hồ sau, Thạch đă nghe tiếng súng nổ ran ở phía Đông của làng B́nh Giă, tức tốc ra lệnh cho Đại Đội của ḿnh ra quân tiếp cứu sau khi đă gọi máy cho Tống bên Đại Đội 4. Cuối cùng, Tống và Tùng thoát về làng không hề hấn ǵ sau cuộc giao tranh đẫm máu trong vườn cao su Quảng Giao. Là Đại Đội tiến sâu vào vùng địch nhất, Thạch bị kẹt lại, bị thương với ba phát đạn trên người, ḅ xuyên rừng với khẩu AR15 trọn hai ngày ba đêm mới đến cổng làng B́nh Giă. Trong khi ấy, Tống và Tùng gom quân pḥng thủ chờ tiếp viện. Mỗi đêm, cả hai thắp nhang đứng ngoài trời cầu nguyện xin nếu Thạch có chết linh thiêng nằm ở đâu về báo cho bạn biết để lấy xác. Đến ngày thứ Ba, khi dẫn quân cùng với Tiểu Đoàn Nhảy Dù vào trận địa thu lượm xác quân bạn, Tống và Tùng đă gặp lại người bạn sống sót với hai vết thương đă thối rữa và chiến phục rách tă tơi.

Từ đó, những biến đổi đă xảy ra theo thời gian. Ba người trôi nổi theo định mệnh, nhưng vẫn c̣n chung trong một binh chủng. Hễ có dịp họ lại t́m thăm nhau. T́nh bạn ngày càng bền chặt, Tống bị thương hai lần, nhưng Tùng không một mảy may thương tích, rời Tiểu Đoàn 4 qua Tiểu Đoàn 5, rồi làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 6/TQLC. Vốn tính cẩn trọng, điềm đạm và kiên cường, Tùng nối dài bước đường hành quân suốt từ ngày ra trường với bao nhiêu chiến công tích luỹ và thăng cấp ngoài mặt trận từ Đại Uư lên đến Trung Tá. Năm 1972, khi hành quân tái chiếm Quảng Trị, Tiểu Đoàn của Tùng là một trong nỗ lực chính đă thanh toán tên địch cuối cùng để dựng lại lá Quốc Kỳ trên đỉnh Tháp Cổ Thành giữa cảnh khói lửa c̣n nồng nặc mịt mù. Trong cuộc khao quân mừng Chiến Thắng Quảng Trị tại Huế, Tùng đă gặp " KI LÔ" trong buổi tiệc khoản đăi. Lửa t́nh đă bùng cháy không có ǵ dập tắt được. "KiLô" đă nổi danh từ những ḍng nhạc khắc khoải và lời ca như tiếng thơ của Trịnh Công Sơn. Người lính trận kiệt xuất Đỗ Hữu Tùng đang khát khao trong sâu kín niềm an ủi, vỗ về sau những ngày tháng dài ngụp lặn trong gió mưa bom đạn, khói lửa binh đao. Bất chấp hoàn cảnh nghiệt ngă, cả hai đă sôi nổi trong lửa t́nh nồng cháy. Tùng đă kết hôn với Lan từ sau ngày Lan tốt nghiệp và được làm việc ở Bệnh Viện Từ Dũ Sàig̣n.Chẳng có đám cưới linh đ́nh, v́ từ năm 65, phép tắc ở đơn vị tác chiến như một món xa xỉ phẩm. Đứa con đầu long của Tùng ra đời khi người Cha đang lặn lội hành quân dẹp giặc Tết Mậu Thân từ Sàig̣n, Chợ Lớn rồi ra đến Huế. Tùng cứ miệt mài hành quân. Sau này, khi gặp nhau lại ở vùng địa đầu giới tuyến Quảng Trị, Tùng có nói với Thạch đă gặp Lan đang t́nh tứ với một Bác Sĩ trực Bệnh viện, khi Tùng bất chợt trở về sau cuộc hành quân ghé t́m Lan ở Từ Dũ, rồi im lặng bỏ về lại doanh trại của đơn vị.

Sau khi bị thương được đưa về phục vụ ở hậu tuyến, Thạch lẽo đẽo theo chân hai người bạn qua nhiều chức vụ. Cho đến lúc du học từ Hoa Kỳ trở về, Thạch bướng bỉnh không chịu ở lại đàng sau làm Chánh Văn Pḥng cho vị Tướng Tư Lệnh, cuối cùng đă chấp nhận trở ra đơn vị tác chiến, dù chân bị thương c̣n tập tễnh v́ mất thịt đùi. Tống nói: "Thôi kệ nó. Bây giờ đang đ́nh chiến, mày cứ ra nắm chức vu chỉ huy với tụi tao cho vui".

Lúc ấy, trong binh chủng TQLC, đám bạn cùng khoá Vơ Bị của Thạch có Tùng làm Quyền Lữ Đoàn Trưởng, Phúc giữ chức Lữ Đoàn Phó LĐ 258, Hiển nắm TĐ6, Kim ở TĐ 7, Để ở TĐ9, Sắt ở Tiểu Đoàn Yểm Trợ Thuỷ Bộ, Cảnh coi TĐ3, Tống làm Lữ Đoàn Phó cho Tùng. Mỗi lần có buổi họp hành quân, bạn bè túm tụm lại với nhau vui vẻ như một đại gia đ́nh. Cấp bậc ǵ không cần biết. Mày tao chi tớ um sùm. Tất cả thân thiết với nhau đến nỗi bên ngoài có dư luận chê bai đám sĩ quan khoá kỳ thị phân biệt Đà Lạt, Thủ Đức. Điều tiếng xấu ấy không khuất lấp được sự thực đă xảy ra ở các đơn vị do các sĩ quan này chỉ huy.

Khi trời đă chạng vạng tối và sương mù lăng đăng dưới chân những ngọn núi cỏ trọc mấp mô quanh khu vực đóng quân của Bộ Chỉ Huy TĐ 4/TQLC, chiếc trực thăng từ hướng Đông tà tà đáp xuống trên đỉnh núi. Tiểu Đoàn Trưởng Thạch lom khom chạy ra leo lên hàng ghế vải phía sau lưng phi công. Chỉ trong ṿng phút sau phi cơ đă đáp xuống Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn ngay phía bên kia cầu Mỹ Chánh. Tùng đứng tười cười đón bạn rồi đưa vào căn hầm dựng bằng bao cát. Tùng cười mỉm nh́n bạn nói:

- "Thằng Tống đang đấu láo trong đó. KíLô nói biết mày từ hồi c̣n ở ĐàLạt. Đúng không?".

Thạch nh́n thấy hạnh phúc như bao trùm lên gương mặt của Bạn, gật đầu đáp:

- Ừ, từ hồi ở La Tulipe Rouge trên ĐaLạt ḱa. Lúc ấy KiLô chưa nổi tiếng.

- Thôi được, nếu vậy tao khỏi giới thiệu.

- Cô nàng ra hồi nào vậy.

- Hôm qua. Theo máy bay của Không quân.

Thạch suy nghĩ rồi ngập ngừng nh́n bạn, hỏi:

- Thế chuyện mày với Lan ra sao ? C̣n thằng con của mày nữa.

Tùng im lặng không trả lời. Tính vẫn thế. Chỉ để bụng thôi.

Mấy tháng sau Tùng bị mất chức v́ khi về phép ở Sàig̣n đă đụng chạm với người chồng cũ của Kilô, khiến báo Trắng Đen chạy tít lớn ngay trang đầu. Tùng âm thầm về làm Lữ Đoàn Phó cho bạn cùng khoá là Nguyễn Xuân Phúc, nguyên Á Khoa của khoá 16 Vơ Bị, xuất thân từ Tiểu Đoàn Trâu Điên. Cho đến ngày 29/3/75, cả Phúc và Tùng ngồi trên chiếc trực thăng di tản bị bắn rơi, đă đền nợ nước trong cảnh chết chóc tang thương của đồng đội.

Tống lên làm Lữ Đoàn Trưởng LĐ 468/TQLC những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến kẹt lại với người vợ đang mang thai đứa con trai đầu ḷng. Khi bị đưa ra một trại tù cải tạo ở Yên Bái, Tống đă bị vết thương cũ ở bụng làm độc, không được chữa trị đă vong mạng giữa rừng thiêng nước độc Thượng Du Miền Bắc Việt Nam. Người vợ trẻ của Tống đă lặn lội ra tận nơi hốt cốt hoả táng cho vào b́nh lọ mang theo tận Mỹ với đứa con Tống chưa hề gặp mặt.

"Ba Trái Thúi" nay chỉ c̣n lại một ḿnh Thạch lưu lạc xứ người, ôm mộng trở về quê hương vinh danh những người bạn chiến đấu đă nằm xuống cho đất nước, những đồng đội và chiến hữu đă ngă gục tức tủi cho cuộc chiến bảo vệ Miền Nam và đ̣i lại DANH DỰ cho những người đă cầm súng giữ quê hương ở Miền Nam.

TRẦN NGỌC TOÀN

hoanglan22 11-09-2018 05:06

Ông Thần TQLC


Tôi thuộc Pháo Đội B/ TQLC, bị bắt tại Carrol năm 1972. Khoảng tháng 9 năm 1975 nhóm tù binh chúng tôi từ Bắc về Nam. Khi còn trong tù, anh em tù binh chúng tôi có thành lập đoàn cảm tử quân. Chúng tôi hẹn nhau khi về tới miền Nam, sẽ liên lạc với nhau và sẽ cùng nhau vô rừng tìm lại quân đội VNCH và gia nhập tổ chức phục quốc. Nhưng khi về tới miền Nam thì chúng tôi bị mất liên lạc vì chúng tôi không được đi lại tự do như mình đã nghĩ.

Khi tôi đăng lính TQLC thì gia đình tôi ở Thủ Thiêm; khi tôi về Nam, gia đình tôi đã dọn đến vùng xa thuộc quận Thủ Đức. Tụi phường xã tại đây kiểm soát dân chúng rất chặt chẽ, đặc biệt là thành phần lính của chế độ Sài Gòn. Thanh thiếu niên tuổi từ 18 tới 25 phải ghi tên trong một danh sách. Danh sách này chúng dùng để bắt người đi thanh niên xung phong, thi hành nghĩa vụ quân sự, hoặc lao động khổ sai. Trong đó có tôi vì lúc đó tôi mới có 20 tuổi. Với tờ giấy: “Nhờ cách mạng miền Nam tiếp tục giáo dục anh Nguyễn Tấn Tài”, tôi được liệt kê vào danh sách phản động. Như vậy tôi có tên trong hai cuốn sổ đen – danh sách từ 18-25 và danh sách “có nợ máu với nhân dân”.

Mỗi tuần lên phường để cán ngố thấy mặt, chúng tôi - những người lính VNCH, bị hành hạ từ thể xác đến tinh thần. Ngoài việc đi họp nghe những lời loan truyền láo lếu, bị de dọa “trả về miền Bắc”, gia đình bị theo dõi, đi đâu cũng phải có giấy phép của phường, xã ... , chúng tôi còn bị bóc lột đi làm tạp dịch không công như vác lúa gạo nộp lên phường xã, xẻ đất liền ra thành sông để lấy nước tưới ruộng. Vì “sáng tạo” XHCN này mà bao nhiêu người chết đuối. Các anh em lính VNCH chúng tôi bị đưa đi gỡ mìn vì lý do rất là ngu xuẩn “Đồng bọn của các anh gài thì các anh phải biết gỡ!” Trời ạ, lựu đạn mỗi người gài một kiểu, ai biết người ta gài thế nào mà gỡ? Thấy bạn bè chết oan mà lòng tôi nghẹn ngào, căm phẫn.
Đến năm 1978, Việt Nam bị “anh em môi hở răng lạnh” Trung Quốc tấn công miền Bắc, Miên tấn công miền Tây, và bọn Việt Cộng (VC) mang quân sang chiếm Campuchia. Dĩ nhiên gia đình nào có “công với cách mạng” thì con em của họ mới được đi học, “được” tuyển vào bộ đội. Nhưng oái ăm là con họ đi mà không về, thế là bọn chúng hoảng hốt đổi chiêu bài - bắt bọn “có nợ máu với nhân dân” đi làm bia đỡ đạn, thay chết cho bọn chúng.

Năm 1980, khi tôi 25 tuổi, hôm đó vừa về đến nhà sau khi đi vác lúa gạo lên phường, má tôi đưa tôi tờ giấy của phường đưa xuống bắt tôi đi làm nghĩa vụ quân sự. Ai cũng thắc mắc tại sao lý lịch tôi đâu có “trong sạch” mà lại bị bắt đi? Lầm hay là cố ý? Tội nghiệp má tôi, bà rất buồn, bà khóc bảo tôi đi trốn. Nhưng tôi lại thấy đây là cơ hội đi tìm đường tự do. Gia đình tôi nghèo. Hai vợ chồng, hai đứa con nhỏ tá túc trong một túp lều. Gió chiều nào thì nó ngã theo chiều đó. Không biết sập lúc nào. Khoai độn ngày hai bữa còn chưa có mà ăn thì làm gi có tiền đi vượt biên. Tôi nói với ba má tôi:
-Chúng thả cọp về rừng, con đi rồi nếu ba má nhận được tin con, là con ở nước ngoài. Nếu không nhận được tin con trong vòng hai năm thì coi như con đã chết năm 1972.
Bị bắt sang Miên với tôi có thằng Hoàng ở cùng xóm tại Thủ Đức. Nó tuổi mới lớn. Trước khi lên Quang Trung, cha mẹ nó gởi nó cho tôi nhờ tôi để ý và giúp đỡ Vì gia đình họ cũng là người quốc gia như tôi, nên tôi nhận lời. Trong thâm tâm tôi hứa nếu trốn sang Thái, tôi sẽ kêu nó đi theo.

Từ giã ba má, các em, gia đình, hai con nhỏ – một và ba tuổi, chúng tôi bị đưa lên Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung cũ. Tới đây mới thấy rất nhiều người lính của VNCH bị bắt đi bộ đội, nào là TQLC, Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Hải Quân, nhiều anh là trung sĩ, hạ sĩ. Còn con em của sĩ quan VNCH cũng rất nhiều. Cha thì đang tù tội tại miền Bắc; mẹ thì làm vất vả nuôi chồng, nuôi con; con mới lớn không được đi học vì cha mẹ là quân nhân VNCH, nhưng bị bắt đi vào chỗ chết.

Tại đây tôi gặp Hà Ngọc Vinh, (hiện ở New Jersey). Anh là con của một sĩ quan VNCH, nhỏ tuổi hơn tôi. Anh người Bắc, đạo Công Giáo. Thấy anh ngoan đạo, thật thà, hiền hậu, có tinh thần yêu nước nên tôi mến và tin tưởng anh. Chúng tôi thân nhau và cùng dự tính khi qua tới Campuchia bằng cách nào cũng tìm cách đi Thái Lan, nhất định không ở lại chiến đấu cho bọn VC.

Tại Quang Trung, tôi gặp lại Thuận làm trong ban huấn luyện. Thuận là vệ binh nên nó là người coi tôi lúc này. Thuận được chuyển về Quang Trung làm sau khi bị thương ở đầu bên Miên. Khi ở tù ngoài Bắc, Thuận chỉ là đứa nhỏ chưa đi bộ đội. Tù nhân chúng tôi mỗi ngày thường đi ngang qua làng của nó. Mỗi khi đi qua làng, chúng tôi đều vô nhà nó xin nước hoặc xin nướng khoai nên Thuận nhận ra tôi. Thuận rất tốt với tôi và thường giúp đỡ tôi khi tôi ở Quang Trung. Nó bảo khi nào biết tôi đi đâu thì sẽ cho tôi hay. Thuận muốn giúp tôi ở lại Quang Trung làm với nó trong ban huấn luyện. Nhưng tôi từ chối vì tôi đã nhất định sẽ trốn sang Thái Lan. Trải qua 3 tuần “huấn luyện” tại Quang Trung, chúng tôi được chở qua Siem Reap, rồi lên xe đi qua Sisophon, tới Battambang. Nước Miên lúc đó có ba phe đảng nên rất lộn xộn và nguy hiểm:

Phe Para – phe tự do của Lon Nol 2.
Phe Pol Pot/Khmer Rouge/Khmer Đỏ theo Trung Cộng,
Phe Heng Samrin theo VC.

Phe nào gặp nhau cũng đánh, phe Heng Samrin theo VC nhưng tụi này thấy VC cũng bắn.

Trên đường vô Siem Reap, chúng tôi ngừng lại bộ chỉ huy trung đoàn 15. Tại đây tôi gặp một người cùng xóm, con của sĩ quan VNCH, cho biết chỗ tôi tới rất nguy hiểm. Đó là vùng Khmer Rouge, coi chừng chết tại đó. Rời bộ chỉ huy trung đoàn 15, chúng tôi bị phân ra về trung đoàn 2, TĐ1 biên phòng. Tôi và Hà Ngọc Vinh được ở chung với nhau. Cứ 10 người VC gọi là một toán. Một toán đóng chung một chốt. Tiểu đội trưởng của tôi là X (xin dấu tên). Tại đây tôi được phát cây súng AK.

Qua tới đây rồi ai ở lâu, ai mới tới rất dễ biết. Người mới tới như tôi, quần áo mới còn lành lặn. Người sang đây lâu rồi thì quần áo rách tả tơi thấy thật tội nghiệp!

Tôi kể cho X biết tôi là “Lính Thủy đánh bộ” của VNCH. Bị tù ngoài Bắc hơn ba năm. Mới về vài năm thì bị bắt đi bộ đội. X thắc mắc tại sao tôi được về toán biên phòng.

Mỗi tối, X vô bộ chỉ huy báo cáo tình hình, quân số cho cấp trên. Không biết X nói gì mà qua hôm sau, X dắt tôi đi gặp tiểu đoàn trưởng của anh. Người này tên Châu. Hắn hỏi tôi về việc tôi đi lính VNCH, đóng ở đâu... Qua hai ngày sau, hắn tập họp đoàn quân lại. Hắn ta tuyên bố rằng hồi xưa hắn có đánh với tôi tại mặt trận Quảng Trị. Hắn còn nói tôi mặc dù là lính mới nhưng có rất nhiều kinh nghiệm chiến đấu. Từ đó X có vẻ mến và tin tôi, có chuyện gì X hay nói cho tôi biết.

Thấy ba lô của X có nhiều quần jean Thái còn mới, tôi hỏi thì X khai ra:

-Anh có dám đi cướp đường buôn không? Nếu anh dám chơi thì thứ này nhiều lắm.

Vì tôi đang muốn dò đường sang Thái. Lợi dụng nói chuyện đi cướp đường buôn, tôi hỏi dò:

-Cướp đường buôn thì đi hướng nào?

-Đằng trước mặt mình thì không đi được vì tụi Pol Pot đóng hướng đó. Dân buôn họ đi hướng có tụi Para/Lon Nol đóng nên phải đi hướng kia.

Lon Nol là quân đội theo chế độ tự do. Pol Pot là tụi Khmer Rouge (Đỏ) theo Trung Cộng. Dân buôn không dám đi đường có Pol Pot đóng vì Pol Pot rất ác, gặp được chúng sẽ giết. Chúng là tác giả của tội ác Killing Fields. Nghe nói thế tôi cũng không dám đi đường này. Nếu bị chúng bắt mà biết được tôi là lính VNCH thì sẽ bị trả thù vì khi xưa VNCH có mang quân sang đánh Khmer Rouge để giải tỏa cho quân đội Lon Nol. Tôi hỏi dồn:

-Hướng kia là hướng nào?

X nói:

-Hướng Nong Chan. Phải đi ngược lại hướng Pailin, đi trở ra Sisophon, rồi đi vô Nong Chan..

Không biết hướng Nong Chan là hướng nào nhưng tôi vẩn đồng ý đi cướp đường buôn rồi từ từ dò đường. X có cây súng ngắn K54 của thằng tiểu đoàn phó cùng quê. Trước khi đi phép nó gởi cho X giữ dùm. Nhưng lâu lắm rồi không thấy thằng tiểu đoàn phó trở ra, chắc nó đã đào ngũ. Bây giờ thằng tiểu đoàn trưởng Châu chịu trận một mình. X giữ cây súng này để đi cướp đường buôn.

X cho tôi biết khoảng hai, ba ngày nữa; có một TĐ bổ xung quân vào đây nhập chung với TĐ tôi để cùng đi giải tỏa cho một toán quân bị bao ở Pailin gần biên giới Thái Lan. Vùng này là vùng Khmer Đỏ. Tôi nghĩ chúng tôi sẽ bỏ đi trong lúc đoàn quân nào đó vừa nhập vô đây. Thứ nhất là cuộc hành quân này rất nguy hiểm tôi không muốn chết một cách lãng nhách, thứ hai là lợi dụng tình hình lộn xộn trốn đi dễ hơn. Tôi báo tin này cho Vinh hay để anh chuẩn bị.

Có một người bạn thân của Vinh cùng xóm thuộc toán trinh sát. Vinh rủ anh ta đi chung và nhờ anh lấy cho ít lựu đạn vì nơi chốt chúng tôi chỉ có súng AK và lựu đạn nội hóa. Anh ta đưa cho chúng tôi mấy trái lựu đạn của VNCH (Mini và M67). Chúng tôi mang giấu đi. Bạn của Vinh lại giới thiệu một người nữa tên Tú, chung nhóm trinh sát với anh, xin nhập bọn đi chung. Bạn của Vinh tôi tin, nhưng còn nghi ngờ Tú. Tôi hỏi:

-Làm sao tao biết mày thực lòng muốn đi?

Tú móc ra tấm hình:

-Anh tôi đi Mỹ 1975. Anh cho tôi đi chung. Tới biên giới tôi sẽ mang tấm hình này ra thì họ sẽ cho chúng ta qua Thái.

Nghe cũng có lý, Tôi bằng lòng.

Chúng tôi có lệnh đi vô Pailin mở đường. Tôi gặp Vương cùng ở Thủ Thiêm quê tôi. Không biết ai nói cho nó biết chuyện chúng tôi đang dự định. Vương đến nói nhỏ với tôi:

-Anh đi đâu, cho em đi theo. Em không có gia đình. Sống với cha ghẻ bị ổng đánh hoài.

Nghe hoàn cảnh của nó tôi thấy thương, tôi cho nó đi theo. Như vậy nhóm của tôi có tất cả 6 người: Tôi, Vinh, bạn Vinh, Tú, Vương, và Hoàng cùng xóm Thủ Đức mà tôi đã hứa với ba má nó trước khi lên Quang Trung. Tiếng “lành” đồn xa, nhóm bạn của Vương có 5 thằng: Bích SĐ18, Sơn, Việt, và 2 người nữa không nhớ tên đến năn nỉ tôi:

-Anh cho tụi em đi theo.

Tôi giật mình:

-Đi đâu?

Tụi nó trả lời: “Anh Vương nói với em biết hết rồi”.

Sợ bị lộ, tôi vỗ vai tụi nó rồi gật đầu: “Nằm im đó đi. Khi đi tao sẽ gọi”. Không ngờ tối hôm đó, nhóm 5 thằng đó bỏ đi mất hồi nào. (Sau này vô trại tị nạn gặp lại tụi nó và được biết chúng mang AK đi theo con suối chỉ tích tắc hút xong một điếu thuốc là tới Thái).

Sau khi nhóm 5 thằng bỏ đi, chúng tôi tiếp tục lội vô Pailin. Tôi vừa tới được cái đồi thì cối của bọn Pol Pot bắn vô. Tôi la lên báo hiệu cho Vinh và Hoàng nằm xuống. Toán đi ngoài đường có 3 người chết tại chỗ. Chúng tôi lại được lệnh không vô Pailin nữa, dự tính bỏ đi bị đình lại.

Tụi VC phao tin nhóm 5 người bỏ đi đã bị Pol Pot chặt đầu. Nghe như thế tôi thấy sợ, cương quyết không đi hướng có tụi Pol Pot. Tôi biết rằng chúng tôi đang nằm sát biên giới MiênThái vì tôi nghe tiếng gà gáy mỗi ngày. Tôi đoán hình như có làng Thái Lan gần đó nhưng không dám đi hướng đó vì sợ quân Pol Pot giết.

X ra lệnh chúng tôi đi mở đường tối hôm đó để đón toán quân mới đến. Tôi thấy mến X vì cái gì anh cũng cho tôi biết. Một lần nữa, tôi quyết định trốn đi khi toán quân này tới đây vì đây là cơ hội tốt. Trong lúc chuyển quân lộn xộn thì chúng tôi sẽ lợi dụng tình hình chưa ổn định để đi. Tôi nói cho nhóm bạn tôi biết để chuẩn bị. Tôi muốn rủ X trốn đi với chúng tôi vì anh có vẻ rành rẽ đường đi nước bước. Trên đường đi mở đường, tôi hỏi X:

-Anh có chịu chơi không?

Anh trả lời :

-Anh chơi thế nào, tớ chơi thế đấy.

Tôi hỏi lại:

-Thật không?

Anh chắc chắn:

-Thật!

Tôi làm liều:

-Anh dám đi vượt biên với tôi không?

Vừa nói tay tôi vừa gìm cây AK đề phòng sợ X làm ẩu. Nếu bị lộ, tôi sẽ bắn X rồi chạy về hướng bắc, vô rừng luôn. Không ngờ anh hỏi lại tôi:

-Bộ anh tính qua Thái à? Nếu anh muốn, tớ sẽ chỉ đường anh đi.

Anh nói tiếp:

-Tớ chỉ còn một cha già ở Hải Phòng, mới nhận được thư cha tớ nói là ngoài Bắc họ vượt biên bằng tàu tới HongKong nhiều lắm. Tớ phải về thăm cha một lần. Nếu tớ muốn, cha tớ sẽ lo cho đi. Bây giờ tớ đang kẹt ở đây không đi được. Vả lại tớ nói giọng Bắc; nếu bị bắt, tụi Miên sẽ giết tớ.

Tôi hỏi X:

-Hướng Nong Chan đi như thế nào?

X vẽ cho tôi cái sơ đồ, anh nói:

-Từ đây sang Thái chỉ hút tàn điếu thuốc là tới nhưng tụi Pon Pot đóng ở đó. Theo hướng bắc mà đi. Trên đường tới Sisophon, anh sẽ gặp một cái chợ. Tại đây có 2 cái nhà ngói đỏ. Theo hướng đó anh sẽ tới Thái.

Đây là dịp cho chúng tôi phải đi. Lựu đạn, AK đã có nhưng chưa có địa bàn. X có một cái, tôi hỏi xin nhưng anh không cho vì chỉ có một cái nên không thể cho tôi được. Suy nghĩ hoài không biết cách nào để lấy được cái địa bàn. Thấy Vinh có cái đồng hồ Seiko 5, tôi nói với Vinh:

-Mình cần cái địa bàn để đi trong rừng sâu. Tôi nghĩ mình nên chơi cao cơ. Anh cho X cái đồng hồ đi. Khi qua được nước tự do rồi những thứ này thiếu gì.

Vinh nghe lời tôi, tháo cái đồng hồ đưa cho X. Khi X đeo cái đồng hồ vào rồi, tôi hỏi thẳng:

-Anh làm ơn cho tụi tôi xin cái địa bàn để đi.

X ngần ngừ:

-Bây giờ không biết làm cách nào?

Tôi bày cách:

-Chúng tôi đi rồi, anh cứ đổ thừa cho chúng tôi ăn cắp của anh. Anh đâu có cho chúng tôi đâu mà anh lo. Nếu chúng tôi bị bắt thì tính sau.

Nghe tôi nói vậy, X đưa cho tụi tôi cái địa bàn. Súng, địa bàn, lựu đạn đã có đầy đủ. Tôi yên tâm. Đêm hôm đi nằm đường, chúng tôi nhận được lệnh phải ra gác ở hồ nước 50 để cho sáng hôm sau đoàn quân được bổ xung tới an toàn. Tôi chẳng biết hồ nước 50 ở đâu. Trên đường tới hồ nước 50, chúng tôi đi qua một cái chốt. Chốt này là chốt cuối. Thằng tiểu đội trưởng của chốt này là bạn cùng quê với X. Hắn cho X biết là hồ nước 50 rất nguy hiểm. Ra đó phải cẩn thận vì tụi Miên đi đánh ở đâu cũng ghé đó tắm rửa rồi chúng mới đi tiếp. Tôi đứng gần đó nên nghe lóm được. Lúc đó trời vừa sập tối. Nhìn vô cánh rừng đằng trước chỉ thấy mờ mờ. Khi X trở ra tôi hỏi:

-Mình đi tiếp hay sao?

X nói thật với tôi:

-Nguy hiểm lắm anh Tài ơi. Nghe bạn tớ bảo hồ nước 50 nguy hiểm lắm. Ra đó sợ không còn sống sót trở về, nên tớ chưa biết quyết định thế nào.

Ngần ngừ một chút X nói:

-Thôi mình đi.

Tôi suy nghĩ, thằng bạn X nói chắc là đúng. Tôi không muốn ra đó. Tôi bàn với X:

-Tại sao chúng ta không ngủ lại đây? Bạn anh có 10 người, chúng ta có 10 người, nhập lại 20 người chia nhau gác an toàn hơn.

-Để tớ nói chuyện với bạn tớ xem sao.

Vì chốt của bạn X là chốt cuối, nghe X nói, thằng tiểu đội trưởng này rất mừng và đồng ý cho chúng tôi ngủ lại cho vững. Tối đó, Vinh và tôi ngủ ở sát mé đường. Khi trời còn tờ mờ sáng, tôi thấy có những bóng đen đang đi vô. Tôi vội vàng chạy tới X cho anh biết. X nhận diện được quân bộ đội. Tôi nói với X:

-Tụi mình phải đi ra đón họ. Khi gặp người đầu tiên, anh phải hỏi thăm xem họ có yên không. Nếu họ yên thì anh phải nói chốt của mình đóng ngoài đó cả đêm, mới đi vô trong này mở đường, rồi bây giờ ra lại. Để cho họ biết tối qua tụi mình có ra đó.

X gặp thằng tiểu đoàn trưởng hay phó gì đó, anh vồn vã:

-Chào thủ trưởng, trên đường đi có yên không?

Thằng thủ trưởng trả lời:

-Yên lắm.

X nói nói y như lời tôi dặn. Thằng thủ trưởng cười cười:

-Nhờ các đồng chí mà chúng tôi đi tới nơi yên bình. X dắt chúng tôi trở về vị trí đóng quân. Thấy tụi bộ đội mới tới chưa ổn định, tôi suy nghĩ: “Nhất định phải đi trong lúc này vì quân mới tới còn lộn xộn, không ai biết ai là ai; hơn nữa đoàn xe GMC vừa đổ quân tới sẽ chở bịnh nhân, người bị thương ra khỏi đây.

Tôi nói cho X biết ý định của tôi. X chúc chúng tôi thượng lộ bình an. Anh nói:

- Trên đường ra Sisophon, anh sẽ gặp trung đoàn 15. Bằng cách nào anh cũng phải qua khỏi trung đoàn 15 trước khi tôi đi họp giao ban. Tối nay tôi sẽ đi họp giao ban trễ để xin bổ xung quân. Các anh đi rồi không còn người gác. Nếu các anh bị tụi kiểm soát quân sự bắt ở chợ thì tôi sẽ nhận là cho phép các anh ra chợ mua thuốc.

Anh còn dặn chúng tôi khi đi đừng mang theo súng dài kẻo bị lộ. Súng ngắn thì chúng tôi đâu có. Ngay chính anh khi đi cướp đường buôn cũng chỉ mang theo cây K54 mà thằng TĐ phó gởi anh. Nghe lời anh X, chúng tôi không mang theo súng vì sợ lộ. Chỉ mang theo lựu đạn và địa bàn.

Như tôi đã kể, cùng bị bắt sang Miên với tôi có thằng Hoàng ở cùng xóm Thủ Đức. Trước khi lên Quang Trung, cha mẹ nó có gởi nó cho tôi nhờ tôi để ý và giúp đỡ nó. Nó không ở cùng chốt với tôi. Hôm nay gặp nó, tôi đặn nó phải qua chốt tôi ở rồi cùng đi luôn nhưng nó sợ không vào. Tôi đợi, không thấy nó vào. Bạn của Vinh không đi được vì anh thuộc nhóm trinh sát, anh phải đi công tác. Tú cũng phải đi công tác nhưng trốn lại. Chúng tôi bốn người – tôi, Vinh, Tú, Vương đi luôn. Từ lúc rời Quang Trung đến ngày hôm nay, ngày chúng tôi bỏ đi tìm tự do, được khoảng hơn hai tuần.

Tôi nói cho Vinh, Vương, Tú biết. Họ vội vàng chuấn bị ba lô. Vinh mang theo ba lô gạo. Tôi liền giả bịnh, bị sốt. Tôi lấy cái khăn trùm lên đầu rồi đội thêm cái nón bo. Thằng cha tiểu đoàn trưởng Châu đang đứng gần xe GMC. Hắn đang đứng nhìn đám quân mới tới. Vừa thấy hắn quay đi, tôi vội nhảy lên xe GMC. Một thằng bộ đội thấy tôi nhảy lên xe, nó la lên:

-Đồng chí đi đâu thế?

-Ra trạm xá. Tôi bị sốt. Tôi trả lời.

Tụi bộ đội đứng ngổn ngang trên xe. Tôi vội vàng ngồi xuống lấy khăn che mặt. Tú và Vương nhảy lên cùng xe. Thằng bộ đội quay sang hỏi Vương đi đâu. Vương nói là đưa tôi đi trạm xá. Vinh thì không đi cùng xe với chúng tôi. Anh nhảy lên một chiếc xe thiết giáp. Chúng chở chúng tôi tới trung đoàn 15 thì trời xế chiều rồi. Chúng ngừng lại, bảo là không thể đi tiếp. Những người bịnh được mang vô hội trường dã chiến của bộ chỉ huy. Tại đây chúng tôi gặp lại Vinh. Nhớ lại lời dặn của X: “Bất cứ giá nào cũng phải ra khỏi trung đoàn 15 đêm nay”, tôi lo lắng. Thấy tình hình không được ổn, kiểu này là bể rồi. Ngay lúc đó, Tú hay Vinh tôi không nhớ rõ chạy tới cho biết có một chiếc xe đang chuẩn bị phải đi công tác đêm nay. Xe này sẽ chở bịnh nhân ra trạm xá, mừng quá bốn anh em chúng tôi nhảy lên xe. Rất hên, thằng bộ đội chỉ hỏi chúng tôi đi đâu. Chúng tôi trả lời đi trạm xá. Cùng chung với chuyến xe này là những người bị thương, bị bịnh. Trước khi tới trạm xá, xe đi ngang qua chợ nơi mà X nói có hai cái nhà ngói đỏ. Tôi nghĩ mình phải xuống đây vì khi tới trạm xá rồi thì làm sao mà thoát ra. Trời lúc này đã tối. Tôi liền lấy tay đập mạnh ầm ầm vào hông xe. Thằng lái xe thắng lại. Tôi vừa la, vừa nhảy xuống xe:

-Cho tôi xuống đây.

Thằng lái xe cảnh cáo:

-Phải vào trạm xá, đi vòng vòng ở đây là chết đấy! Tụi nó sẽ giết đấy!

Tôi nói:

-Tôi muốn mua ít đồ rồi vô trạm xá sau. Các bạn tôi cùng nhảy xuống. Chiếc xe bỏ chạy. Tôi quay về phía bên phải nhìn thấy một ông Miên. Ông ta đang đứng ngậm ống vố, ở trần, mặc xà rông. Tôi đi tới, móc trái lựu đạn trong túi quần đưa vô hông của ông rồi đẩy ông đi. Ông nói gì đó bằng tiếng Miên, tôi đâu có hiểu. Tôi cứ đẩy ổng đi. Ông ta cũng đi rồi quẹo tới căn nhà, leo lên cầu thang. Chúng tôi đi theo, nhìn thấy cử chỉ, sắc mặt của ông; tôi biết ông rất là sợ.

Lên tới trên nhà, tôi thấy có thêm bốn người. Tôi đoán chắc là vợ và các con của ông - hai trai, một gái. Thấy hai đứa con trai to lớn, vạm vỡ; tôi nói với các bạn của tôi phải đề phòng.
Cả đêm tôi không ngủ mà ngồi canh cho các bạn tôi ngủ. Người Miên họ rất dữ, dao mác họ có nhiều nhưng chúng tôi chỉ gom lại những con mà chúng tôi thấy chứ không biết họ còn cất dấu ở đâu.
Trời vừa sáng, chúng tôi chào gia đình ra đi. Vinh tặng cho gia đình này ba lô gạo mà anh mang theo. Tú thức trước ra chợ. Tú có cuốn sách tự điển Việt-Miên trong đó có những câu đối thoại in sẵn. Tôi thấy Tú lật cuốn tự điển chỉ trỏ hỏi gì với con nhỏ bán hàng. Không ngờ con nhỏ này lại là con của xã trưởng ở vùng đó. Khi tôi vừa bước ra cửa, thằng xã trưởng chận tôi lại nói:
-Tâu Xiêm? (Đi Thái)
Rồi hắn ra hiệu chặt đầu và chỉ chúng tôi về hướng Pailin. Tôi đoán chắc hắn nói chúng tôi về lại đơn vị, qua Thái sẽ bị chặt đầu. Tôi quay qua Tú hỏi nói gì. Tú cho biết là chỉ hỏi đường qua Thái Lan thôi.
Biết bị lộ, tôi nói Tú lấy cuốn tự điển lật ra nói cho thằng xã trưởng là chúng tôi đi chợ rồi sẽ về đơn vị. Tôi bảo Tú và Vương giả vờ đi về hướng Pailin, bọc qua đường rầy xe lửa. Còn tôi và Vinh đi bọc đường chợ rồi vòng trở ra. Chúng tôi sẽ gặp nhau tại chỗ hai nhà ngói đỏ.
Chúng tôi bắt đầu đi. Tôi luôn luôn cầu nguyện với Chúa và Đức Mẹ cho chúng con thấy họ trước, đừng để họ thấy chúng con trước. Nếu mình thấy địch trước thì mình còn tìm cách xoay sở; địch mà thấy mình trước thì nó sẽ bắn mình chết. Vì vậy mà tôi mới còn sống tới ngày nay.
Chúng tôi đi trên một cánh đồng trống, thấy một cái rãnh đất đắp mô cao giống như ấp chiến lược. Tôi nhìn thấy tụi Miên đóng ngay đó. Không biết chúng nó thuộc phe nào. Thấy chúng tôi, chúng nó bắn. Chúng tôi chạy... Chúng tôi tiếp tục đi sâu về hướng bắc thì thấy một cánh rừng. Bên cạnh cụm rừng có một cái đìa lớn; tôi nghe tiếng tát nước, tiếng tụi Miên nói chuyện. Chúng tôi bò tới gần, trên tay cầm sẵn lựu đạn. Bất thình lình Tú la lên: -Bòn ơi bòn, un ơi un.
Tụi nó im lặng. Tôi bò lại gần thì không thấy đứa nào hết mà chỉ thấy mấy cây súng trên ụ đất. Thấy súng nên tôi sợ. Tôi ra dấu cho các bạn tôi im rồi bò lùi lại, chạy trở ra cánh đồng trống. Tụi nó rượt và bắn theo chúng tôi khoảng 5,6 phát. Tôi nhắm địa bàn lấy hướng bắc đi tới.
Lúc này trời đã về chiều rồi, chúng tôi tiếp tục chạy thì tới được cánh rừng thưa thớt toàn thấy cây da tỵ. Chúng tôi tính ngủ lại đây dưỡng sức rồi mai đi tiếp nhưng muỗi quá. Mở miệng ra là muỗi bay đầy vào miệng. Tôi lấy địa bàn nhắm hướng bắc chạy đi tiếp. Chạy chứ không dám đi vì muỗi quá. Khi mệt thì dừng lại vừa thở, vừa lấy nón đập muỗi. Khoảng 9 giờ sáng, bất chợt tôi nghe tiếng chửi thề bằng tiếng Việt giọng miền Nam:
-ĐM lội hoài, sáng sớm đã bắt lội rồi!
Giật mình, tôi dang hai tay ra hiệu cho các bạn tôi nằm xuống. Hên quá, đúng là có ơn trên che chở. Vừa nằm xuống thì chúng tôi thấy một toán bộ đội đang đi trên con đường đất đỏ. Thằng đằng trước đi cách tôi khoảng 3,4 thước. Chúng tôi nằm im không dám nhúc nhích khoảng 10,15 phút. Đợi cho đoàn quân đi qua tôi bò ra mé đường đất đỏ nhìn hai bên xem xét tình hình. Thấy êm, tôi ra hiệu cho nhóm bạn tôi bò tới. Tôi nói với bạn tôi bây giờ chạy từng thằng một. Tôi chạy trước, các bạn tôi nằm tại chỗ. Chạy qua bên kia đường, ngồi xuống quan sát không thấy gì; tôi ra hiệu cho người kế tiếp chạy. Khi cả ba người kia cùng qua đường, chúng tôi đi tiếp.
Chúng tôi đi ngang qua một vùng đất bằng phẳng. Có nhiều tên Việt Nam được khắc ngay đó. Tôi đoán có lẽ bộ đội VN bị chết rồi chôn ngay đây nhưng không biết có đúng không? Đang đi, tôi chợt nghe tiếng súng M16. Tôi mừng thầm vì có lẽ gần tới biên giới Thái. Tôi nói với các bạn cẩn thận rồi lấy địa bàn nhắm theo tiếng súng đi tiếp tới một ngã ba. Con đường đất đỏ này chia làm ba đường:
1. Đường trước mặt, lớn hơn hai đường bên phải và trái, thì không đi được vì có các cây lớn ngã xuống nằm chồng chất lên nhau lắp ngang luôn con đường.
2. Đường bên tay trái tôi thấy có nhiều dấu giầy dép đi qua đi lại lộn xộn.
3. Đường bên tay phải dẫn vào một cánh rừng. Suy nghĩ một hơi tôi quyết định đi theo con đường trước mặt có những cây lớn lắp ngang vì những cây lắp ngang đường không phải tự nó bị gẫy đổ xuống mà do con người làm. Như vậy có lẽ đây là con đường tới Thái hay là quân Para muốn lắp lại để chặn thiết giáp của VC?
Chúng tôi đi xuống cái trũng thì bất chợt tôi gặp một thằng Miên mặc bộ đồ đen, quấn khăn ca rô đỏ trắng. Tôi khựng lại, nói với các bạn tôi:
- Móc lựu đạn ra, rút chốt sẵn sàng.
Tú nói:
-Để tôi mang cuốn sách ra hỏi đường qua Thái. Mấy anh yểm trợ cho tôi Tú rút cuốn sách tự điển Việt Miên đi xuống. Tôi đứng cạnh bìa rừng nhìn theo. Thằng Miên có vẻ sợ vì không thấy nó bỏ đôi nước trên vai xuống. Thấy thằng Miên giơ tay chỉ rồi giơ năm ngón tay lên. Tôi đoán 5 ngày, 5 tiếng hay 5 phút. Không lẽ 5 ngày nữa mới tới? Tôi lo, nhưng nghĩ lại từ chỗ chúng tôi đóng quân tới biên giới Thái chỉ hút tàn điếu thuốc là tới; còn chúng tôi cắt theo hướng bắc đi không lạc vì nhờ cái địa bàn thì có lẽ 5 tiếng là tới. Tôi hơi mừng. Thấy Tú cứ chỉ qua chỉ lại. Tôi sốt ruột, quay qua nói với Vinh và Vương:
-Thôi bây giờ ra luôn.
Chúng tôi chạy tới gần thằng Miên, tôi hỏi:
-Tâu Xiêm?
Nó gật đầu, giơ năm ngón tay. (Sau này mới biết là chỉ có 5 phút là tới). Tôi chỉ nó đi trước. Chúng tôi hai người kè hai bên thằng Miên. Đi một lát tôi thấy cái lều, bên trong có tiếng xè xè như tiếng cưa cây. Tôi xà tới, bạn tôi và thằng Miên đứng tại chỗ. Trong lều có 7 người, 6 sáu người đàn ông đang cưa cây và 1 người đàn bà đang nấu nước. Súng giắt trên xà ngang. Tôi lách vào. Chúng nó khựng lại giật mình ngồi, đứng im tại chỗ. Tôi phát tay ra dấu rồi gọi các bạn tôi vô. Thằng gánh nước đi theo vô luôn. Tôi gom súng vào một chỗ, ra dấu cho bọn chúng biết tôi để đây chứ không lấy. Khát nước quá, tôi quay sang bà Miên thì thấy bà chắp tay xá tôi lia lịa. Tôi chỉ ấm nước rồi chỉ miệng tôi. Bà vội vàng tìm ly. Vương, Vinh, Tú cũng xin uống nước. Tôi gườm gườm nhìn tụi Miên nhưng trong lòng tôi cũng rung vì cả thằng gánh nước tất cả là bảy thằng mà chúng tôi chỉ có bốn. Chúng nó vẫn đứng trên dàn cưa.
Tôi vừa bước ra khỏi lều thì thấy một đoàn quân từ hai bên đường đang đi tới. Cũng từ hướng thằng gánh nước đi tới. Một thằng đi giữa che cây dù. Tôi đoán nó là sĩ quan. Thấy kiểu ăn mặc của toán quân này tôi chắc chắn đây là quân đội Para/Nol Lon. Hơn nữa, X cũng nói với tôi đi theo hướng bắc sẽ gặp tụi Para và chúng tôi đi đúng theo hướng bắc. Nhóm lính Miên này ăn mặc lôi thôi, quần áo lộn xộn, không đồng phục. Đứa thì mặc quần lính áo bà ba. Đứa thì mặc áo lính nhưng quần pajama. Đứa đi giầy, đứa đi dép. Tôi nóí với bạn tôi:
-Tụi nó đông lắm, bây giờ tôi sẽ ra giữa đường giơ tay lên, trong này các anh cũng phải giơ tay lên không nó bắn là chết.
Nói xong tôi gài chốt lựu đạn lại bỏ vào túi quần, thì thầm cầu nguyện với Đức Mẹ “xin Mẹ gìn giữ con”. Tôi đếm 1,2,3 cho các bạn tôi biết rồi ra giữa đường giơ tay lên. Đoàn quân còn cách tôi khoảng 5,6 thước. Thằng sĩ quan đứng chết trân. Đám lính có thằng nằm xuống đất im ru. Hên là súng chưa lên đạn vì chúng nó không ngờ chúng tôi vô ngay bộ chỉ huy nên chúng không đề phòng. Bên trong lều cưa các bạn tôi cũng giơ tay lên. Bảy thằng trong lều cũng đứng im. Khoảng 3,4 phút sau, thằng sĩ quan nói gì đó thì tụi lính lên đạn rắc rắc. Chúng tới bên tôi, lục xét người tôi. Lục hoài mà chúng không thấy trái lựu đạn vì quần của tụi bộ đội có may túi quần rất sâu. Tôi giơ tay vừa chỉ xuống túi quần mà chúng cũng không thấy. Tôi để một tay lên trời, một tay cho vào túi thì tụi nó chận tay tôi lại. Lúc đó mới lôi ra được trái lựu đạn. Sau đó chúng đứng vòng chung quanh tôi, bao tôi vào giữa. Lúc này tôi biết tôi sống vì kiểu đứng của tụi nó như vậy nếu có bắn thì đạn thằng này sẽ trúng thằng kia. Tên sĩ quan tới gần tôi nói một tràng tiếng Miên rồi tụi lính lấy mũi súng đẩy tôi đi. Các bạn tôi cũng bị đẩy đi. Đi qua lều cưa một chút có một thằng Miên tới bên tôi. Nó chỉ đôi giầy và dây thắt lưng quần. Tôi gật đầu. Nhìn lên đầu thấy cái nón bo, nó chỉ. Tôi cũng gật đầu. Nó vội vàng lột cái nón, tháo sợi dây nịt nhưng không tháo ra được. Nó liền cúi xuống tháo được một chiếc giầy rồi đưa cho tôi chiếc dép của nó. Đang tháo chiếc giầy kia thì thằng sĩ quan đi tới, la một tràng tiếng Miên. Nó ngừng lại không dám tháo tiếp. Nó và tôi mỗi người đi một chiếc dép, một chiếc giầy.
Ngay tại chỗ bị lột giầy có con đường. Chúng đẩy tôi quẹo vào đó. Trong đó có một cái miễu nhỏ, giống như cái am ở dọc đường. Từ thằng sĩ quan tới lính đều bỏ súng xuống mọp sát đầu xuống đất rồi mới đi qua. Chúng đẩy tôi xuống, dí đầu tôi xuống đất. Tôi cũng làm y như tụi nó. Qua cái am một chút, chúng ra hiệu cho chúng tôi ngừng lại gần cái cây. Chúng mang tới cho chúng tôi mỗi người một hộp cá nhỏ và cơm cho chúng tôi ăn. Tôi ăn ngon lành vì đói quá. Chúng mang ba người bạn tôi đi chỗ khác. Chúng bảo tôi ngồi xuống. Nhìn sang cái cây thấy đầy kiến vàng chạy lên chạy xuống không ngớt. Có một người đàn bà với mấy thằng lính đi tới tôi. Bà ta mặc áo bà ba như kiểu miền Tây, quấn xà rông. Bà nói giọng lớ lớ như người Tàu. Tiếng Việt cũng bập bẹ :
-Khai ra, bốn người ở đây, còn sáu người nữa đâu?
Tôi lắc đầu:
-Chỉ có bốn người thôi. Chúng tôi không thích VC. Bỏ đơn vị qua Thái, tìm đường tự do.
Bà ta khăng khăng:
- Không! Vô đây mười thằng, mới ra bốn thằng còn sáu thằng nữa đâu? Không khai ra thì chết.
Bà ta hỏi tiếp:
-Súng để đâu?
-Không có súng. Tôi trả lời.
-Không có súng, sao có đạn?
-Tôi đâu có đạn? Tôi ngạc nhiên.
Bà ta nói:
-Có người có đạn. Súng giấu đâu? Khai ra.
Thì ra Vương có mấy viên đạn trong túi nhưng không có súng. Chúng nói tôi là người chỉ huy của nhóm. Có lẽ tôi lớn tuổi hơn hết, nhìn già dặn hơn các bạn tôi, người râu ria, hai tay có dấu xâm khi ở tù ngoài Bắc nên tôi bị tụi Miên nghi ngờ là người chỉ huy của nhóm. Trời lúc này còn nắng, sắp về chiều, Hai thằng Miên cởi áo ngoài của tôi ra nhưng còn để lại cái áo thun bên trong. Hai thằng kéo tôi tới cái cây đầy kiến vàng. Kéo ngoặc tay tôi vòng ra sau cây rồi trói tay, chân tôi lại. Mặt trời chiếu ngay chỗ tôi ngồi. Ánh nắng gay gắt làm mồ hôi chảy nhễ nhãi; cộng thêm đám kiến vàng bu đầy đầu, đầy người cắn tôi không ngớt. Tôi gồng mình ngồi chịu trận. Bị đám kiến vàng cắn mà tôi chẳng làm sao được chỉ nhúc nhích cái đầu và cạ lưng vào gốc cây để gãi mà thôi. Tôi cầu nguyện cùng Đức Mẹ “Xin Mẹ cho con thoát khỏi kiếp nạn này”. Tôi rất tin tưởng vào Đức Mẹ vì từ lúc khởi hành cho đến khi bị tụi Miên bắt, Mẹ luôn luôn cho tôi thấy họ trước như lời cầu xin của tôi.

Chúng dẫn tôi tới một cái sân trống, ở giữa có một cái cột. Chúng bắt tôi ngồi xuống, ôm cái cột rồi cột tôi ngồi đó. Một thằng Miên cầm mã tấu, đi vòng vòng, thỉnh thoảng nó giơ mã tấu dọa chém cổ tôi. Tôi nhớ tới gia đình và hai con tôi. Biết mình sắp chết nhưng tôi vẫn bền lòng đọc kinh cầu nguyện với Chúa và Đức Mẹ che chở cho tôi.
Khoảng 3, 4 giờ sáng, chúng nó đưa tôi vô căn nhà lá. Vừa vô tới cửa, tôi thấy một đám lính Miên cầm súng đứng vòng vòng trong nhà từ hồi nào và ba người ngồi sẵn trên bàn tre. Chúng đẩy tôi ngồi xuống, lục lấy cái bóp. Hai thằng lính Miên cầm súng kề ngay sau lưng tôi. Một thằng Miên lai nói với tôi bằng tiếng Việt bập bẹ cho biết 3 người ngồi trên bàn là: sư đoàn trưởng (lai Pháp), cố vấn Thái Lan, và người tôi gặp hôm qua là Lục Thum.
Cố vấn Thái Lan mặc bộ đồ lính. Thằng thông dịch đứng ngay đầu bàn. Chúng đặt máy thâu băng trên bàn. Hai thằng lính Miên cầm súng kề ngay sau lưng tôi. Cố vấn Thái Lan bật máy ghi âm. Chúng bắt đầu điều tra. Chúng hỏi tên, đơn vi.... Tôi thật lòng trả lời những gì chúng muốn biết. Tôi nói rõ tôi mới qua Miên được hơn hai tuần rồi bỏ đơn vị đi tìm tự do. Tôi cũng nói tôi là lính của VNCH nhưng không biết tại sao lại bị bắt đi lính cho VC. Tôi nói tiếng Việt, thằng Miên lai dịch sang tiếng Miên Không biết sao mà chúng bắt tôi cởi áo thun tôi đang mặc.

Tôi có xâm trên bắp tay và trên ngực. Trên ngực là huy hiệu TQLC. Vết xâm này do anh Nguyễn Ngọc Hùng TĐ2 Trâu Điên bị bắt hồi tái chiếm cửa Việt. Hùng bị nhốt tại K4. Anh vẽ và xâm cho tôi khi chúng tôi từ Quế Phong đưa về đồng bằng ở Đập Sắt.

Hồi xưa khi bị bắt tù binh, có toán nhảy toán của Tr/u Quang thuộc phòng 7 BTTM hình như nhảy ra Quảng Trị bị bắt ra Bắc, trong đó có Hoà mang máy cho toán này biết tiếng Anh. Tôi nhờ anh viết cho tôi câu bằng tiếng Anh: “Vì tổ quốc, quên hết tình yêu cá nhân. Tất cả cho tổ quốc và tự do.” Hoà viết cho tôi như thế này: “By country, forget loving. All for my country and freedom”. Tôi nhờ bạn tù xâm lên bắp tay tôi.
Thằng sư đoàn trưởng lấy tay đánh lên đầu tôi mấy cái sau khi thằng thông dịch nói với tôi là trong phù hiệu TQLC trên ngực tôi có cái ngôi sao, vì vậy nó chắc chắn tôi là sĩ quan VC mà sao tôi vẫn ngoan cố không khai sự thật. Thằng sư đoàn trưởng chửi một tràng tiếng Miên rồi rút cây colt giơ lên đầu tôi, tức thì thằng Thái Lan chồm tới nắm cây súng đẩy lên trời. Thằng sư đoàn trưởng tức mình lấy bá súng đánh ngược vào mặt tôi trúng miệng. Hai cái răng cửa bị gãy nhưng vẫn còn rung rinh dính tòng teng trong miệng, Miệng tôi bị sưng lên, máu họng chảy ra nhiều lắm. Vừa đánh tôi xong thằng sư đoàn trưởng ra lệnh bằng tiếng Việt bập bẹ:
-Bắn!
Tức thì hai thằng Miên lôi tôi ra cửa liền. Đi khoảng 5-6 thước thì cố vấn Thái Lan chạy theo ôm tôi lại. Hai thằng Miên cố lôi tôi đi. Cố vấn Thái Lan nắm tay tôi lôi ngược trở lại, nó quay đầu lại giận dữ la rất lớn tiếng với hai thằng Lục Thum và thằng sư đoàng trưởng. Nó đẩy tôi ngồi xuống, đuổi thằng thông dịch Miên đi. Tôi thấy một người mặc bộ quân phục Nhảy Dù, đội mũ đỏ, giầy bốt đồ sô gom ống quần đàng hoàng đi ra. Tôi mừng quá vì nghĩ chắc đây là lực lượng phục quốc của mình. Anh ta nói với tôi bằng tiếng Việt thật rõ ràng:
-Anh ơi, anh phải khai ra tất cả sự thật. Nếu anh không khai thật ra, họ sẽ giết anh liền. Tôi là người Việt Nam.
Thì ra chúng đổi người thông dịch. Tôi vội vàng trả lời:

-Anh làm ơn nói dùm tôi. Tôi là lính của VNCH. VC bắt tôi đi lính cho họ. Tôi mới sang đây được hơn hai tuần tôi liền bỏ đơn vị tìm tự do. Lúc nãy họ hỏi, tôi cũng nói y như vậy mà không biết sao họ đòi bắn tôi. Nếu anh không tin anh mở máy ra. Anh nghe rồi anh dịch lại cho họ nghe.

Cố vấn Thái Lan mở máy nghe lại, người thông dịch thứ hai này vừa nghe máy vừa thông dịch. Tôi thấy ánh mắt của thằng sư đoàn trưởng dịu lại. Cố vấn Thái Lan nhìn huy hiệu TQLC trên ngực và câu tiếng Anh trên bắp tay rồi la lên: “Mờ rin cô? Mờ rin cô”? Tôi gật đầu: “Mờ rin cô. Việt Nam” .
Cố vấn Thái Lan cởi trói cho tôi rồi nhìn anh thông dịch nói gì đó. Anh hỏi tôi về đời lính TQLC của tôi. Tôi kể cho anh tôi là TQLC miền Nam, bị bắt ra Bắc năm 1972, được thả ra 1975, bị bắt đi bộ đội 1980.
Sau khi anh thông dịch nói lại thì thằng sư đoàn trưởng nhìn dấu xâm trên tay, trên ngực của tôi. Thấy nét mặt nó nguội lại và có thiện cảm. Hắn vỗ vai tôi, cũng bằng tiếng Việt bập bẹ nói:
-Lầm. Lầm. Đừng buồn.
Hắn đưa ngón tay trỏ lên trời rồi nói: “Hồ Chí Minh”.Biết nó chưa tin mình, lanh trí tôi bỏ ngón tay trỏ xuống đất. Hắn lại đưa ngón tay trỏ xuống đất, nói: “Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ”. Tôi lắc đầu, đưa ngón tay trỏ lên trời. Quay qua anh thông dịch, nó nói gì đó, anh ta dịch lại là:
-Ông ta xin lỗi anh. Ông muốn anh ở lại chiến đấu với ông. Khi ông lấy lại đất nước của ông rồi ông sẽ giúp anh lấy lại đất nước Việt Nam của anh.
Tôi ngần ngừ suy nghĩ. Từ khi ra khỏi tù tôi muốn đi tìm phục quốc. Hôm nay lại thấy có người mặc nguyên bộ quân phục Nhảy Dù nên tôi nghĩ rằng chắc quân phục quốc cũng nằm gần đâu đây. Tôi nhờ anh thông dịch nói lại: -Tôi nghe đồn rằng lực lượng phục quốc của chúng tôi hình như ở trong rừng, trong đất nước Miên hay bên Thái Lan. Tôi muốn đi tìm họ trước.
Thằng sư đoàn trưởng gật đầu, nói cho anh thông dịch: “Ngày mai ông sẽ cho anh đi gặp Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ”.
Nghe nó nói như thật làm tôi vui mừng. Thằng sư đoàn trưởng nhờ tôi viết một lá truyền đơn để cho người mang đi rải. Đại khái là kêu gọi tụi bộ đội bỏ hàng ngũ đi tìm tự do. Nó sẽ đợi và giúp họ đi qua Thái. Nó cũng hỏi tôi về ba người đi chung với tôi có phải lính miền Bắc không. Tôi biết Vinh và Tú gia đình là Bắc di cư 54, còn Vương người miền Nam. Họ đều bị bắt đi bộ đội, không có ai dính líu với VC. Thằng sư đoàn trưởng nói tôi phải bảo đảm, nếu nó điều tra ra họ là lính miền Bắc, nó sẽ tính chuyện với tôi. Tôi bằng lòng. Hắn ta nói tôi đi tắm. Mình mẩy tôi toàn máu. Hai răng cửa chân bị gãy rồi nhưng chưa rớt ra vì miếng thịt còn dính lại trong nứu.
Ra tới bờ sông tôi gặp lại thằng Miên đã lột chiếc giầy của tôi hôm qua. Thấy tôi, nó lật đật chỉ chiếc giầy còn lại. Tôi cúi xuống cởi chiếc giầy đưa cho nó. Nó cũng đưa lại cho tôi chiếc dép. Nó quên không lấy sợi dây nịt. Sợi dây nịt này tôi rất quý. Nó là sợi dây thắt lưng TQLC tôi giấu được trong suốt thời gian bị tù ngoài Bắc. Nhưng sau này qua trại tỵ nạn tôi cũng bị mất cắp.
Bờ sông đầy phụ nữ Miên đang tắm và giặt đồ. Thằng Miên dắt tôi đi tắm đẩy đẩy tôi xuống nước. Đang tần ngần, tính rửa mặt thì có lệnh bắt tôi trở lại căn nhà lá . Người thông dịch cho tôi biết là họ sẽ cho tôi đi ngay bây giờ. Sau này tôi gặp lại người thông dịch trong trại tỵ nạn mới biết anh tên Đệ. Anh bị bắt đi bộ đội nhưng cũng bỏ đi tìm tự do. Anh bị bắt tại đây và bị bắt làm lính cho họ. Thằng sư đoàn trưởng nhận anh làm con nuôi. Người đi rải truyền đơn bị chết. Sau khi chúng tôi đi rồi, anh trốn tới hội Hồng Thập Tự xin tỵ nạn. Thằng sư đoàn trưởng vẫn thường tới trại tỵ nạn dụ Đệ trở lại nhưng Đệ nhất định không chịu trở về. Những người bị bắt tại đó được hội Hồng Thập Tự đổi gạo và mang họ sang Thái. Anh cho biết tại cái bàn tre, không biết bao nhiêu người Việt Nam bị bắn ngay đó. Khi mới tới trại tỵ nạn, anh bị dân tỵ nạn đánh rất dã man vì những người đàn bà, con gái bị tụi Para này bắt được đã bị chúng nhốt lại; hằng đêm chúng muốn ai, chúng bắt Đệ mang họ tới để chúng hãm hiếp. Họ nhận ra anh, thế là họ xúm lại đánh hội đồng. Khi nghe tin anh bị đánh, tôi chạy đi tìm. Tôi la lên: “Anh này là người cứu tôi. Không có anh tôi đã bị tụi Para giết rồi.” Đệ bị đánh dập phổi phải đi nhà thương.
Chúng cột tay tôi ngược ra sau và bịt mắt tôi lại. Lúc này tôi cũng chưa gặp lại các bạn tôi. Tôi được đẩy lên xe. Lên xe, nghe tiếng nói chuyện tôi mới nhận được ba người cùng nhóm tôi. Các bạn tôi không ai bị đánh. Chúng chở chúng tôi đi một hồi lâu tôi nghe nhiều tiếng trực thăng lên, xuống. Tôi được đưa xuống xe mắt vẫn bị bịt, tay vẫn bị trói. Tôi bị đẩy ngồi xuống. Có người nhét vào miệng tôi điếu thuốc và mở bia đổ vào miệng tôi. Vừa hút thuốc vừa uống bia lúc này tôi cảm thấy thật hạnh phúc.
Hút chưa tàn điếu thuốc thì có lệnh tiếp tục đi. Chúng tôi được đưa tới Aran. Tới Aran, chúng tôi được mở khăn bịt mắt ra. Tôi nhìn chung quanh là hàng rào bằng tôn. Nhà cửa đều là hai tầng. Aran là trại kỷ luật nhốt lính Thái. Chúng tôi bị nhốt chung với tụi lính Thái. Tôi gặp hai anh Việt Nam - một người tên Phúc TĐ11 Dù. Họ cũng đi vượt biên như chúng tôi và cũng bị nhốt tại đây.
Nhốt tại đây được một đêm thì bốn đứa chúng tôi được chở đi tiếp. Chúng tôi được đưa tới khu có những căn nhà xây kiểu như nhà Thượng rất đẹp. Tại đây tôi thấy toàn phụ nữ. Chỉ có hai người đàn ông là hai người mang chúng tôi tới. Chúng tôi được ăn uống đầy đủ. Thức ăn, cơm, canh, thịt để từng ngăn riêng trong hộp từ nhà hàng mang tới. Họ đối xử với chúng tôi rất tốt. Chúng tôi bị hỏi cung. Thật ngạc nhiên những cô gái hỏi cung chúng tôi rất đẹp, nói tiếng Việt rành rẽ như tiếng mẹ đẻ. Họ hỏi tên, quê quán Việt Nam ở đâu? Qua Miên đóng ở đâu? Đơn vị nào? Đường đi như thế nào? Tới đâu bị bắt?... Nói tới đâu, họ ghi chép tới đó. Tới chiều, chúng tôi được đưa tới trại tỵ nạn NW9. Chúng tôi được người trong văn phòng trại ra cổng tiếp nhận rồi mang vô trong trại.
Từ lúc sang Miên đến lúc chúng tôi bỏ hàng ngũ để tìm tự do hơn hai tuần. Từ lúc bỏ hàng ngũ đến khi bị Para bắt khoảng hai đêm, ba ngày. Câu chuyện của tôi là một trong hàng triệu câu chuyện thương tâm của người Việt Nam đi tìm tự do. Nhưng tôi là một trong những người may mắn vì biết bao nhiêu người bị hãm hiếp hoặc đã chết cho hai chữ tự do. Suy nghĩ lại lời nói của Đệ: “Tại cái bàn tre này, không biết bao nhiêu người Việt Nam bị bắn ngay đó” và nhớ lại vùng đất bằng phẳng tôi đi ngang qua có những nấm mồ có khắc tên người Việt Nam. Có lẽ đó là những nạn nhân Việt Nam bị bắn ngay cái bàn tre chăng?
Đường đi tìm tự do của tôi quá gian nan, đầy chông gai. Tôi đã phải trả giá rất đắt bằng tính mạng, máu và nước mắt của mình nên tôi rất quý hai chữ tự do.
Nhờ ơn trên - Chúa và Mẹ Maria đã gìn giữ, che chở, và nhận lời cầu xin của tôi. Luôn luôn cho tôi thấy họ trước, không cho họ thấy tôi trước. Nhờ được huấn luyện trong quân trường Rừng Cấm, tôi đã học được những bài học quý giá và đã áp dụng những bài học đó trên đường đi.
Nhờ cái huy hiệu TQLC mà tôi gọi là ông thần TQLC, tôi mới thoát nạn.
Tới giờ này tôi vẫn còn biết ơn X. Không có anh, không biết chúng tôi đi có thành công hay không? Bị VC bắt lại, hay bị chết trong tay Khmer Rouge cũng không chừng.
Tạ ơn Chúa và Mẹ Maria, cám ơn anh X, cám ơn cố vấn Thái Lan, cám ơn anh Đệ thông dịch viên đã giúp tôi, cám ơn anh Hòa đã viết cho tôi câu tiếng Anh, cám ơn anh Nguyễn Ngọc Hùng TĐ2 Trâu Điên đã vẽ và xâm cho tôi ông thần TQLC.
MX Nguyễn Tấn Tài WI

hoanglan22 11-09-2018 05:37

Quote:

Originally Posted by florida80 (Post 3536921)
Ba N.Y khi xưa cũng là lính

Và làm Thư Kư cho Hải Quân trước 75

Chúc chu'nhiều ủng hộ........... Thân chào !:hafppy::hafppy:

Về dân sự làm văn pḥng th́ gọi là thư kư đó florida80 .Riêng về quân đội th́ không dùng từ thư kư , bởi v́ Quân đội th́ chia làm nhiều ban . Lục quân thường có ban 1 , 2 , 3, 4 ,5 . Riêng về HQ cũng có nhiều ngành và các ban về hệ thống này th́ HL không rơ nhiều cũng như về KQ .

Nói chung về Tổ chức Quân đội VNCH Lục quân , HQ , KQ và nhiều đơn vị khác nữa đều có hệ thống riêng của mỗi quân chủng:hafppy::hafppy::hafppy:

Cho gởi lời thăm đến ba của N .Y

Mến nhiều

florida80 11-09-2018 13:19

H́nh như là Trung Sĩ thường .. đánh Việt Cộng ... Ha Ha Ha
Khi N.Y lớn lên thấy Ba chụp h́nh với cây súng ... Thấy hào hùng trong bộ quân phục VNCH......

Sao đó giải ngũ ... Làm Thư Kư cho Hăi Quân... đó chứ

Ba của N.Y đă mất gần hơn 1 năm rồi...................
Cảm ơn Chú H.L đă gọi lời thăm hỏi..đến Ba.......

hoanglan22 11-09-2018 13:39

Quote:

Originally Posted by florida80 (Post 3537417)
H́nh như là Trung Sĩ thường .. đánh Việt Cộng ... Ha Ha Ha
Khi N.Y lớn lên thấy Ba chụp h́nh với cây súng ... Thấy hào hùng trong bộ quân phục VNCH......

Sao đó giải ngũ ... Làm Thư Kư cho Hăi Quân... đó chứ

Ba của N.Y đă mất gần hơn 1 năm rồi...................
Cảm ơn Chú H.L đă gọi lời thăm hỏi..đến Ba.......


Vinh danh người chiến sĩ đă cầm súng bảo vệ cho quê hương .Nay đă nằm xuống TỔ QUỐC GHI CÔNG . Thành kính phân ưu

hoanglan22 11-09-2018 19:46

Đoàn Khánh Ḥa 13
 
3 Attachment(s)
Toán OHIO FOB2 KONTUM 1966-1967
Hàng đứng (từ trái sang phài)
Văn Minh Huy, Wong A Cầu, MSG Richard J. "Dick" Meadows, 1st Lt. Lê Minh, SFC James A Simpsons, SFC N. "Chuck" Kerns, Trần Can và Trương Dậu
Hàng quỳ (từ trái sang phài)
Liêu A Sáng, Nguyễn Kim Trạch, Trương A Nhục và Lư A Dưỡnghttp://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541789003

Đối với người Âu Châu, con số 13 là số xui xẻo, con số tối kỵ. Nếu con số này lại rơi vào ngày thứ Sáu th́ càng tối kỵ hơn nữa. Riêng về phần tôi, dạo c̣n đi học hay thời gian trong quân ngũ, tôi cũng chẳng kiêng cữ ǵ với số 13 này cả… Thứ Sáu ngày 13 nếu là ngày không tốt, nếu là ngày xui th́ chỉ dành riêng cho người Âu Châu mà thôi… Nhưng đối với Đoàn Khánh Ḥa 13 này, con số 13 là con số mạt rệp, con số xui xẻo tận mạng, con số đau thương tang tóc.
Tháng 6 năm 1966, buổi sáng thời tiết ở Kontum thật là mát mẻ. Bầu trời trong xanh và cao thăm thẳm. Tôi có thói quen ngày nào cũng phải nh́n trời để rồi liên tưởng đến thời tiết mỗi ngày. Buổi sáng trời trong xanh, trần mây cao như thế này thật là lư tưởng cho những chuyến hành quân xâm nhập hay triệt xuất. Thật ra các chuyến công tác xâm nhập thường vào buổi chiều, mà buổi chiều ở vùng Tam Biên thay đổi thất thường. Trời đang cao thăm thẳm không một tàn mây, rồi mây đen ở đâu bỗng ùn ùn kéo tới thật thấp, tưởng chừng như là đà ngọn cây. Tầm nh́n cao và xa không qúa 100 thước, do đó thường gây trở ngại cho các chuyến hành quân nhưng lại là yếu tố thuận lợi cho các đoàn quân Cộng Sản Bắc Việt trên hành lang Trường Sơn vùng 3 biên giới.
Tôi vừa nhận được lệnh hành quân chiều hôm qua. Sáng nay khoảng 10 giờ th́ bay không thám. Bây giờ mới 7 giờ rưỡi sáng, c̣n sớm qúa! Tôi muốn trở vào giường nằm nán thêm ít phút để suy nghĩ về những ngày phép sắp tới, khi chuyến hành quân này chấm dứt. Niềm vui của những ngày về phép Sàig̣n, những ngày được sống cạnh Liên khiến tôi bỏ ư nghĩ vào giường nằm lại. Tôi quay về pḥng lấy gói thuốc lá và bước qua Câu Lạc Bộ uống cà phê. Đang ngắm những giọt cà phê từ từ rơi xuống đáy cốc và nghĩ đến bức thư của Liên vừa nhận được hôm qua, cho biết là đă mang thai được 2 tháng và hỏi tôi muốn đặt tên con là ǵ? Tôi th́ thích con trai, Liên th́ muốn con đầu ḷng là con gái… Đang mải suy tư bỗng giật ḿnh v́ tiếng của Trung Sĩ Phát HSQ Ban 3:

-o- Trung Úy, 10 giờ sáng nay Trung Úy bay không thám. Xe Jeep Ban 3 đă chuẩn bị sẵn sàng chở Trung Úy ra phi trường đang đậu ở TOC. Trung Tá nhắc Trung Úy ra phi trường đúng giờ, đừng để tụi Mỹ nó chờ!
-o- ”Con c…” – Tôi muốn chửi thề tiếp theo nhưng vội tốp lại. Tại sao ông xếp nào cũng có tính lo xa? Các ông ấy đâu có biết những điều thiếu tế nhị đó thường làm bọn Sĩ Quan trẻ chúng tôi tổn thương tự ái. Rồi tôi tự nhủ ”Quân Đội là vậy đó. Buổi sáng trời đẹp như thế này x́ nẹt làm ǵ?”. Nghĩ thế tôi bèn cười và nói với Trung Sĩ Phát:

-o- Ngồi xuống đây, c̣n sớm mà… Cà phê sữa nhé?

Qua phút ngượng v́ tôi x́ nẹt bất tử, Trung Sĩ Phát ngồi xuống nói:

-o- Bản đồ đă làm xong. Em đă khoanh tọa độ các băi đáp theo như không ảnh dự trù. Có điều các băi đáp đều qúa xa mục tiêu!

-o- Tao biết… Ban 2 và Ban 3 đă thuyết tŕnh hôm qua rồi. Mày sợ ở vùng mục tiêu không có băi đáp triệt xuất phải không?

V́ bảo mật, các mục tiêu hành quân chỉ giới hạn cho một số người biết. Hạ Sĩ Quan Ban 3 như Trung Sĩ Phát th́ chỉ biết làm bản đồ hành quân, c̣n nhiệm vụ hành quân và tin tức t́nh báo th́ biết một cách hạn chế. Nhưng v́ phục vụ ở Ban 3 Chiến Đoàn từ lâu, phụ trách đánh máy giải tŕnh các cuộc hành quân, do đó Phát cũng đoán được tính chất của mục tiêu và nhiệm vụ cuộc hành quân này. Thật ra nhiệm vụ chính của cuộc hành quân này vẫn là thám sát, báo cáo và hướng dẫn phi cơ oanh kích. Nhiệm vụ phụ là ”bắt tù binh”. Có điều tôi thấy hơi khác lạ là trước nay thường có lệnh chuẩn bị hành quân từ trước. Sau đó, toán được đưa vào Khu Cấm, nội bất xuất – ngoại bất nhập. Xong đâu đó, Toán Trưởng mới nhận được lệnh hành quân; tham dự thuyết tŕnh với các Sĩ Quan Ban 2 và Ban 3 với các không ảnh mới nhất; sau đó đi bay không thám để chọn băi đáp. Ở nhà Toán Phó tùy theo tính chất mục tiêu và nhiệm vụ hành quân, liên lạc với Ban 4 để trang bị đầy đủ theo nhu cầu.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541789088
Toán ở trong Khu Cấm thường th́ 2 hay 3 ngày. Trong thời gian này, chỉ có Toán Phó và Toán Trưởng bận rộn thôi. Toán viên chỉ lo lau chùi vũ khí, chuẩn bị các quân dụng cần thiết mang theo cho phù hợp với nhiệm vụ chuyến công tác. Trước khi đi hành quân, cả toán được xe chở ra sân bắn để thử súng. Ngoài ra, cả ngày toán chỉ ở trong Khu Cấm, nằm nghe nhạc, thục bi-da và xem báo PlayBoy. Báo PlayBoy th́ các HSQ cố vấn toán cung cấp không thiếu.
Lần hành quân này, nếu hôm nay tôi bay không thám, chọn được băi đáp rồi th́ chiều nay là ”go” ngay. Mấy thằng em tôi trưa nay mới phải vào Khu Cấm, trang bị và thử súng cũng nội trong buổi chiều. Gấp qúa nhưng tụi nhỏ nó khoái. Làm sớm nghỉ sớm! Tôi lại nghĩ đến buổi thuyết tŕnh chiều qua. Nh́n vẻ mặt thật quan trọng của Trung Tá Cold Cố Vấn Trưởng và Trung Tá Chiến Đoàn Trưởng sau khi được SQ Ban 2 và Ban 3 cho biết là mức độ xâm nhập của địch vào vùng Benhet rất cao. H́nh ảnh do vệ tinh chụp được cho thấyxe vận tải và bộ binh của địch di chuyển rất rơ. Tin tức t́nh báo như thế này th́ xếp vào loại A rồi! Nhiệm vụ chuyến hành quân này là: quan sát, chỉ điểm cho khu trục oanh kích các đoàn quân xa và các đơn vị địch. Ngoài ra c̣n t́m các kho tiếp liệu quanh vùng này.
Tin t́nh báo cho biết địch sẽ chuẩn bị tấn công vào quận Tân Cảnh hoặc thị trấn Dakto. Tôi cũng khoái nhiệm vụ của cuộc hành quân này, v́ không phải trang bị nặng cho các mục tiêu cần chất nổ hay ḿn đặt trên đường. Có điều làm gấp như thế này sợ mấy thằng em của tôi thiếu chuẩn bị. Tôi quay qua Tr/Sĩ Phát:

-o- Anh chạy xuống toán gọi Thương Sĩ Sơn giùm tôi. Tôi chờ anh về uống cà phê và ăn sáng luôn. Phải dặn Th/Sĩ Sơn vài điều mới được…

Tôi đi bay sớm nhất cũng 1-2 giờ trưa mới về. Buổi chiều c̣n biết bao nhiêu việc phải làm và tôi lại nghĩ đến Thượng Sĩ Cố Vấn toán mới vừa đổi về hơn 3 tuần. Chúng tôi đă đi hành quân 5 ngày thực tập tuần trước. Tên này rất có kinh nghiệm trong ngành Lực Lượng Đặc Biệt. Nghe nói hắn là HSQ xuất sắc nhất của Liên Đoàn 5 LLĐB Hoa Kỳ. Toán tôi có 3 tên Mỹ, tên nào cũng có từ 10 đến 15 năm kinh nghiệm trong LLĐB. Cố Vấn Trưởng Thượng Sĩ Richard J. Dick Meadows. Hai Trung Sĩ kia là James A. Simpson và Trung Sĩ Charles N. Chuck Kerns. Hai Trung Sĩ này, một người là chuyên viên ḿn bẫy và phá hoại, c̣n người kia là chuyên viên truyền tin kiêm cứu thương. Các Cố Vấn đối với toán rất thân mật, vui vẻ và cởi mở. Không biết đây là tiêu lệnh trên chỉ thị, hay là v́ vào sanh ra tử chung với chúng tôi nên họ sống rất ḥa ḿnh với anh em toán.
Thượng Sĩ Sơn bước vào Câu Lạc Bộ cùng lúc với mấy Sĩ Quan trực thăng H-34. Tôi đẩy ghế và vẫy tay gọi họ lại ngồi chung, cùng lúc Trung Úy Huệ hỏi:

-o- Ê Minh Đen, cà phê sớm qúa vậy? Mày chuẩn bị hành quân phải không?

Tôi không trả lời vội, gọi mấy cô Câu Lạc Bộ xếp thêm ghế cho họ ngồi vây chung quanh bàn tṛn rồi trả lời:

-o- Ừ có lẽ chiều nay, nếu thời tiết tốt.

Tôi quay qua Trung Úy Nghĩa, Trưởng Biệt Đội:

-o- Tụi mày xắp đổi Crew chưa? Sau lần hành quân này tao đi phép về Sàig̣n, tụi ḿnh rủ thằng Tuấn-con đi chơi.

Các Sĩ Quan trực thăng trong Phi Đoàn Long Mă 219 này nh́n vào chẳng giống các Sĩ Quan Không Quân khác một chút nào cả. Mặc đồ Biệt Kích, đồ Beo! Súng Colt 9 ly đeo xệ xệ, chẳng có lon lá ǵ cả. Nếu trong tay không cầm nón bay th́ chẳng ai biết đây là những Sĩ Quan Không Quân hào hoa phong nhă. Nếu các binh chủng có sự đoàn kết sống chết với nhau th́ phải kể đến các Phi Hành Đoàn này với các đơn vị hành quân của chúng tôi, như câu châm ngôn truyền tụng: ”Không bỏ anh em, không bỏ bạn bè”. Trong các chuyến hành quân ”Ra Đi Không Hẹn Ngày Về” của các toán Lôi Hổ, qua chiến công của các toán Biệt Kích mang về, một phần lớn cũng nhờ vào những phi vụ cảm tử của các phi công trẻ này. Với những nick-name mà các toán thường nhắc nhở như: Hùng Râu Kẽm, Nghĩa Lùn, Hiếu Chết, An Cào-Cào, v.v… Bất chấp hỏa lực pḥng không của địch, bất chấp các toán Biệt Kích đang bị địch truy kích và sắp sửa bị tiêu diệt, những chàng trai này vẫn liều mạng đáp xuống.http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541789179

hoanglan22 11-09-2018 19:54

4 Attachment(s)
Không những các toán Lôi Hổ coi các phi hành đoàn này như anh em, mà các phi công Hoa Kỳ yểm trợ hành quân chung cũng phải giở nón cúi đầu trước các phi vụ ”uống thuốc liều” của các chàng trai trẻ này. Chúng tôi thường nói đùa: Họ là những chàng trai hành quân mang dép… Lạnh cẳng, cần mang giầy, mang vớ th́ đi chỗ khác chơi! Do đó, tuổi thọ của những chàng trai này thường ”gẫy cánh” ở luới tuổi dưới 30! Hôm nay, không có toán nào trong vùng hành quân nên bọn họ c̣n nhởn nhơ ở đây. Mỗi ngày, nếu có toán hành quân trong vùng th́ 6 giờ sáng phải bay lên căn cứ yểm trợ Dakto ứng chiến rồi.
Tôi dặn Thượng Sĩ Sơn vài điều cần thiết rồi quay sang hỏi tiếp Nghĩa:

-o- Hôm nay mày được bao nhiêu ”chỉ” rồi? Tao nghĩ vài bữa nữa tụi mày đếm chỉ lia lịa đó.

Nếu người ngoài nghe câu này chắc chẳng hiểu ǵ cả. Không biết danh từ này do ai đặt ra, đến nỗi các bà lái phi công ở nhà cũng biết và xài danh từ này! V́ đảm trách các cuộc hành quân mà phi vụ nào cũng rất hiểm nghèo, do đó các Phi Đoàn H-34 và các Phi Đoàn O2 to BTL/KQ biệt phái sang, mỗi lần bay vượt biên giới đều được thưởng 3000 đồng. Số tiền này so với thời giá th́ cũng khá lớn. Tuy nhiên, rất xứng đáng với nhiệm vụ nguy hiểm mà họ phải đảm trách.

-o- Nghĩa cười: ”Nướng hết rồi”.

Tên này coi chậm chạp và ít nói như con gái, nhưng bay bổng, mạt chược và binh xập xám th́ một cây! Tôi xem đồng hồ và đứng lên nói: ”Thôi, tao đi trước!”, rồi quay sang bà Chủ Câu Lạc Bộ hô: ”Ghi sổ hết cho tôi”.

Sau hơn 2 giờ bay không thám trở về, vừa xuống xe đă thấy Thượng Sĩ Sơn đứng chờ sẵn. Tôi đưa ngón cái lên, ngầm cho Sơn biết là việc lựa chọn băi đáp đă OK. Cầm lon Coke lạnh Thượng Sĩ Sơn đưa tới, tôi vừa đi vừa uống rảo bước xuống TOC. Trung Tá Chiến Đoàn Trưởng, Trung Tá Cố Vấn Trưởng, các Sĩ Quan Ban 2, Ban 3, các phi công O2, trực thăng vơ trang, các trưởng phi cơ Việt, Mỹ đă có mặt ở dưới này rồi. Teo nheo mắt và bắt tay Thượng Sĩ Meadows. Cả hai cùng nói: ”Good afternoon!”.
Buổi thuyết tŕnh này chỉ chú trọng về phần yểm trợ của Không Quân. Ư niệm hành quân cũng như lộ tŕnh di chuyển của toán do Toán Trưởng dự trù. Thường th́ Sĩ Quan Không Trợ Mỹ cho biết các lực lượng Không Quân yểm trợ cuộc hành quân cũng như các quy định thường lệ. Sĩ Quan FAC thuyết tŕnh, chỉ định điểm hẹn 1, cho biết tần số liên lạc với khu trục A1-E đang trong vùng ở địa điểm 2. Lần này, toán chúng tôi hành quân đủ cấp số 12 người. Do đó, xâm nhập phải cần tới 2 trực thăng.
Vào tới địa điểm 1 – Biệt Đội 6. Chiếc trực thăng H-34 chỉ có Lead 1 và 2 theo hướng dẫn của FAC vào mục tiêu. Số 4 chiếc c̣n lại chờ ở điểm hẹn 1. Trường hợp gặp hỏa lực phi cơ bị rớt th́ thứ tự các Rescue 1 rồi 2 vào tiếp cứu. Sau đó, trực thăng vơ trang sẽ bắn rocket chung quanh băi để H-34 xuống tiếp cứu. Trong trường hợp t́nh h́nh qúa nặng th́ FAC sẽ điều động phi cơ khu trục A1-E ở điểm hẹn 2 vào tiếp. Nếu toán xâm nhập an toàn th́ biệt đội trực thăng H-34 bay về Dakto ứng chiến. Trực thăng vơ trang sẽ ở lại điểm hẹn 1 thêm 45 phút nữa. Sau đó, nếu mọi việc an toàn th́ cũng bay về Dakto ứng chiến. Cuối cùng, khu trục A1-E sẽ giải tỏa bom đạn ở target G.
http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541789318

FAC luôn luôn có mặt trên vùng khoảng 30 dậm cách mục tiêu. Ngoài trường hợp khẩn cấp, toán sẽ báo cáo với FAC vào mỗi đầu giờ. 4 giờ 30 chiều th́ báo cáo công điện trong ngày và vị trí dự trù đóng quân đêm. Thường th́ công tác tuần tự như thế. Nhưng v́ buổi sáng nay khi bay không thám, nh́n thấy bên dưới đường ṃn chi chít như màng nhện. H́nh ảnh không thám chụp từ mấy ngày trước bây giờ thấy xuất hiện thêm rất nhiều con đường mới. Nơi có ghi những con suối, bọn Công Binh của địch đă đổ đá và kè cây liền nhau cho xe vượt qua, dấu vết rất mới mẻ. Viên phi công FAC, người đă bay rất quen thuộc với vùng này cũng xác nhận các đường ṃn này chỉ mới xuất hiện nội trong 1-2 ngày nay thôi. Ngoài ra khi bay không thám, tôi thấy các ngọn núi cao trong vùng đều có đặt tổ báo động. Tôi nghe súng trường ba tiếng một vang từ chỏm núi này sang chỏm núi khác.
Để có yếu tố bất ngờ, tôi đề nghị: ”Từ điểm hẹn 1, FAC hướng dẫn 2 trực thăng chở toán xâm nhập bay thật thấp, vào tới mục tiêu th́ đáp luôn.”. Thiếu Tá Hoa Kỳ bay FAC nh́n các Sĩ Quan H-34 như hỏi ư kiến rồi ông nói: ”Từ điểm hẹn 1 vào mục tiêu khá xa, tôi đề nghị khi đi được khoảng 2/3 đường th́ trực thăng mới bắt đầu hạ thấp cao độ. Như vậy cũng đủ yếu tố bất ngờ rồi. V́ băi đáp khá lớn nên khi tôi lắc cánh ra dấu hiệu Bingo-Bingo-Bingo th́ trực thăng 1 đáp xuống; khi chiếc này bốc lên th́ trực thăng 2 đáp xuống.”. Đề nghị này rất khó cho phi hành đoàn v́ FAC bay thật cao, hướng dẫn cho trực thăng lúc này đang bay rất thấp nên có thể sẽ không thấy được băi đáp. FAC hướng dẫn Lead 1: Hướng 12 giờ 1000 thước, 800 thước, 600 thước, 400, 200, 100… Sau đó, FAC từ trên cao chúi xuống lắc cánh và gọi ám hiệu của máy bay ”Bingo-Bingo-Bingo”. Khi FAC lấy cao độ bay lên cũng là lúc Lead 1 đáp xuống. Khi Lead 1 bốc lên th́ Lead 2 cũng vừa bay tới và đáp xuống luôn.
Như đă nói ở trên, trường hợp này băi đáp phải lớn. Nếu băi đáp nhỏ th́ Lead 2 phải bay ṿng lại để đáp cho đúng chiều, và nếu như vậy th́ sẽ không c̣n yếu tố bí mật nữa. Nếu trong vùng băi đáp không có các tổ báo động của địch th́ chúng tôi giữ yếu tố bí mật được khoảng 80-90% rồi.
Sau đó, tôi lên bục thuyết tŕnh, cho biết ư định hành quân của tôi mà tôi đă có ư niệm từ lúc ngồi trên chiếc O2 trên đường bay không thám về. Tốc độ di chuyển mỗi ngày, dự trù các điểm đóng quân đêm từ ngày N đến ngày N+4 trên đoạn đường từ băi đáp đến mục tiêu. Ngày N+5 sẽ thám sát các tọa độ tại mục tiêu mà không ảnh đă cung cấp. Dự trù sẽ triệt xuất ngày N+6. Băi đáp triệt xuất được dự trù ở tọa độ 200(th) hướng Đông-Nam, điểm đóng quân ngày N+4. Trường hợp chạm địch hoặc phải triệt xuất khẩn cấp th́ băi đáp sẽ tùy theo địa thế. Dấu hiệu cho phi cơ nhận toán là pano mầu cam trên chỏm nón. Dấu hiệu an toàn là pano mầu đỏ h́nh chữ T, mũi quay về hướng Bắc. Khói vàng là băi đáp an toàn. Tôi hỏi: ”Ai có ư kiến ǵ nữa không?”. Tất cả đều chúc toán ”good luck”.
Bốn chiếc trực thăng vơ trang vừa bay vượt qua dẫy núi hướng Tây-Bắc Dakto. Trực thăng chở toán 6 chiếc cũng bay theo. Trước đó vài phút, 4 chiếc khu trục A1-E bay đảo một ṿng quanh băi đáp trực thăng như ngầm cho biết ”Chúng tôi đă sẵn sàng chờ các bạn”, xong cũng bay khuất vào những mỏm núi cao hướng Tây-Bắc. Thời tiết chiều nay thật lư tưởng. Mặt trời đă gần sụp xuống ở chân trời nhưng hướng Tây trời vẫn c̣n sáng. Dự trù trực thăng bay khoảng 40 đến 45 phút, như vậy chúng tôi sẽ đến băi đáp khoảng gần 6 giờ chiều. Xâm nhập mục tiêu trong thời gian này, xuống đất chúng tôi chỉ cần di chuyển khỏi băi đáp chừng 300 đến 400 thước là có thể đóng quân. Địch dù đoán được có Biệt Kích xâm nhập nhưng tối rồi cũng khó mà theo dấu của chúng tôi.
Ngồi bên cửa trực thăng bỏ chân ra ngoài, tôi ngắm nh́n những cánh rừng cây cao xanh ngút ngàn điểm đầy những hố đỏ thẫm, dấu vết của những trân mưa bom B-52. Phi cơ tôi chở 6 người, gồm 2 tiền sát viên, tôi, Thượng Sĩ Meadows, 1 toán viên y tá và Trung Sĩ Charles mang máy truyền tin. Trực thăng thứ hai chở Toán Phó, Trung Sĩ James, 2 nhân viên phá hoại và 2 hậu vệ. Trời mới đó mà xụp tối rất nhanh. Gió tạt vào người tôi mát lạnh đến tê da. Trực thăng đến điểm hẹn 1, đảo ṿng lấy hướng về băi đáp và bay với cao độ thấp dần rồi giữ cao độ là đà trên ngọn cây cho đến băi đáp. Cả đám xuống băi đáp an toàn. Trời cũng vừa tối hẳn. Sau khi làm thủ lệnh kiểm soát tất cả đă an toàn, tiền sát viên bắt đầu di chuyển theo hướng đă định.
Đêm đó, chúng tôi đóng quân an toàn cách băi đáp khoảng 500 thước. Tất cả toán chúng tôi t́m một địa thế cao, có cây không qúa to rồi đứng thành ṿng tṛn, mỗi người cách nhau một cánh tay dang ngang, đầu quay vào trong, xong đâu đó quay 180 độ ngược ra ngoài. Chúng tôi đóng quân quay thành h́nh tṛn. Mỗi khi có báo động, chúng tôi đă có đội h́nh pḥng thủ 360 độ. Ba-lô kê đầu, lưng lót poncho, dây đạn chỉ cởi khoen nhưng không tháo khỏi lưng, nằm ngủ súng luôn để trên bụng. Những ngày hành quân chúng tôi đều ngủ như thế.
Thay phiên nhau mỗi người gác một giờ. Đôi khi cảnh giác, chúng tôi cũng chăng giây báo động; một loại giây rất nhỏ bằng bao thuốc lá, vận hành bằng pin. Ban đêm chăng giây này cách mặt đất khoảng 3-4 tấc. Giây đứt, micro sẽ kêu lên, to nhỏ tùy theo volume đă được điều chỉnh từ trước. Tối ngủ, một người chỉ cần móc cái khoen của hộp báo động vào quai vai áo. Hệ thống báo động này rất nhạy, tuy nhiên cũng gây phiền phức không ít khi thú rừng đi vướng, hoặc cây khô ban đêm rơi xuống làm đứt giây.
Tôi tuyệt đối không bao giờ cho căng vơng hoặc che lều. Trời có mưa th́ trùm poncho chịu trận suốt đêm! Che lều đêm sương xuống lều sẽ phản chiếu ánh sáng, ở xa trông rất rơ. Ngủ vơng đêm lúc trở ḿnh sẽ khua động cành cây. Tôi cảnh giác cao như thế nên sau 2 năm hành quân, toán tôi chỉ bị theo dơi mấy lần nhưng chưa lần nào bị địch tấn công lúc đóng quân đêm cả. Địch thường theo dơi lúc toán mới xuống băi đáp hoặc trong khi di chuyển, chờ lúc toán đóng quân là tấn công ngay. Buổi tối, chúng tôi không được phi cơ yểm trợ nên địch sẽ được lợi thế hơn. Nhiều toán đă bị đi đứt trong khi đóng quân đêm v́ đồ đạc cởi bỏ lung tung, gây ồn ào hoặc hút thuốc lá, hay dùng C4 nấu cà phê.
Chúng tôi thường có câu: ”Đường ṃn là mồ chôn Biệt Kích”. Hành quân cứ theo đường ṃn mà đi hoài th́ trước sau ǵ cũng lảnh thẹo. Hành quân mà hút thuốc lá là vô t́nh để cho địch theo dơi. Hút thuốc trong rừng ban ngày thôi, khói thuốc cũng bay từ 15 – 20 thước. Thuốc lá thơm th́ mùi sẽ c̣n dễ nhận ra hơn nữa. Cả toán anh nào cũng là dân ghiền thuốc nên tôi cũng du-di, nhưng mỗi lần hút chỉ được hút phân nửa điếu đă được cắt đôi. Trong khi hút thuốc phải che điếu thuốc bằng nón vải. Nhả khói ra là lấy nón quạt khói tan ngay. Chỉ được hút 3 lần trong một ngày, mỗi lần hít vài hơi cho đỡ ghiền. Hút xong xé tan phần c̣n lại, bốc một nắm đất trộn đều xơ thuốc lại rồi rải xuống đất.
Không được hút thuốc có đầu lọc v́ đầu lọc khó xé nhỏ, dễ để lại dấu vết. Tôi ở nhà hút mỗi ngày cũng gần một gói nhưng đi hành quân th́ tôi nhịn. Chỉ tội nghiệp Trung Sĩ Charles, suốt cuộc hành quân miệng không ngớt nhai thuốc lá. Tôi cũng thuộc loại các Toán Trưởng chịu chơi, thường che chở và bật đèn xanh cho tụi nhỏ muốn làm ǵ th́ làm, nhưng đi hành quân th́ tuyệt đối phải giữ đúng tiêu lệnh chung. Tôi biết tụi nhỏ cũng than lắm, nhưng chịu khó vài ngày mà được trở về an toàn bộ không sướng hơn sao?
Ngày N+1
Phi cơ lên vùng rất sớm. Chúng tôi báo cáo trong đêm vô sự và bắt đầu di chuyển theo lộ tŕnh. Đường đi rất khó v́ B-52 oanh tạc, cây cối đổ ngổn ngang cùng hướng tiến của chúng tôi. V́ phải đi qua các hố bom đường kính trên 15-20 thước nên di chuyển rất chậm v́ phải định hướng lại hoài. Buổi trưa trên con đường ṃn nhỏ, trên đỉnh của một ngọn núi thấp chạy theo hướng Tây-Bắc – Đông-Nam, chúng tôi phát giác gần 25 cái cḥi nhỏ, vuông, mỗi cạnh khoảng 3 thước. Sạp được lót bằng tre cách mặt đất khoảng 5 tấc. Các cḥi này được bọc quanh bằng phên tre phết đất, cao khoảng 1 thước, bên trong chứa đầy lúa khoảng 8 tấc. Phần 2 tấc bên dưới chứa trấu. Ngăn đôi giữa lúa và trấu là một lớp lá rừng. Các cḥi có nóc cao hơn 2 thước, lợp tranh, mái cḥi chạm đất. Cḥi đă thấp, lại được làm dưới tầng cây cao nên phi cơ quan sát khó thấy được. Tôi báo cáo lên FAC xin chỉ thị ở nhà và được lệnh cứ tiếp tục di chuyển. Hướng dẫn cho FAC thấy mục tiêu xong, chúng tôi sẽ di chuyển để FAC hướng dẫn khu trục đến oanh tạc bằng bom Napalm.
Tôi cho đốt một cḥi để FAC thấy. Sau đó, toán chúng tôi di chuyển nhanh xuống triền núi. Lúa gặp tranh và phên tre nên bùng cháy rất nhanh. Lúa chỉ đổ tràn xuống thôi chứ không cháy được. Không biết bom Napalm có làm cháy hết số cḥi lúa này không? Chung quanh không có rẫy trồng lúa. Di chuyển số lượng lúa này từ xa đến đây chắc địch phải mất rất nhiều ngày và nhân lực. Khi đến chân núi, chúng tôi thấy 2 chiếc F4-C Phantom từ trên cao bổ nhào xuống, thụt bom Napalm rồi bay vụt qua đầu chúng tôi. Tôi mong cho những đồi lúa bị cháy. Lúa đổ xuống đất chỉ cần có mưa hoặc sương đêm cũng đủ làm cho lúa nẩy mầm là không dùng được rồi. Buổi tối hôm đó chúng tôi đóng quân cạnh một con suối nhỏ. Trời vừa xụp tối đă nghe có tiếng xe di chuyển ở hướng Tây. Tiếng xe hú to chứng tỏ là xe đang phải chở nặng, hoặc cố vượt qua các dốc cao hay suối cạn. Tiếng bom B-52 nổ suốt đêm về hướng Bắc khiến mặt đất và cây cỏ rung lên từng chập sau mỗi đợt tiếng nổ. Tuy nhiên, sau đó đêm yên tĩnh…http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541789461

Ngày N+2
Vừa di chuyển theo suối khoảng 200 thước, chúng tôi cặp dọc theo 2 bên con suối trong một khu rừng thấp và phát hiện một chỗ đóng quân cho khoảng từ 150 đến 200 người trở lên. Mỗi chỗ đóng quân cá nhân gồm có 2 cây thiên nhiên hoặc 2 cây trụ, đuợc chôn khoảng cách vừa tầm để buộc vơng. Phía trên 2 cây có buộc một cây ngang để máng lều cá nhân. Hai cây ngang tôi đoán dùng để gác súng và một sạp nhỏ để ba-lô. Chung quanh thật sạch sẽ, không một ngọn cỏ, không một chiếc lá, chứng tỏ là được dùng đóng quân thường xuyên. Có lẽ đây là một binh trạm đóng quân của chúng giữa 2 chặng đường. Chắc chắn gần đây phải có nhà hoặc có cơ sở của binh trạm này. Tôi chụp h́nh và cho lệnh lục soát rất kỹ. Qủa nhiên trên một ngọn đồi thấp, cạnh con đường ṃn lớn không có dấu vết xe di chuyển, chúng tôi phát giác 1 căn nhà sàn nhỏ và 4 căn nhà trệt nằm dưới cây cổ thụ cao. Chúng tôi dè dặt tiến vào. Đúng là một binh trạm rồi! Đồ đạc vất vương văi, dép râu, điếu cày, mấy cái chén xanh và một cái tô mép mó. Dưới đất có 2 bếp nhỏ và mấy đôi đũa… chứng tỏ là địch đă bỏ đi thật gấp.
Một bàn viết làm bằng tre, ghế cũng bằng tre. Trên bàn có một lọ mực tím. Trên phên vách treo mấy cái áo trận đă rách, một tấm lưới bắt cá, lưỡi và dây câu. Chúng tôi lục soát thật kỹ và t́m thấy một tờ giấy nhỏ như giấy học tṛ, viết bằng mực tím. Giấy bị ướt nên chữ nḥe đi, không đọc được ǵ cả. Bốn căn nhà trệt có lẽ dùng để chứa lương thực v́ thấy có ít gạo và bắp rơi xuống đất. Chúng tôi đốt tất cả 5 căn nhà này. Tiếng tre nứa cháy nổ ầm ầm như đụng trận. Chúng tôi di chuyển thật nhanh và t́m chỗ đóng quân đêm. Tối hôm đó vẫn c̣n nghe tiếng xe di chuyển măi gần đến khuya mới dứt.

Ngày N+3
Buổi sáng hôm đó, FAC bay lên và chuyển cho chúng tôi một công điện: Cứ giữ hướng di chuyển cũ, chú ư lục soát kỹ, bung rộng trong trục tiến quân v́ hướng này là một nhánh hay một xương sườn của đường ṃn Hồ Chí Minh chạy vào Tam Biên. Công điện cũng cho biết thêm là trục tiến quân của địc vào Benhet chỉ chung quanh đây thôi. Tôi bàn với Thượng Sĩ Meadows, nếu lục soát rộng sẽ làm chậm sự di chuyển của toán. Meadows đề nghị chia toán ra làm đôi; lục soát rộng 2 bên bờ suối, cặp theo con đường ṃn nhỏ mà chúng tôi đă gặp hôm qua. Tôi không đồng ư v́ nếu chia đôi toán ra th́ khó liên lạc và yểm trợ cho nhau. Trước nay, chúng tôi thường để một nửa toán nằm lại tại chỗ, c̣n một nửa toán kia đi lục soát để biết có điểm hẹn mà trở về. Chia đôi th́ không đúng nguyên tắc, mặc dù có thể lục soát một chu vi rộng hơn.
Tôi vẫn giữ đội h́nh cũ và di chuyển chếch về hướng Bắc v́ 2 đêm liền đều nghe thấy có tiếng xe di chuyền ở hướng này. Khoảng gần trưa, chúng tôi phát giác 2 căn nhà cất thật thấp trên một diện tích 8 x 10 thước. Nền nhà được đào sâu xuống khoảng gần một thước, đất được đắp chung quanh. V́ mái nhà cất chạm đất và lại ở dưới tàn cây cao nên đến gần chúng tôi mới phát hiện. Một thang gỗ khoảng 3 bậc dùng để lên xuống, hai bên là 2 dăy xạp tre. Đầu nhà phía bên kia cũng có thang lên xuống. Một phía đầu nhà có một chái nhỏ dùng làm bếp, có hai cái ḷ, một ḷ kẹp 2 con cá nướng c̣n đang nằm trên bếp. Cá đă cháy khét. Tôi tḥ tay vào tro thếy c̣n hơi âm ấm. Có lẽ tụi chúng đă bỏ đi chiều hôm qua. Căn nhà bên kia khoảng 4 x 8 thước, bên trong có một bàn viết, sạp ngủ làm bằng tre. Một quyển sổ b́a xanh loại giấy học tṛ ghi tên tuổi các bệnh binh. Có lẽ đây là một bệnh xá thuộc binh trạm mà chúng tôi đă phát hiện ngày hôm qua. Sổ ghi bệnh nhân phần nhiều là phù thủng, sốt rét và kiết lỵ. Tôi đếm và cộng lại sổ ghi mỗi tháng thấy có từ 17 đến 25 tên có mặt ở trạm xá này. Tổng số chết cũng gần chục tên. Bệnh xá có ghi tên một bác sĩ và hai hộ lư, đều là tên đàn ông. Như vậy, hộ lư và y tá cũng c̣n có tên riêng là nữ cán bộ, dùng để phục vụ sinh lư cho các cán bộ cao cấp địch. Chúng mày bỏ của chạy lấy người th́ chúng ông đốt nhà chúng mày vậy. Chiều nay lại được dịp nghe tre nứa cháy nổ ầm ầm như pháo Tết! Đêm hôm đó nghe tiếng xe di chuyển gần chúng tôi hơn…

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541789560

Ngày N+4
Buổi sáng sau khi báo cáo với FAC trong đêm an toàn, chúng tôi bàn với nhau: Qua phát hiện trong 2 ngày nay, chắc chắn tuyến đường xâm nhập vào vùng Tam Biên phải ở gần đây. Tuyến đường này gần như nằm song song với trục tiến quân của chúng tôi. Có thể là hướng Bắc của con suối hay nằm ở phía Nam con suối. Tôi quyết định đổi hướng và toán di chuyển về hướng Bắc, không tiến vào mục tiêu như đă dự trù. Tôi liên lạc với FAC cho biết ư định mới của toán và chiếu gương xin FAC xác nhận vị trí điểm đứng của toán. FAC cho tọa độ hiện tại của toán, so với tọa độ chúng tôi xác định th́ chỉ cách nhau không qúa 100 thước. Chúng tôi tiến về hướng bắc di chuyển khoăng 200 thước; toán phát giác một đường ṃn nhỏ bề ngang khoăng hơn một thước láng, sạch, không có một cọng cỏ. Theo kinh nghiệm th́ đường ṃn như thế này phải được sử dụng hàng ngày rồi. Tôi bước dọc theo lề đường khoảng 10 thước, nh́n về phía Tây khoảng 100 thước th́ bị che khuất. Có lẽ đó là khúc quanh mà con đường chạy theo đoạn cong của ḍng suối.
Quan sát về phía Đông của đường ṃn thấy xa hơn khoảng 200 thước th́ con đường đi xuống thấp dần, v́ đường ṃn chạy theo triền đồi thoai thoải xuống. Vừa định lấy máy h́nh ra chụp, tôi bỗng nghe có tiếng ồn ào về hướng Tây. Vội thụt lui vào phía trong th́ đă thấy một đoàn người vừa xuất hiện ở khúc quanh con đường. Dẫn đầu là một tên quần xanh, áo trận vàng, đầu đội nón cối, tay cầm một cây gậy dài, vai quàng một miếng vải dù bông, vừa chạy vừa hô: ”Khẩn trương – Khẩn trương – Khẩn trương”. Phía sau là một đoàn người gần như chạy lúp xúp mặc đồ trận xanh, nón cối, giầy vải, khiêng những khúc dài được bọc bằng giấy mầu ô-liu, không biế là sơn pháo hay pḥng không. Có tên gánh, có khi cả 2 tên khiêng một thùng gỗ hoặc thùng sắt. Tôi đứng như trời trồng v́ chỉ cách chúng không đầy 5 thước! Bờ suối th́ cũng cách tôi khoảng chừng 5 thước.
Tôi nhích dần, nhích dần xuống suối. Nếu trời xui khiến chỉ cần có tên nào dừng lại là thấy tôi ngay. Tôi nh́n Thượng Sĩ Meadows và 2 tiền sát viên Lư A Dưỡng và Ẉng A Cầu đang nằm bẹp bên bờ suối, nước tới thắt lưng, mặt người nào cũng nghệt cả ra. Cuối cùng, tôi cũng thụt lui tới mép suối. Tôi vừa ngồi thụt xuống bờ suối th́ đoàn quân của địch cũng vừa vượt qua. Tôi nhích dần về phía Thượng Sĩ Meadows, đưa ngón tay ra dấu hiệu đúng là mục tiêu rồi. Tôi hỏi nhỏ: ”Mày đoán xem đoàn quân vừa đi qua độ chừng bao nhiêu?”. Nó đoán khoảng hơn 150 người. Tụi thằng Dưỡng, thằng Cầu nói khoảng 300. Tôi đoán trên dưới cũng khoảng 200 thôi. Tôi ra dấu cho Thượng Sĩ Meadows trở về phía bên kia suối bảo Trung Sĩ Charles liên lạc với FAC báo cáo hiện t́nh. Để thằng Dưỡng ở lại với tôi, tôi bảo thằng Cầu cho toán nhích sâu vào trong thêm 15 thước trên một ngọn đồi nhỏ. Chờ khoảng không hơn 20 phút sau cũng không thấy toán quân địch nào di chuyển qua. Thượng Sĩ Meadows lội sang, tay cầm máy quay phim. Cùng lúc này, tôi nghe tiếng phản lực cơ gầm thét cùng với tiếng ầm ầm ở hướng Đông mà đoàn quân xâm nhập của địch vừa đi tới. Thượng Sĩ Meadows nói nhỏ vào tai tôi: ”Tôi đă liên lạc với thằng FAC, nó điều động các phản lực cơ đang có mặt ở trong vùng ưu tiên đánh cho bọn ḿnh. FAC cũng cho biết đă xin các phi xuất từ Đà Nẵng đang trên đường đi yểm trợ theo lời yêu cầu và hướng dẫn của toán.”. Nó c̣n cho biết thêm là đă cẩn thận trải panô bên kia bờ suối khoảng 10 thước và FAC đă thấy tọa độ của ḿnh rồi. Tôi cũng khoái. Như vậy là chắc ăn như bắp. FAC cũng khôn, nó chỉ bay ở xa xa chứ không ở trên đầu chúng tôi.
Ở bờ suối bên này chỉ có tôi, Meadows và thằng Dưỡng. Thằng Meadows gần như nằm hẳn xuống suối, từ thắt lưng trở xuống ngâm hẳn dưới nước suối. Nó để máy quay phim ghếch ống kính lên chờ quay. Tôi đứng rùn người, hơi nghiêng bên cạnh thân cây gỗ mục chờ chụp h́nh. Khoảng 15 phút sau, ở khúc quanh hướng Tây xuất hiện một toán khoảng chừng 15 tên, vượt qua chỗ chúng tôi đang núp với những bước chân sải thật dài. Cũng quân phục xanh, nón cối, giầy vải và dép râu lẫn lộn, lưng mang balô có vắt nhánh cây. Tên nào cũng chống một cây gậy nhưng không thấy mang vũ khí hay khiêng vác vật ǵ cả, khác với toán vừa vượt qua. Toán này tất cả đều sồn sồn khoảng 40-50 tuổi.
Mặc dù tiếng suối chẩy ŕ rào nhưng tiếng máy chụp h́nh của tôi cũng nghe rơ mồn một. Tôi quay sang Meadows, mặt nó đỏ ngừ, đang loay hoay với cái máy quay phim bị trở ngại sao đó. Nó nhích dần về phía tôi nói nhỏ: ”Tôi đem máy trở qua bên kia cho thằng Charles coi lại, không hiểu tại sao máy lại tự nhiên không ”run” ?”. Tôi ra dấu cho nó ngầm bảo được rồi và đưa máy chụp h́nh ra nói nhỏ: ”Đừng lo, c̣n có cái này.”. Khoảng 10 phút trôi qua, chúng tôi lại thấy một toán nữa xuất hiện. Quân phục cũng giống như toán vừa vượt qua lúc đầu. Cũng khá đông, gần 100 tên. Không biết thuộc đoàn vừa qua rớt lại phía sau, hay chúng chia ra từng nhóm nhỏ để tránh phi cơ quan sát thấy. Đặc biệt nhóm này không có tên dẫn đường. Toán này vượt qua được gần 20 phút rồi mà vẫn không thấy thằng Meadows quay trở qua. Tôi ra dấu cho thằng Dưỡng trở về bờ suối bên kia. Thằng Meadows đang nhăn nhó lắc đầu cho biết máy quay phim của nó không sử dụng được. Tôi nói: ”Tao chụp được nhiều h́nh lắm rồi”. Trong lúc đó phản lực cơ đang thả bom ầm ầm ở hướng Đông. Tiếng bom nổ như sát bên cạnh chúng tôi. Lúc này đă hơn 12 giờ trưa, mấy thằng nhỏ của tôi chắc cũng có ǵ bỏ bụng rồi. Tôi ra dấu cho thằng Meadows kiếm ǵ ăn đi. Nó lắc đầu và đưa bi-đông nước lên làm dấu. Tôi thấy thằng này đi hành quân ăn rất ít, thường thường chỉ một hộp trái cây nhỏ cho cả ngày.
Tôi liếc một ṿng thấy mấy thằng nhỏ đang ẩn nấp thật kỹ sau những thân cây to. Tôi, thằng Meadows và Charles bắt đầu hướng dẫn cho FAC đánh chính xác hơn. Giờ phút này, ở con đường ṃn phía bên kia bờ suối lại thấy xuất hiện một toán quân khác. Đoàn này trang phục cũng quần áo trận xanh, lưng đeo ba-lô vắt lá ngụy trang. Đặc biệt tất cả đều mang vũ khí cá nhân, phần nhiều là AK-47, không thấy có súng lớn như đoàn đầu tiên. Chúng gần như dồn cục vào nhau, vừa đi vừa chạy. Nhờ tấm pa-nô trải làm dấu phía sau chúng tôi nên FAC thấy vị trí toán rất rơ. Do đó, lần này khu trục đánh bom con đường ṃn trước mặt chúng tôi không qúa 50 thước. Nghe tiếng khu trục gầm thét, bọn chúng ngừng lại và đứng tạt ra hai bên đường. Một tràng đại liên từ khu trục bắn cày dài theo mặt đường tới bờ suối bên kia. Bị khu trục bắn thẳng vào đoàn quân nên chúng chạy náo loạn và kêu la ầm ĩ. V́ rừng già nên bên dưới rất trống trải nên thấy có rất nhiều xác chết nằm rải rác trên đường. Một số tạt về phía bờ suối hướng toán chúng tôi đang đứng phục kích. Lần này, khu trục bắn nhiều tràng đại liên dọc theo bờ suối. Lại nhiều tên nằm bên bờ suối bị ngă gục.
Về hướng Bắc cây cối thưa hơn nên chúng tôi quan sát thấy có thêm một toán địch mới xuất hiện. Chúng bị dồn cục lại và nằm phục 2 bên con đường. Thằng Meadows vội giành lấy ống liên hợp trong tay thằng Charles, hướng dẫn FAC đánh mục tiêu hướng Tây Bắc và hướng Bắc. Có lẽ chúng thấy khu trục chỉ bắn con đường ṃn và phía bờ suối nên đổ dồn về phía này.
http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541789636

hoanglan22 11-09-2018 19:59

2 Attachment(s)
Hết khu trục A1-E rồi phản lực F4-C thay phiên nhau quần thảo phía Bắc con suối, cách chỗ chúng tôi khoảng 50-60 thước. Tiếng bom, tiếng đạn và tiếng la vang từng chập. Tiếng bom đạn vừa ngừng là bọn chúng lại chạy về hướng Đông của đường ṃn. Chưa bao giờ tôi thấy khu trục yểm trợ ngoạn mục như vậy. Nhiều tràng đại liên cài dọc theo con suối chỉ cách chúng tôi không qúa 50 thước. Tôi nghĩ chỉ cần một viên đạn ”bụi đời” bỏ đi bậy bạ là toán chúng tôi có người bỏ mạng rồi. Phi cơ đánh từ Đông sang Tây phía trước mặt chúng tôi. Hướng Bắc không nh́n thấy địch nhưng về hướng Tây trên một ngọn đồi thấp có nhiều tảng đá to, tôi thấy địch đang tập trung và ẩn nấp quanh mấy ḥn đá lớn lố nhố.
Tôi ra dấu cho Thượs Sĩ Meadows lại gần chỉ cho nó thấy và nói: ”Mày gọi FAC và xin 2 phi xuất Napalm đi”. Nó nói OK và ḅ lần về phía thằng Charles. Trong lúc đó ở hướng Đông Bắc bỗng có đại liên pḥng không 37 ly nổ ”chụp chụp”. Từng cụm khói trắng bung lên mỗi lần phi cơ đảo xuống. Không biết FAC có điều động không nhưng tôi thấy có một khu trục tách ra, lao về hướng có pḥng không vừa bắn lên. Sau mấy loạt đạn và 2 tiếng bom nổ, súng pḥng không này im luôn. Không biết bị tiêu diệt hay tụi nó sợ không bắn nữa.
Thượng Sĩ Meadows ḅ lại cho biết sẽ có trực thăng vơ trang bay lên yểm trợ. Tôi nói ”Good!”. Vừa nói xong th́ tiếng lạch bạch của 4 trực thăng vơ trang Cobra cũng vừa lao tới. Hai chiếc bay ṿng bên ngoài, hai chiếc kia lao vào phụt rocket và đại liên. Hỏa lực trực thăng cũng mạnh lắm nhưng tụi địch không ngán trực thăng, v́ chúng tôi nghe thấy nhiều tràng AK bắn lên phi cơ. FAC có lẽ được trực thăng báo cho biết có hỏa lực bên dưới bắn lên nên nó bay vào vùng mục tiêu và đảo trên đầu chúng tôi. Mấy tên sống sót từ trưa đến giờ nhờ núp bên mấy khe đá, thấy ngọn đồi bên phía chúng tôi đang đứng không bị oanh kích cho nên tôi nghe tiếng la: ”Tất cả tiến sang bên phải”. Hai, ba tên lụp xụp bám thành suối leo lên chạy về hướng ngọn đồi chúng tôi đang bố trí. Hai thằng chạy đầu vừa lên khỏi bờ suối bên này th́ ”rẹt rẹt”, thằng Dưỡng nhả 2 loạt súng giảm thanh. Hai tên này gục xuống. Thằng thứ ba vội tụt xuống, lui lại nấp vào ḥn đá to giữa suối. Thằng Dưỡng khạc thêm mấy loạt đạn nữa nhưng đạn chỉ chạm vào đá rồi rớt xuống suối nghe bụp bụp. Bỗng tên này la to ”Có Biệt Kích gián điệp, Biệt Kích gián điệp!”. Thằng Sáng lanh lẹ thẩy một trái mini sau lưng tên này. Tiếng nổ của lựu đạn mini hất tung nó lên, phơi nửa người nằm trên phiến đá.
Sau tiếng lựu đạn, tôi nghe có nhiều tiếng la ở hướng Tây ”Có Biệt Kích gián điệp, Biệt Kích gián điệp!”. Tôi ra dấu cho cả toán chuẩn bị. Chúng tôi đă bị địch phát giác rồi. Có thêm mấy bóng theo các thân cây khum khum tiến về phía chúng tôi, bắn mấy loạt đạn AK ḍ dẫm. Tôi ra hiệu cho Thượng Sĩ Sơn dẫn bán tổ rút trước về hướng Nam. Bán tổ c̣n lại cũng rút chầm chậm theo. Giờ này ở bờ suối bên này đă có khoảng mười mấy tên ḅ lên đồi rồi. Thằng Meadows từ sáng tới giờ chắc cũng ngứa tay nên chồm lên nhả nguyên một loạt đạn. Tiếng AK bắn ào ào xả vào chúng tôi lúc chúng tôi vừa yểm trợ cho nhau vừa rút.

Bốn chiếc trực thăng đảo qua đảo lại, bắn đại liên ngăn chặn phía sau chúng tôi. Vỏ đại liên và sắt két đạn rơi lên đầu lên cổ chúng tôi nóng bỏng. Có lẽ tụi trực thăng thấy chóp mũ chúng tôi có dấu hiệu mầu cam nên tụi nó bắn thật chính xác, không sợ lầm vào quân bạn. Mặc dù trực thăng yểm trợ rất mạnh, thế mà tụi nó cũng đuổi theo chúng tôi hơn 500 thước. Lúc này cũng gần 6 giờ chiều. Bây giờ chúng tôi mới bắt đầu thấy đói và khát. Tôi ra dấu cho toán ngừng lại để bố trí ăn cơm. Từ sáng đến giờ, v́ qúa mệt và căng thẳng nên tôi chỉ nuốt trôi nửa lon Fruit-Cocktail.
Trong công điện buổi trưa chúng tôi nhận được th́ Chiến Đoàn cho lệnh ngày mai chúng tôi phải t́m băi đáp triệt xuất gấp. Tôi đoán B-52 sẽ ”tapi” vùng này khi chúng tôi triệt xuất ra xong. Sau khi dùng cơm chiều, chúng tôi chờ trời tối hẳn mới di chuyển khỏi nơi này khoảng 200 thước t́m chỗ đóng quân. Khoảng 9 giờ tối, chúng tôi nghe từng tràng tiếng nổ ầm ầm. Mỗi lần sau tiếng nổ là ánh sáng lóe lên, sáng như ban ngày. Thằng Meadows cho biết máy bay C-47 đang ”chụp h́nh” tụi nó bằng bom! Lần đầu tiên tôi mới nghe như thế. Cuộc chiến này có nhiều điều thật mới lạ. V́ sợ tụi VC theo dơi đột kích trong đêm nên tôi cứ chập chờn không dám ngủ.

Ngày N+5
Buổi sáng báo cáo với FAC xong, chúng tôi cho biết là băi đáp triệt xuất chưa có. FAC hướng dẫn chúng tôi về phía Tây Nam khoảng 300 thước thấy có một băi đáp nhỏ, có thể dùng để triệt xuất được. Trong lúc chuẩn bị di chuyển, tôi nh́n về phía Đông Nam khoảng 300 thước thấy h́nh như có một làn khói nhỏ lơ lửng bay lên. Tôi chỉ cho thằng Meadows, nó nói có lẽ là sương. Buổi sáng nắng lên làm tan phần sương trên ngọn cây nên nh́n thấy có ánh sáng mầu vàng lợt. Nhưng nếu nh́n từ mặt đất trở lên 2-3 thước th́ thấy sương mù c̣n lăng đăng. Quan sát một hồi, thằng Meadows nói có lẽ là khói. Tôi cũng c̣n chưa quyết định hẳn đây là sương hay khói. Nếu là khói th́ có lẽ v́ các đám cháy do bom đánh ngày hôm qua tạo ra. Nhưng sau khi quan sát kỹ, tôi thấy làn khói bay lên thẳng như tạo ra bởi một đống lửa nhỏ, giống như khói bếp vậy. Hướng này là hướng con đường ṃn chạy bọc theo suối, trải dài về hướng Đông mà các phi tuần phản lực đánh chặn địch ngày hôm qua. Thay v́ di chuyển về hướng Tây Nam theo phi cơ quan sát chỉ để t́m băi đáp, tôi cho toán di chuyển về hướng Đông Nam, tiện việc lấy nước ở suối và quan sát xem đó có phải là khói không?
Chúng tôi thấy cạnh con suối có một căn cḥi nhỏ. Kích thước cḥi này cũng giống như những căn cḥi mà chúng tôi phát hiện có lúa mấy ngày trước. Cḥi không có lúa, chỉ c̣n lại toàn trấu. V́ được cất gần suối nên sàn nhà cao hơn một thước. Chúng tôi tản ra và chuẩn bị ăn sáng. Từ hôm đi đến nay mới nghe thằng Charles mở miệng: ”Nếu được phép ngủ, tôi sẽ nằm dưới cḥi này ngủ 3 ngày liền”. Trong toán, nó là thằng phải mang nặng nhất. Ngoài những trang bị như mọi người, nó c̣n cơng thêm một máy truyền tin PRC-25, một máy ngụy tần số gắn liền với PRC-25 cộng thêm một cục pin trừ bị. Nghe nó nói muốn ngủ, mắt tôi cũng muốn sụp xuống! Tôi tháo ba-lô ra, tṛng giây súng vào cổ, bước lên một thân cây to đổ vắt ngang qua suối để ra giữa suối khoát nước rửa mặt. Vừa ngồi xuống, chưa kịp đưa tay khoát nước, nh́n về phía trái khoảng 15-20 thước tôi chợt thấy có móc 3-4 chiếc vơng. Có chiếc c̣n căng poncho làm lều. Tôi đưa tay ra dấu có địch, nhưng ngoái lại chẳng thấy có đứa nào nh́n thấy thủ hiệu của tôi cả. Ai nấy đang chuẩn bị ăn sáng! Tôi vừa thụt lui nhưng mắt vẫn quan sát mấy cái vơng, tay vẫn đưa ra sau làm dấu có địch. Chân tôi vừa đặt suống đất th́ Thượng Sĩ Sơn cũng vừa ngó thấy thủ hiệu có địch của tôi. Nó chồm tới phát vào vai thằng Dưỡng và thằng Meadows ngồi gần đó, ra dấu có địch. Bây giờ th́ cả toán đă được báo động. Tôi cho toán biết là quan sát thấy có 3-4 cái lều vơng nhưng không thấy có người. Tôi cho lịnh rất nhanh: Tôi, thằng Dưỡng và thằng Meadows ḅ qua trước. Thượng Sĩ Sơn, thằng Cầu, thằng Sáng yểm trợ. Phần c̣n lại bố trí bên này.
Buổi sáng nước lạnh như nước đá, cũng may nước chỉ cao hơn đầu gối một chút thôi. Chúng tôi ḅ lên khỏi bờ suối khoảng ba thước th́ thấy một tên từ vơng ngồi dậy. Thằng Dưỡng hốp tốp kêu: ”Đứng dậy – Dơ tay lên!”. Tên này đang lúng túng, có lẽ c̣n vướng một chân trên vơng nên chưa ḅ xuống được. Tôi và thằng Meadows vọt nhanh tới. Thằng Meadows nắm vai tên này lật té xuống đất. Hai tên khác vụt bỏ chạy. Hai tên này đang ngồi khuất dưới đất nên chúng tôi không thấy. Thật nhanh, thằng Dưỡng đưa nguyên một băng giảm thanh. Một thằng ngă, c̣n thằng kia chúng tôi thấy nó phóng xuống đất, nhưng khi chạy đến t́m th́ không thấy có máu và người đâu cả. Tên kia bị bắn trúng, lănh cả gần chục viên ở bụng. Tôi quay trở lại chỗ thằng Meadows th́ thấy nó đă c̣ng tay tên vừa bắt được bằng c̣ng nylon, miệng dán băng keo xanh.
Bỗng tôi nghe tiếng Thượng Sĩ Sơn hô: ”Đứng lên! Đưa 2 tay lên khỏi đầu”. Th́ ra cách chúng tôi khoảng 5-6 thước có một tên khác đang đi cầu. Thấy lộn xộn nó ngồi im tại chỗ, nhưng không ngờ bị Thượng Sĩ Sơn phát giác. Tên này đứng lên, 2 tay đưa lên đầu nên không kéo quần lên được, để ”Bác Hồ” ḷng tḥng coi tức cười qúa. Thượng Sĩ Sơn bước đến, chĩa súng sau lưng nó nói: ”Cài quần lại!”. Tên này lúng túng kéo quần lên, miệng hỏi: ”Các đồng chí ở đơn vị nào?”. Thằng Cầu nạt: ”Im mồm mày!”. Nó được dẫn lại gần chỗ tôi và thằng Meadows đang đứng. Thấy thằng Meadows to lớn như con gấu, râu ria 5-6 ngày chưa cạo th́ nó biết ngay chúng tôi là ai rồi nên không hỏi nữa. Thằng Meadows kéo tay nó xuống, quặt ra sau lưng tṛng dây c̣ng vào. Nó dẫy dụa nói: ”Các anh phải đối xử tử tế với tù binh”. Thằng Cầu đá vào đít nó rồi nói: ”Con c… ông nè chứ tử tế. Tụi mày bắt được tụi tao có tử tế không?”. Thằng Meadows trong tay đă cầm sẵn miếng băng keo chụp dán miệng tên đó câm luôn.

Tôi ra dấu rút. Trong lúc Thượng Sĩ Sơn và tụi thằng Dưỡng, thằng Cầu hối hả tháo vơng và lều bỏ vào ba-lô tụi nó, nh́n thấy cây AK dựng ở góc cây, tôi chỉ thằng Sáng cho nó cầm luôn. Chúng tôi trở qua cḥi họp toán lại rồi bắt đầu rút. Thằng Meadows nói nhỏ với tôi: ”Sir, chờ tôi báo cáo với FAC biết ḿnh đă bắt được 2 tù binh rồi hăy di chuyển”. Trông gương mặt nó vui như được kẹo. Tôi lẩm bẩm trong bụng “Tiên sư anh. Có chiến lợi phẩm anh gọi tôi bằng Sir ngọt sớt.”. Tôi nói OK và tính rất nhanh trong đầu. Nếu di chuyển đến băi đáp do FAC chỉ lúc ban sáng th́ qúa xa. Vướng 2 tên tù binh không di chuyển nhanh được, lỡ chạm địch lại càng thêm rắc rối. Nếu mấy tên này thuộc toán tiền tiêu của đơn vị địch th́ tên chạy thoát vừa rồi về sẽ báo cáo, và lúc đó địch sẽ truy kích chúng tôi ngay.
Thằng Meadows đưa ngón tay cái lên làm dấu là đă báo cáo cho FAC xong. Tôi cho nó biết ḿnh phải phá cây làm băi đáp cho trực thăng xuống. Nó không suy nghĩ nói OK ngay. Tôi quan sát thấy hướng Đông Nam có đám rừng thưa, toàn là cây chồi, không to lắm. Tôi cho lịnh toán tiến về hướng đó. Đi được khoảng 200 thước th́ thấy dưới triền đồi hơi thoai thoải, rừng thưa, cây to chỉ bằng bắp vế. Đảo mắt nhanh một ṿng, ước lượng chu vi rộng đủ cho một trực thăng đáp xuống được mà cánh quạt phải không chém vào cây, tôi quyết định chọn nơi này làm băi đáp. V́ là triền đồi nên nước chẩy xuống tạo thành một khe khá sâu như một con suối cạn. Tôi bảo đẩy 2 thằng tù binh xuống dưới đó. Định tọa độ xong, đưa cho thằng Charles gửi lên cho FAC. Một mặt, tôi cho lấy giây chuyền nổ quấn chung quanh các thân cây, định bụng sẽ cho nổ mấy cây này trước vài phút để lấy chỗ cho trực thăng đáp xuống. Nuôi quân 3 năm, xài trong 15 phút. Với tay nghề của thằng James và 2 toán viên của tôi, việc dọn băi trực thăng bằng chất nổ là 1 trong 15 bài dễ nhất của khóa “”Ḿn bẫy & Phá hoại”. FAC cho biết trực thăng đă cất cánh. Nh́n đồng hồ, tôi tính phải 40 phút nữa trực thăng mới tới.
Đi một ṿng thấy mấy thằng nhỏ bố trí và cảnh giác cao nên tôi ngoắc thằng Meadows lại chỗ con mương, nơi Thượng Sĩ Sơn đang giữ 2 tù binh. Tôi ra hiệu cho Thượng Sĩ Sơn lên, tôi và thằng Meadows nhẩy xuống. Tôi phải khai thác tụi này vài câu mới được. Nhỡ khi bị địch truy kích, chắc chắn là phải thanh toán 2 tên này. Biết được vài tin tức, ít ra cũng được một vài tin để báo cáo. Trong 2 tên th́ tên lớn tuổi bị bắt lúc đi cầu đang dăy dụa như muốn tháo dây c̣ng, miệng cứ ú ớ hoài. Thượng Sĩ Sơn nói: ”Nó đi cầu chưa chùi nên thúi hoắc à”. Meadows ngó tôi hỏi Sơn nói ǵ? Tôi nói “Nó bảo kỳ này về mày sẽ được lên lon”. Thằng Meadows cười, biết là tôi nói đùa với nó.
Tôi gỡ băng keo khỏi miệng 2 tên tù binh rồi nói: ”Các anh hăy ngoan ngoăn, đừng có chống cự ǵ cả. Bắt buộc v́ an toàn, chúng tôi mới phải c̣ng các anh lại thôi”. Tôi nh́n tên lớn tuổi nói tiếp: ”Loại c̣ng này anh tuột không thoát được đâu. Càng dăy dụa, răng cưa càng xiết chặt. Bây giờ tôi muốn mở ra cũng không được, v́ răng cưa vào th́ xuôi, c̣n tháo ra th́ ngược. Đợi về đến nhà có kềm tôi sẽ cắt ra”. Tôi chỉ vào tên nhỏ tuổi nói: “Ngoan ngoăn như thế này có phải tốt không?”. Tôi hỏi bọn nó có muốn uống nước không? Chỉ có tên nhỏ gật đầu. Tôi lấy bi-đông cầm cho nó uống. Hỏi có muốn hút thuốc không? Tên nhỏ gật đầu. Tôi ra dấu xin Thương Sĩ Sơn điếu thuốc. Thượng Sĩ Sơn đưa cho tôi một nửa điếu thuốc Pall-Mall. Tôi mồi lửa rồi cầm cho tên tù binh nhỏ tuổi hút. Tôi hỏi nó: ”Thuốc lá của Đế Quốc Mỹ đó, có ngon không?”. Nó gật đầu.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541789977

Tôi bắt đầu hỏi tên tuổi và đơn vị tên nhỏ trước. Nó cho biết tên là Nguyễn Tiến Hùng, 19 tuổi, quê ở Phú Thọ, thuộc đoàn Khánh Ḥa 13. Từ ngày khởi hành xâm nhập vào Nam, tính đến ngày hôm nay bị bắt đúng 2 tháng. Nó cũng cho biết ngày hôm qua, đoàn của nó bị phi cơ oanh kích, thiệt hại rất nặng. Nó vàmột nhóm chạy toán loạn nên đă thất lạc đơn vị. Nó cũng nói thêm là đoàn của chúng nó bị thiệt hại nặng v́ có Biệt Kích gián điệp chỉ điểm. Nó cho biết đoàn của nó là đơn vị vào Nam để bổ sung thôi. Lúc ra đi quân số là 300. Gần 100 tên rơi rớt lại tại các binh trạm, bị phù thủng, sốt rét, kiết lỵ và ”B quay”. B quay là đào ngũ, bỏ trốn về lại miền Bắc. Tôi mở ba-lô của nó ra xem th́ thấy ngoài tấm bạt nylon c̣n có vơng, một bộ đồ xanh ô-liu, một chăn mỏng mầu vàng, một mặt nạ pḥng hơi độc, hai thỏi lương khô, một chén nhôm xanh, tất cả đều có dấu sản xuất tại Trung Cộng. Đặc biệt trong ba-lô có một tờ giấy thuộc loại nylon, không thấm nước, không bị mục và không bị mối ăn. Đấy là một loại truyền đơn mà chúng tôi thường bắt gặp, rải rất nhiều trong rừng. Trong đó có một bài thơ lục-bát, nội dung nói đại ư là người con vào Nam ngồi nhớ mẹ nơi đất Bắc, không biết số phận của ḿnh và của mẹ già ra sao? Bài thơ được in chồng lên h́nh người lính Bắc Việt đang ngồi ôm súng gục đầu. Có lẽ truyền đơn này của một cơ quan tuyên truyền Hoa Kỳ, v́ bài thơ có nhiều chữ không bỏ dấu. Nếu thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị th́ chắc chắn không có khuyết điểm này.
Tên lớn tuổi quê ở Thái B́nh, 24 tuổi, tên Lê Văn Thành. Tôi hỏi: ”Các anh nói thất lạc đơn vị sao không đi t́m mà c̣n đóng quân ở đây?”. Nó nói phải chờ xem có c̣n bị phi cơ oanh kích nữa không, rồi mới t́m đường trở về binh trạm hôm trước chờ giải quyết, v́ nếu không có giao liên th́ không biết đường tới binh trạm sắp đến. Tôi xếp sổ tay lại, thấy hỏi như vậy cũng đủ rồi. Tôi không có đủ thời giờ, vả lại nên dành cho Ban Thẩm Vấn Tù Binh v́ họ có kỹ thuật và kinh nghiệm nhiều hơn. Nh́n đồng hồ thấy c̣n gần 5 phút nữa trực thăng mới tới, tôi hỏi vớt tên Hùng thêm một câu: ”Ngoài Bắc anh có thấy cố vấn Nga không?”. Nó lắc đầu và cho biết: “Nghe nói các cố vấn người Nga chỉ ở các đội tên lửa mà thôi”. Tôi quay sang thằng Meadows nói tóm tắt cho nó biết. Thôi đủ rồi. Quăng ba-lô của 2 thằng tù binh lên trước, tôi và thằng Meadows leo lên sau rồi đưa tay kéo 2 đứa chúng nó ra khỏi rănh nước.
http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541789898

Tiếng trực thăng H-34 nghe phành phạch từ xa. FAC đảo thật thấp trên đầu chúng tôi. Trực thăng vơ trang cũng vừa tới, tuôn đại liên và rocket chung quanh băi đáp. Thằng James và tụi thằng Cầu, thằng Sáng nhào ra tới các thân cây đă quấn giây chuyền nổ sẵn để giựt kíp nổ. “Ầm – Ầm – Ầm”. Năm sáu cây ào ào ngă xuống. Theo tiêu lệnh, 2 tù binh và bán tổ của toán lên trực thăng đầu tiên. Nhóm của tôi và thằng Meadows luôn luôn xuống trực thăng trước và lên trực thăng sau cùng. Thằng Nghĩa đáp xuống, tḥ đầu ra cửa sổ đưa tay vẫy tôi và đưa một ngón tay cái lên. Tôi cười và vẫy tay ra dấu đáp lại. Cây cối ngă ngổn ngang nhưng nó đáp xuống cũng đẹp lắm. Bánh xe trực thăng đặt gần chạm đất, do đó tụi tôi đỡ 2 tù binh bị trói tay bước lên bậc thang trực thăng cũng dễ. Trực thăng của thằng Nghĩa vừa kéo lên khỏi ngọn cây th́ chiếc kia của thằng Hiếu cũng đáp xuống liền trong tích tắc.
Ngồi trên trực thăng bay về Dakto tôi nghĩ thầm: ”Khi giải tŕnh hành quân, tôi sẽ cho biết địch bị phi cơ oanh kích chết hai, ba trăm tên. Không biết mọi người có tin không?”. Ôi mà cần ǵ? Hai tên tù binh này sẽ trả lời thay tôi. Tôi liên tưởng tới Đoàn Khánh Ḥa 13 gần như bị tiêu diệt hết. Con số 13 đúng là xúi quẩy. Mặc dù tiếng cánh quạt trực thăng và tiếng gió thổi ào ào nhưng thằng Meadows ngồi ở cuối trực thăng cũng cố gào to:
-o- Tối nay 7 giờ, tôi chờ Sir ở Câu Lạc Bộ nghe?
-o- Tôi đáp: “OK”.

Lê Minh

ez4me 11-09-2018 20:05

Quote:

Originally Posted by Đôla Trăm (Post 3537143)
Đốm cút ngay !Đă đem mày đi thiến rồi ,mà vẫn chưa chừa thói sủa bậy .Quen thói chó dại ,chó hoang có ngày xe bắt chó tṛng tḥng lọng vào cổ , lúc đó từ chó ghẻ thành chó chết đó nghe chưa đốm ?Cút ngay ra gầm chuồng gà lẹ lên ...:hafppy::hafppy:

:hafppy::hafppy::hafppy::hafppy:


Thằng ku này nó hận cũng phải. V́ bà già nó bị Mỹ đen, Đại Hàn, Úc Đại Lợi ..... dùi xong rồi ị ra nó nên bây giờ chả biết nó thuộc giống ǵ? Pitbull, Ngao Tạng, chó ăn cứt hay chó Phú Quốc hehehehehehehe .....

:hafppy::hafppy::hafppy::hafppy:

florida80 11-09-2018 20:31

1 Attachment(s)
Which one is yours?

hoanglan22 11-09-2018 20:50

Quote:

Originally Posted by florida80 (Post 3537564)
Which one is yours?

Lúc đó HL đang dùi mài kinh sử và cua gái nên thất tinh......HL khóa đàn em của mấy ông này mấy năm, khi LL ĐB giải tán và bổ xung vào nhiều đơn vị khác Nha kỹ thuật và một số chuyển qua 81 BCD trong toán viễn thám:hafppy::hafppy::hafppy:

Lúc trước HL có post h́nh trong toán nhưng chưa ai nhận ra:hafppy::hafppy::hafppy:

hoanglan22 11-09-2018 21:45

Bán tiểu đội Biệt Kích Dù và trận đánh chớp nhoáng sau lệnh đầu hàng 30.04
 
Thiếu úy Biệt Kích Dù Vũ Văn Tư trằn trọc không ngủ được. Đơn vị anh được lệnh chuyển quân về đóng ở Tam Hiệp, Biên Ḥa, nơi mà tinh thần chống cộng của đồng bào Thiên Chúa giáo vững vàng như sắt, như đá. Sự có mặt của những toán Biệt Cách Dù làm các đơn vị quân dân pḥng thủ ở đây lên tinh thần. Tư đi hết nhà dân đến nhà thờ. Có những đêm Tư âm thầm vào nhà thờ nh́n chăm chăm vào tượng Chúa để cầu xin một phép lạ, không phải cho anh, mà cho quê hương, để Bắc quân bị tan biến trong trận Long Khánh và không một tên nào ṃ qua Tam Hiệp để vây Sài G̣n. Anh thấy tượng Chúa buồn buồn, anh thấy tượng Đức Mẹ dường như muốn khóc. Anh về lại đơn vị trùm poncho ngủ. Giấc ngủ vỡ tan theo t́nh h́nh tin tức chiến sự căng cứng cứ một ngày gần về phía Sài G̣n.

Sáng ngày 28 rạng 29 tháng Tư, đơn vị anh được tin cho biết về các hướng chuyển quân của địch, trong đó có một đơn vị cộng sản có chiến xa sẽ di chuyển từ Tân Phong hướng chiến khu D tiến về ṿng đai phi trường Biên Ḥa theo lộ tŕnh quốc lộ 1 vào Hố Nai. Tất cả đơn vị đă sẵn sàng trong tư thế chiến đấu. Các đơn vị địa phương và nhân dân tự vệ, súng đủ loại bỗng nhiên thành những người lính tử thủ. Họ phân công, tăng cường pḥng thủ và di chuyển đồng bào khỏi vùng có thể sắp xẩy ra những cuộc đụng độ đẫm máu.

Sáng sớm 30 tháng Tư, Tư và các sĩ quan được đơn vị trưởng mời họp khẩn cấp, chờ lệnh Sài G̣n. Trời Tam Hiệp vẫn chờ cơn băo lửa trong tinh thần chuẩn bị cho cuộc thư hùng chết bỏ. Đến khoảng vừa sau 10 giờ sáng, các sĩ quan quay quanh chiếc radio, im lặng, đợi chờ một cái ǵ vô cùng nghiêm trọng. Bỗng tiếng tướng Dương văn Minh ồn ồn vang lên lệnh buông súng. Tư đập tay xuống bàn. Chiếc đồng hồ vỡ tung, đứt dây văng xuống đất. Các sĩ quan có mặt, người chửi thề, kẻ ôm mặt khóc. Vị sĩ quan Dù, cấp chỉ huy của Tư đang gục mặt xuống bàn, hai vai ông run lên. Một lúc sau, ông đứng dậy nói trong hai hàng nước mắt:

- Định mệnh oan nghiệt! Định mệnh oan nghiệt! Thế là hết! Anh em tan hàng và thoát khỏi vùng này gấp! Chiến xa địch có thể đang rất gần!

- Sao dễ dàng vậy ông thầy? Mơ hay thực ông thầy! Hỏa ngục An Lộc ḿnh coi như pha! Sao bay giờ chưa bắn phát đạn lại tan hàng? - Tổng thống đă bó tay hàng, lệnh chúng ta buông súng. Làm sao chuyển xoay thế nước? Làm sao xoay chuyển lịch sử? Công chuyện bây giờ là cứu mạng anh em? Anh em nghe rơ?

Không khí im lặng, tịch mịch, thê lương. Không một ai trả lời. Một thứ im lặng nặng nề, uất nghẹn. Tư bỗng lên tiếng:

- Không! Tụi em nghe rơ nhưng không buông súng! Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng là chuyện của ông Dương Văn Minh. Tụi em không thể quăng súng! Biệt Kích Dù không bao giờ quăng súng! Ông thầy mặc tụi em!

- Thế cậu làm ǵ?

Tư không trả lời người chỉ huy của ḿnh. Anh đứng phắt day chào tay người đơn vị trưởng và bỏ ra khỏi pḥng:

- Vĩnh biệt ông thầy và anh em!

Đây là lần đầu tiên trong đời binh nghiệp mà Tư hành sử như vậy đới với cấp chỉ huy. Đơn vị trưởng Tư lặng lẽ nh́n Tư đi cho đến khi bóng anh khuất ở một góc đường dẫn về vị trí công sự pḥng thủ của toán Tư trách nhiệm. Ông thở dài và mọi người giải tán.

Thiếu úy Tư về vị trí anh em đang bố trí chờ địch. Họ thấy nét mặt Tư như căng ra, căng thẳng và quyết liệt. Anh nói với anh em:

- Thằng cha Minh Bự ra lệnh buông súng rồi! Mấy ông đại bàng lớn nhỏ đă chấp nhận lệnh của Dương Văn Minh. Tôi th́ không. Anh em nào theo tôi th́ gom hết súng đạn và M72 xếp hàng theo tôi. Anh em nào nặng gánh gia đ́nh th́ ngay từ lúc này, bẻ súng, hay chôn súng, rời khỏi nơi đây gấp! Tôi c̣n chỉ huy anh em. Đây là lệnh! Lệnh sau cùng trước khi chia tay!

Thầy tṛ Thiếu úy Tư nhom vào nhau, ôm nhau, kẻ khóc, người gạt nước mắt khi chia tay. Tư gom c̣n lại anh em khoảng một bán tiểu đội chịu ở lại với Tư, mỗi người hai ống M72, lựu đạn, súng cá nhân và ba lô. Tư dẫn anh em di chuyển nhanh về xứ đạo Kim B... Đó là quê quán của một số anh em trong toán không buông súng của Tư. Tư đưa anh em lẩn vào một dăy nhà quen. Dăy nhà chỉ c̣n lại một bà cụ già:

- Bác Tám! Cháu là Vũ Văn Tư! Bác c̣n nhớ cháu? Bà con đâu hết rồi?

- À, tôi nhớ rồi! Cậu Tư Biệt Kích Dù! Cậu Tư về đây làm ǵ, bà con tản cư về Sài G̣n, v́ nghe nói cộng sản có thể vô đây! Mà mấy cậu đói không?

- Sáng giờ tụi con chưa có ǵ trong bụng hết...

- C̣n nồi thịt kho sau bếp. Tôi nấu nồi cơm cho mấy cậu ăn!

Mặt tiền nhà thờ Kim B... bên trái là cột cây số 6 tính từ Biên Ḥa lên, bên phải là những căn nhà dân bỏ hoang, cách đó không xa là trường tiểu học Hải Pḥng có một địa thế che khuất thuận tiện cho một cuộc phục kích. Tư ra lệnh anh em đào hầm và ngụy trang gấp để sẵn sàng cho một cuộc tấn công chớp nhoáng và rút nhanh theo kế hoạch.

Các Biệt Kích Dù c̣n lại mặt trận không có lệnh hành quân do Thiếu úy Tư chỉ huy, không có đại bàng trên trời, dưới đất, cũng không có hệ thống truyền tin, không Tổng Tham Mưu, không dinh Độc Lập... Chỉ có thầy tṛ Tư, Văn, Lễ, Hùng, Sự và Bảy đang dàn trận đối đầu với Bắc quân vào xế 30 tháng Tư, 4 tiếng đồng hồ sau lệnh cho quân đội buông súng của tướng Dương Văn Minh. Lúc này, trên mặt những Biệt Kích Dù không c̣n nước mắt buổi sáng, mà mặt họ lại đăm đăm chờ giặc như những lần phục kích năm xưa, bất chấp cái ǵ xẩy ra cho họ.

Tư phân phối vị trí tác xạ cho từng anh em và chỉ thị:

- Trận này chỉ xi M72! Không dùng súng nhỏ và lựu đạn, thứ này chỉ để tự vệ trên đường tàng h́nh mà thôi! Nếu địch xuất hiện trong tầm hiệu quả, xe nhỏ và Molotova vận tải, chơi trực xạ một M72. Nếu T54, tập trung tối thiểu là 2 M72 một chiếc cùng lúc để con cua bị rang muối ngay tức khắc, nếu nó c̣n sống, nó quay đại liên th́ ḿnh không thoát được theo kế hoạch, không về được với vợ con. Tất cả phần đuôi của đoàn xe địch c̣n lại, chơi xả láng tất cả M72 c̣n lại vào mục tiêu, kể cả bộ binh tùng thiết... Và tàng h́nh thật nhanh trước khi địch tỉnh hồn phát giác vị trí tấn công và đường thoát của tụi ḿnh!

- Rồi sau đó tụi em gặp Thiếu úy ở đâu?

- Tại nhà thằng Hùng ở Ngă Ba Hàng Xanh tối ngày mai nếu tụi ḿnh không thằng nào rách áo hay đi phép dài hạn! Nhưng ḿnh chơi cú này như ma như quỷ, bố tụi nó cũng không ngờ! Nhớ! Tụi ḿnh phải gặp nhau lần cuối trước khi chia tay mà không biết bao giờ gặp lại!

Đúng như nguồn tin hôm trước và dự đoán hôm nay, dưới ánh nắng gay gắt, trước nhất là một chiếc jeep đi đầu, ngay sau là tiếng xích sắt nghiến trên mặt đường của một chiếc T54 ṇng đại bác kềnh càng chỉa về trước, hai bên hông xe là một số bộ đội, có cả du kích dép râu có lẽ lần đầu tiên được "cưỡi" xe tăng, rồi tiếp theo là 2 chiếc Molotova đầy bộ đội miền Bắc và du kích dép râu, mũ tai bèo, lá ngụy trang. Họ di chuyển dường như khá chủ quan là sau cả buổi lệnh buông súng của Dương Văn Minh loan báo trên đài, các ổ kháng cự của quân đội VNCH đă rời vũ khí, bỏ trống chiến trường. Họ chuyển quân như đi duyệt binh, như phô trương lực lượng.

Tư và bán tiểu đội Biệt Kích Dù chỉ chú ư đến phần đầu kể từ chiếc xe jeep để có thể tấn công chớp nhóng và rút nhanh trước khi địch hoàn hồn. Đoàn xe tiến ngày càng gần vào vị trí ổ phục kích. Tư b́nh thản nói nhỏ vào tai các xạ thủ:

- Jeep có sĩ quan đi đầu, cậu chơi chính xác 1 quả cho tôi!... Chiếc T54 kế, hai cậu chơi hai quả trực xạ ngang hông cùng một lúc!... Hai Molotova đi sau, mỗi chiếc một quả chính xác cho tôi!... Các ống phóng c̣n lại, các cậu xả láng hết vào bất cứ đoàn xe hay đám tùng thiết nào xuất hiện trong tầm tác xạ! Và ngay sau đó, biến nhanh theo tôi! Không chần chờ ở lại xem kết quả! Hổ nhanh như ma như biến mới sống!

Tiếng xích sắt chiếc T54 nghiến đường kềnh càng mỗi lúc một gần. Chiếc jeep có một sĩ quan cấp đại tá và hai nhân viên truyền tin cùng chiếc T54 vừa lọt vào tầm tác xạ hữu hiệu, có thể nói là quá sát vị trí phục kích, Tư ra lệnh khai hỏa.

- Ầm!

Một vệt lửa vụt đi, quả M72 lao như điện xẹt vào mục tiêu. "Tiến về Sài G̣n. Ta giết sạch giặc thù" chưa thấy đâu, nhưng chiếc jeep đi đầu bị thổi tung lên như con diều giấy bốc cháy. Bị tấn công bất ngờ, chiếc T54 hoảng hồn nă một phát đại bác lên tháp chuông nhà thờ. Tháp chuông bị vỡ sụp một góc. Nhanh như chớp, trước khi đại liên và đại bác tác xạ vào các vị trí nghi ngờ khác, hai quả M72 phóng thẳng vào hông phải chiếc T54:

- Ầm! Ầm!

Chiếc T54 lật ngửa sang một bên, bốc cháy bên vệ đường. Ba quả M72 tấn công quá nhanh, chỉ trong ṿng không tới 30 giây, bộ đội Bắc Việt và các du kích bám trên xe không phản ứng kịp, bị văng xuống như sung rụng. Trong một tích tắc tiếp theo đó, hàng loạt M72 phóng thẳng vào hai chiếc Molotova chở đầy lính đủ loại, nón cối, mũ tai bèo và vài chiếc đi sau.

- Ầm! Ầm! Ầm...!

Nguyên một đoạn đường c̣n lại trong tầm tác xạ của M72 bỗng chốc thành băi chiến lửa khói đầy xác xe và người chết. Tiếng súng AK khai hỏa từ phía sau đoàn "con-voi" nhưng họ không biết họ bị tấn công từ đâu. Không một tiếng súng nhỏ M16 bắn trả. Bỗng chốc chiến trường thành một thứ chiến trường im lặng chết người. Trong cái khoảnh khắc im lặng mà Bắc quân c̣n nằm chết dí trên mặt đất bắn lung tung, chưa nắm vững t́nh h́nh địch và thiệt hại của các chiếc xe đi đầu, bán tiểu đội Biệt Kích Dù đă biến đi tự lúc nào.

Sau khi không nghe thấy ǵ nữa, các đơn vị Bắc quân và chiến xa c̣n lại thận trọng dàn quân thành một ṿng cung bọc tṛn khu vực nhà dân, nhà thờ và trường tiểu học. Họ di chuyển chậm và họ nghĩ rằng trận phục kích kế tiếp sẽ diễn ra. Nhưng không! Tiếng nổ lác đác c̣n lại chỉ nghe thấy từ ḷng chiếc T54 với những đạn loại nhỏ bị cháy và c̣n phát nổ. Ṿng vây khép lại như một mẻ lưới, càng lúc càng nhỏ dần.

Bắc quân uất giận bắt đi vị linh mục già chánh xứ co ro trong nhà thờ và mấy người dân đau ốm tá túc trong nhà thờ. Họ lục soát trong nhà dân, bắt thêm vài người. Tháp chuông nhà thờ đổ nát nhưng tượng Chúa và tượng Đức Mẹ vẫn c̣n, một tên VC lia vào tượng một tràng AK và ra ngoài, hắn lầm lừ như con hổ bị trọng thương. Một tên chỉ huy hạch hỏi hai người dân điều ǵ không rơ, song sau đó, họ bắn cả hai ngay trước cổng nhà thờ.

Toán quân cộng sản tiếp tục di chuyển, áp tải theo linh mục chánh xứ và những người dân vô tội, đến ngay tại cây số 7, họ dừng chân, họ bàn chuyện ǵ không biết, nhưng sau đó họ lôi ra bắn tiếp 2 người nữa và vứt xác bên vệ đường. Người dân miền Nam, những người bị bắt c̣n sống chưa bị hành quyết tại cây số 7, những người c̣n sống trong các nhà bên đường... kinh hoàng, vài người đă la hét trong cơn hoảng loạn tâm thần. Họ thấy cái chết lắc lư trên đầu họ. Và dường như Bắc quân thấy một cái ǵ không ổn trong hành động của họ trước những tiếng gào thét tuyệt vọng của đồng bào, họ ngưng hành quyết những người c̣n lại.

Trên quốc lộ 1, đoạn đường từ cây số 6 trước nhà thờ Kim B đến cây số 7 cũng chính là một phần của đoạn đường "Tiến về Sài G̣n, ta giết sạch giặc thù!" Bài hát "Tiến về Sài G̣n" của Huỳnh Minh Siêng đă hiện thực trên những vũng máu của người dân vô tội.

Ngày 1 tháng 5, thủ đô Sài G̣n tang tóc. Chiều, gió nhe ïthổi từ sông Sài G̣n như hơi thở tàn hơi trên từng sợi tóc của những người dân phờ phạc, âu lo, trên từng tàng cây hai bên đường như cảm nhận một mùa xuân tang tóc. Sài G̣n thoi thóp thở. Đâu đó, người ta thỉnh thoảng c̣n nghe tiếng súng, tiếng lưu đạn nổ. Tiếng nổ của những người tự tử chết theo thành. Tiếng súng của những anh em c̣n chiến đấu tuyệt vọng từ những hẻm hóc giữa thủ đô liệm chết.

Tư lần ṃ đến địa điểm hẹn anh em ở Ngă Ba Hàng Xanh. Thầy tṛ Tư lặng lẽ ôm nhau, cùng nhau ăn một bữa cơm ly biệt sau cùng. Tư bùi ngùi nói với anh em:

- Trách nhiệm của chúng ta đối với Tổ Quốc đă tṛn. Không ai lệnh cho chúng ta phải đánh trận sau cùng khi Dương Văn Minh đă đầu hàng. Tôi tạ ơn Thiên Chúa, tạ ơn Đức Mẹ đă bảo bọc chúng ta để c̣n gặp đủ anh em đêm nay. Nhưng ngay trong đêm nay, tôi không c̣n là người chỉ huy anh em, anh em mỗi người tự thay tên đổi họ để về nguyên quán, lo cho gia đ́nh, vợ con. Tôi sẽ c̣n ở lại Sài G̣n ít hôm coi t́nh h́nh, và có thể trở lại coi tận mặt chiếc T54 bị bắn cháy trước khi về lại Cao nguyên.

- Em c̣n độc thân! Ông thầy cho em ở lại và tháp tùng ông thầy!

- Không! Em về với bà cụ! T́nh h́nh vô cùng nguy hiểm! Thôi, chúng ta chia tay! Coi chừng mấy thằng 30 nằm vùng!

Đèn trong trong pḥng vụt tắt. Bán tiểu đội Biệt Kích Dù không c̣n quân phục, không c̣n vũ khí của thiếu úy Vũ Văn Tư ôm nhau trong bóng tối. Người ta không thấy nước mắt, chỉ nghe những tiếng nấc ly biệt, nghẹn ngào...

Mấy hôm sau, Tư lẻn về lại Hố Nai một ḿnh. Địch vẫn chưa áp đặt gắt gao sự kiểm soát trong vùng. Tư mặc đồ rách rưới như một nông dân lần đến thăm nhà thờ Kim B và khu vực trận địa. Tư lựa một góc nhà khuất, dựa lưng nh́n chiếc T54 và xác chiếc jeep nằm tan nát bên cạnh. Tư được biết một sĩ quan cấp đại tá và hai người lính truyền tin đă tử thương trong trận phục kích, số thương vong trên các chiếc Molotova và đoàn quân phía sau không rơ. Về lại Sài G̣n, Tư gặp một số bạn thân kể lại trận đánh và anh biến mất khỏi Sài G̣n sau đó.

Một năm sau, Tư hoàn toàn thay tên, đổi họ và sống như một người dân không biết ǵ về lính tráng. Lặng lẽ, âm thầm, uất ức và chán đời về sống ẩn dật về sống ở Cao nguyên. Thiếu úy Biệt Kích Dù Vũ Văn Tư đă không c̣n trên cơi đời. Dần dà, anh trở thành người thất chí rồi mất trí. Anh không điên, nhưng người nhà cho biết anh Tư ngày nào cũng như ngày nào, suốt ngày cứ lầm bầm... những câu " Tại sao đầu hàng? Tại sao đầu hàng? Quân phản bội! Quân hèn nhát! Tại sao đầu hàng? Tại sao đầu hàng?..." Và trong một đêm mưa Cao nguyên sấm động rung trời như hét lời hận uất giữa không trung, mưa như trút nước, anh Tư nằm liệt giường, mê sảng. Trong cơn mê, anh cũng cứ thều thào... " Tại sao đầu hàng? Tại sao đầu hàng?..." Và sáng hôm sau, anh nằm yên, vĩnh viễn ra đi không bao giờ trở lại.

Thiếu úy Biệt Kích Dù Vũ Văn Tư mất năm 1976 dưới một cái tên hoàn toàn xa lạ, không vinh thăng, không phủ cờ, không huy chương, không một cánh hoa dù có mặt cạnh áo quan. Anh nhắm mắt nhưng mối hờn không chết trên quê hương, và chỉ một ḿnh anh mang theo niềm hận uất khôn nguôi của riêng ḿnh xuống đáy huyệt sâu. Khối hờn chung trong hơn ba mươi năm vẫn c̣n vẫn c̣n bàng bạc trên từng ngọn cây tấc đất... dẫu dấu tích của cuộc chiến bi hùng đă tàn phai theo tháng, theo năm.

Hải Triều / Trung Nghĩa

PS :Theo HL nghĩ Ông này thuộc chiến đoàn 1 của Ông Huấn ( Liên đoàn trưởng căn cứ đóng ở Biên ḥa nhưng không rơ ở Toán nào ( v́ lư do bảo mật nhiều Toán được tung vào viễn thám đều không biết nhau ngay cả nhiệm vụ )

hoanglan22 11-09-2018 22:17

An Lộc chiến trường đi không hẹn- Hổ Xám Phạm Châu Tài
 
6 Attachment(s)
Đây là vị chiến đoàn trưởng của HL hiện đang sống ở CA , HL thinh thoảng có dịp ghé thăm ông ta vài lần

***********

Viết cho những chiến hữu của tôi đă một thời vào sanh ra tử
trên khắp chiến trường sôi bỏng để bảo vệ đất nước.
Phạm Châu Tài

Mùa hè năm 1972 đi qua như cơn ác mộng mà khi tỉnh dậy người ta vẫn c̣n bàng hoàng như đang mê sảng.
Mùa hè đến với những cơn lốc bạo tàn, với những trận cuồng phong kinh hăi, sẵn sàng huỷ hoại tất cả những ǵ gọi là sự sống của con người, mà những tiếng kêu thương, bi ai thống khổ nhất vẫn c̣n âm vang cho đến ngàn sau.
Mùa hè đến với băo lửa ngụt trời, băo lửa cuồn cuộn vút lên như hoả diệm sơn bao trùm khắp bầu trời Miền Nam Việt Nam, băo lửa hừng hực thiêu đốt muôn vạn sinh linh đang sống an lành, tự do phía Nam vĩ tuyến 17.
Đau đớn thay, ác mộng kinh hoàng ấy, cuồng phong và băo lửa ấy lại do chính con người gây nên, con người mang nhăn hiệu Cộng Sản, lănh đạo bởi một lũ người cuồng tín đă bán linh hồn cho quỷ đỏ đang ngự trị tại Hà Nội.

Người ta được biết, sau khi tiếp nhận sự chi viện khổng lồ không giới hạn về các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh tối tân nhất từ phía Cộng Sản Nga – Tàu, Hà Nội điên cuồng tung vào Miền Nam ba cuộc tấn công vũ băo vào Tỉnh Quảng Trị của vùng giới tuyến, vào Tỉnh Kontum của Tây Nguyên và vào Tỉnh B́nh Long thuộc miền Đông Nam Phần.

Cuộc chiến bùng nổ khốc liệt chưa từng xẩy ra từ ngày Cộng Sản phát động cuộc chiến tranh gọi là giải phóng vào thập niên 60. Lửa, máu, nước mắt hoà với bom đạn đă cầy xới và tràn lan khắp quê hương Miền Nam tự do, tuy nhiên Cộng Sản miền Bắc phải trả một giá rất đắt về hành động điên cuồng, dă man của chúng để nhận sự thất bại đắng cay: Quảng Trị vẫn đứng vững, Kontum vẫn kiêu hùng quật khởi và B́nh Long vẫn anh dũng hiên ngang phất cao ngọn cờ chính nghĩa.

Trong chiến tranh, tấn công xâm chiếm mà không lấy được mục tiêu, bị thiệt hại nặng nề là thất bại hoàn toàn. Trái lại, pḥng thủ quyết tâm chống trả, dù phải chấp nhận ít nhiều tổn thất hy sinh mà vẫn giữ vững phần đất quê hương th́ được gọi là chiến thắng.
Với lư lẽ căn bản nêu trên, ba cuộc tấn công của Cộng Sản Bắc Việt vào mùa hè năm 1972 trên lănh thổ Việt Nam Cộng Hoà th́ Cộng Sản Việt Nam là kẻ chiến bại, và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà là người chiến thắng.

Phát động tấn công xâm chiếm vào đầu tháng 04 năm 1972, tính đến tháng 09 năm 1972, thiệt hại nhân mạng của Cộng Sản Bắc Việt được ước lượng khoảng 100 ngàn người!
100 ngàn vong linh của những người “sinh Bắc tử Nam” trở thành lũ âm binh lạc loài, vất vưởng tha hương mà gia đ́nh họ không bao giờ biết được.

Giành lấy chiến thắng một cách kinh hoàng và oai hùng nhất trong ba cuộc tấn công của Cộng Sản Bắc Việt vào lănh thổ Việt Nam Cộng Hoà có thể nói là chiến thắng B́nh Long mà trận chiến vô cùng khốc liệt đă bùng nổ tại Thị Xă An Lộc. Một tài liệu chính thức của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà được ấn hành sau mùa hè năm 1972 đă công bố: “Tại mặt trận An Lộc cuộc tấn công đầu tiên của quân Cộng Sản khởi đầu vào ngày 13-04-1972 bằng toàn bộ của các Sư Đoàn 5, 7, 9 và Sư Đoàn B́nh Long với tổng số vào khoảng 50 ngàn người”. Cộng Sản ước tính sẽ đánh chiếm An Lộc từ 5 đến 10 ngày và dự trù ngày 20-04-1972 sẽ ra mắt chính phủ “Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam” tại thành phố An Lộc.
Thật vậy, lực lượng Cộng Sản Bắc Việt tại B́nh Long, ngoài 4 Sư Đoàn với quân số mỗi Sư Đoàn là 10,400 người, c̣n có một Trung Đoàn Đặc Công, 2 Trung Đoàn Pháo Binh và Pḥng Không và hai Trung Đoàn xe tăng. Hơn nữa, sự bổ sung quân số dễ dàng từ Mimot, Snoul bên kia biên giới Miên là nguồn nhân lực chính mà người ta khó ước tính được con sồ chính xác.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541797655
An Lộc là quận châu thành Tỉnh B́nh Long, cách thủ đô Sài G̣n khoảng 100 cây số về hướng Tây Bắc, với diện tích bề dài 1,800 thước và bề ngang đo được 900 thước, một Thị Xă nhỏ bé đ́u hiu, chung quanh là rừng cao su ngút ngàn đến tận biên giới. B́nh Long có ba quận hành chánh, cực Nam là quận Chơn Thành và cực Bắc là quận Lộc Ninh.
Quốc lộ 13, con đường huyết mạch nối liền từ Lai Khê của Tỉnh B́nh Dương đi qua các quận lỵ, xă ấp của Tỉnh B́nh Long. Cách An Lộc 18 cây số về hướng Bắc là Lộc Ninh và cách An Lộc 30 cây số về hướng Nam là Chơn Thành.
Từ Chơn Thành xuôi quốc lộ 13 về hướng Nam khoảng 30 cây số là Lai Khê, nơi đặt bản doanh của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà.
Cơ sở hành chánh và quân sự Tỉnh B́nh Long đặt ngay trong quận châu thành An Lộc dưới sự điều hành của viên Tỉnh Trưởng là Đại Tá Trần Văn Nhựt.

Trước khi trận chiến bùng nổ, quận Lộc Ninh được tăng cường với Trung Đoàn 9 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, một khẩu đội pháo binh đặt tại căn cứ yểm trợ hoả lực Alpha cách Lộc Ninh khoảng 8 cây số về hướng Bắc và một Chi Đoàn Thiết Giáp thuộc Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh Việt Nam Cộng Hoà. Tại An Lộc, ngoài một số Địa Phươhg Quân, Cảnh Sát, và các cơ sở hành chánh Tỉnh mà nhân số không quá 200 tay súng, c̣n có pháo đội 105 ly, Chi Đoàn Thiết Giáp, Trung Đoàn 7 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, và Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân. Để đánh chiếm B́nh Long, Cộng quân cắt đứt quốc lộ 13 từ Lai Khê đi Lộc Ninh, đồng thời phong toả bầu trời B́nh Long bằng một hệ thống pḥng không để ngăn chặn sự can thiệp của Không Quân Việt Nam Cộng Hoà.


TRẬN CHIẾN BÙNG NỔ


Ba giờ sáng ngày 05 tháng 04 năm 1972 Trung Đoàn Pháo có bí danh E.6 bắn phủ đầu vào các cứ điểm pḥng ngự của Trung Đoàn 9 Bộ Binh do Đại Tá Trần Công Vĩnh chỉ huy bằng hàng ngàn quả đạn pháo đủ loại, sau đó Cộng quân tung Sư Đoàn 5 Cộng Sản Bắc Việt có xe tăng yểm trợ bắt đầu tấn công. Mặt khác, Cộng quân sử dụng Trung Đoàn 272 thuộc Sư Đoàn 9 Cộng Sản Bắc Việt phục kích quốc lộ 13 từ An Lộc đi Lộc Ninh để tiêu diệt đường rút lui của quân trú pḥng.

Mặc dù có sự can thiệp hữu hiệu của Không Quân, căn cứ yểm trợ hoả lực Alpha, phi trường Lộc Ninh và cứ điểm quân sự của Trung Đoàn 9 Bộ Binh bị tràn ngập sau hơn hai ngày chống trả mănh liệt. Lộc Ninh được ghi nhận hoàn toàn mất liên lạc lúc 19 ǵờ ngày 07-04-1972.
Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh kịp thời nhảy vào An Lộc với hai Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 8, tăng cường cho mặt pḥng thủ phía Bắc Thị Xă ngày 06-04-1972 và tuyên bố tử thủ An Lộc.
http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541797723
Ban Tham Mưu mặt trận An Lộc Hè 1972 từ trái sang phải : Trung tướng Nguyễn Văn Minh (Tư Lệnh QĐ III ), Chuẩn tướng Lê Văn Hưng ( SĐ5 BB ),Tư Lệnh chiến trường An Lộc,
Đại tá Lê Quang Lưỡng ( Lữ Đoàn Dù ) và Đại tá Trần Văn Nhựt (Tiểu khu B́nh Long)

Hai tiếng tử thủ lần đầu tiên được nhắc nhở nhiều lần trong chiến tranh Việt Nam qua lời tuyên bố của vị Tướng Tư Lệnh chiến trường, biểu lộ ư chí sắt đá của người chiến binh Việt Nam Cộng Hoà, quyết tâm chiến đấu để bảo vệ, ǵn giữ mảnh đất quê hương.
Hai tiếng tử thủ như lời thề cùng sông núi, lời hứa hẹn với tiền nhân đă ra công dựng nước và giữ nước.
Hai tiếng tử thủ đă làm rung động con tim nhân dân miền Nam và cả nước hướng về An Lộc !

Chiếm xong Lộc Ninh, Cộng quân tiến về phía Nam và bắt đầu tấn kích An Lộc rạng sáng ngày 13-04-1972. Thực ra kể từ ngày 08-04-1972, Cộng Sản Bắc Việt đă dùng pháo binh rót vào An Lộc, Chơn Thành và Lai Khê để cầm chân sự tiếp viện của Việt Nam Cộng Hoà.
http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541797862

Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân tại chiến trường An Lộc Hè Đỏ Lửa 1972

LỰC LƯỢNG TĂNG VIỆN CỦA QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ


Lực lương đầu tiên được tăng viện đến Lai Khê ngày 05-04-1972 là Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù do Đại Tá Lê Quang Lưỡng chỉ huy gồm ba Tiểu Đoàn và Pháo Đội Nhảy Dù.
Lực lượng tăng viện thứ hai là Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù do Trung Tá Phan Văn Huấn chỉ huy gồm 4 Đại Đội xung kích và 4 toán thám sát.
Ngoài ra, Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam Cộng Hoà quyết định sử dụng toàn bộ Sư Đoàn 21 Bộ Binh từ vùng đồng bằng sông Cửu Long tăng cường cho mặt trận B́nh Long, giải toả quốc lộ 13.
Ngoài quân bộ chiến nêu trên, Sư Đoàn 5 Không Quân Việt Nam Cộng Hoà đă yểm trợ cho chiến trường từ những ngày đầu chiến sự bùng nổ tại Lộc Ninh với những phi vụ tấn công và yểm trợ xuất phát từ căn cứ không quân Biên Hoà và Tân Sơn Nhất. Hai đơn vị Không Quân của Không Lực Hoa Kỳ có mặt tại Quân Khu III Việt Nam Cộng Hoà là Lữ Đoàn 7 Kỵ Binh Không Vận và Lữ Đoàn 1 Không Vận cũng góp phần vào việc yểm trợ cho chiến trường B́nh Long một cách đắc lực và hữu hiệu.

Với nhiệm vụ cắt đứt quốc lộ 13 ngăn cản sự tiếp viện của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà từ Lai Khê, Sư Đoàn 7 Cộng Sản Bắc Việt được tăng cường pháo binh và pḥng không tổ chức chằng chịt các vị trí phục kích, chốt chặn, chốt kiềng, giật sập cầu, phá đường mong biến quốc lộ 13 thành một sạn đạo, có đi mà không đường trở lại.
Ngày 12-04-1972, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù mới đặt chân đến quận Chơn Thành sau 7 ngày chạm trán với Cộng quân để giải toả một khoảng đường không quá 30 cây số.


MỞ MÀN TRẬN CHIẾN TẠI AN LỘC


“Tiền pháo hậu xung” là một chiến pháp dùng để tấn kích một căn cứ quân sự, một đồn binh hay một trại lính có pháo đài, có công sự chiến đấu, có nhiều lớp rào kẽm gai làm chướng ngại vật và hệ thống ḿn bẫy giăng mắc chung quanh.
An Lộc không phải là một căn cứ quân sự. An Lộc chỉ đơn thuần là một Thị Xă nhỏ bé, có nhà, trường học, bệnh viện và đường phố tấp nập người đi. An Lộc là một phố thị mà dân cư nhiều hơn lính chiến.

Áp dụng chiến thuật “tiền pháo hậu xung” để đánh chiếm An Lộc, Cộng Sản Bắc Việt đă hiện nguyên h́nh là loài quỷ đỏ điên cuồng bắn hàng ngàn quả đạn pháo 130 ly, 155 ly, súng cối 120 và hoả tiễn 122 ly vào phố thị đông người để sát hại dân lành vô tội.

Pháo! Loại đạn ṿng cầu có tầm phá hủy kinh khủng nhất đă rót liên tục vào Thị Xă, ngày cũng như đêm, pháo từng hồi, từng phút, từng giờ biến An Lộc bỗng chốc trở thành hoả ngục. Nhả cửa, nhà thờ, chùa chiền, cao ốc, bệnh viện tất cả đều thay h́nh đổi dạng, sụp đổ hoang tàn.
Trú ẩn trong nhà cũng bị thương vong, chạy ra đường cũng chết. Sự chết đau thương và đến bất chợt theo tiếng ầm vang của pháo, theo tiếng gió rít của tầm đạn đi. Sự chết hăi hùng, chết không kịp nhắm mắt, chết không toàn thây, chết vô thừa nhận đầy dẫy khắp nơi trên đường phố. Ngay khi mưa pháo thưa dần và chấm dứt, Cộng quân tung vào trận địa Sư Đoàn 9 và Sư Đoàn B́nh Long với sự yểm trợ của chiến xa T54.

Tuyến pḥng thủ phía Tây Thị Xă do Trung Đoàn 7 Bộ Binh đảm nhiệm và phía Đông do Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân án ngữ, chống trả mănh liệt, khi th́ dăn ra, lúc co cụm lại, nhưng vẫn đứng vững, trong khi tuyến pḥng thủ phía Bắc do hai Tiểu Đoàn thuộc Trung Đoàn 8 vừa đến tăng cường đă bị chọc thủng. Đặc công, xe tăng và quân bộ chiến Cộng Sản Bắc Việt tuôn vào thành phố như nước vỡ bờ. Ác chiến diễn ra trên thành phố, đạn bay súng nổ, thây người gục ngă, dân lành bồng bế, d́u dắt nhau bỏ chạy, chạy đi đâu để tránh thương vong… Nỗi khổ, nỗi lo và niềm hy vọng mong manh để được sống đă đến với người dân An Lộc sao quá bi thương, sao lắm đọa đầy!
Xe tăng Cộng quân rú gầm nhiều nơi trong thành phố, chạy ngang chạy dọc, tiếng xích sắt ken két nghiến trên đường tráng nhựa hoà lẫn với tiếng nổ ́ ầm bắn ra từ đại bác 100 ly trên pháo tháp nhắm vào các cao ốc, và những bức tường nhà hiển hiện trên hướng tiến của chúng.

Trên bầu trời Thị Xă, Không Quân, bất chấp hiểm nguy, nhào lộn và len lỏi qua mạng lưới pḥng không, tung ra những tràng đại liên và những quả bom chính xác vào vị trí giặc thù. Bom nổ làm rung chuyển thành phố như cơn địa chấn, từng cột khói đen bốc lên cao cuồn cuộn.

Giây phút nao núng ban đầu khi thấy xe tăng Cộng Sản xuất hiện tan biến nhanh chóng trong ḷng những người lính tử thủ. Bây giờ đă đến lúc vùng lên bắn hạ những con quái vật đó, phải biến chúng thành những khối sắt bất động, không c̣n tác yêu tác quái nữa. Một đoàn 4 chiếc tăng T54 từ hướng Bắc theo đường Nguyễn Trung Trực nối đuôi nhau tiến vào phía sau khu Chợ Mới. Một anh lao công đào binh tạo được công đầu bằng một quả lựu đạn tung vào thùng xăng phụ đèo sau đuôi xe tăng T54. Lựu đạn nổ, xe tăng bốc cháy! Việt Cộng từ trong xe tăng mở nắp pháo tháp chạy thoát ra ngoài bị thanh toán ngay tại chỗ, thây nằm vất vưởng bên thành xe. Chiếc thứ hai xuất hiện sát Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5. Đại Tá Lê Nguyên Vỹ Tư Lệnh Phó liền bắn một quả M.72 vào chiến xa T54. V́ bắn quá sát nên đạn M.72 không nổ, chiếc T54 bỏ chạy liền bị một chiếc trực thăng Cobra từ trời cao lao ḿnh xuống phóng liền hai trái hoả tiễn trúng chiêc tăng đi đầu nổ tung. Ba chiếc tăng c̣n lại lúng túng, rú gầm trên khoảng đường bề ngang quá hẹp không xoay sở được, dễ dàng biến thành mục tiêu của hoả tiễn cầm tay M.72 được phóng ra từ quân trú pḥng. Bây giờ người ta mới biết sức công phá mănh liệt của loại hoả tiễn cầm tay M.72, một loại vũ khí chống tăng lợi hại mà bấy lâu nay bị người ta coi thường. Những chiếc tăng T54 đầu tiên bị bắn hạ tạo nên sự phấn khởi dây chuyền trong hàng ngũ quân trú pḥng, họ xông vào xe tăng địch như một đợt thi đua lập chiến công. Hai khẩu pháo 105 ly của Thị Xă đặt tại sân vận động cạnh đại lộ Trần Hưng Đạo hạ ṇng bắn trực xạ vào xe tăng Cộng Sản, bắn lật tung pháo tháp xuống đất, bắn đứt xích, gẫy ṇng và biến chúng thành những con cua rang muối, hừng hực đỏ lửa. Đây là hai khẩu pháo cuối cùng của An Lộc đă bắn hết đạn trước khi tắt thở. Và bắt đầu từ đó, sự yểm trợ của hoả lực cơ hữu vào Thị Xă hoàn toàn bất khiển dụng.



Thiếu tá Nguyễn Sơn chỉ huy Đại Đội 2 Xung kích/ LĐ81 BCD trên vùng tử địa An Lộc (14/4/1972)

Trận đánh khởi đầu từ mờ sáng đến xế chiều dưới ánh nắng chói chan của mùa hè vùng nhiệt đới, dưới sức tàn phá kinh hoàng của đạn bom, mà mỗi giờ mỗi phút đi qua đều mang theo h́nh ảnh của sự huỷ diệt.
Sự can thiệp của Không Quân gây ít nhiều thiệt hại cho Cộng quân, nhiều chiếc xe tăng T54 bốc cháy ven rừng trước khi vào thành phố.
Ngoài ra, sự xuất hiện của pháo đài bay B.52 được coi như khắc tinh của chiến thuật biển người, đă gây nhiều nỗi khiếp đảm và làm tổn thất nặng nề cho 4 Sư Đoàn Cộng quân đang bủa vây An Lộc.

Pháo đài bay B.52, một vũ khí chiến lược của Không Lực Hoa Kỳ phát xuất từ Thái Lan và đảo Guam đă can thiệp vào chiến trường B́nh Long theo yêu cầu của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà thực hiện 17 phi vụ đánh bom, mỗi phi vụ gồm 3 phi cơ bay trên thượng tầng khí quyển mà mắt thường ít khi nh́n thấy, chỉ nghe tiếng ù ù xa xăm của động cơ mà không biết bom sẽ nổ nơi nào. Mỗi phi vụ mang 42 quả bom nặng 500 kư và 24 quả bom nặng 250 kư đồng loạt rơi xuống chính xác mục tiêu đă ấn định. Vài giây đồng hồ trước khi bom nổ, người ta phát hiện tiếng gió rít ghê rợn của hàng loạt bom đang rơi, tiếng rít gió ào ào như trận cuồng phong, như tiếng kêu của tử thần. Bom chạm mục tiêu, nổ hàng loạt, nổ từng chuỗi dài, tiếng nổ làm rung chuyển mặt đất, lửa và khói đen bốc cao, từng luồng khí nóng hừng hực toả ra với vận tốc cực nhanh, 500 thuớc bề ngang và 1,000 thước bề dài trong tầm sát hại của bom rơi, tất cả đều biến thành b́nh địa.

Trong trận chiến An Lộc, B.52 đă đánh bom, có khi chỉ cách tuyến pḥng thủ 900 thước, theo tin tức t́nh báo được kiểm nhận, có cả một Trung Đoàn Cộng quân bị biến mất trong lúc bao vây thành phố.

Sau ba ngày đêm chống trả dữ dội, khu vực phía Bắc thành phố, kể cả đồi Đồng Long, một cao điểm chiến thuật quan trọng đă lọt vào tay giặc. Từ đồi Đồng Long, Cộng quân quan sát và nh́n rơ mọi hoạt động trong thành phố, hơn nữa nơi dây là cao điểm lư tưởng để tổ chức các vị trí súng pḥng không 12 ly 8, đại bác 23, 37 ly và hoả tiễn địa không SA-7 đă khống chế và làm giới hạn sự can thiệp của Không Quân. Tuyến pḥng thủ An Lộc càng lúc càng thu hẹp dưới sức ép của pháo binh và tấn công liên tục của Cộng Sản.

Quốc lộ 13 chưa được giải toả, do đó sự tiếp viện bằng đường bộ hoàn toàn bị tê liệt. Sự yểm trợ bằng Không Quân cũng gặp khó khăn. Hơn 80% đồ tiếp liệu như đạn dược, thuốc men và thực phẩm được thực hiện bằng phương tiện thả dù đă rơi vào vùng địch kiểm soát. Những đơn vị cơ giới và pháo binh của An Lộc hoàn toàn bất khiển dụng, phân nửa lực lượng pḥng thủ bị loại ra khỏi ṿng chiến.

An Lộc đang hấp hối, nhưng chưa tắt thở. Trong t́nh trạng chiến đấu tử thủ hôn mê đó, An Lộc vẫn củng cố niềm tin vào kế hoạch giải vây sẽ được bùng nổ vào giờ thứ 25. Không, An Lộc không thể chết tức tưởi như Lộc Ninh. An Lộc cần phải được mở một nút thoát hơi để thở. Các nhà lănh đạo quân sự Việt Nam Cộng Hoà đă khẳng định điều đó và đă dự trù một kế hoạch để đối phó trong t́nh huống xấu nhất xảy ra để cứu nguy An Lộc!

THEO CHÂN ĐOÀN QUÂN MA


LĐ81 BCD chờ trực thăng bốc vào chảo lửa An Lộc (10/4/1972) Image by © Bettmann/ Corbis


Theo kế hoạch giải vây, hai đơn vị thiện chiến được sử dụng đến là Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù.
Cả hai đơn vị này đều nhảy thẳng vào An Lộc với hai nhiệm vụ khác nhau, một phía trong và một phía ngoài Thị Xă.
Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù sẽ quét sạch hành lang vây khốn bên ngoài chu vi pḥng thủ và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù mở đường máu đánh thẳng vào An Lộc tiếp tay với quân trú pḥng bên trong, chiếm lại phân nửa thành phố đă mất.
Người ta nghĩ kế hoạch này là một ván cờ liều, một kế hoạch đánh xă láng, “thí chốt để tiến xe” và những đơn vị thi hành sẽ là những con thiêu thân bay vào ánh lửa.
Đúng vậy, họ là những con chốt của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, những con chốt đă sang sông và đă nhập cung, trở thành một pháo đài sừng sững trước mặt quân thù.

Ngày 14-04-1972, từ Chơn Thành, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù và một pháo đội được trực thăng vận vào một địa điểm cách An Lộc bốn cây số về hướng Đông Nam.
Từ ấp Shrok Ton Cui, Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù chiếm lĩnh cao điểm 176 c̣n được gọi là Đồi Gió, đặt 6 khẩu 105 ly dễ yểm trợ cho Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn cùng Tiểu Đoàn 5 và 8 Nhảy Dù tiến về hướng An Lộc.

Linh động và bất ngờ là hai yếu tố quan trọng trong binh pháp được Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù khai thắc triệt để trong cuộc hành quân này.
Cộng quân đang bao vây An Lộc bị cú bất ngờ khi thấy lính Nhảy Dù xuất hiện phía sau. Yếu tố bất ngờ đă làm địch quân hốt hoảng, trận đánh đấm máu nổ ra và Nhảy Dù đă chiếm ưu thế, mở được một khoảng trống trong ṿng vây kín mít từ phía Đông Nam hướng về An Lộc.

Cùng ngày 14-04-1972, trong khi Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù được trực thăng vận vào An Lộc th́ từ những khu rừng già vùng Tây Nam Xa Mát dọc theo biên giớ́ Miên Việt, Liên Đoàn 81 đang hành quân được triệt xuất để trở về Trảng Lớn thuộc Tỉnh Tây Ninh.
Sáng ngày 16-04-1972, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù được vận chuyển qua Lai Khê bằng trực thăng Chinook CH-46, 12 giờ trưa cùng ngày, khi kho đạn Lai Khê bị đặc công Cộng Sản phá hoại nổ tung là lúc toàn bộ 550 quân cảm tử của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù sẵn sàng tại phi trường để được trực thăng vận vào An Lộc.

Nắng hè chói chan oi bức, ánh nắng lung linh theo cánh quạt của trực thăng tiễn đưa đoàn quân ma đi vào vùng đất cấm. Địa điểm đổ quân là những đám ruộng khô cằn nứt nẻ phía Tây Tỉnh lộ 245, chung quanh là những cánh rừng thưa trải dài theo hướng Tây Bắc, khoảng cách một cây số để đi đến Đồi Gió.

Phải cần một hợp đoàn 45 chiếc trực thăng đa dụng HU1D với hai đợt đổ quân mới thực hiện xong cuộc chuyển quân, và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù đă vào vùng hành quân lúc 4 giờ chiều ngày 16-04-1972.

Mở tần số liên lạc với Tướng Lê Văn Hưng trong An Lộc, liên lạc với Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù để biết vị trí quân bạn và nhanh chóng khai triển đội h́nh chiến đấu, di chuyển về hướng Tây, len lỏi theo đường thông thuỷ giữa hai ngọn đồi Gió và đồi 169. Âm thầm và ngậm tăm mà đi.

Một sự kiện bất ngờ không may xảy đến khi đoàn quân đang di chuyển: một quả bom của Không Quân đánh vào vị trí của Cộng quân lại rơi ngay vào đội h́nh di chuyển của Biệt Cách Dù, gây thương vong cho một vài binh sĩ, trong đó có Thiếu Uư Lê Đ́nh Chiếu Thiện. Lập tức trái khói vàng được bốc cao giữa đoàn quân để phi công nhận diện ph́a dưới là quân bạn.

Phải mất một thời gian ngắn cho việc tản thương. Hai cố vấn Mỹ, Đại Úy Huggins và Thượng Sĩ Yearta nhanh chóng liên lạc với Lữ Đoàn 17 Kỵ Binh Không Vận Hoa Kỳ yêu cầu trực thăng cấp cứu và được thoả măn. Đây là hai cố vấn thuộc Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ vẫn c̣n chiến đấu bên cạnh Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù khi quân bộ chiến Mỹ đă rút lui khỏi chiến trướng Việt Nam theo kế hoạch “Việt Nam hoá chiến tranh” được thi hành vào năm 1970.

Sự kiện thứ hai xăy đến là sự xuất hiện của 47 quân nhân thuộc Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân từ đồi 169 chạy tuôn xuống, mặt mày hốc hác v́ mệt mỏi và thiếu ăn, bị thất lạc và phải trốn trong rừng. Họ đi theo Biệt Cách Dù để trở lại đơn vị gốc trong An Lộc.
Vài tràng súng AK ṛn ră nổ ở hướng Đông, có lẽ địch bắn báo động. Tiếp tục di chuyển, rẽ về hướng Tây Bắc để vào rừng cao su Phú Hoà. Tiếng súng nổ liên hồi, đứt khoảng phía trước. Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đang chạm địch. Gặp Tiểu Đoàn Trưởng Nhảy Dù, Trung Tá Hiếu cười méo miệng, nói như phân trần: “Tụi nó đông như kiến và bám sát tụi “moi” như bày đỉa đói”.
“Tụi nó đông như kiến” đă nói lên thực trạng chênh lệch lực lượng quân sự đôi bên mà phần ưu thế về phía Việt Cộng! Nhưng đă là Nhảy Dù th́ phải “cố gắng”, cố gắng cho đến lúc tàn hơi. Đă là Biêt Cách Dù th́ phải chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh cho màu cờ sắc áo của đơn vị.

Hoàng hôn phủ xuống thật nhanh, bóng tối lần lần bao trùm cảnh vật chung quanh. Súng vẫn nổ rải rác từng đợt, từng hồi trong rừng thẳm. Biệt Cách Dù tiến chiếm ấp Sóc G̣n trong im lặng và an toàn v́ địch vừa rút ra khỏi đây. Lục soát, bố trí và dừng quân chung quanh ấp trong những công sự chiến đấu đă có sẵn của Việt Cộng. Bóng đêm dày đặc, im vắng.xa xa về hướng An Lộc, đạn pháo ́ ầm nổ như tiếng trống cầm canh.

Sự đổ quân ồ ạt của Việt Nam Cộng Hoà về phía Đông Nam cách An Lộc 4 cây số đồng nhịp với các phi vụ đánh bom B.52 tàn khốc về phía Tây Nam của thành phố đă làm cho Cộng quân hoang mang, hốt hoảng. Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù là lực đối kháng ṿng ngoài để thu hút địch quân, đồng thời tạo một lỗ hổng để Biệt Cách Dù xâm nhập vào thành phố sáng ngày 17-04-1972, cùng một thời điểm của Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù tiếp cận ngoại vi tuyến pḥng thủ của Thị Xă về phía Nam cạnh quốc lộ 13.

Cộng quân không ngờ Biệt Cách Dù đă lọt vào Thị Xă tiếp hơi cho quân tử thủ và mở cuộc tấn kích ngay đêm đó vào các khu phố mặt Bắc. Với kỹ thuật đánh đêm điêu luyện, thần tốc, khi phân tán, khi hội tụ, Biệt Cách Dù đă giáng lên đầu Cộng quân những đ̣n sấm sét, đánh không có sự yểm trợ của pháo binh hay bất cứ một loại vũ khí ṿng cầu nào, đánh bằng súng cá nhân, bằng lựu đạn, đánh cận chiến bằng lưỡi lê. Đánh nhau từng căn nhà, từng cao ốc đổ vỡ, chiếm lại từng con đường, từng khu phố trong đêm dài dường như bất tận.

Sáng ngày 18-04-1972, Biệt Cách Dù đă có mặt hầu hết trong các khu phố ph́a Bắc Thị Xă và giải thoát gần 100 gia đ́nh cư dân c̣n kẹt lại trong vùng kiểm soát của Cộng Sản.
Từ các căn nhà xụp đổ bên vệ đường, từng toán Việt Cộng tuôn ra tháo chạy thục mạng về hướng Bắc, v́ chúng bị đánh phủ đầu ban đêm, sáng ra nh́n chung quanh nơi nào cũng thấy “lính rằn ri”, loại lính đă hơn một lần chặn đánh chúng trên đường Trường Sơn heo hút mưa bay.

Mặc dù đă chiếm lại toàn bộ khu vực phía Bắc, nhưng vẫn c̣n một ổ kháng cự mà Cộng quân vẫn cố thủ bên trong, đó là đồn Cảnh Sát Dă Chiến. Biệt Cách Dù tấn công nhiều đợt nhưng vẫn chưa vào được. Hơn nữa, từ đồi Đồng Long, Việt Cộng dùng đại bác 57 ly, sơn pháo 75 ly và súng không giật 82 ly bắn trực xạ vào Biệt Cách Dù để yêm trợ cho bọn chúng cố thủ bên trong đồn. Cố vấn Huggins của Biệt Cách Dù vào ngay tần số của Lữ Đoàn 1 Không Quân Hoa Kỳ xin yểm trợ hoả lực. Hai chiếc phi cơ AC.130 Spector bay lượn trên vùng trời An Lộc với cao độ ngoài tầm sát hại của cao xạ và hoả tiễn địa không SA7, bắn từng quả đạn 105 ly hoặc từng loạt 3 quả đạn 40 ly vào mục tiêu yêu cầu được điều chỉnh từ dưới dất. Cuối cùng đồn Cảnh Sát lọt vào tay Biệt Cách Dù vào lúc 4 giờ chiều. Phần nửa thành phố phía Bắc được chiếm lại sau gần 24 tiếng đồng hồ chiến đấu liên tục. Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù yêu cầu Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh điều động quân bạn hai bên cạnh sườn cùng tiến lên ngang hàng với quân Biệt Cách Dù. Sự yêu cầu không được đáp ứng, v́ quân số của quân trú pḥng đă hao hụt và bất khiển dụng quá nhiều, do đó cạnh sườn của Biệt Cách Dù bị bỏ trống. Lợi dụng sơ hở này, Cộng quân phản công mănh liệt bằng hai mũi tấn công, mũi thứ nhất đánh trực diện từ hướng đồi Đồng Long có sự yểm trợ của cối 61 ly, cối 82 ly và sơn pháo 75 ly, mũi thứ hai từ phía Tây đánh thốc vào ngang sườn với quân số khá đông. Trước t́nh huống phải đối đầu phía trước mặt và phía ngang hông, Biệt Cách Dù phải rút quân về phía khu chợ Mới, tuy nhiên vẫn c̣n để lại một Đại Đội cố thủ trong đồn cảnh sát.

Đồn cảnh sát đương nhiên trở thành một tiền đồn án ngữ lẻ loi phía Bắc Thị Xă, một tiền đồn bất đắc dĩ mà không thể nào bỏ trống được, và nơi đây là một cái gai mà Cộng quân bằng mọi cách phải nhổ đi, do đó muốn duy tŕ vị trí chiến thuật quan trọng đó, phải đổ máu rất nhiều. Biệt Cách Dù chấp nhận sự lựa chọn này để giữ vững tiền đồn suốt một thời gian dài.

Sự tham chiến của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù đă làm cho An Lộc hồi sinh sau cơn mê dài hấp hối, và sự có mặt của Biệt Cách Dù đă mở màn cho những trận đánh ác liệt xảy ra trong ḷng Thị Xă.

Đêm 19-04-1972 Cộng quân sử dụng Trung Đoàn 141 và Trung Đoàn 275 có xe tăng yểm trợ tấn công Đồi Gió sau khi rót vào vị trí này hàng ngàn quả đạn pháo, tiêu diệt 6 khẩu pháo 105 duy nhất của pháo đội Nhảy Dù và tràn ngập Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù của Trung Tá Đĩnh đang án ngữ tại đây, đồng thời pháo kích dữ dội vào An Lộc để chuẩn bị cho hai mũi tấn công từ hướng Tây và hướng Bắc thành phố. Trận đánh kéo dài suốt đêm, tuyến pḥng thủ vẫn đứng vững trước chiến thuật biển người của Cộng Sản. Riêng khu Bắc Thị Xă, Biệt Cách Dù và Cộng quân giao tranh ác liệt, có khi chỉ cách nhau một con đường bề ngang 4 thước trong tầm ném tay của lựu đạn.

Mất đồi Gió, một cao điểm quan trọng nằm bên ngoài phạm vi pḥng thủ với 6 khẩu pháo 105 ly c̣n lại duy nhất để yểm trợ, An Lộc càng lúc càng thấy cô đơn trong mênh mông băo lửa. Môt số quân của Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù do Trung Tá Đĩnh chỉ huy chạy thoát về sông Bé hướng Đông, vả được trực thăng cứu cấp bốc về Lai Khê tái huấn luyện và bồ sung quân số chờ ngày phục hận.

Cuộc chiến giảm dần cường độ v́ sự thiệt hại của hai bên công – thủ.

Bên ngoài phạm vi pḥng thủ, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù đă là một thành đồng vững chắc án ngữ mặt Đông Nam, bên trong thành phố, Biệt Cách Dù mở cuộc tấn công đêm liên tục, đánh phá những vị trí Cộng quân chiếm giữ, làm cho chúng ăn không ngon, ngủ không yên. Ngoài ra sự oanh tạc của B.52 gần An Lộc đă gây tổn thất rất nhiều cho địch quân, tuy nhiên mức độ pháo kích của Cộng quân vẫn đều đặn rót vào An Lộc khoảng 2,000 quả đạn mỗi ngày.

Bên phố chợ, người dân ngậm ngùi nh́n thấy những nấm mồ của tử sĩ Biệt Cách Dù mỗi ngày một nhiều hơn. Họ đánh nhau hằng đêm và h́ hục chôn xác bạn bè hằng đêm trong mưa pháo tuôn rơi, khi mặt trời chưa thức giấc. Sống, chiến đấu bên nhau trong cuộc hành tŕnh gian khổ để tiêu diệt quân thù trên khắp nẻo đường đất nước, ḷng thuỷ chung và tinh chiến hữu keo sơn chan hoà thắm thiết khi có người nằm xuống, vĩnh viễn ra đi. H́nh ảnh nghĩa trang Biệt Cách Dù đă nói lên điều đó.

AN LỘC, CHIẾN TRƯỜNG ĐI KHÔNG HẸN

Theo lời cung khai và thú nhận của tù hàng binh Cộng Sản mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bắt được, có ba thứ mà cán binh Cộng Sản lo sợ khi vượt Trường Sơn để xâm nhập vào lănh thổ Việt Nam Cộng Hoà. Thứ nhất là B.52, thứ nh́ là Biệt Kích số 81, và thứ ba là chạm súng với quân Nhảy Dù. Cả ba thứ đó đều hiện hữu và có mặt tại chiến trường An Lộc.

Liên Đoàn Biệt Cách Nhảy Dù, dân Miền Nam thường gọi tắt là Biệt Cách Dù, Việt Cộng gọi là Biệt Kích số 81, thực ra là đơn vị Tổng Trừ Bị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, với quân số khiêm nhường trên bảng cấp số là 916 người, được đào tạo và huấn luyện thuần thục về chiến thuật phản du kích trong chiến tranh ngoại lệ, nhảy toán, thám sát, đột kích, bắt cóc tù binh, đánh phá vào các cơ sở hậu cần của địch. Nhảy vào ḷng đất địch để chiến dấu bằng phương tiện nhảy dù, nhưng phần lớn bằng trực thăng vận, âm thầm hoạt động trong vùng khu chiến, cách biệt xa tầm yểm trợ của pháo binh. Bước chân của người chiến binh Biệt Cách Dù đă lần lượt đi qua các chiến trường sôi động một thời vang danh quân sử.

Từ Làng Vei, A Sao, A Lưới, Tà Bạt, Khe Sanh, Lao Bảo quanh năm sương mờ bao phủ của vùng biên giới Việt Lào, vượt lên phương Bắc hoả tuyến với Mai Lộc, Cam Lộ, Đông Hà, Quảng Trị và xuôi về vùng núi rừng cận duyên của Tam Quan, B́nh Định, Bồng Sơn, An Lăo. Đi miệt mài, hành quân không ngơi nghỉ để về Tây Nguyên với Boloven hùng vĩ, đổ xuống Tam Biên, đi Tân Cảnh, Diên B́nh và tạm dừng chân, nâng chén quan hà bên bờ sông Dakbla nước chảy ngược ḍng của chiến trường Kontum mịt mờ bụi đỏ. Tây Ninh nắng cháy nung người không làm nao ḷng chiến sĩ, B́nh Giả, Đồng Xoài nặc nồng mùi tử khí. Khi chiến trường im tiếng xung phong th́ bước chân của người chiến binh Biệt Cách Dù vẫn c̣n dong ruổi trong cuộc hành tŕnh vô định.

Vào An Lộc, chiến trường nặng độ với trung b́nh mỗi ngày hơn hai ngàn đạn pháo, chiến trường cô đơn khi tổn thất của quân tử thủ mỗi lúc một gia tăng, đánh đêm đánh ngày, dằng dai khi công, khi thủ ṛng ră kéo dài suốt tháng.
Cứ mỗi lần Cộng quân gia tăng cường độ pháo kích vào thành phố lả để chuẩn bị cho cuộc tấn công bằng bộ binh ngay sau đó.

Đêm 04-05-1972, Cộng quân ồ ạt tấn công vào pḥng tuyến phía của Biệt Cách Dù.
Ở thế công th́ dù sao cũng có ít nhiều sơ hở nhưng khi Biệt Cách Dù ở vào thế thủ th́ một con kiến cũng khó lọt qua. Lựu đạn, ḿn thi nhau nổ, AK, súng máy rít vang trời. Trận đánh kéo dài đến sáng tỏ trời. Xác địch nằm la liệt, ngổn ngang bên ngoài pḥng tuyến. Lần đầu tiên trong trận địa chiến, Biệt Cách Dù tịch thu được 2 khẩu súng phun lửa do Trung Cộng sàn xuất. Trong túi áo của mỗi xác chết đề có mang theo một mảnh giấy nhỏ bề ngang 5 phân, bề dài 20 phân với câu viết ngắn gọn :”Quyết tâm bắt sống Sư Trưởng Sư Đoàn 5, dựng cờ chiến thắng”. Th́ ra bọn này có học tập trước khi lao ḿnh vào tử địa.

Ngày 10-05-1972, Cộng quân bắt đầu pháo kích dữ dội từ 5 giờ sáng, pháo liên tục ḍng ră suốt ngày. Người ta đếm có hơn 8,000 quả đạn pháo rơi xuống thành phố. Nhà cửa đă hoang tàn lại thêm hoang tàn. Người ta tiên liệu một cuộc tấn công lớn của Cộng quân sắp xăy ra và trận đánh lớn nổ tung lúc 5 giờ sáng ngày 11-05-1972 với toàn bộ lực lượng c̣n lại của 4 Sư Đoàn đang vây hăm An Lộc.

Địch ồ ạt tiến vào thành phố từ nhiều phía. Tuyến pḥng thủ phía Đông Bắc của Biệt Động Quân bị thủng, một số Cộng quân lọt vào Ty Chiêu Hồi. Xe tăng T54 xuất hiện nhiều nơi trong thành phố, có chiếc tiến lại gần bản doanh tử thủ của Tướng Lê Văn Hưng và bị bắn cháy. Xe tăng và quân bộ chiến của Cộng Quân bị chặn đứng tại pḥng tuyến của Biệt Cách Dù. Trời sáng tỏ và trận đánh trở nên ác liệt. Pḥng tuyến phía Tây của Trung Đoàn 7 Bộ Binh bị thủng và co cụm lại thành từng ổ kháng cự chung quanh Tiểu Khu. Không Quân can thiệp kịp thời, dội bom bên ngoài, bắn phá bên trong thành phố. Xe tăng của Cộng Sản và bộ đội không phối hợp chặt chẽ với nhau khi tấn công vào thành phố, do đó nhiều chiếc xe tăng chạy lạc đường, bị lẻ loi, dễ bị tiêu diệt. Quân trú pḥng nhảy ra khỏi vị trí chiến đấu để săn đuổi xe tăng như thợ săn đang săn đuổi con mồi. Đây là lần thứ hai xe tăng địch đă vào thành phố để biến thành những khối sắt bất động. Đơn vị nào cũng bắn cháy được xe tăng, kể cả một số ít Địa Phương Quân c̣n lại cũng hăm hở diệt tăng với khẩu M.72 lần đầu tiên được sử dụng. Trận đánh tàn dần lúc 3 giờ chiều với sự thiệt hại nặng nề của Cộng quân. Người ta đếm được 40 xác chiếc xe tăng rải rác đó đây trong thành phố và ngoài tuyến pḥng thủ, không kể đến hàng loạt thi thể không toàn vẹn của những người lính đến từ phương Bắc xa xôi. Tuy nhiên An Lộc vẫn c̣n nằm trong khả năng pháo kích ngày đêm của Cộng Sản, An Lộc vẫn c̣n chịu ảnh hưởng nặng nề của lực lượng bao vây khi quốc lộ 13 chưa được giải toả.

Sư Đoàn 21 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà với nhiệm vụ giải toả quốc lộ 13, mặc dù tiến quân chậm và vững chắc cũng bị thiệt hại nhiều.

Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù đă lấy lại sinh lực sau lần thất bại tại Đồi Gió đă trở lại tham chiến và là đơn vị đầu tiên của lực lượng giải toả tiến về An Lộc sau bao trận đánh phục thù ven quốc lộ 13.

Ngày 08 tháng 06 năm 1972 lúc 5 giờ chiều, Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù đến Xa Cam bắt tay vói Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù do Trung Tá Đào Thiện Tuyển đang án ngữ tại đây. Xa Cam, cửa ải địa đầu cực Nam An Lộc, khoảng 2 cây số nằm ven quốc lộ 13, một đồn điền với rừng cao su ngang dọc thẳng tắp đă trở thành chiến địa mà Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù “nhất kiếm trấn ải” tung hoành trong suốt thời gian gần hai tháng để chiến đấu sống c̣n với lực lượng địch quân có quân số và hoả lực đông và mạnh gấp nhiều lần.

Cái bắt tay của Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù với Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù như một tiếng sấm vang trời trong cơn mưa tầm tă báo hiệu trời quang mây tạnh sẽ đến. Những người lính Nhảy Dù truyền hơi ấm cho nhau, mỉm cười với ánh mắt long lanh tin tưởng vào ngày tàn của Cộng quân trong chiến trường An Lộc.

Ngày 10 tháng 06 năm 1972, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù tung toàn bộ lực lượng quét sạch tất cả các ở kháng cự của Cộng quân trong các khu phố phía Bắc Thị Xă, bắt được một tù binh đang thúc thủ dưới hầm sâu. Đây là một tên bộ đội thuộc Sư Đoàn 5 Cộng Sản Bắc Việt, sau hơn 6 tháng vượt Trường Sơn để bổ sung cho chiến trường với nhiệm vụ “anh nuôi”. Anh nuôi là tiếng của Việt Cộng dùng để chỉ những tên lính chuyên lo việc bếp núc, nấu ăn cho đơn vị. Gương mặt hốc hác v́ hoảng sợ, nước da xanh như tầu lá v́ thiếu ánh nắng mặt trời và tay chân hơi run rẩy v́ thiếu ăn, Tên bộ đội lắp bắp khai: “Đơn vị hết người chiến đấu v́ bị chết quá nhiều, cho nên Thủ Trưởng bắt buộc em cầm súng ra trận. Em chưa bắn một phát nào, đến đây đă được ba ngày cứ lo đào hầm để tránh bom”. Lời cung khai của tên bộ đội khoảng 18 tuổi với gương mặt non choẹt c̣n phơn phớt nét thơ ngây của tuổi học tṛ đă nói lên t́nh trạng tổn thất bi đát của lực lượng Cộng quân sau gần 2 tháng bao vây và tấn công mà không chiếm nổi An Lộc.

Ngày 12 tháng 06 năm 1972, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù tái chiếm đồi Đồng Long, một cao điểm quan trọng nằm sừng sững phía Bắc, cách An Lộc khoảng 500 thước.
Lực lượng tấn công tái chiếm đồi Đồng Long gồm Đại Đội 2 Xung Kích do Đại Úy Nguyễn Sơn chỉ huy, Đại Đội 3 Xung Kích do Đại Úy Phạm Châu Tài chỉ huy, và 4 toán Thám Sát do Trung Úy Lê Văn Lợi chỉ huy. Biệt Cách Dù chia làm 3 mũi, bọc trái, bọc phải và chính diện hưóng về mục tiêu trước mặt có cao độ 128 thước. Họ xuất quân và đến lưng chừng đồi lúc nửa đêm, đồng loạt xung phong khi hừng đông vừa ló dạng chân trời. Bị đánh bất ngờ và vô cùng táo bạo, lựu đạn tung vào hầm trú ẩn, đạn bắn xối xả vào công sự chiến đấu, những tiếng hét xung phong vang dội một góc trời. Địch quân chủ quan và c̣n mê mệt trong t́nh trạng ngái ngủ, trở tay không kịp, khoảng hốt bỏ chạy không có th́ giờ xỏ chân vào đôi dép râu, nói chi cầm đến khẩu súng để chống trả.

Một số chạy thoát vào rừng để lại sau lưng chiến địa c̣n nặng mùi khói súng với nhiều xác chết vương văi đó đây.
Đột kích là phương pháp tấn công vô cùng táo bạo, đánh nhanh, đánh mạnh với hoả lực tập trung tối đa được Biệt Cách Dù áp dụng trong thời điểm bất ngờ nhất làm cho địch không có th́ giờ xoay trở.
Trung Úy Lê Văn Lợi hănh diện cắm lá Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hoà trên đỉnh đồi Đồng Long.

Quốc Kỳ rực rỡ căng gió phất phới bay trên nền trời xanh biếc của mùa hè vùng băo lửa. Đám mây mờ bao phủ vùng trời An Lộc bấy lâu nay lần lần tan biến. Trung Tá Phan Văn Huấn, con chim đầu đàn của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, vào tần số liên lạc với các cánh quân Biệt Cách Dù đang có mặt trên đỉnh đồi Đồng Long, giọng cảm động, ông nói : ”Chúng ta đă chu toàn nhiệm vụ cao cả nhất mà quân đội đă giao phó, nhiệm vụ phải trả bằng xương máu của các anh em, của các tử sĩ Biệt Cách Dù đă nằm xuống. Tôi thành thật ca ngợi ḷng dũng cảm của anh em trong chiến tích hôm nay”.

Chiếm xong đồi Đồng Long, Biệt Cách Dù truy kích, lục xoát xung quanh, và phát hiện một căn hầm sâu ven rừng, có tiếng động khả nghi bên trong. Tất cả họng súng đen ng̣m hướng vào miệng hầm chờ đợi như con hổ ŕnh mồi. Có tiếng hét lớn từ trong đám lính:
- Chui ra ngay, đầu hàng ngay, tao tung lựu đạn vào chết cả đám bây giờ!
- Khoan, dừng tay, coi chừng bắn lầm vào dân! Tiếng nói khẩn cấp của người chỉ huy từ xa vọng lại. Tất cả đều chờ đợi. Bước lại gần miệng hầm, người chỉ huy nói to:
- Chúng tôi là lính Việt Nam Cộng Hoà. Ai trốn trong hầm th́ chui ra mau.
Câu nói được lập lại lần thứ hai. Có tiếng thút thít bên trong hầm vọng ra.
- Ra di, chui ra đi, không sao đâu!
Tiếng người lính thúc dục. Tiếng động bên trong rơ dần. Những ánh mắt long lanh của những chiến binh Biệt Cách Dù chùng xuống khi thấy hai em bé gái 9, 10 tuổi lê lết tấm thân tàn, chậm răi ḅ ra khỏi căn hầm trú ẩn.
- Trời ơi! Hai đứa bé gái! Ba má các em đâu, sao lại như thế này? C̣n ai trong đó không?

Người chỉ huy nắc nghẹn giọng nói. Hai em bé mặt mũi lem luốc, mắt mờ đẵm lệ, thân ḿnh khô đét như hai bộ xương biết cử động, chỉ lắc đầu sau những câu hỏi dịu dàng của người chỉ huy Biệt Cách Dù. Hai em bé đă tránh bom đạn trong căn hầm này bao lâu rồi, một tháng, hai tháng, lấy ǵ ăn để sống đến nỗi thân thể phải xác xơ như thế này!
Ôi chiến tranh! Chiến tranh tàn khốc mà người Cộng Sản đă mang đến cho dân tộc ḿnh như thế đó. http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541797971


AN LỘC ĐỊA SỬ LƯU CHIẾN TÍCH

Kể từ ngày cắm lá Quốc Kỳ trên đỉnh Đồng Long, Biệt Cách Dù bung ra khỏi thành phố và án ngữ trong các khu rừng phía Bắc An Lộc. Thành phố tuy sạch bóng quân thù, nhưng mức độ pháo kích vẫn c̣n rời rạc, vô chừng.
An Lộc đă được giải toả trong điêu tàn và đổ vỡ! An Lộc sụp đổ hoang tàn trong cái h́nh hài đấy vết đạn bom, nhưng An Lộc đă đi vào huyền thoại của những người tử thủ. http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541798119

Trong hoang tàn và đổ vỡ của một thành phố đă chịu đựng sức tàn phá hăi hùng của đạn bom, hai câu thơ của cô giáo Pha được Biệt Cách Dù cứu thoát khi bị thương, được khắc trên đài tưởng niệm trước nghĩa trang bên phố chợ đ́u hiu, mà trong đó 68 nấm mồ của tử sĩ Biệt Cách Dù được chôn vội vă từng đêm khi chiến trận tàn khốc xảy ra đă làm mủi ḷng dân cả nước với ḷng ngưỡng mộ và niềm xúc cảm vô biên.
Sau khi đồi Đồng Long được tái chiếm, thành phố An Lộc xem như được giải toả, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn 3 lần đầu tiên đến thăm An Lộc và Trung Tá Phan Văn Huấn, Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, là người đầu tiên được vinh thăng Đại Tá tại mặt trận. Tác giả Sao Bắc Đẩu, trong cuốn “Một ngày trong An Lộc”, trang 296 và 297 đă ghi lại việc thăng cấp như sau:
“Một ông Đại Tá mặt trận"

Trung Tướng Minh cẩn thận giải thích rằng không phải chỉ riêng Trung Tá Huấn, Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù là có công, là xứng đáng được tặng thưởng. Sở dĩ ông cẩn thận như vậy là ngại có người sẽ hỏi: “Tại sao chỉ một ḿnh Trung Tá Huấn được thăng cấp tại mặt trận?”. Tướng Minh cẩn thận như vậy cũng phải, nhưng trên thực tế, không ai có ư phân b́ với tân Đại Tá Huấn cả. Những người lính Biệt Cách của ông đă chiến đấu hơn một người lính và đă giúp đỡ dân chúng hơn một cán bộ Chiến Tranh Chính Trị.
Chính một binh sĩ của Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù đă xác nhận với chúng tôi rằng đó là “những người lính tuyệt”. Một người khác kể lại rằng nếu không gặp lính Biệt Cách th́ hai đứa trẻ nằm trong hầm 70 ngày đă chết v́ lựu đạn. Anh này khẳng định:
- Miệng hầm trông khả nghi lắm. Lại nghe văng vẳng có tiếng động. Gặp người nhát là phải tung lựu đạn trước khi xuống.
Nhưng những anh Biệt Cách của Đại Tá Huấn đă không tung lựu đạn xuống. Họ kiên nhẫn nằm trên miệng hố ŕnh rập v́ họ nghĩ rằng dù có lính Bắc Việt phía dưới th́ những người này cũng đói lả không c̣n sức kháng cự nữa. Cuối cùng họ đă cứu sống được hai em nhỏ, nạn nhân chiến cuộc.

Tôi hỏi vị Đại Tá tân thăng:
- Người ta nóí với chúng tôi rằng dân chúng An Lộc lập một nghĩa trang riêng để chôn những tử sĩ của Đại Tá. Xin Đại Tá cho chúng tôi hiểu rơ v́ lư do nào, ngựi lính Biệt Cách lại có một tác phong đặc biệt đối với dân chúng như vậy?
- Tôi thiết tưởng điều này cũng dễ hiểu. Anh nghĩ coi, từ trước đến nay, lính Biệt Cách chúng tôi chỉ nhảy từng toán 5 người vào tác chiến sau lưng địch. Nói một cách khác, chúng tôi đă quen sống với thái độ thù địch của dân chúng trong vùng chiến dấu. Đây là lần đầu tiên chúng tôi là bạn chứ không phải là thù, dân chúng giúp đỡ chứ không chống lại chúng tôi”.

Biệt Cách Dù nhảy vào An Lộc ngày 16-04-1972 và rời khỏi An Lộc ngày 24-06-1972. t́nh ra đúng 68 ngày tham chiến.
68 ngày tử chiến với 68 Biệt Cách Dù hy sinh và trên 300 bị thương, trong mưa pháo kinh hoàng, ngày cũng như đêm không tṛn giấc ngủ, đục tường, khoét vách, đào hầm để giành lại từng tấc dất trong tay quân thù. Chiến đấu trong từng căn nhà, từng khu phố, từng đoạn đường lỗ chỗ hố bom, vùng lên diệt xe tăng cũng như đồng loạt truy kích khi địch đă tàn hơi, và cuối cùng cắm lá Quốc Kỳ trên đỉnh Đồng Long tượng trưng cho sự chiến thắng, h́nh ảnh người chiến binh Biệt Cách Dù măi măi sống trong tâm hồn người dân An Lộc, h́nh ảnh dũng cảm, can trường biểu tượng cho sự chịu đựng bền bỉ, sức chiến đấu hào hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.

48 giờ sau khi rời khỏi chíến trường An Lộc, ngày 26-06-1972, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù đă có mặt tại miền hoả tuyến để tham gia chiến dịch “ba tháng vùng lên tái chiếm Quảng Trị”. C̣n giặc thù, c̣n chiến trường, người chiến binh Biệt Cách Dù vẫn c̣n xông pha tiến bước, dù một lần sảy chân nằm yên trong nghĩa trang hiu quạnh th́ đó cũng là một điều vinh quang cho người chiến sĩ để báo đền ơn Tổ Quốc.

Phạm Châu Tàihttp://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1541798206

daibac5656 11-10-2018 15:51

Quote:

Originally Posted by hoanglan22 (Post 3537173)
Tôi muốn nhắn nhủ chú daibac một điều . Tôi mở trang này như đầu đề đă nói không đả kích bất cứ cá nhân nào hay một đoàn thể . Các bạn nào thích th́ vào đọc không thích th́ đi ra khỏi trang này .
Trang này không phải là trang để post bậy bạ với những lời nói như chú , chú nên tự trọng bản thân ḿnh nếu nghĩ rằng ḿnh là con người có hiểu biết và học thức . Hy vọng chú hiểu những ǵ tôi nói .:thankyou:

Tao dốt, nhưng rất ghét lũ nào nói tào lao xích đế, nên phải "mở miệng" để cho thế hệ sau không bị "tuyên truyền" 1 chiều cái đần độn, cái ngu ngốc, cái bất lực của 1 chế độ chỉ biết tranh giành quyên lực với nhau, khi đất nước có chuyện th́ thằng nào thằng nấy chạy đến quên mặc.... xà lỏn...

Với tao, sự thất bại, cái sự cố đào ngũ trước địch quân của lũ ba-que là 1 nỗi ô nhục vạn kiếp. Thế hệ sau phải hiểu rơ điều đó nên không thể "vinh danh" những sự hèn mạt, những cái không có. "Sai chỗ nào phải biết đứng lên chỗ đó"... Dẹp đi lối sống trong "mộng tưởng"... Những.. lối NẾU MÀ...những TẠI.. những BỊ....

hoanglan22 11-10-2018 16:05

Quote:

Originally Posted by daibac5656 (Post 3537988)
Tao dốt, nhưng rất ghét lũ nào nói tào lao xích đế, nên phải "mở miệng" để cho thế hệ sau không bị "tuyên truyền" 1 chiều cái đần độn, cái ngu ngốc, cái bất lực của 1 chế độ chỉ biết tranh giành quyên lực với nhau, khi đất nước có chuyện th́ thằng nào thằng nấy chạy đến quên mặc.... xà lỏn...

Với tao, sự thất bại, cái sự cố đào ngũ trước địch quân của lũ ba-que là 1 nỗi ô nhục vạn kiếp. Thế hệ sau phải hiểu rơ điều đó nên không thể "vinh danh" những sự hèn mạt, những cái không có. "Sai chỗ nào phải biết đứng lên chỗ đó"... Dẹp đi lối sống trong "mộng tưởng"... Những.. lối NẾU MÀ...những TẠI.. những BỊ....

Chú DỐT hay KHÔN đó là chuyện của chú không dính dáng ǵ đến trang của lính . Bởi v́ trang này không phải là trang B̀NH LUẬN , BÀN CẢI .
Đây chỉ trang của lính đưa những người đă từng tham dự vào các chiến trận . Dĩ nhiên nó bao gồm tổng quát các binh chủng .
Tôi cũng không đả kích chú ở đây v́ ở đầu đề tôi đă nói rơ ..ok:thankyou:

Lan-Anh 11-10-2018 20:05

Thiếu tá Phạm Châu Tài hồi trẻ rất bảnh tỏn, có thi thể h́nh .... Chơi nướng mấy con cua ở giờ thứ 25 làm v+ tức lắm.

Có điều, khi ông chất vấn Tổng Thống Thiệu năm 93 th́ quá dỡ, Lan anh ko thích mấy.
Bác Hoàng Lan đừng tự ái nhe hí hí hí .....

hoanglan22 11-10-2018 20:31

Quote:

Originally Posted by Lan-Anh (Post 3538107)
Thiếu tá Phạm Châu Tài hồi trẻ rất bảnh tỏn, có thi thể h́nh .... Chơi nướng mấy con cua ở giờ thứ 25 làm v+ tức lắm.

Có điều, khi ông chất vấn Tổng Thống Thiệu năm 93 th́ quá dỡ, Lan anh ko thích mấy.
Bác Hoàng Lan đừng tự ái nhe hí hí hí .....

Mỗi người đều có ư nghĩ riêng , Bác đồng ư ngay cả Bác cũng nhiều khi chống lại lệnh của ông này nhưng theo quân lệnh là phải làm theo thi hành trước khiếu nại sau:hafppy::hafppy::hafppy:

Cháu đừng lo bác không có cái tính tự ái trong ḷng . Xét ḿnh và xét nguồi:hafppy::hafppy::hafppy:

daibac5656 11-12-2018 01:28

Quote:

Originally Posted by hoanglan22 (Post 3537997)
.....
Tôi cũng không đả kích chú ở đây v́ ở đầu đề tôi đă nói rơ ..ok:thankyou:

Mày có khoái "đả kích" tao hay không th́ tao cũng éo có care.... nhưng tao sẽ tiếp tục vạch trần những cái ô nhục, cái đốn mạt, cái đần dộn, cái ngu xuẩn cuả một cái-gọi-là "tổ quốc" mà éo có chu toàn trách nhiệm của ḿnh..... Để rồi bây giờ... "ăn mày quá khứ" kể chuyện "tào lao xích đế".... Mẹ kiếp! Chỉ nghĩ tới thôi mà máu tao đă sôi lên rồi....

tbbt 11-12-2018 05:19

Quote:

Originally Posted by daibac5656 (Post 3538802)
Mày có khoái "đả kích" tao hay không th́ tao cũng éo có care.... nhưng tao sẽ tiếp tục vạch trần những cái ô nhục, cái đốn mạt, cái đần dộn, cái ngu xuẩn cuả một cái-gọi-là "tổ quốc" mà éo có chu toàn trách nhiệm của ḿnh..... Để rồi bây giờ... "ăn mày quá khứ" kể chuyện "tào lao xích đế".... Mẹ kiếp! Chỉ nghĩ tới thôi mà máu tao đă sôi lên rồi....

Vậy th́ bạn mở cái thread khác để vạch trần ǵ đó th́ vạch…tôi hoan hô và ủng hộ bạn chăm phần chăm :eek: chớ bạn không thể cấm người ta viết “tào lao xích đế” trong cái thread của người ta được…bạn hiểu chứ!:o

Tui đang chờ bạn viết ra cái “chỉ nghĩ tới thôi” mà bạn đă sôi máu lên rồi…! Cám ơn trước:thankyou:

Mong đọc được những điều hay tư tưởng cao xa…để tui học hỏi:handshake:

Lan-Anh 11-12-2018 19:56

Quote:

Originally Posted by tbbt (Post 3538927)
Vậy th́ bạn mở cái thread khác để vạch trần ǵ đó th́ vạch…tôi hoan hô và ủng hộ bạn chăm phần chăm :eek: chớ bạn không thể cấm người ta viết “tào lao xích đế” trong cái thread của người ta được…bạn hiểu chứ!:o

Tui đang chờ bạn viết ra cái “chỉ nghĩ tới thôi” mà bạn đă sôi máu lên rồi…! Cám ơn trước:thankyou:

Mong đọc được những điều hay tư tưởng cao xa…để tui học hỏi:handshake:

:eek::eek::eek::eek::):):):):):):)

Chỉ sợ ko ai dám đọc v́ toàn là cống Bolsa, cứt đái, dơ dáy ko th́ ai mà thèm vào coi .....

:hafppy::hafppy::hafppy::hafppy::hafppy:

cha12 ba 11-12-2018 21:17

Quote:

Originally Posted by tbbt (Post 3538927)
Vậy th́ bạn mở cái thread khác để vạch trần ǵ đó th́ vạch…tôi hoan hô và ủng hộ bạn chăm phần chăm :eek: chớ bạn không thể cấm người ta viết “tào lao xích đế” trong cái thread của người ta được…bạn hiểu chứ!:o

Tui đang chờ bạn viết ra cái “chỉ nghĩ tới thôi” mà bạn đă sôi máu lên rồi…! Cám ơn trước:thankyou:

Mong đọc được những điều hay tư tưởng cao xa…để tui học hỏi:handshake:

Quote:

Originally Posted by Lan-Anh (Post 3539303)
:eek::eek::eek::eek::):):):):):):)

Chỉ sợ ko ai dám đọc v́ toàn là cống Bolsa, cứt đái, dơ dáy ko th́ ai mà thèm vào coi .....

:hafppy::hafppy::hafppy::hafppy::hafppy:

:eek::eek::thankyou::handshake:
có thằng lé sẽ ủng hộ....http://vietbf.com/forum/images/icons/icon12.gif

Diệt Chó Điên 11-12-2018 23:45

Quote:

Originally Posted by cha12 ba (Post 3539371)
:eek::eek::thankyou::handshake:
có thằng lé sẽ ủng hộ....http://vietbf.com/forum/images/icons/icon12.gif

:hafppy::hafppy::hafppy::hafppy::eek::eek::eek::ee k::eek:

hoanglan22 11-13-2018 03:12

:thankyou: đến tất cả bạn già trẻ các bác đóng góp nơi đây những ư kiến hay .

hoanglan22 11-13-2018 03:16

H34 Trên Đồi 31
 
2 Attachment(s)
Mến tặng và nhớ đến những chiến sĩ QĐ VNCH, nhất là thuộc binh chủng Nhảy Dù, đă tham dự Hành Quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào.
Sau một thời gian nằm chờ ở Khe Sanh, vào đầu một ngày N tháng 2, 1971, trong đợt trực thăng vận đầu tiên, Tr. úy Phạm Đồng dẫn đầu trung đội 2 của Đại Đội 33 thuộc TĐ3ND, nhảy xuống một ngọn đồi trọc vô danh mang ám số 31 trên bản đồ, mở đầu cho cuộc Hành Quân Lam Sơn 719. Nhiệm vụ: lập đầu cầu, mở rộng ṿng đai an toàn cho các đơn vị kế tiếp đến sau: Bộ Chỉ Huy TĐ3ND của Tr. tá Lê Văn Phát, gồm luôn cả Tr. tá Phan Hy Mai, LĐoàn Phó LĐ3ND cùng ĐĐ 30 chỉ huy công vụ, Pháo Đội B3 của Đ. úy. Nguyễn Văn Đương, và cuối cùng là BCH của Lữ Đoàn 3ND với Đại Tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng với ban tham mưu. Mấy ngày đầu tiên, t́nh h́nh êm ru, nhưng qua mấy ngày sau, địch bắt đầu pháo kích lai rai, không chính xác, ḍ dẫm

H́nh chụp cuối năm 1970 của Tr. úy Phạm Đồng, trung đội trưởng #2 /ĐĐ 33 / TĐ3NDhttp://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1542078896

Trước khi được không vận ra Khe Sanh, TĐ3ND của Tr. úy Đồng vừa xong cuộc hành quân ở Tây Ninh. Thời gian nghỉ ngơi ở hậu cứ chưa được bao lâu th́ đơn vị anh lại có mặt nơi này. Từ ngày Đồng t́nh nguyện vào ND cuối tháng 9, 1968, trong nhóm 8 Chuẩn úy cùng khoá Thủ Đức bổ sung vào TĐ3ND, nay chỉ c̣n một ḿnh anh. Đồng cầm trung đội 2 của đại đội 33 từ lúc đầu quân vào TĐ3ND cho đến giờ phút này, đă xuôi ngược từ Nam ra Bắc, rồi lại Đông sang Tây, đă qua bao nhiêu miền đất nước, đă trăn trở trước sự hoang tàn của quê hương và thấm thía bụi đường của nổi niềm người chinh nhân.

Đôi khi Đồng muốn mơ về một ngày yên b́nh trở lại nhưng vẫn không thể hiểu nên khởi điểm giấc mơ từ nơi đâu - Ở ngay trên chiến trường vừa kịp tan khói súng? Ở trên làng mạc đổ nát c̣n mang tàn tích của chiến tranh? Hay ở ngay Huế của Đồng, nơi mà anh rời sau Mậu Thân 68 với những ám ảnh kinh hoàng chưa tan, những vành khăn tang chưa nguôi, những đau thương mất mát chết lịm trong tim? Giờ đây, với 25 năm tuổi đời và gần 3 năm kinh nghiệm chiến trường, Đồng cùng 26 mống của trung đội 2 của anh đang có mặt tại Đồi 31 này, nào là Thượng sĩ trung đội phó Đàng, các hạ sĩ quan Biên, Sâm, Muôn, Yến..và các binh sĩ Thông, Chính, Kiều, Chí, Sỹ, Nam, Phi, Quá, Dũng, Vân, Hải, Măo, Ngạt, Xuất, Thuận, Vượng, Kỳ, Phú, Yên… Trong cương vị chỉ huy một đơn vị tác chiến nhỏ nhoi, anh thầm đoán cuộc hành quân này sẽ rất gay go và tự hỏi rồi đây, những ai trong đám người này sẽ để thân xác lại nơi đây và những ai sẽ c̣n cơ hội trở về lại bên kia biên giới?!

Trong khoảng thời gian ấy, ở một nơi xa hơn, có một Th. Úy Không Quân Bùi Tá Khánh đóng quân tại sân bay Đà Nẳng. Là một hoa tiêu trực thăng, anh phục vụ phi đoàn 219 Long Mă, Không Đoàn 51 của Sư Đoàn 1 Không Quân. Phi đoàn 219, hậu thân của Biệt Đoàn 83 trước đây khi c̣n trực thuộc vào Pḥng 7 Nha Kỷ Thuật của Bộ Tổng Tham Mưu, có trách nhiệm thả người, đưa đón và yểm trợ những toán biệt kích Lôi Hổ, những đơn vị tiền thám đi sâu vào ḷng địch, tận trong các mật khu biên giới hay ngay cả phía Bắc vĩ tuyến, để lấy tin tức, gây rối và phá hoại các căn cứ hậu cần của địch. V́ vậy, mọi phi cơ của phi đoàn 219, và nhất là loại trực thăng H34, đều sơn một màu xanh đen, không mang phù hiệu hay bất cứ một dấu vết nào để giữ sự an toàn và bí mật.

Th. Úy KQ Khánh vốn gốc Hà Nội, di cư vào Nam sau 1954 cùng với gia đ́nh. Anh gia nhập Không Quân sau khi hoàn tất trung học và được gởi đi huấn luyện phi hành trực thăng tại Hoa Kỳ. Một tuần sau khi tốt nghiệp và trở về lại Viện Nam, Khánh tŕnh diện Bộ Tư Lệnh Không Quân và được đưa về phục vụ Phi Đoàn 219 từ cuối năm 1969. Như bao nhiêu bạn KQ khác thường xuyên đảm nhận những phi vụ nguy hiểm, anh sớm có khái niệm về chiến tranh rất rỏ ràng, và luôn cố gắng sống đúng với tinh thần làm trai thời loạn. Với ánh mắt cương nghị, vẻ mặt khí khái của một đấng nam nhi sớm si mê sự rộng lớn của không gian và màu xanh thẳm của bầu trời, cao ráo trong bộ đồ phi hành màu đen, anh b́nh thản đi vào cuộc chiến bảo vệ quê hương với tấm ḷng tràn đầy nhiệt huyết của một thanh niên khi tổ quốc lâm nguy. Vào tháng 2, 1971, phi đoàn 219 của anh ứng chiến cho cuộc Hành Quân Lam Sơn 719, anh vừa tṛn 22 tuổi, và là phi công phụ trong chiếc trực thăng H34.

Những ngày đầu và cả tuần sau khi đặt chân lên Đồi 31, trung đội 2 của Đồng lo đào hầm, cũng cố vị trí chiến đấu cho đơn vị của ḿnh, và cùng với Đại Đội 33 đảm nhận bảo vệ an ninh, pḥng thủ ṿng đai lớn cho Đồi 31, bảo vệ băi đáp trực thăng trên yên ngựa cho những chuyến chuyên chở liên tục của các trực thăng Chinook lặc lè đạn pháo, rồi những khẩu pháo 105 cùng các pháo thủ, xe ủi đất hoàn tất các hầm kiên cố chỉ huy cho Bộ Chỉ Huy LĐ3ND, cho Bộ Chỉ Huy TĐ3ND và cho 6 vị trí đặt súng 105 ly của pháo đội B3.

Ngày N + 9, sau khi bàn giao nhiệm vụ bảo vệ và pḥng thủ Đồi 31 lại cho ĐĐ 32 của Đ. Úy Thiếp cùng với Đại Đội Công Vụ 30 của Đ. Úy Toán, trung đội 2 của Đồng cùng ĐĐ 33 dưới quyền chỉ huy của Đ. Úy Lê Thành Bôn, được điều động bung ra 2-3 cây số bên ngoài về hướng Bắc của Đồi 31. Trong khi ấy, ĐĐ 31 của Đ. Úy Ngô Tùng Châu bung về hướng Đông và ĐĐ 34 của Đ. Úy Trương Văn Vân về phía Nam. Nhiệm vụ: lục soát, tảo thanh, sẳn sàng giao tranh và đánh phá lực lượng địch. Trước khi rời Đồi 31, Đồng e dè cân nhắc nhiệm vụ của từng binh sĩ, từng toán khinh binh, xung kích, yểm trợ hay hỏa lực, để có sự hữu hiệu tối đa của từng cây súng M16 cá nhân hay M60 cộng đồng, phóng lựu M79 hay hỏa tiển cầm tay M72 khi cần xung phong, lúc cần bổ xung cho nhau, xé nhỏ các đội h́nh, coi lại trang bị... Và chính anh sẽ dẫn đầu một trong 2 toán khinh binh đi mở đường.

“Đang chông chênh bên triền núi cách trục chính chừng năm mươi mét, khoảng cách đủ tầm quan sát trên địa thế hẹp và rậm rạp cỏ tranh, sim rừng:

…Ầmmmm… toctoctoc…toctoctoc…toctoctoc

Ngay trên nếp gấp khúc của địa h́nh, chúng tôi chạm địch ở hướng chính, loạt đạn đầu tiên của họ là một sự phối hợp nhịp nhàng của B40 và AK47, sau đó là âm thanh ồm ồm của trọng liên, trên máy tôi nghe On báo cáo đă có thương vong. Biên và Chính vẫy tôi từ sau một ụ mối, khom người chạy lên theo hướng tay của Chính tôi thấy cụm hỏa lực của họ, khẩu 12ly8 đặt ngay ngă ba của hai dăy đồi gặp nhau khống chế trọn vẹn hướng tiến quân của chúng tôi trên yên ngựa hẹp. Trung đội ba hứng toàn bộ áp lực đó và rất khó xoay sở. Tôi báo lên đại đội vị trí của chúng tôi, t́nh h́nh địch, nhận định và đề nghị của ḿnh về trận thế. Họ chưa phát hiện chúng tôi ở bên cánh trái, không có lằn đạn nào quạt xuống sườn đồi, toàn bộ hỏa lực của một chốt mạnh, bắn xối xả dọc theo lườn xâu táo và sườn phải, nơi Trung đội một và ba cũng đang bắn trả dữ dội, tôi ra thủ hiệu cho toàn trung đội nằm im bất động, tránh sự phát hiện của địch. Quá gần để xin sự yểm trợ của phi pháo, và cũng không thể rút lui để dăn khoảng cách, khi mà các chiến sĩ khinh binh của trung đội ba đang nằm trọn trong tầm khống chế của hỏa lực đối phương. Đại đội trưởng quyết định chuyển hướng tấn công chính qua trung đội tôi, hai trung đội c̣n lại tung hết hỏa lực, thu hút sự chú ư của địch.

Trao đổi chớp nhoáng với Biên, Chính, Muôn và Thượng sĩ Đàng, chúng tôi đồng loạt khai hỏa tám trái hỏa tiễn M72 và cắp súng lao lên. Muôn dũng mănh như một con hổ dữ, cây M60 trên tay anh đẩy dồn địch vào thế bất ngờ hoảng hốt sau một chùm tiếng nổ uy hiếp của M72, địch quay ngoắt ṇng 12ly8 sang trái kết hợp với cây RPD cố gắng kháng cự, chúng tôi lại gặp hên, có lẽ họ không tiên liệu được trên sườn dốc dựng đứng lại có một cánh quân đang hành tiến một cách kín đáo, họ đă để trống hỏa lực, và có lẽ các xạ thủ này quen bắn máy bay hơn là đối kháng với bộ binh, nên đến khi Muôn xông lên gần tới, ṇng 12 ly8 quay vội vàng, lại phải chúc mũi bắn xuống, không đạt được hiệu quả tác xạ. Họ cũng can đảm không kém khi phải đứng lên trước làn đạn điêu luyện của Muôn và tốc độ xung phong dũng mănh của các chiến sĩ khinh binh với sự dẫn dắt của Biên, Chính, Thông, Chí. Cây trung liên nồi RPD cũng lâm vào t́nh thế tương tự. Họ không c̣n cơ hội để sửa chữa sai lầm tai hại đó. M60 trên tay Muôn đốn gục tổ xạ thủ, trọng liên của địch, cùng lúc Chính thẩy chính xác một trái lựu đạn M67 vào ngay ổ RPD, cơ phận địch sống sót nhốn nháo rút lui gặp ngay sự truy kích của Trung đội ba đang “ thừa thắng xông lên”, chốt đă bị bứng gọn, Trung đội ba lại được dương về phía trước áng ngữ mặt tiền trận địa và chúng tôi tổ chức pḥng thủ tạm thời, để pḥng địch phản kích, để tải thương và chuyển chiến lợi phẩm về căn cứ.

Không có chiến thắng nào lại không đổi bằng máu xương người lính, và ṿng nguyệt quế nào lại không man mác chia ly, Biên bế Chí trên tay ràn rụa nước mắt, máu anh thấm đẫm áo hai người, Chí ngă xuống khi đang cùng với Thông cố chiêu hàng người lính địch bị thương, anh ta ôm gh́ khẩu AK trong hầm chiến đấu, Chí chĩa súng thủ thế và ra lệnh:

- Bỏ súng xuống, tôi sẽ đưa anh lên băng bó!

Đáp lại ṿng tay đầy t́nh người của Chí là một băng đạn AK hất ngược anh trở lại. Chí chết khi hai mắt vẫn c̣n mở lớn. Nếu muốn giết anh ta trong cơn thất thế, Chí đă làm việc đó dễ dàng, hà cớ ǵ lại phải phơi người trước mũi súng, Chí ơi, Chí làm sao hiểu được tại sao những chiến binh bên kia lại quá nhiều căm thù?”

Tôi buồn bă nh́n đống chiến lợi phẩm, Biên thẩy xuống trước mặt tôi cây 12ly8 bên cạnh khẩu súng cối 82 và RPD,B40…ánh mắt anh thoáng nhiều trách móc, Chí là em kết nghĩa của Biên, đă nhiều lần Biên nói với tôi để Chí đoạn hậu, hay thử M60 cũng được, hai anh em tôi một đứa khinh binh được rồi, tôi lại rất ngại phải xáo trộn đội h́nh khi phải đưa người này lên đưa người kia xuống, đă đành không phải ở Tiểu đội hỏa lực là an toàn hơn ở Tiểu đội Khinh Binh, tỷ lệ thương vong ở hai vị trí này khi lâm trận là một chín một mười, có khi địch tập trung hỏa lực khống chế cây M60 nếu họ phát hiện, th́ cũng gian nguy không kém, và hai Tiểu đội hỏa lực cũng phải xung phong theo đội h́nh Trung đội khi tấn công, chứ không phải chỉ thuần túy yểm trợ. Tấm ḷng người anh của Biên muốn thu xếp cho người em một chỗ ít nguy hiểm hơn ḿnh đă không được toại nguyện, Chí đă vĩnh viển ra đi, sự hi sinh của anh khắng định tính cách của người lính bên này chiến tuyến. Chúng tôi chiến đấu không hận thù và cuộc chiến đấu của chúng tôi mang đầy nhân tính. (1)

Theo lệnh của Pḥng 3 Quân Đoàn 1, Phi Đoàn 219 được đặt dưới sự trưng dụng của Sư Đoàn ND trong suốt cuộc hành quân Lam Sơn 719. Ngoài những phi vụ thường lệ hàng ngày, nay Phi Đoàn 219 đảm nhiệm thêm việc yểm trợ trực tiếp cho Nhảy Dù, từ các phi vụ đặc biệt nhảy toán cho đến các phi vụ tiếp tế lương thực súng đạn hoặc tản thương cho các đơn vị tác chiến ND hành quân bên ngoài các căn cứ hỏa lực 29, 30 và 31. Do đó, mỗi ngày Phi Đoàn 219 tăng phái một phi đội gồm 2 hoặc 3 chiếc H34 nằm trực chiến ban ngày tại Khe Sanh, nơi đặt bản doanh tiền phương của Sư Đoàn ND, và cứ đến chiều th́ bay về nghỉ đêm tại Phú Bài. Có lẻ “hot” nhất vẫn là các phi vụ tản thương các binh sĩ ND bị thương khi hành quân lục soát xung quanh các căn cứ hỏa lực và đụng độ với cọng quân. V́ chuyện bay tiếp tế hoặc tải thương này vẫn xẩy ra hầu như hàng ngày, nên Khánh coi như pha, b́nh thảng đi vào những ṿm trời đầy nguy hiểm. Phi đội của anh cứ luân phiên trực chiến ở Khe Sanh/ Phú Bài 4 ngày rồi trở về Đà Nẳng. (2)

***H́nh chụp giữa năm 1970 của Th. úy phi hành Bùi Tá Khánh / H34 / Phi Đoàn 219

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1542079486

Ngay sau lần chạm địch đầu tiên vào buổi sáng, ĐĐ 33 tiếp tục tiến bước, vượt qua tuyến đầu của địch, đến mục tiêu kế tiếp, trong thế các trung đội sẳn sàng yểm trợ cho nhau. Cùng lúc, hàng loạt đạn pháo từ pháo đội B3 trên Đồi 31 liên tục nhả đạn bắn vào ngọn đồi trước mặt.

“Đợt pháo kích theo lời yêu cầu vừa chấm dứt, hai chiếc HU1A của KQVNCH nối đuôi bay quành trở lại, phối hợp nhau gởi xuống mục tiêu những quả rocket dài ngoằn xé gió. Chúng tôi biết ḿnh phải làm ǵ sau đợt không kích đó.Tôi đọc thấy thoáng âu lo trên khuôn mặt từng chiến sĩ. Kể cả tôi, cũng không thể trốn tránh thực tại hết sức căng thẳng của trận chiến. Vừa vượt qua cái chết buổi sáng đă phân vân với số mệnh buổi trưa. Ai đă đi qua chiến tranh, đă đánh chừng mươi trận mà vẫn c̣n sống để chờ đợi trận đánh thứ mười một chưa biết mất c̣n, mới chia xẻ được cái cảm giác hồi hộp, nặng nề của người lính trước trận đánh. Huống chi quanh đây, không kể hai tân binh mới ra trận lần đầu chưa biết ḥn tên mũi đạn, từ quan tới lính, người nào cũng dự vài ba chục trận, vài ba chục lần quẳng cái bản chất thằng người tham sanh úy tử xuống đất, ôm súng lao lên theo tiếng thét xung phong của đồng đội. Có muốn hèn cũng không thể hèn được, có muốn dừng lại cũng không thể dừng lại được. Cái cảm giác xung trận nó vô cùng kỳ lạ, nó cuốn hút người ta lao vào bất kể tới đâu… Cứ phỉnh phờ cái lo lắng, cứ giả vờ hồn nhiên cười cợt, mà sao trong những đôi mắt kia chợt tối nỗi bâng khuâng.

Có phải Biên đang nghĩ đến đàn con quây quần trong ánh đèn vàng vọt, căn nhà nhỏ trong trong trại gia binh có ai đang thao thức nguyện cầu, có phải Muôn đang nhớ về người t́nh chơn chất, lời hẹn thề chưa ngút một tuần trăng. Có phải Chính đang rối bời mẹ già tóc bạc, phận làm con biền biệt chốn biên cương. Ô ḱa ông Đàng! Mười hai năm quân ngũ đă hằn lên vết tích, tuổi thanh xuân qua trên khổ lụy quê nhà có làm anh ít nói, hay đang lặng im trên chính về nỗi ước mơ c̣n xa vời vợi, mảnh vườn quê chim hót nắng mai. Và Sĩ, Thông, và Kiều, và…hai mươi sáu cái nón sắt rằn ri màu lá, che kín hai mươi sáu cơi riêng tư. Đă điên đâu mà vui mừng hăng hái, có phải là đồ tể đâu mà say máu bắn giết, chẳng qua, họ đă dấy động can qua th́ chúng tôi phải chiến đấu để tự vệ, để dành cái quyền sống làm người theo cách đă chọn lựa…

Ngay khi các toán trinh sát xuất phát chừng một trăm mét, trận địa đang im lắng bỗng rộ lên hàng loạt tiếng súng cối và tiếng đạn đi xé gió, khoảng năm hoặc sáu khẩu 82 ly của địch xa về hướng Tây, tác xạ tập trung vào vị trí đại đội, dù không chính xác cho lắm, nhưng pháo kích kiểu văi đậu như thế này, quả thật cũng làm chúng tôi lúng túng. Phía trước mặt, hỏa lực bắn thẳng của họ cũng bắt đầu lên tiếng, ḥng chặn đứng mũi tiền kích đang cố gắng bám vị trí.

Trong khi chúng tôi chật vật v́ súng cối địch, th́ vị trí của họ cũng tả tơi dưới hàng loạt đạn pháo của B3 từ Đồi 31 và từ Pháo đội C3 của Căn cứ hoả lực ở Đồi 30 trong tầm hiệu quả, đang bắn yểm trợ.

- Lỡ rồi! Chơi luôn Một Hai Ba!

- Một nhận!

- Hai nhận!

- Ba nhận!

- Tụi nó ở dưới khe suối cạn và đỉnh đồi bên kia!

- Chờ thằng Phở bắc nấu xong tô nào chơi tô đó, Phú Bổn lên với Phú Ông, Một và Hai theo luôn trái phải!

- Hai nhận!

Biên đă bắt tay được với Chính, Thông, Sỹ tôi vắn tắt lịnh tấn công sau đợt pháo chuyển làn tác xạ, cần phải nhanh chóng giải quyết trận địa nếu không muốn làm bia cho địch pháo kích.

Đúng lúc những loạt đại bác dồn lên sườn đồi bên kia, chúng tôi đánh ép xuống thung lũng với ṇng súng cắm lưỡi lê sẵn sàng cận chiến.Từ triền dốc thoai thoải, Biên và Chính phối hợp nhau dẫn đồng đội tiến lên từng điểm ẩn nấp dưới làn đạn địch, Thông băng thật nhanh lên phía trước, bắn gh́m sát mặt đất vừa dứt một băng đạn lá đă tấp vào được một gốc cây ven b́a suối, ống quần rách toạc v́ vướng gai buổi sáng chưa kịp thay, ḷng thong miếng vải phất lên phất xuống không đủ che cái mông ốm nhách, xám xịt, anh chàng quay lại toét miệng định cười, đă vội nằm hụp xuống, tay giữ nón sắt, co gọn người tránh làn đạn vuốt cỏ cây ngă rạp bên cạnh, anh rút chốt trái lựu đạn ném về phía trước, bắn rẽ quạt cho Chính, Sỹ và Tiểu đội Khinh binh tiến lên hàng ngang, bám được b́a rừng là nắm chắc tám mươi phần trăm chiến thắng, là hạn chế tối đa thương vong. Và địch cũng hiểu như vậy nên họ tổ chức phản kích dữ dội, liệu thế đơn vị chốt tại bờ suối không chống đở nỗi, khoảng chừng một Trung Đội địch từ trên đỉnh đồi tràn xuống cứu viện, quyết không cho chúng tôi vượt qua.

Đến đây tôi chợt hiểu, chúng tôi đă được chỉ huy và theo dơi chu đáo từ Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, Lữ Đoàn, khi cánh quân địch nhớn nhác tràn xuống chưa tới lưng chừng đồi đă phải khựng lại rồi tan tác dưới từng loạt pháo nổ chụp thần sầu của B3. Từng mảnh người tung lên rồi đổ gục. Ha ha chưa biết ai chơi “Công đồn đă viện” thiện nghệ hơn ai đấy nghe ông bạn. Liêu Thăng, Mộc Thạnh đă bị chém đầu th́ Vương Thông c̣n hơi sức đâu mà đấm đá. Hàng ngũ địch hoảng loạn, hỏa lực của họ tức khắc rối bời không che phủ nhau được như trước.

Đúng lúc đó, Đại đội phát lệnh xung phong toàn đơn vị.

- Xung phong!

Tiếng thét rền vang vách núi, đoàn quân băng băng trên triền dốc lao xuống, vượt qua lửa đạn, vượt lên chông gai xông tới, tiếng quân reo át tiếng đạn thù. Xung phong! Xung phong, đạn xủi mặt đất, đạn xuyên tàng lá, đạn nổ bùng lửa đỏ, đan veo véo bên tai, người trước ngă người sau xông tới, khản cổ theo tiếng reo đồng đội, tim đập muốn vỡ tung lồng ngực. Hây Sỹ, sao nằm đó? Ê Kiều! Mày cũng nằm đó sao? Tụi nó chết rồi! Hây! Phi? Bị thương rồi hả? Đưa máy đây! Xung phong. Xung phong. Tôi quàng vội chiếc máy truyền tin, dặn Phi nằm đó, Trung đội 4 sẽ lên kéo về. Hai nghe Hai nghe! Lên luôn nhận năm, được 3 hầm có cả cối! Nằm xuống Trung Úy! Chính húc luôn cái nón sắt vào mặt xô tôi ngă rạp đúng lúc làn đạn cắt lá rụng tả tơi trước mặt, không hề ǵ, cái hầm này nằm dưới đám rễ cây, nảy giờ chơi đủ…

Vậy thôi, chiến tranh không c̣n chỗ cho sự khoan nhượng khi mà giọt máu của Chí c̣n nóng hổi trên trận địa, không c̣n thời gian để lưỡng lự khi cái chết và sự sống gần nhau trong gang tấc. Thêm Sỹ và Kiều, trong một ngày mất luôn 3 mạng người không thể thay thế, không thể so sánh khi đă cùng nhau miệt mài trên những nẻo đường đất nước. Các sĩ quan ở Tổng cục chiến tranh chính trị và Pḥng 5 Bộ Tổng Tham Mưu có thể xoa tay hài ḷng trước sự chênh lệch về tỷ số thương vong của hai phía, đếm xác địch và ta để thống kê chiến thắng. Vâng, mười hai xác địch tại trận địa, vắt vẻo trên miệng hầm trong một tuyệt vọng thoát thân, chôn vùi trong hố chiến đấu bị bắn sập trong cố gắng kháng cự, tan xác dưới hố đạn pháo binh…So với hai Chiến sĩ ta tử trận. Tỷ lệ chênh lệch lớn lao đó cũng không thể xoa dịu nỗi đớn đau của người lính bên xác đồng đội. Bên những khuôn mặt mới đây c̣n nói nói cười cười, c̣n chia nhau mẩu thuốc quân tiếp vụ cong queo trong túi áo…hay thậm chí mới đây c̣n…đm thằng này thằng nọ.

Tôi giở poncho nh́n mặt Kiều và Sỹ lần cuối, máu người chết trận sủng thâm màu áo lính, hai người lănh nguyên mấy mảnh cối 82 nổ trên tán cây, chụp xuống khẩu đại liên đang mải mê nhả đạn...

Chúng tôi phải bố trí lại hỏa lực khi cây đại liên của Kiều đă bị hỏng chưa kịp thay thế. Trung đội 1 không có thương vong, Trung đội 3 lại dính thêm một chết, hai bị thương, vị chi từ sáng tới giờ, hắn ba, tôi ba, đổi lại trên hai mươi xác địch với từng đó súng ống, chưa kể súng cộng đồng. (1)

Cho lệnh trung đội nằm dưỡng tại chổ 15 phút, Đồng lo tản thương 2 người lính bị thương của ḿnh cùng 3 thi thể Chí, Kiều và Sỹ cho trung đội 4 chuyễn về phía sau. Cổ họng khô gắt khiến hơi thuốc hít vào trở nên đắng nghét, Đồng thả điếu thuốc xuống đất và dí dôi giày trận lên tàn thuốc, rồi cầm bi đông nước hớp vài hớp nhỏ cầm chừng. Giờ đây, trung đội 2 c̣n 23 người, kể cả Đồng, bố trí rải rác sau các thân cây xung quanh anh.

“Hai giờ chiều, mặt trời đă ngả về Tây, cơn nắng chói khô khốc chợt rộ lên luồng gió nóng, ngay sau khi căn hầm cuối cùng tại bờ suối bị Thông và Muôn tiêu diệt, Trung đội cấp tốc tiến lên phía trước, di chuyển thật nhanh trên một địa h́nh trống trải dưới hỏa lực vỗ mặt của địch, tuyến tấn công phải mở rộng hai cánh. Chúng tôi cũng chẳng phải Tề thiên Đại Thánh hay ḿnh đồng da sắt ǵ để khơi khơi xông thẳng vào lửa đạn, từng khoảng cách rút ngắn giữa địch và ta cũng đồng nghĩa với từng phút giây bọt bèo sống sót. Là từng giây phóng ḿnh thật nhanh từ điểm ẩn nấp này lao qua điểm ẩn nấp khác, g̣ mối, gốc cây, bụi cỏ, tảng đá, hay thậm chí chỉ là một nhánh lá mong manh. Đạn địch xủi dưới gót chân, đạn vỡ tung vỏ cây trước mặt…Là bắn, là bắn, bắn hết khả năng của vũ khí, để tiếng đạn ḿnh át tiếng súng thù, để chỉ c̣n bên tai tiếng nổ ḍn của M16, tiếng gà ṇi ấm cũng của M60…Cọc cùm…cọc cùm M79 gơ nhịp. Lưng chừng đồi cỏ cây ngă rạp, vỏn vẹn chừng một trăm mét nữa là xong, là phận ai nấy biết, nhưng không tài nào, tiến lên được nữa. Chúng tôi bị chận đứng ngay trên vị trí một Trung đội của họ bị tiêu diệt trước đó, xác người rải rác chung quanh những vết nổ của đạn pháo.

Bây giờ đến lượt pháo địch nổ giữa chúng tôi, cộng với hỏa lực dày đặc từ đỉnh đồi bắn xuống không ngóc đầu lên được chứ đừng nói nhổm người dậy. Tôi rủa thầm, ở đâu ra mà nhiểu 12ly8 bắn rán mặt, đụng sơ sơ từ sáng tới giờ, cả 3 tuyến đều có pḥng không. Gió lại trổi mạnh, cũng may, nhờ thế mà những trái 82 ly bị đẩy dạt khỏi mục tiêu, dù không xa, nhưng cũng hạn chế được ít nhiều thiệt hại, cũng có thể họ chưa tính hết sức gió trong yếu tố tác xạ. Giờ này mà có vài phi tuần gơ xuống đỉnh đồi chừng chục trái năm trăm pounds, bới tung hầm hố nó lên th́ đỡ vất vả biết bao?

-Một, Hai, Ba đây Phú Bổn! Một nghe đích thân! Hai nghe đích thân! Ba nghe đích thân!

-Cho cóc nhái sẵn sàng! Các Đích thân gặp Phú Bổn ngay.

Tôi ngạc nhiên, đang đánh chác thế này co về thủ sao được trên một vị trí quá nguy hiểm mà ổng lại ra lệnh sẵn sàng ḿn và chiếu sáng? Phân vân th́ phân vân, cũng phải t́m gặp ổng rồi mới tính. Giao máy cho Thượng sĩ Đàng chỉ huy trung đội, tôi lần ṃ trở lại chừng hai mươi mét. Cả bộ chỉ huy đại đội mặt mày đen thui v́ khói, than, chẳng hơn ǵ chúng tôi.

-Vắn tắt cho các anh rơ! Lệnh Sư đoàn phải nuốt xong cục xương này mới được nghỉ. Tập trung ḿn chiếu sáng lên phía trước, theo lệnh trên máy, đồng loạt ném và xung phong ngay, các anh thấy gió chuyển hướng mạnh về phái tụi nó chứ?

-Đốt tụi nó?

-Phải làm nhanh, gió đổi hướng lại chạy không kịp đó! Rơ chưa?

-Về làm nhanh!

Trước khi quay về Trung đội, tôi liếc nh́n cuộn poncho gói xác, đưa mắt hỏi Thượng sĩ nhất Xá: Ai đó? Trung sĩ Tâm, Pháo binh Đề lô.

Lẩm nhẩm một lời cầu nguyện vô bổ, chết chi trẻ quá Tâm ơi! Tôi băng ḿnh trở lại tuyến chiến đấu, chuyển đạt nhanh chóng mệnh lệnh tác chiến.

-Một, Hai, Ba, đây Phú Bổn! Xong chưa? Một xong! Hai xong! Ba xong!

-Đánh!

Tôi phất tay cho Trung đội đồng loạt ném hết cơ số ḿn chiếu sáng về phía trước. Tách tách tách…x̣e x̣e…tách tách x̣e x̣e lốp bốp lốp bốp, ngọn lửa lùng bùng lên dữ dội rồi lan nhanh về phía trước, râu tóc mặt mày khét lẹt. Thế thượng phong ngàn năm một thuở, lửa lửa, lửa cuộn lên theo tiếng quân reo, lửa tràn lên theo cỏ tranh ḍn dă, khói cuồn cuộn mịt mù, khói làm màn che cho quân ta tiến tới, bốc trong băo lửa xông lên. Lưỡi lửa liếm một ṿng cung h́nh bán nguyệt, thắt gọn vị trí địch trong trận hỏa công dữ dội, những căn hầm được ngụy trang kỹ lưỡng bằng cỏ tranh tiệp màu bỗng chốc trở thành mồi ngon cho ngọn lửa, hầm đạn nổ tung tóe, cả ngọn đồi nhanh chóng ngập tràn biển lửa, địch quưnh quáng tung hầm tháo chạy, có tên lưng c̣n bốc khói. Trận Xích Bích là đây! Các chiến sĩ khinh binh tràn lên đỉnh đồi chiếm lĩnh trận địa, thanh toán nhanh chóng những ổ kháng cự yếu ớt, địch làm sao chống lại nổi khi trước mặt là lửa táp, là khói thuốc theo luồng gió ngược, lùa vào mồm vào mũi, tối tăm mặt mày chưa kịp dụi mắt ngáp gió lấy hơi đă gục ngă trước lưới đạn càn quét quyết liệt của quân ta đang tràn lên theo lửa cuốn. Đại đội khai thác tức khắc hiệu quả chiến thắng, thúc cả ba Trung đội đánh bung sườn đồi, đuổi địch chạy có cờ xuống thung lũng.

Trận đánh thật đẹp và hùng tráng, trong bối cảnh ráng chiều chưa tắt, ánh nắng xuyên qua khói lửa rải xuống chiến trường những giải vàng lóng lánh, thấp thoáng bóng quân ta dọc ngang đỉnh đồi, như thấp thoáng hồn sông núi cựa ḿnh muốn vượt qua định mệnh. Tiếc quá, không có một phóng viên chiến trường nào ghi lại được trên băng nhựa phút giây ngất trời ngạo nghễ đó, để mai này, trên những kư sự truyền h́nh được chiếu ra rả từ hai phía suốt mấy chục năm năm, cuộc chiến trên quê hương đau đớn chúng ta không phải chỉ là cuộc chiến của người Mỹ và phía bên kia.

Lửa cháy để lộ nguyên một đỉnh đồi với hầm hào chi chit của cấp đại đội cọng. Thế mà trước đó, khi hai chiếc HU 1 A bay ḷng ṿng trên đầu, họ vẫn ém kỹ hỏa lực mạnh mẽ này không khai hỏa, măi cho đến khi chống đỡ dưới áp lực công kích của chúng tôi, mới lên tiếng. Dưới hỏa lực pháo kích ngày càng dữ dội, Đại đội nhanh chóng chuyển tất cả thương binh tử sĩ về phía sau cùng với súng ống của địch, không đủ thời gian thu nhặt, nên ngoài những vũ khí cộng đồng bắt buộc phải chuyển về như cối 12ly8 và 82 ly không giật mà địch c̣n để lại nguyên vẹn, các vũ khí cá nhân AK, B40, phải tháo gỡ tùng bộ phận, ṇng súng liệng một nơi, cơ bẫm quẳng một ngă,

Trong số địch tử thương, có hai người là cấp chỉ huy, trong căn hầm bị Trung sĩ Yến, Tiểu đội trưởng Tiểu đội hỏa lực số hai bắn sập bằng M72, có cả máy truyền tin Trung cộng, hai xác chết đeo hai cây K59 c̣n mới.

Và thật đau đớn, ngay khi nhận được lệnh di chuyển khỏi vị trí, chúng tôi vĩnh viễn mất người chỉ huy thân thiết, tài giỏi. Thượng sĩ nhất Xá băng ngược đội h́nh, chạy lên t́m tôi:

-Trung úy! Đại úy chết rồi! - Sao? Sao?

Tai tôi lùng bùng, không tin điều ḿnh đang nghe.

Tôi theo ông Xá chạy quành về Bộ chỉ huy Đại đội, trên vết nổ c̣n bốc khói của một trái 82, Đại úy Lê Thành Bôn, Đại đội trưởng Đại đội 33 Tiểu đoàn 3 ND đă anh dũng hi sinh, hai tay ông c̣n nắm chặt ống liên hợp trên hai chiếc máy truyền tin vỡ nát, bên cạnh hai người lính truyền tin hy sinh cùng lúc. Tôi biết, trong những mệnh lệnh mà ông truyền đạt trên máy, yếu tố hạn chế thiệt hại cho thuộc cấp là ưu tư hàng đầu của người sĩ quan nhân hậu, đằm thắm và tài ba nhất tiểu đoàn. Nếu không có ông, mấy ai đă nghĩ ra trận hỏa công thần sầu đem chiến thắng về cho đơn vị với thiệt hại tối thiểu”. (1)

Trong buổi chiều cùng ngày, ĐĐ 33, bấy giờ do Tr. úy Đồng tạm thời nắm chức vụ đại đội trưởng, được lệnh cấp tốc rút về lại Đồi 31. Lư do: dành khoảng trống mục tiêu cho 1 pass B52 thả trước nữa đêm vào khu vừa giao tranh. Cuộc rút quân hoàn thành tốt đẹp qua những nghi binh phù phép biến ảo bởi sương mù đang dần xuống, dù địch bám sát trận địa và liên tục pháo vào những vị trí vừa bị mất, nghĩ rằng quân ND vẫn c̣n cố thủ tại đó. Trong cùng thời gian, pháo đội B3 ND vẫn tiếp tục phản pháo chính xác và bắn cận pḥng cho ĐĐ 33.

Sau khi toán tiền thám do Th. Sĩ Đàng về lại Đồi 31 bằng một con đường khác và ngắn hơn đường đă xữ dụng trong ngày, đă lục soát kỹ và không có dấu vết của địch ẩn núp chờ đợi phục kích, bấy giờ Tr. úy Đồng mới cho phép từng trung đội một từ từ rời vị trí chiến đấu và rút về căn cứ hỏa lực 31. Khi toàn đại đội 33 đă rút trọn vẹn về vị trí an toàn, địch vẫn liên tục pháo kích vào vị trí “không người” măi tới sáng hôm sau.

Trong đêm, độ chấn động của những trái bom năm trăm pounds được rải xuống từ B 52 chỉ đủ làm rung nhẹ cánh vơng… Nghĩa là cách xa Đồi 31 ít nhất cũng trên mười cây số. Chứ không chỉ 2 hoặc 3 cây số là nơi ĐĐ 33 vừa giao tranh và địch đang có ư đồ tái chiếm. Để rồi mấy ngày sau nữa, khi nhận thấy có những nguy cơ xuất phát từ đó uy hiếp Đồi 31, Bộ tư lệnh hành quân đă cho đổ bộ hai đại đội của TĐ6ND xuống những ngọn đồi mà trước đây ĐĐ 33 đă chiếm được và đă triệt thoái, với t́nh thế khác hẳn. Ở đó, địch đă trở lại với quân số nhiều hơn và đă dọn sẵn một trận dịa pháo kích tập trung, chính xác. Chúng tôi ở trên đồi 31, quan sát cuộc đổ bộ của đơn vị bạn bằng mắt thường, ḷng xót xa theo những cụm khói bốc lên của đạn pháo địch…Mở đầu cho những thách thức cam go trong những ngày tới.

Bản thân Đồi 31 là một “căn cứ hỏa lực dă chiến”, có giá trị chiến thuật trong một giai đoạn ngắn. Thường thường trong mỗi một cuộc hành quân, đôi khi LĐND lập hai hoặc ba căn cứ như thế, bỏ căn cứ này lại lập căn cứ khác tùy theo nhu cầu chiến thuật. Do đó về phần công sự, là những vật liệu tại chỗ, không có lấy một cuộn kẽm gai, không có băi ḿn ngoài những trái claymore, như những vị trí đóng quân đêm b́nh thường, lực lượng pḥng thủ không bao giờ vượt qua một Đại đội (không kể Đại đội chỉ huy công vụ của Tiểu đoàn có một phần quân số trong căn cứ, nhưng không có trách nhiệm pḥng thủ).

Đại đội 33, TĐ3ND, lui về đảm trách pḥng thủ căn cứ sau khi đă bị tiêu hao phần nào trong trận đánh ở ngoại vi Đồi 31. Với dưới bảy mươi tay súng nay pḥng thủ một tuyến rộng lớn bao gồm vị trí của Pháo đội B3 TĐ3PBND của Pháo đội trưởng Đ.úy Nguyễn Văn Đương, với 6 ụ pháo 105ly, đồng thời phải bảo vệ Bộ chỉ huy TĐ3ND và Bộ chỉ huy Lữ đoàn 3ND đang trú đóng trong căn cứ. Đó là tất cả lực lượng cố thủ đồi 31. Các đại đội 31, 32 và 34 đang hành quân lục soát bên ngoài, cách xa chừng hai đến ba cây số. ĐĐ 3 Trinh Sát Nhảy Dù bố trí ở một vị trí khác bên ngoài ṿng đai.

Riêng Trung đội của Đồng, ngoài tuyến pḥng thủ, được giao ở mặt Bắc nh́n xuống một triền đồi thoai thoải, c̣n có nhiệm vụ bảo vệ băi trực thăng nằm chếch bên ngoài cứ điểm.

Là một đơn vị tinh nhuệ ND, ĐĐ 33 tự tin ở khả năng chiến đấu của đơn vị, và đủ sức cố thủ cứ điểm trong thời gian cần thiết, chứ không phải lâu dài, trước các cuộc tấn công cổ điển tiền pháo kết hợp với đặc công đột kích, nếu được yểm trợ đầy đủ, hữu hiệu và kịp thời, từ không quân VNCH, không quân Đồng Minh, hỏa lực từ Đồi 30, Căn Cứ Hỏa Lực A Lưới và quan trọng nhất là ngay chính từ Đồi 31: Pháo đội B3 .

Trận chiến đấu trên đồi 31, phải nói cho đúng, trước hết là trận chiến của các chiến sĩ PB Nhảy Dù. Pḥng tuyến của trung đội 2 của Đồng rất gần những vị trí pháo, và cũng rất gần với Bộ chỉ huy Pháo đội, chỉ cách nhau một con đường nhỏ bao quanh vị trí, con đường gập gềnh cát bụi nối với băi tiếp tế bằng những chuyến xe GMC tới lui chở đạn và thực phẩm. Chiếc xe đó giờ đă nằm im bên sườn đồi, ḿnh lỗ chỗ vết đạn…

H́nh ảnh những chiến sĩ Pháo binh tả xung hữu đột giữa trận đối pháo mang khí phách của một chàng dũng sĩ giữa trùng vây quân địch, ṇng súng vừa thoắt bên Đông đă hiệu chỉnh về Tây, vươn cao mạn Bắc rồi nhanh chóng gh́m xuống phương Nam, quành quả tới lui tất bật giữa mưa pháo quân thù, lực bất ṭng tâm, trần thân trong nắng lửa vẫn kiên cường trong trận xa luân chiến không cân sức, dù trên ḿnh đă mang nhiều thương tích. Không một ngôn từ nào diễn đạt được hết nét kiêu hùng bất khuất đó của các pháo thủ Pháo đội B3. Nón sắt trên đầu, áo giáp che thân, những khuôn mặt căm đanh uất hận vươn theo ṇng pháo, mà tiếng đạn rời ṇng nào có khác tiếng gầm phẫn nộ của một chúa sơn lâm giữa bầy sói lang.

Mức độ pháo kích của địch càng ngày càng dồn dập. Không kể những khẩu đội 82 ly tập trung dày đặc xung quanh căn cứ thay phiên nhau suốt ngày th́ thụt, mà pháo binh tầm xa của địch như 122ly, 130ly cơ động, thay đổi vị trí nhanh chóng và hầu hết đều nằm ngoài tầm tác xạ tối đa của 105ly cũng như 155ly của phe ta. Pháo địch bắn như trống múa lân, sáng trưa, chiều tối, không kể giờ giấc, bắn không e dè sự phát hiện vị trí như trước. Pháo đội B3 đă phải quần thảo với địch gần như hai mươi bốn giờ trên hai mươi bốn giờ không nghỉ, suốt trong thời gian địch bắt đầu tạo áp lực lên căn cứ, cho đến khi kết thúc trận chiến.

Những vị trí pháo binh cố định của ta lần lượt bị pháo binh địch tập kích trúng, với khả năng hạn chế tại mặt trận, mặc ai bị thương, mặc ai nằm xuống, các pháo thủ vẫn đứng dậy, dựa lưng vào nhau, cố gắng sửa chữa, thay thế các cơ phận bị hư hỏng để duy tŕ sức chiến đấu của đơn vị. Nhờ thế, những vị trí 82ly quanh quẩn lần lượt bị vô hiệu hóa, có khi vắng tiếng cả hai ngày không bắn được một trái. Thay vào đó, mức độ bắn phá của 122 và 130 lại tăng lên.

Việc tải thương, tiếp tế cũng là một vấn đề nan giải, khi tuyến pḥng thủ đă quá mỏng, và càng mỏng hơn nữa khi quân số tiêu hao dần v́ pháo địch. Không lần nào không có thương vong v́ súng cối địch, và ít nhất cũng đă có hai chiếc trực thăng vĩnh viễn nằm lại băi đáp v́ trúng đạn pḥng không khi gần đến vị trí, và một phi hành đoàn đang c̣n kẹt lại. Đó là những phi vụ trực thăng gan dạ, khi mà lưới lửa pḥng không đă phục sẵn trên các đường tiếp cận nhằm mục đích khóa chặt nẻo vào từ mọi hướng, th́ chuyến bay các trực thăng của phe ta quả thật là vô cùng mạo hiểm, “một đi không trở lại” tựa như tráng sĩ Kinh Kha, đă bao nhiêu lần những chiếc trực thăng đột ngột cất lên từ một lũng núi mù mù sương sớm, hoặc lướt nhanh trên ngọn cây qua một đỉnh rừng, hay bay nghi binh thật xa để rồi luồn theo khe núi, đáp thật nhanh xuống băi, mang đến cho Đồi 31 tất cả nhu cầu không thể thiếu của mặt trận, thậm chí luôn cả báo chí và thư riêng. Như một chút hương yên b́nh quư báu từ hậu phương trên đất Mẹ.

Đây là thư đầu tiên của Phượng mà Đồng nhận kể từ HQ Lam Sơn 713. Đồng gặp nàng trên ghế trường Luật Sài G̣n khi tên Phượng đă vô t́nh nhắc nhở Đồng về màu đỏ thắm quyến rũ của phượng vĩ xứ Huế. Là màu đỏ anh luôn tha thiết nhớ thương. Đó cũng là màu chiếc beret hiên ngang trên đầu anh.

“Tôi soi ngọn đèn pin ḷ ḍ từng chữ và chợt buồn nhận ra, em vẫn không hiểu ǵ về tôi trong khi mỏi ṃn một nhịp cầu Ô Thước. Lá thư Phượng thật dài nhưng chẳng có ǵ để đọc. Kể cho tôi làm ǵ những ồn ào phố thị, kể cho tôi làm ǵ những khúc luân vũ đă làm mắt em say. Sài g̣n của em vẫn thế và giảng đường của em vẫn thế. Em không nói bên chiếc ghế tôi ngồi đă có ai quấn quưt? Nhưng tôi biêt đó không c̣n là thế giới của tôi, và chiến tranh dường như chưa bao giờ lai văng dưới những tàng cây bốn mùa dim mát. Không biết những tin tức từ mặt trận có làm sân trường đại học bớt tươi màu áo, mà sao những vô t́nh của em và bạn bè đối với cuộc chiến càng làm tôi xa cách vô cùng. Tôi không định trả lời thư cho Phượng, biết có c̣n trở về để thêm chi nhiều vương vấn, những giọt nước mắt chính danh đă lan tràn trên đất nước, c̣n khơi thêm làm ǵ chút sầu muộn người dưng.

N + 15, phi hành đoàn H34 của Tr. úy Chung Tử Bữu và Th. úy Bùi Tá Khánh cùng với Mê Vô Em vào phiên trực cho phi đội của anh. 2 chiếc H34 nhận lệnh cất cánh từ phi trường ĐN bay thẳng đến Khe Sanh. Chiếc H34 thứ hai do anh Yên làm phi công chính.

“Đúng giờ hẹn, chúng tôi ra phi cơ làm tiền phi, check nhớt, xăng, load những cơ phận sửa chữa dự trữ, đồ nghề và anh em kỹ thuật 219 rồi cất cánh, trực chỉ Đông Hà, Quảng Trị. Khoảng quá trưa th́ chúng tôi ra đến Khe Sanh. Vừa đến nơi, không màng ăn trưa v́ nóng ḷng muốn cứu đồng đội nên chúng tôi quyết định phải vào ngay Đồi 31 chứ không thể đợi lâu hơn được. Trong khi anh Bửu vào tŕnh diện với Bộ Chỉ Huy Tiền Phương SĐ Dù để đặt kế hoạch cho chuyến bay th́ tôi và Mêvô Em đi check lại máy bay. Xăng vẫn c̣n đầy b́nh trước, dư sức bay không cần phải refuel.

Một lát sau từ pḥng briefing ra, anh Bửu vắn tắt cho anh em biết về phi vụ quyết tử này. Chuyến vào chúng ta sẽ chở theo Th.úy Vinh và một tiểu đội Tác chiến Điện tử Dù của anh ta cùng với 18 chiếc máy "sensor" vào tăng phái cho căn cứ 31 dùng để phát giác đặc công địch, chuyến ra sẽ rước phi hành đoàn của Tr. úy Nguyễn Thanh Giang về. 15 phút trước khi lên vùng, pháo binh Dù sẽ bắn dọn đường mở một hành lang dọc theo quốc lộ 9, dập vào những địa điểm được ghi nhận có pḥng không địch v́ t́nh h́nh lúc này rất gây cấn, địch tập trung lên đến cấp tiểu đoàn pḥng không gồm đủ loại từ 37 mm, 12ly8 và lần đầu tiên c̣n nghe đâu có cả SA7 nữa.

Về không trợ th́ có 2 chiếc Gunship của phi đoàn 213 do Tr. uư Thục bay lead trước mở đường.

Trước đó trong lúc briefing, anh Bửu đă được nói chuyện trực tiếp với anh Giang từ trong đồi 31 và được biết, ngày hôm qua khi bay vào vùng anh Giang đă dùng chiến thuật "lá vàng rơi", từ trên cao cúp máy auto xoáy trôn ốc xuống, nhưng v́ pḥng không địch quá dày đặc nên khi gần đến đất, phi cơ anh bị trúng đạn rớt xuống găy đuôi nằm bên cạnh ṿng rào pḥng thủ ngoài cùng của Lữ Đoàn 3 Dù. Phi hành đoàn vô sự, chỉ có copilot là Th. úy Vơ văn On bị xây xát nhẹ ở cổ, tất cả chạy thoát được vào trong căn cứ Dù. Nhưng trước khi bỏ phi cơ, Mêvô Trần Hùng Sơn không quên vác theo cả cây M60 trên cửa máy bay nữa.

Rút kinh nghiệm, hôm nay anh Bửu bay Rase Motte sát ngọn cây theo hướng Đông-Tây đi vào. Trên đường bay dọc theo quốc lộ số 9, tôi c̣n nh́n thấy những cột khói bốc lên nghi ngút, chứng tỏ pháo binh Dù bắn rất chính xác và hiệu qủa. Gần đến LZ anh Bửu đổi hướng lấy cấp Đông Nam-Tây Bắc để đáp xuống. Vừa ló ra khỏi rặng cây, tôi đă thấy chiếc Gunship của trung uư Thục bay ṿng lại, cùng với tiếng anh la lên trong máy "Bửu coi chừng pḥng không ở hướng Tây". Từ trên phi cơ nh́n xuống, giữa màu xanh trùng điệp của rừng cây nhiệt đới, ngọn đồi 31 đỏ quạch nổi bật với những đốm bụi đất tung lên từng cơn v́ đạn pháo kích quấy phá của cộng quân Bắc Việt.

Không nao núng, anh Bửu vẫn điềm tĩnh tiếp tục đáp xuống. Khi phi cơ c̣n cách mặt đất độ 15 thước th́ trúng một tràng đạn pḥng không, phi cơ phát hoả, bùng lên một đám khói bao trùm cả phi cơ, MêVô Em la khẩn cấp trong máy - Đáp xuống, đáp xuống anh Bửu ơi, máy bay cháy.

Cùng lúc anh Bửu cũng cao tiếng báo động cho chiếc wing đang bay cũng gần đó -Yên ơi, tao bị trúng đạn rồi, đừng xuống nữa - trong khi vẫn b́nh tĩnh đáp xuống. May mắn là đạn trúng vào b́nh xăng phụ đă hết xăng, chỉ c̣n ít hơi đốt, nên phi cơ không bắt cháy như phi cơ đại uư An ở Bù Đốp hôm nào. Vừa chạm đất, theo phản xạ tôi cùng anh Bửu nhanh tay tắt gió, xăng, điện rồi nhảy ra khỏi phi cơ. Mọi người chạy ngược lên đồi về phía hàng rào pḥng thủ thứ nhất của Đại Đội công vụ Dù cách khoảng 100 thước. Tôi c̣n tiếc chiếc xách tay quần áo nên phóng vào trong phi cơ để lấy. Một cảnh thương tâm hiện ra trước mắt, một binh sĩ Dù bị trúng đạn ngay giữa trán, nằm ngửa chết ngay trên ghế. Trên sàn tàu, đống máy "sensor" vẫn c̣n nguyên vẹn. Tôi chỉ kịp vớ lấy cái xách tay rồi phóng chạy lên đồi theo những tiếng kêu gọi của binh sĩ Dù - trên đây nè thiếu uư, tụi tôi bắn yểm trợ cho - Tôi lom khom chạy trong khi tiếng đạn nổ lóc chóc trên đầu. Lên đến nơi tôi thở như ḅ rống. Không quân mà hành quân dưới đất th́ phải biết là mệt đến đâu. Tôi nhớ măi hôm đó là ngày 22 tháng 2 năm 1971.

Vừa ngồi nghỉ mệt, tôi vừa nh́n xuống băi tải thương nơi chiếc phi cơ đang đậu hiền lành, th́ cũng vừa lúc địch điều chỉnh tác xạ, một quả đạn đạn súng cối rơi trúng ngay tàu nổ tung, bốc cháy khói đen mù mịt cả một góc trời. Tôi nh́n con tàu xụm xuống, ḷng quặn lên. Con tàu thân thương đó đă gần gụi với ḿnh lâu nay, giờ thành một đống sắt vụn.

Một lát sau, theo chỉ dẫn của anh em binh sĩ Dù, chúng tôi men theo giao thông hào lần về đến bộ chỉ huy Lữ Đoàn 3 Dù. Gặp lại phi hành đoàn anh Giang, On, Sơn anh em chúng tôi mừng rỡ thăm hỏi rối rít. Chúng tôi được giới thiệu với các sĩ quan trong ban tham mưu Lữ Đoàn 3. Đầu tiên là Đại tá Thọ lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn 3, Th.tá Đức trưởng ban 3, Đ.úy Trụ phụ tá ban 3, Đ.úy Nghĩa sĩ quan liên lạc KQ, Tr. úy Chính sĩ quan Không trợ Dù, Th.úy Long phụ tá ban 2. Về phía pháo binh th́ có Tr.tá Châu Tiểu Đoàn Trưởng TĐ3PB Dù và Đ.úy Đào Văn Thương trưởng Ban 3 TĐ3PB Dù. Đại tá Thọ mừng anh em "mới đến" mỗi người một điếu Havatampa và một shot Hennessy để lấy lại tinh thần. Tôi ngạc nhiên vô cùng, đi đánh giặc, nằm ở tuyến đầu ác liệt vậy mà mấy "ông" Nhảy Dù vẫn thản nhiên hút ś-gà Cuba và uống cognac như máy! Quả các xếp ăn chơi cũng dữ mà đánh giặc cũng ch́ thật. (4)

hoanglan22 11-13-2018 03:23

2 Attachment(s)
Tiếp tục

N + 15: Địch vẫn pháo kích không ngừng, ngoại trừ khi có phản lực hoặc trực thăng chiến đấu trên vùng. Hầu như mọi nơi trên Đồi 31 đều trúng pháo, có nơi trúng ba bốn lần, đất cày sâu, loang lổ, đá bụi văng tứ phía. Thật không rỏ v́ sao có người th́ chết ngay khi lănh trọn một quả vào ngay hầm ḿnh, người th́ bị thương chưa kịp cứu th́ bị trúng thêm, kẻ khác th́ cuộn ḿnh lại như con cuốn chiếu, ôm đầu che tai, đôi khi che luôn cả mặt khi pháo rớt lia chia xung quang hầm, thầm nghĩ không biết khi nào đến phiên ḿnh.

“Ngày tháng cứ qua theo tầm bay lửa đạn, cả trăm trái pháo mỗi ngày băm nát ngọn đồi vô danh bỗng chốc trở thành cơi chết, cái chết cứ lần hồi gậm nhấm từ Đông qua Tây, từ Nam lên Bắc, từ những hầm hố kiên cố ở trung tâm cứ điểm đến dăy chiến hào chỗ sâu chỗ cạn bao bọc ngoại vi, tất cả bỗng trở nên b́nh đẳng trước sức công phá dữ dội của đạn pháo, mặt trận bỗng nhiên nghiêng hẳn về một phía, chúng tôi ngồi đây, ngày và đêm thúc thủ trước tiếng súng địch. Hàng ngũ cứ thưa dần, thà rằng cứ lao thẳng vào mũi súng, thà rằng đối mặt với quân thù, thà rằng chết trong tiếng ḥ reo xung trận, có đâu cứ len lỏi măi dưới hầm hào mà cũng chỉ đợi chờ cái chết…

Chiều nay, Đồng đă nh́n thấy địch quân điều quân lui tới, qua lại thấp thoáng dưới bóng cây bên những triền núi xa xa, và biết đâu chừng đă mon men gần căn cứ, tuy các Đại đội bạn ở bên ngoài vẫn chưa có phát hiện nào về sự xuất hiện của địch. Mọi việc vẫn phải làm thật nhanh và thận trọng, xuất phát, lục soát, rải quân… Công việc quá b́nh thường của một Trung đội tác chiến mà sao giờ này lại quá nặng nề. Mà không nặng nề làm sao được khi quân số tiêu hao ngày một trông thấy. Rời Sài G̣n Đồng dẫn theo hai mươi sáu thanh niên, mặt mày tươi như trên đường đi học, rồi lại c̣n được bổ sung thêm qua trực thăng tiếp liệu hai chàng lục tỉnh mới cáu cạnh, và Nghĩa, một Chuẩn úy mới ra trường, vị chi là hai mươi chín mống.

Nghĩa, người Sài gon, nhà ở đâu miệt Khánh Hội, Hàm Tử, cũng có mẹ già và em gái, cũng mang cái hồn nhiên của tuổi trẻ vào mặt trận như ngày Đồng mới ra trường. Hồi đó, Đồng c̣n được may mắn học nghề với Trung úy Dũng tại ven đô, hành quân an nhàn quanh hảng bột ngọt An Phú Đông, Tân Thới Hiệp, Nhị B́nh, sáng lai rai cà phê và pháo, chiều về c̣n cóc với ổi đưa cay. Có đâu như Nghĩa, giày trận c̣n bóng nếp quân trường, đă được ném ngay vào cơi chiến trường dữ dội.Tôi đă không c̣n dịp bàn giao Trung đội cho Nghĩa như ngày nào Trung úy Dũng đă giao trách nhiệm cho tôi. Nghĩa đă hy sinh không lâu sau đó.

Chưa tới nữa tháng, Trung đội chỉ c̣n lại mười tám ngoe, kể cả tôi. Đă thêm hai cái chết đau đớn của Binh nhất Măo và tân binh Xuất cứ dai dẳng ám ảnh tôi. Gom góp, nhặt nhạnh lại không đầy cái nón sắt, đó là xác Măo sau khi căn hầm của anh hứng gọn một trái công phá. C̣n Xuất th́ cứ trào ra những bụm cơm sấy trộn lẫn máu trong cơn hấp hối, máu và cơm, cơm và máu lẫn với những bọt khí ào theo vết thương vỡ banh lồng ngực, mảnh đạn như một lưỡi ŕu phạt ngang người, khi anh ngồi bên miệng hầm nh́n bâng quơ những đỉnh núi, tay bốc từng bụm gạo sấy thẩy vào miệng. Tôi cũng ngồi cách Xuất năm vị trí trong cùng một phiên gác chiều, và chỉ kịp la lên “Xuống hầm! Pháo kích!” nhưng không c̣n kịp nữa, có lẽ tiếng gạo sấy khô khan vỡ rao rào trong miệng đă làm Xuất không nghe được tiếng pháo địch rời ṇng, viên đạn quá tầm rơi ngoài sườn đồi lại tai quái gởi ngược về một mảnh lớn nhất. Khi chúng tôi đến th́ Xuất đă như thế, môi anh c̣n mấp máy điều ǵ, tôi đă cố cúi sát người để chỉ nghe thều thào h́nh như tiếng “Mẹ ơi”…và Xuất đi hẳn.

Số bị thương mỗi ngày gia tăng. Giàn Hạ sĩ quan chỉ c̣n lại thượng sĩ Đàng và trung sĩ Yến, tôi kể như giảm cấp số làm Tiểu đội trưởng, chỉ huy một Tiểu đội Khinh binh và một tiểu đội hỏa lực. Mà nào phải chỉ Trung đội chúng tôi? Hai trung đội kia cũng lâm vào t́nh trạng tương tự, giật gấu vai cũng không đủ quân để trải kín tuyến pḥng thủ vốn dĩ được thiết lập cho một Đại đội mạnh, đầy đủ quân số. Một tuyến dài như thế, lại phải duy tŕ ba vọng gác đêm, hai vọng gác ngày, chia đều chi mỗi người cũng ôm hơn năm tiếng mỗi ngày trực gác.Kể cả tôi cũng chia xẻ ba giờ đốc canh ca thứ nhứt, trong t́nh trạng căng thẳng kéo dài, mặt mày ai nấy hốc hác thấy rơ.

Đồng không dám nói thay những người lính của ḿnh, nhưng anh hiểu họ, hiểu nỗi lo âu căng thẳng mà tất cả cùng chia sẽ, như anh chàng Ngọt đó, giữa lúc đạn pháo ầm ỳ trải lên trận tuyến, bỗng nhiên hắn ta nhảy vọt lên nóc hầm tuột phăng quần chỉa cu ra phía trước, miệng la lớn một hơi dài như tiếng hú của một con thú bị thương… “Con c…”Yến phải liều mạng nhảy lên cặp cổ lôi xuống. Chúng tôi gần như ai cũng đang “chạm giây” như thế mà có lẽ sự nổ bùng của chiến trận là liều thuốc cuối cùng để giải thoát, sự giải thoát tận cùng trên hai nghĩa trắng đen trần trụi.

Mọi người đều biết được lực lượng của địch không c̣n xa căn cứ, và có lẽ họ đang ở lại tuyến xuất phát để chờ đợi giờ “G”, khi mà mọi tần số trên máy truyền tin đều tràn ngập ngôn ngữ xa lạ của quân thù.

Trước mặt Đồi 31 có một hẻm núi, từ trên đồi nh́n xuống chỉ nhận biết con người nhờ sự di động, nếu anh ta đứng yên th́ không thể nh́n thấy, hẻm núi có một khoảng trống giữa hai lùm cây rậm rạp, thế là địch chơi tṛ cân năo. Không kể ban đêm là lúc chúng tôi không thể quan sát, c̣n ban ngày có mặt trời lên là có người băng qua khoảng trống đó, mặc kệ không biết bao nhiêu bom đạn được điều chỉnh chính xác xuống mục tiêu, dứt tiếng súng là có người băng qua, ḍng ngưới cứ tưởng như bất tận, rồi đêm đêm, từng vệt đèn và tiếng động ầm ỳ của chiến xa dội lên căn cứ, dội lên mỗi người lính nỗi lo âu thật sự về khả năng chống chiến xa của đơn vị, khi mà những trái M72 chưa một lần chứng minh hiệu quả trước vỏ thép xe tăng, và khi mà cả căn cứ đă trần trụi, ngon lành như một đùi thịt nướng sau các trận pháo kích liên tục của đối phương. Chúng tôi không có lấy một chướng ngại vật, không có lấy một hàng rào kẽm gai, hay một trái ḿn chống chiến xa để an ḷng phần nào lực lượng pḥng thủ.

Và chúng tôi cũng chẳng phải chờ đợi lâu hơn nữa. Mấy ngày sau, cuộc tấn công thật sự đă bùng lên trước khi ngày chưa đứng bóng.” (3)

N + 15. Phi Đoàn 219 đă được báo cáo đầy đủ về chiếc H34 thứ hai của Tr. úy Bửu cùng chung số phận với chiếc H34 đầu tiên của Tr. úy Giang rớt trên Đồi 31 với 2 phi hành đoàn nằm ụ tại nơi này.

“Buổi chiều cùng ngày, vùng rừng núi trời tối thật nhanh, chúng tôi dùng tạm bữa cơm dă chiến với ban tham mưu Lữ Đoàn rồi chia nhau ngủ ké với anh em Dù. Tôi được ngủ chung một hầm với anh Nguyễn Quốc Trụ, một sĩ quan trẻ xuất thân khóa 20 trường Vơ Bị Đà Lạt. Anh cũng là anh ruột của Tr. uư Nguyễn hải Hoàn, một hoa tiêu chánh trong phi đoàn tôi. Tin tức chiến sự mỗi ngày một căng thẳng hơn v́ đối với cộng sản Bắc Việt, sự hiện diện của căn cứ 31 trên hệ thống đường ṃn HCM như một lưỡi dao đâm thẳng vào yết hầu của chúng. V́ thế cộng quân đưa thêm quân vào tạo áp lực nặng nề lên căn cứ 31 với ư định đánh bật căn cứ này ra khỏi sinh lộ của chúng.

Hai hôm sau, vẫn không có chuyến bay tiếp tế nào vào được v́ địch quân luôn di động dàn pḥng không của chúng khiến KQVN và HK không phát huy được ưu thế của ḿnh. Mỗi sáng, chỉ có 2 phi tuần F4 đến ném bom vài khu vực khả nghi chung quanh đồi 31 và thỉnh thoảng mới có một đợt B52 rải thảm ́ ầm xa xa vọng đến rồi mọi sự lại ch́m vào rừng núi trùng điệp. Ngược lại, quân Bắc Việt tập trung bao vây, tăng cường pháo kích suốt ngày nhằm quấy rối và làm tiêu hao lực lượng Dù” (4)

N + 18.
Hôm nay là ngày 25 tháng 2, 1971.

Cuộc tấn công của địch bắt đầu từ rạng sáng. Địch pháo kích như điên vào căn cứ, cùng lúc tung hàng đợt quân từ hướng Bắc đánh vào Đồi 31. Tiếng súng nổ rân, khói lửa mịt mù. Tiếng la hét trong máy thật hổn loạn. 3 toán tiền đồn của ĐĐ 34 bị tràn ngập bởi bộ binh địch, cùng lúc phía ĐĐ 32 cũng đang bị xe tăng địch tấn công hàng ngang ngay trước vị trí.

“Các Đại Đội ngoại vi thúc thủ trước quân số quá đông đảo của đối phương trong khi c̣n phải chật vật đối phó với chiến xa đang tràn lên như chỗ không người, nên Đại Đội 32 được lệnh rút nhanh về căn cứ 31 để bảo toàn lực lượng, riêng Đại Đội 34 rút về chân đồi phía Đông.

Thế nhưng, trước khi ĐĐ 32 về đến căn cứ th́ chiến xa địch đă lổm ngổm ḅ lên vị trí của Muôn, và phần việc của trung đội 2/ ĐĐội 33 của Đồng đă tới. Tôi nh́n thấy tổ tiên đồn bắn trúng đích một chiếc, cụm lửa vàng khè lóe lên, phủ trùm khói đen trên mục tiêu. Khói tan, chúng tôi tưởng như nằm mơ, chiếc xe tăng vẫn chậm răi tiến tới, ṇng đại bác trên chiến xa vẫn khạc lửa dữ dội vào tuyến pḥng thủ căn cứ. Muôn cố gắng bắn thêm hai trái nữa vẫn vô hiệu, anh xách súng dẫn đồng đội lăn xuống triền đồi khi thêm sáu chiếc tăng nữa cùng với bộ binh địch ḥ hét áp đảo tràn lên vị trí, chúng tôi hướng tất cả hỏa lực bắn che cho Muôn và một vài toán của Đại đội 32 rút về căn cứ, cùng lúc đó hai chiến đấu cơ A 4 Skyhawk và một phi tuần trực thăng vơ trang Cobra của Mỹ xuất hiện, oanh tạc mạnh mẽ vào đội h́nh tấn công của địch.

Tất cả hỏa lực của đơn vị của tôi, cùng với một khẩu đội B3 trực xạ cận pḥng và các tuyến tiên liệu được các pháo đội khác ở căn cứ A Lưới, Đồi 30 bắn yểm trợ đă tạo nên một hàng rào lửa vững chắc, chặn hết lực lượng xung kích của Bộ Binh địch ngay tại vị trí cũ của Muôn, xác địch ngă trên triền đồi, lăn xuống vực thẳm, ngổn ngang như những khúc gỗ từ một khu rừng vừa đốn vội, chưa bao giờ chúng tôi phải bắn nhiều như thế, hai khẩu M60 đă thay ṇng liên tục, quạt từng giây đạn quét phủ lên mặt trận, phải nói Yến bắn đại liên thật tài, chân hai càng được xếp gọn, ṇng súng tựa hờ lên công sự tạo một tầm chuyển dịch rộng lớn và dễ dàng cho xạ trường, để từ đó phủ gọn tuyến tiếp cận của địch dưới tầm khống chế của con gà ṇi dũng mănh.

Mất sự hướng dẫn của Bộ Binh, chiến xa địch khựng lại, như muốn chỉnh lại đội h́nh cho một đợt xung phong khác với hơn mười chiếc đă ở trong tầm quan sát của chúng tôi. Ngay lúc đó hai chiếc Skyhaw nối đuôi sà xuống sau trái khói chỉ điểm, từng trái napal hừng hực xé gió quăng xuống mục tiêu chính xác, dũng cảm, mặc cho hỏa lực pḥng không đạn chi chit phủ kín đường bay. Trận địa địch bùng lên trong cánh rừng xăng đặc, hai chiếc xe tăng tiền kích ngập trong khói lửa bốc cháy dữ dội, lính xe tăng nhảy ra khỏi xe, người cháy phừng như ngọn đuốc, lăn lộn, quơ quào rồi ngă gục theo tiếng nổ bung của chiến xa trúng đạn. Lên tinh thần, Khinh binh Thông cùng với ba chiến sĩ khác băng vọt ra khỏi chiến hào, chạy nhanh xuống lưng chừng đồi, cơng về được hai thương binh của ĐĐ 32 và một của trung đội ḿnh từ tổ tiền đồn rút về, nửa đường th́ bị trúng đạn. Hạ sĩ Nhất Muôn đă tử trận tại vị trí đó. (3)

N + 18, Từ sáng, tất cả hai nhóm phi hành đoàn 6 người của cả hai chiếc H34 được lệnh ra nằm sẳn tại các giao thông hào gần băi đáp chờ nguyên cả một phi đội gồm 3 chiếc H34 của phi đoàn 219 mang tiếp liệu vào đồng thời tải thương binh Dù và bốc luôn cả 6 người cùng một lúc.

“Sáng ngày 25 tháng 2 năm 1971, Tôi và anh Bửu cùng vài thương binh Dù nấp chung với nhau trong một hầm trú ẩn. Đến trưa khi chúng tôi bắt đầu nghe tiếng máy nổ xa xa th́ cũng là lúc địch khởi đầu trận "tiền pháo" dồn dập lên đồi 31. Qua lỗ châu mai từ trong hầm cứu thương nh́n qua bên kia đồi đối diện, cách nhau một cái yên ngựa, tôi thây rơ hai chiếc xe tăng T-54 của cộng quân tiến lên xếp hàng ngang, cùng với quân tùng thiết dày đặc chung quanh nhắm đỉnh đồi chúng tôi mà nhả đạn. Những tia lửa từ ṇng súng phụt ra, tôi và anh Bửu thụp đầu xuống cùng nh́n nhau như nhắc nhớ câu mà anh em trong phi đoàn thường nói với nhau mỗi khi lên đường hành quân "Trời kêu ai nấy dạ!".

Ngoài kia, trong từng giao thông hào binh sĩ Dù chống trả mănh liệt, nhất là những pháo thủ pháo đội B trên Căn Cứ 31, với những khẩu pháo đă bị hỏng bộ máy nhắm v́ pháo kích của địch, họ phải hạ ṇng đại bác để bắn trực xạ thẳng vào xe tăng địch bên kia đồi và trong những loạt đạn đầu tiên đă hạ ngay được 2 chiếc T54. Nhưng để trả giá cho hành động dũng cảm này, nhiều binh sĩ Dù đă nằm xuống, có người nằm chết vắt trên những khẩu pháo của họ.” (4)

Trở về lại với trung đội 2, ĐĐ 33, các binh sĩ ND vẫn c̣n chiến đấu tại tuyến pḥng thủ. T́nh h́nh tồi tệ, tuyến pḥng thủ thưa dần. Trước mặt là một lực lượng địch nhiều hơn gấp mấy chục lần, có luôn cả chiến xa dẫn đường.

“Trung đội đă chiến đấu, trước hết và duy nhất chỉ là v́ sự sống c̣n của bản thân, phải lấy hết sức ḿnh đương cự lại những bước chân của tử thần đang lần lượt gọi tên từng mạng sống, không c̣n con đường nào khác, không ai là anh hùng, không ai là dũng sĩ, không ai muốn “anh dũng hy sinh” mà vẫn phải chết như rơm như rạ.

Trận chiến vô cùng ác liệt, tất cả các sự kiện đă, đang và tiếp tục được mô tả, gần như diễn ra cùng một lúc, dồn dập, chồng chéo lên nhau, đan chặt vào nhau rồi như bị một sức mạnh vô h́nh xé bung ra trăm ngàn mảnh, mà Đồng, dù đă tận mắt chứng kiến, đang là một chiến binh trực tiếp chiến đấu trong những giờ phút gian nguy đó, vẫn không tài nào lột tả hết được tất cả mọi diễn biến hung bạo, tàn khốc của chiến trận..

Lợi dụng lúc thưa tiếng súng, tôi nhổm dậy luồn theo giao thông chạy dọc tuyến Trung đội, kiểm điểm lại lực lượng. Toán tiền đồn sáu người chỉ về được ba, hai người chết tại vị trí, Muôn đă để nỗi ước mơ b́nh thường của ḿnh vỡ vụn từ sau lưng ra trước ngực trên đường về. Rồi ngay tại tuyến, một vị trí khác lại bị trúng đạn từ chiến xa địch khiến một chết; cái chết của người lính tử trận giống nhau từ thiên cổ, không phân biệt bên này hay bên kia chiến tuyến, cũng đen điu đau đớn, cũng co quắp quằn quại, tay bấu chặt lấy mặt đất như không đành ĺa nỗi bọt bèo của cuộc sống…

Trong khi phía chúng tôi, áp lực địch tạm thời giảm nhẹ tuy họ vẫn c̣n ở đó, th́ phía bên kia, tuyến pḥng thủ của Trung đội 3 lại vô cùng nguy khốn. Toán tiền đồn năm người của trung đội, do một binh nhất khinh binh chỉ huy, tại một chỏm đồi thấp hướng Tây Nam căn cứ vừa bị tràn ngập, sau khi đă chiến đấu đến người lính cuối cùng, ngoan cường, đẩy lui bốn đợt xung phong của địch, tôi đă nghe trong máy tiếng gào khàn khàn tuyệt vọng lồng trong tiếng súng vang trời của những người quyết tử của truyền thống một đổi năm, mười nếu chẳng may thất thế. Không cường điệu chút nào khi tuyên dương họ như những anh hùng đă chết trong vinh quang, danh dự khi địch tràn lên vị trí bằng không biết bao nhiêu xương máu đánh đổi.

Ngay tại vị trí này, địch nhanh chóng bố trí một cụm hỏa lực mạnh mẽ gồm 2 cây 82 ly không giật và một 12ly8 vừa pḥng không, vừa bắn trực diện, khống chế trọn vẹn vị trí của Trung đội 3. On la chói lói trên máy để xin lệnh Đại Đội…nó bắn quá chịu hông nổi, sập bốn hầm chết hết rồi. Đại đội lại gọi tôi, hỏi có tăng cường cho 3 được không? Tố báo cáo t́nh h́nh trên tuyến của ḿnh và đoán chắc hướng tấn công chính là ngay tại nơi đây, khi phía trước mặt không phải là năm hay sáu chiến xa, con số đă trên mười chiếc đếm được và vô số bộ binh địch đang lúc nhúc dưới những cành lá ngụy trang.

Pháo địch vẫn rót tràn đều lên vị trí, san bằng, sạt phẳng mọi thứ. Có điều bây giờ chúng tôi không c̣n lo lắng, v́ không c̣n phân biệt được đâu là pháo phe ta, đâu là “cà nông” phe địch trừ khi nó nổ , mà đă nổ rồi th́ phận ai nấy biết, đỉnh đồi trở nên bằng phẳng, và h́nh như đă thấp hơn phần nào so với khi chúng tôi vừa mới đến, nhờ thế chỉ cần quay lưng nh́n về phía thằng 3, chúng tôi cũng nhận rơ vị trí lợi hại của cụm hỏa lực đó, một vài trái bắn hụt lao vèo qua phía chúng tôi rồi mất hút nổ xa xa, họ bắn liên tục nên họ quên một điều là cùng chiến đấu với chúng tôi c̣n có pháo đội B3. Tôi khom người chạy lên vị trí khẩu trọng pháo, chỉ cho trung Sĩ Nhất khẩu đội trưởng vị trí 82 không giật của địch. Và ṇng pháo từ từ hiệu chỉnh, tôi nín thở theo cái gục đầu chầm chậm của khẩu pháo 105 ly hướng về mục tiêu…và “Bắn”. Người hạ sĩ pháo thủ giật c̣, viên đạn rời ṇng trực chỉ khâu đội địch Ầm…chúng tôi nhảy lên reo ḥ sung sướng khi nh́n thấy rơ ràng khẩu 82 ly không giật của địch tung bắn lên trời sau tiếng nổ chính xác. Chỉ một viên đạn thôi, các chiến sĩ pháo binh đă triệt tiêu hiểm họa đó.

Tuyến của chúng tôi nằm cách xa Bộ chỉ huy Đại Đội, nên gần như độc lập tác chiến, tôi chỉ kịp thông báo cho Đại Đội là địch bắt đầu tấn công trở lại, rồi nằm hụp xuống nghe lằn đạn veo véo trên đầu, đội h́nh địch từ triền núi bên kia xuất hiện đông đảo trên đỉnh đồi rồi chia nhau tràn xuống, lấp ló trồi sụt dưới mưa bom bảo pháo, pháo địch bắn ta, nếu quá tầm cũng nổ trên đầu địch, bom đồng minh yểm trợ, lạng lách thế nào không biết, cũng roi ngọt xớt xuống đầu ta, bêu đầu sứt trán, la hét om ṣm tiếng Đức, tiếng Mỹ, thây kệ mẹ nó, đằng nào cũng phiêu diêu miền cực lạc.

Bắn phá một hồi, hai chiếc Shyhaw rời vùng và nhanh chóng mất hút cuối chân trời, c̣n lại hai Cobra đảo lui đảo tới ạch đùng ạch đùng mấy dây hỏa tiễn trúng ngay vào đám xe tank cũng chẳng thấy hề hấn ǵ, trực thăng bắn cứ bắn, chiến xa địch vẫn tiến trong đội h́nh tấn công dưới sự che chở của hỏa lực pḥng không. Lần này họ thay đổi chiến thuật sau khi đă nướng khá nhiều bộ binh trong đợt xung phong trước, thiết giáp xung kích mở đường, bộ binh lom khom lấp ló theo sau, không c̣n ḥ hét ngậu xị.

Hai chiếc phản lực khác vào vùng lần này là Phantom F4C, trong khi hỏa lực pḥng không cũng đă áp sát chân đồi, OV10 lảng vảng trên cao bắn trái khói chỉ điểm cho Phantom lao xuống mục tiêu. Điều không may cho chúng tôi là trong đợt tấn công đầu tiên của phi tuần này, trái bom lửa vừa phủ lên chiến xa, th́ đồng thời chiếc F4 cũng bị bắn tung đuôi trong khi ngóc đầu lên sau đợt oanh kích. Múi dù sặc sỡ mở bung trước khi con tàu bốc cháy, lảo đảo đâm vào vách núi nổ vụn. Thế là tất cả máy bay có mặt trong khu vực, kể cả hai chiếc Skyhaw mới vào vùng chưa bắn một phát đạn, bảo về cho phi công lâm nạn chờ trực thăng cấp cứu. Chúng tôi không rơ họ có cứu được đồng đội hay không, nhưng từ giây phút đó, chiến trường gần như bơ ngơ cho chiến xa lồng lên áp đảo.

Xe tăng địch lập tức ào ạt xung phong, hai…ba…năm bảy mười một chiếc tất cả cùng lao xuống, bỏ lại bộ binh phía sau, một chiếc ḅ ngang chông chênh bên sườn đồi, lănh nguyên trái pháo 105 ly trực xạ hất nhào xuống vực thẳm, chúng vừa bắn vừa tiến và đă chiếm được băi trực thăng. Mọi người đă thấy khả năng diệt tăng của M72 không nhiều và không thể bắn ở khoảng cách quá xa nên phải chờ đợi. Tất cả hỏa lực của chúng tôi chỉ có thể tạm thời tŕ hoăn tốc độ tiến quân của bộ binh địch trong trời gian ngắn, khi chiến xa chưa tiếp cận vị trí và tách chúng ra.

Hạ sĩ Nhất Chính và Tiểu đội Khinh binh lănh nhiệm vụ đón đánh đợt đầu tiên khi xe tăng vượt qua băi đáp, tiến vào yên ngựa hẹp trước khi bám vào căn cứ, đây là địa thế duy nhất có thể khống chế đội h́nh địch, bắt buộc chúng phải lần lượt từng chiếc một theo hàng dọc tiến lên. Chính dẫn theo B́nh, Tám và Ngôn, mỗi người một cây M72, luồn theo giao thông hào, chận ngang con đường xuống băi tiếp tế. Chuẩn Úy Nghĩa muốn theo Chính, tôi nh́n anh ái ngại, thôi Nghĩa à! Cần ǵ phải vội, anh ở đây chờ thay tôi là tốt nhất, ai cũng sẽ có phần…Tôi nghĩ thầm nhưng không nói với Nghĩa đă thấm cái đau xót trước những thân xác đồng đội ngay từ mặt trận đầu tiên của đời quân ngũ, mặt anh hừng hực, mắt long lên như con thú bị thương. Tâm lư chung của những kẻ đang không c̣n đường trở lại, và thế là phải vượt lên phía trước, vượt qua cái hèn bản chất của chính ḿnh, không c̣n một khái niệm ǵ giữa cuộc sống và cái chết, mà có khi chết c̣n thanh thản hơn sống.

Chúng tôi hồi hộp nh́n theo hai chiếc xe tăng dẫn đầu đang ḅ theo con dốc hẹp, đám bộ binh đă bị hai cây đại liên gài chéo cánh sẻ, cùng với tốc đội bắn nhanh của M16 đè đầu, nằm dán xuống đất lănh pháo, ḅ lui ḅ tới không theo kịp chiến xa, kể như thiết giáp đă bị mù nên nó cũng thận trọng xử dụng tối đa cây đại bác dọn đường.

Chính chờ chiếc đi trước bắt đầu ghếch mũi súng lên đầu dốc, phơi toàn bộ cái ức xám xịt trước mũi súng, khoảng cách chừng hai mươi mét, anh b́nh tĩnh bóp c̣, trái đạn đen thui vẽ một đường thẳng chớp nhoáng lao vào mục tiêu, nổ bùng vào cái mặt ù lỳ dị hợm, tưởng như mọi thứ phải tan tành hay bốc cháy trước sức công phá trực diện của trái hỏa tiễn, thế nhưng chiếc chiến xa chỉ khẽ khựng lại, như có vẻ giật ḿnh chút đỉnh, rồi lại tiếp tục tiến lên, không cháy, không nổ, không hề suy suyển. Thấy nguy, Tám bồi thêm một trái trúng ngay hông pháo tháp khi nó vừa vượt ngang tầm, vẫn khỗng hề hấn ǵ, thế là cả toán đành dạt ra, ném tới tấp lựu đạn vào gầm xe, trong khi chiếc xe đi sau cũng vừa bám theo được và tác xạ đại liên tới tấp vào vị trí của Chính, tên xạ thủ 12ly8 chưa bắn được bao nhiêu đă lănh nguyên một tràng M16 gục xuống, xác hắn vắt vẻo trên thành xe.

Trung đội 2 bất lực để cho chiếc số 1 tiến thẳng vào căn cứ, chiếc số 2 vừa nối theo th́ Chuẩn Úy Nghĩa nhảy phắt lên, thẩy gọn một trái M26 vào trong ḷng pháo tháp, anh chưa kịp nhảy xuống th́ trúng đạn, gục chồng lên xác địch thủ cùng lúc với tiếng nổ “bụp” tức tối, khói từ trong chiếc chiến xa bốc lên, sao nó vẫn chạy, vẫn tiến lên phía trước? nó chạy quờ quạng thêm một đoạn ngắn rồi nổ tan ra thành hai mảnh, pháo tháp bật ngược ra sau cùng với xác của Nghĩa.

Được chiếc số một mở đường, cả đám xe tăng cùng ào ạt tiến lên kéo bộ binh đông như kiến cỏ, lúp xa lúp xúp, một chiếc trờ tới ủi chiếc bị cháy xuống sườn núi, lấy đường tiến lên, trong lúc chiếc số 1 đă vào hẳn vị trí trung tâm, bắn phá Bộ Chỉ Huy Pháo Đội và mon men t́m tới Lữ Đoàn. Đồng và lính của anh cố gắng dùng hết hỏa lực tŕ hoăn bước tiến của xe tăng địch, nhưng vô ích. Không có một trái M72 nào có khả năng công phá vỏ thép chiến xa dù các chiến binh đă thừa gan góc tiếp cận từ mọi hướng, trước, sau, hông, bụng, pháo tháp, bánh xích. Chúng đóng kín pháo tháp, chỉ xử dụng đại bác và đại liên song hành càn lên hầm hố, công sự, giao thông hào. Mũi xung kích của địch càn lên chiếc hào, xé Trung Đội 2 của Đồng ra làm hai mảnh, với t́nh thế đó, bắt buộc phải ra khỏi vị trí cố thủ, đánh cận chiến với…xe tăng. (5)

Toán phi hành của Th. úy Khánh vẫn c̣n núp trong giao thông hào khi chiến xa địch bất chấp tổn thương vẫn tiếp tục ḅ dần đến vị trí của anh, theo sau lưng lúc nhúc cả trăm lính tùng thiết. Tiếng nổ của đạn nhỏ đạn lớn, tiếng đạn rời ṇng 105ly bên cạnh, tiếng ầm ỉ của chiến xa địch, tiếng la hét của người bị thương lẫn những binh sĩ đang chiến đấu cọng thêm với mùi bụi đất, của khói, mùi thuốc súng, mùi của…thần chết khiến Khánh co rúm người trong hầm.

“Không ngờ, chỉ mỗt lúc sau 2 xe tăng khác ở phía sau tiến tới ủi những chiếc xe cháy xuống triền đồi rồi lại hướng súng đại bác về đồi chúng tôi mà bắn! Sau vài loạt đạn, một phi tuần 2 chiếc F4 xuất hiện nhào xuống oanh tạc vào đội h́nh địch, và lại phá hủy thêm 2 xe tăng nữa. Trong tiếng bom đạn tơi bời, tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng máy nổ của những chiếc H34 đang vần vũ trên cao như lo lắng cho số phận những đồng đội của ḿnh. Cho đến khoảng sau 5 giờ chiều th́ địch tràn lên chiếm được đồi. Chúng lùng xục từng hầm trú ẩn kêu gọi binh sĩ Dù ra đầu hàng. Biết không thể làm ǵ hơn, tôi và anh Bửu tháo bỏ súng đạn cá nhân, chui ra khỏi hầm.” (4)

Trở về lại với trung đội 2 vẫn đang cận chiến với chiến xa và lính tùng thiết của địch. T́nh h́nh quá hổn loạn, cận chiến nơi này, phản kích nơi kia. Bắn Bắn. Quăng Quăng. Theo linh tính. Theo trực giác. Nằm xuống rồi lại ngồi dậy. Lăn qua hố này, rồi đến hố khác. Đứng dậy bắn một tràng đạn, thụp xuống khi kịp thấy lóe sáng của B40 hướng về ḿnh rồi tiếng nổ chát tai sau lưng…

Sau đây là những giây phút cuối cùng của trận đánh trên Đồi 31:

“Đă có bốn chiếc tăng địch lọt vào căn cứ, trong lúc bộ binh vẫn c̣n vất vả phía ngoài, chúng tôi vẫn để hai cây đại liên, và hai cây khác của Trung Đội 1 vừa mới chuyển qua, bắn gh́m bộ binh, phần c̣n lại lao vào tăng địch, chiến trường không chỉ là của Trung Đội, mà cả Đại Đội đă lồng lên, bu kín các chiến xa, mặc cho ṇng súng xe quay tṛn gạt xuống. Nhưng làm ǵ được? Đă bắn hết số M72 để găi ngứa chúng, đă ném không biết bao nhiêu lựu đạn để làm nhột chúng, đă chỉa ṇng M16 thật gần chỉ bắn vỡ được kính mắt mèo…không lẽ lấy răng mà cắn? Sức cùng lực tận, hai cây đại liên vừa hết đạn là bộ binh nương theo khói lửa tràn lên, không biết cơ man nào mà đếm, chúng tôi vừa đánh vừa lùi, lùi trên xác đồng đội, lùi trên những đôi mắt đớn đau tuyệt vọng của những anh em bị thương không c̣n người cứu chữa đang nằm chờ chết.

Cả ngọn đồi đă trở thành biển lửa và máu khi tất cả hỏa lực của hai bên đều tập trung tác xạ vào một tọa độ duy nhất, dù mục đích vẫn khác nhau rất xa…”bắn lên đầu tôi đi! Vĩnh biệt! Bắn lên đầu tôi đi! Vĩnh biệt!” Trên tần số Đại Đội đă vọng lên lời từ biệt gởi khắp bốn phương. Câu hét trong máy truyền tin của Đ. Úy Đương trở thành bất diệt. Hai chiếc phản lực chúi xuống đỉnh đồi, chùm bom đen đủi lao xuống mục tiêu là một bầy xe tăng bốn năm chiếc, và cả chúng tôi ḿnh trần thân trụi. Tôi sững sờ đứng như trời trồng nh́n chùm bom lao xuống đầu ḿnh, thật nhanh, thật nhanh, thật gần và gần hơn nữa, rồi chỉ kịp ôm nón sắt nằm chúi vào vách đá trong một loạt tiếng nổ vang rền, long trời, đất đá, sắt thép, mảnh bom, mảnh thịt người, rơi lào rào, lịch bịch. Đồng minh oanh tạc thật chính xác! Bom đạn không chỉ thả trên đầu quân địch mà luôn cả ngay trên đầu của chính quân ta trong một nghĩa cử anh hùng của những người quyết chống trả đến phút cuối cùng. Đỉnh đồi nát bấy những mảnh vỡ của công sự, những chiến sĩ cuối cùng của pháo đội B3 cùng với Đại Úy Nguyễn Văn Đương, người Pháo Đội trưởng vẫn kiên cường cho đến phút cuối cùng trong những cố gắng gan góc, tác xạ trực diện vào xe tăng địch đang loay hoay, lúng túng trước địa h́nh lồi lơm, hầm hố mà khoảng cách chỉ là năm, mười mét. Kể từ lúc đó, chiến địa mất hẳn liên lạc với Pháo Đội B3.

Ba phần tư ngọn đồi đă nằm trong tay địch, chúng tôi chỉ c̣n giữ được một phần Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, Lữ Đoàn, nhưng không c̣n ai trong những vị trí đó. Tất cả đă ra ngoài cùng sát vai chiến đấu, và hệ thống chỉ huy liên lạc vẫn duy tŕ đầy đủ cho đến cấp trung đội, dù trên thực tế, một trung đội c̣n không quá 10 người c̣n khả năng chiến đấu. Sau khi tái phối trí lực lượng, chúng tôi được lệnh trực tiếp của tiểu đoàn, tổ chức một cuộc phản kích toàn bộ trên trận tuyến, cố gắng chiếm lại các vị trí đă mất với hy vọng không quân sẽ yểm trợ hữu hiệu để giữ vững căn cứ.

Khi đă qua phần mở màn đầy kịch tính của lo âu, sợ hăi nơi con người thèm sống, khi mà khói súng đă quyện vằn vện với mồ hôi trên mặt, khi những vết máu đồng đội đă đông cứng trên hai tay người lính chiến, th́ khái niệm sống, chết bỗng trở thành vô nghĩa, nhất là trong hoàn cảnh không c̣n có thể chọn lựa như ở đây, tất cả chỉ c̣n là định mệnh. V́ thế, tất cả đă hăm hở lao lên trong một cố gắng tuyệt vọng, lại bắn, lại thụt M72, lại ném lựu đạn, lại leo tràn lên xe tăng địch, mà bây giờ đă có bộ binh phối chiến, mặt đối mặt với lưỡi lê báng súng, lăn xả vào nhau bắn giết, đâm chém, lại loay hoay không biết phải làm ǵ với khối sắt di động đó, lại bị thương, lại ngă gục giữa bom bầy pháo lũ, pháo nổ chụp, pháo công phá, pháo nổ chậm, trên đầu chụp xuống, dưới đất nổ hất tung lên, phạt ngang lưng, chém ngang cổ. Bom, pháo cả hai bên cùng bắn vào một chỗ, lính cả hai phía cùng chia nhau lănh đủ, đạn bắn thủng xuyên màng tang trổ ra sau ót, óc vỡ tung ra với máu, vài cái nón sắt lăn lông lốc trên những đôi dép râu tuột quai, nhầy nhụa trong một ḍng nước đỏ ối đang khởi thủy vết chảy ngoằn ngèo của một ḍng sông máu. Xác chết từ hai phía thân ái ôm chầm lấy nhau rồi đổ ụp xuống nằm cạnh nhau hiền ḥa như chưa hề quen biết làm ngọn núi chợt cao lên với muôn ngàn lời ai oán.

Đợt phản kích cuối cùng này không đủ sức mạnh để đạt hiệu quả mong muốn, và từ dưới chân đồi tràn lên một đợt sóng biển người và chiến xa khác. Địch tung toàn bộ lực lượng vào đợt tấn công quyết định, trong khi phía chúng tôi đă sức cùng lực tận, đành chấp nhận rút lui theo lệnh trục tiếp từ Th. tá Lê Hồng, trưởng Ban Ba TĐ3ND, để hạn chế thêm thương vong.

Đơn vị rút xuống khe núi, trung đội của tôi chỉ c̣n lại sáu người, có Thượng sĩ Đàng và Trung sĩ Yến. Hạ sĩ Nhất Chính đă tử trận khi một chiếc chiến xa địch nghiến qua người sau khi anh đă bị thương trong đợt phản kích. Tiểu đội khinh binh chỉ c̣n lại Thông, Ngôn và Tám. Tôi lại được xuống cấp làm tổ trưởng khinh binh, dẫn hai ông tổ phó mở đường rút cho đơn vị, mang theo được rất ít thương binh nhẹ, trong đó có Bé, trung đội trưởng trung đội một.

Cái đau bại trận thấm lên từng khuôn mặt mệt mỏi, chán chường, không đủ can đăm nh́n thẳng vào mắt nhau, dù chỉ để đôi điều chia sẻ. Tôi bổng hổ thẹn vô cùng trước giọt nước mắt âm thầm lau vội của Thượng sĩ Đàng, ông đă yêu những người lính trong trung đội bằng t́nh yêu thương ruột thịt, nên cũng đau gấp vạn lần từ thiếu vắng, tang hoang, buồn tủi trước cái nh́n trân trân vô hồn của Thông và Tám. Họ đang nghĩ đến số đồng đội bị thương đang chờ chết trong tay địch, điều mà từ trước tới nay, chưa ai một lần nghĩ tới.

Rừng chiều bổng đỗ mưa, tiếng sấm gào cùng với tiếng pháo tàn trận, dội vào vách núi, vỡ vụn ra những âm thanh buồn bă của hồi chuông tử biệt, mưa tuôn ŕ rào trên lá, ŕ rào lời kinh chiêu hồn vang vọng. Trung đội lầm lủi tiến về phía trước, theo sự hướng dẫn của ĐĐ 31 c̣n nguyên vẹn, đang tiến về căn cứ, và chờ chúng tôi ở hai cây số đông đông bắc. Trong khi ở một hướng khác, ĐĐ 34 cũng đang đón phần c̣n lại của ĐĐ32, trước khi tập hợp tại một vị trí định sẵn. Chờ lệnh mới.

Nhận lệnh trực tiếp từ tiểu đoàn, tổ chức chốt chặn, để tất cả thương binh nặng, nhẹ mang theo được, sẽ cùng ĐĐ 31 và bộ chỉ huy tiểu đoàn rút trước qua triền núi bên kia, sau đó, sẽ t́m gặp ĐĐ 34 đang cùng với một bộ phận khác của tiểu đoàn di chuyển cách đó chừng bốn cây số đông đông bắc, móc nối, dẫn đường cho hai cánh quân gặp nhau.

Nhiệm vụ nghe có vẻ nhẹ nhàng, nhưng quả thực, khi đồng đội cuối cùng khuất sau hẽm núi, Đồng cảm thấy vô cùng cô đơn với năm người c̣n lại. Và trên đồi 31 vẫn ầm ́ tiếng pháo truy kích của xe tăng địch bắn vu vơ vào vách núi.

Chắc chắn khi leo lên được đỉnh Đồi 31, địch đă gánh chịu một sự tổn thất không thể bù đắp nổi về quân số, nên họ đă không c̣n khả năng tổ chức truy kích, v́ thế, “trung đội sáu người” bớt được gánh nặng nghênh cản để lần ṃ theo tiếng súng hướng dẫn, t́m về đại đội bạn. Cho đến quá nửa đêm th́ gặp nhau, và chỉ kịp siết chặt nắm tay chào hỏi, gấp rút quay theo đường cũ, theo chân ĐĐ 34, về gặp lại tiểu đoàn trước khi trời sáng. Thời gian không c̣n thuộc về chúng tôi.

Đoàn quân lần ḍ trong bóng tối của trùng điệp núi rừng, bám vai nhau tuôn dần xuống dốc núi dựng đứng, cố gắng tiến thật nhanh về điểm hẹn, nơi đó, một đơn vị bạn đang trên đường tiếp ứng. Đến gần sáng, đơn vị chúng tôi gặp được quân bạn đang hướng tới đồi 31 cùng với chiến xa, Qua mấy ngày sau, đơn vị tôi được trực thăng bốc về Khe Sanh. (5)

Sau đây là những ǵ xẩy ra cho nhóm phi hành đoàn sau khi họ tháo bỏ súng ống, bước ra khỏi hầm:

“Về phía KQ, tôi, anh Bửu, On và Sơn bị trói bằng dây điện thoại và bị dẫn giải ra Bắc Việt chung với tất cả tù binh khác. Không thấy anh Giang và Em đâu. Chúng tôi bắt đầu thăm hỏi các SQ và binh sĩ Dù tù binh trên đường đi. Cuối cùng tôi gặp được anh Long là người ở chung trong hầm với anh Giang khi cộng quân kêu các anh ra đầu hàng. Đến lần thứ 3 các anh vẫn không chịu ra nên chúng thảy lựu đạn chày và bắn xối xả vào hầm. Anh Long chỉ bị thương nhẹ nên chúng bắt theo, c̣n anh Giang v́ bị thương nặng găy cả 2 chân không đi được nên bị chúng bỏ lại và chết ở trong hầm. Về phần Mêvô Em th́ bị lạc đạn trúng bụng đổ ruột ra ngoài, khi bị bắt dẫn đi Em cứ 2 tay ôm bụng giữ lấy ruột mà không hề được băng bó vết thương nên đi được một khoảng không chịu được đau đớn, Em gục chết ở bên đường.

Thế là Phi Đoàn 219 ghi thêm vào quân sử của ḿnh thêm một thiệt hại: 2 phi hành đoàn trên chiến trường Hạ Lào. Trong đó anh Giang và Em đă vĩnh viễn ở lại trên đồi. Ngọn đồi quyết tử 31. Những người c̣n lại của 2 phi hành đoàn đó là Bửu, On, Khánh và Sơn th́ sa vào tay địch, bị đưa đến những bến bờ vô định, biết c̣n có ngày về hay không? (4)

Cùng với nhóm phi hành 4 người của Khánh, hầu như toàn bộ chỉ huy LĐ3ND tại Đồi 31 đă bị bắt làm tù binh, bao gồm Đ.tá Nguyễn Văn Thọ LĐ Trưởng LĐ3ND, Th.tá Nguyễn V. Đức trưởng Ban 3 LĐ3ND, Tr.tá Bùi V. Châu TĐT TĐ3PBDù, Đ.úy Đào V. Thương trưởng ban 3 TĐ3PBDù, Đ.úy Nguyễn Quốc Trụ phụ tá Ban 3 LĐ3ND, Đ.úy Lê Đ́nh Châu ĐĐ trưởng công vụ LĐ3ND, Th. úy Nguyễn Văn Long Ban 3 LĐ3ND, Tr. Úy Đinh Đức Chính sĩ quan không trợ… cùng nhiều quân nhân các cấp. Tất cả đều bị trói tay và xô, đẩy, kéo đi rất tàn nhẫn và rất nhanh trong đêm v́ địch sợ bị truy kích hoặc B52 trải thảm. Những ngươi đi chậm, ngay cả những thương binh, đều bị la mắng, đày đọa, đánh bằng báng súng, thậm chí cho chết. Riêng Th.úy Vinh, người chỉ huy toán Điện Tử ND đến Đồi 31 trên cùng chiếc H34 bị lâm nạn của Bùi Tá Khánh, cũng bị bắt tù binh, nhưng đă can đăm trốn thoát được bằng cách buông người truột xuống sườn đồi ngang qua một khúc quẹo trong đêm.

Vừa đi vừa bị bắt chạy theo tiếng la hét, chửi rũa của bọn lính áp giải, với 2 tay trói ké sau lưng, mà trời lại sinh tội đổ mưa, Khánh rất khó khăn theo kịp đoàn người. Kẻ nào bị té ngă nếu không có sự giúp đở của bạn tù khác th́ thật vất vả để tự đứng dậy. Sau một đêm bị thúc giục đi nhanh không nghỉ, tất cả toán tù binh được cho dừng chân vào sáng sớm hôm sau. Càng xa mặt trận bao nhiêu, niềm hy vọng được cứu thoát bởi toán Lôi Hổ hay trinh sát Dù càng nhỏ dần trong ḷng Khánh và mọi người. Có đôi lúc anh cầu mong B52 thả bom ngay trên toán tù đang lầm lủi đi trong đêm v́ anh nghĩ may ra anh có thể thoát được giữa những hổn loạn của bom nổ, lở có chết th́ cũng chấp nhận dễ dàng hơn là phải sống tù đầy trong tay bọn CS khát máu này.

Toán tù binh Đồi 31 của Khánh di chuyễn với nhau như vậy trong gần 2 tuần liên tiếp, đa số là đi bộ, có vài ba chặng đường th́ bị dồn cứng chở trên xe molotova. Nh́n ai cũng xơ xác, thiểu nảo, thiếu ăn thiếu ngủ, quần áo trận rách tươm. Khi đến thành phố Vinh, mọi người được lệnh dừng lại, và ở đó trong 4 ngày, qua đêm ở những hợp tác xả. Dân làng xung quang có chạy đến xem, nhưng không một ai có bất cứ một hành động ghét bỏ thù hận nào và bị toán lính gát đuổi đi. Từ Vinh, toán tù binh Đồi 31 có thêm những bạn tù mới từ các đơn vị chiến đấu khác như TQLC, BĐQ và Bộ Binh; tất cả lại bị lùa lên những toa xe lửa bịt bùng và chở thẳng ra Hà Nội, vào ngay trại tù đầu tiên ở Ngă Tư Sở.

Nhà tù này là một biệt thự của Pháp ngày xưa. Nơi đây có trên một chục pḥng, đă từng giam giữ tạm một số tù binh phi công Mỹ, với những tên tuổi c̣n ghi trên tường. Chúng chia cứ 6 người ở chung một pḥng, không phân biệt quân binh chủng hay cấp bậc. Nơi này có trên một chục pḥng như vậy.

Trong khi toán tù binh trong đó có Th.úy Khánh đang trên đường bị dẫn độ ra Bắc, th́ vào ngày 28 tháng 2, 1971, từ một vị trí chếch về hướng Đông và không quá xa Đồi 31, lần lượt toàn bộ TĐ3ND được trực thăng vận về lại Khe Sanh. Tổn thất nặng của tiểu đoàn chỉ gom phần lớn ở ĐĐ 33 của Đồng và 32 của Đ.úy Thiếp, ngoài ra các ĐĐ 30, 31 và 34 hầu như c̣n nguyên vẹn. Trong suốt thời gian nằm dưỡng quân tại chổ, TĐ3ND tái bổ sung và trang bị lại đơn vị. Dù được bổ sung, Trung đội 2 của Đồng tạm thời chỉ có 16 người, kể cả người chỉ huy, bằng một nữa của cấp số b́nh thường.

Qua tin tức của các” phóng viên chiến trường” trong nước cũng như ngoại quốc, mà đa số ngồi nhâm nhi cà phê ở Givral, La pagoda, hay nếu gan dạ lắm cũng chỉ quanh quẩn ở Bộ Tư Lệnh tiền phương Quân đoàn I, Đông Hà, Khe Sanh, thêu dệt lên những bản tin thật giật gân, bi thảm hóa một trận thua vốn là lẽ thường của chiến tranh để cho rằng, quân ta thất thủ đồi 31 tức là toàn bộ Lữ đoàn 3 Nhảy Dù đă bị tiêu diệt. Thông tin kiểu đó, đă vô t́nh ám ảnh những đơn vị chưa được tung vào mặt trận, mà hiệu quả tâm lư chi phối phần lớn khả năng chiến đấu.

Họ không hề biết rằng, ngay sau cuộc hành quân Lam Sơn 719 chính thức chấm dứt vào đầu tháng 4, 1971, từ Huế, khi màn diễn binh tại Phú Vân Lâu kết thúc, thay v́ được không vận về Sài g̣n để dưỡng quân như thường lệ, th́ sân bay mà LĐ2ND đáp xuống lại là phi trường Cù Hanh, Pleiku đất đỏ. Tin hành quân bí mật cho đến nổi quá nhiều binh sĩ ND tức giận và đạp nát bao nhiêu nón lá bài thơ mua sẳn cho người nhà tại hậu cứ Saigon. Lữ Đoàn 2 ND dưới quyền chỉ huy của Đ.tá Trần Quốc Lịch, gồm có các TĐ5ND, TĐ6ND, TĐ11ND, TĐ2PBND cùng các đơn vị yểm trợ như Quân Y, Công Binh, Trinh Sát…, đă lao ngay vào một mặt trận căng thẳng khác: Giải tỏa căn cứ hỏa lực 6 ở Dakto, Tân Cảnh do một đơn vị thuộc Sư đoàn 22 Bộ Binh trú đóng, đang bị Sư đoàn 320 Cộng quân vây hăm từ nhiều tuần qua. LĐ2ND đă đánh tan 2 trung đoàn 66 và 28 cùng với 1 tiểu doàn pḥng không của Bắc Việt khiến địch phải rút khỏi chiến trường.

Sau chừng 3-4 tháng nằm tù ở Ngả Tư Sở, toán tù binh của Khánh được đưa đến một nhà tù khác có tên Bất Bạc, nằm sâu trong rừng núi của Sơn Tây. Tại đây, có sẳn nhiều tù binh khác của VNCH, thuộc mọi binh chủng bị bắt từ nhiều mặt trận khác nhau ở Miền Nam. Từ đây trở đi, Khánh cùng các bạn tù binh khác bắt đầu một cuộc sống thực tế đầy trắc trở, cùng cực, với lao động khổ sai, tuyên truyền, thù hằn của bọn cai tù được dạy sẳn sàng bắt lổi, nhục mạ, la lối chưởi bới, đánh đập, giam đói, chà đạp danh dự và phẩm giá của người tù binh. Chúng càng ra tay tuyên truyền, đối xữ tàn tệ bao nhiêu th́ Khánh và các bạn tù lại càng cương quyết, bền bỉ và quyết chí phải sống để c̣n là nhân chứng cho chính sách đối xữ tàn nhẫn của CS đi ngược lại quy ước tù binh Genève bấy nhiêu. Sở dĩ những tù binh trong trại vẫn hiên ngang kiên cường v́ ai cũng biết sau lưng ḿnh c̣n có cả một nước VNCH của ḿnh, bao nhiêu anh em trong binh chủng đang chờ đón ḿnh về, rằng ḿnh không bị bỏ quên. V́ vậy họ không bao giờ có cảm tưởng họ bị bỏ rơi, nghiệm thấy bị bắt tù binh chỉ qua là một biến cố kém may mắn bất cứ một quân nhân tại mặt trận cũng có thể gặp phải, tuy nhiên vẫn c̣n hơn bị thương tật vĩnh viễn hoặc bị chết.

Anh đau xót nh́n những niên trưởng thường xuyên bị chúng hạch sách, đày đọa, hay quấy nhiễu vô cớ; những anh em tù khác bị thương tật, nặng có nhẹ có, bị đối xữ tàn nhẫn. Người người đều có lúc bị suy sụp tinh thần, nhưng nh́n chung ai ai cũng giữ vững niềm tin, ḷng can cường và sự đoàn kết, luôn binh vực nhau ngay cả những khi bị chúng làm áp lưc. Chính v́ vậy, các bạn tù rất thương yêu nhau, đùm bọc nhau, chia xẻ với nhau từng miếng ăn, công việc nặng nhọc, tâm sự vui buồn, lời cầu nguyện… Anh em thỉnh thoảng nhắc đến chuyện phim “Cầu Sông Kwai”, mà hầu như mọi người cùng thời với Khánh đều có xem, căn dặn nhau phải sống tư cách như các tù binh người Anh trong phim. Cũng v́ vậy anh em tù thường xuyên hay huưt sáo bản nhạc trong phim nổi tiếng ấy. Với Khánh, anh luôn cảm thấy ḿnh may mắn hơn nhiều bạn tù khác v́ anh không những độc thân, mà ngay cả người yêu anh chưa có để thầm thương nhớ hay khóc thầm để phải suy sụp tinh thần.

Vào gần cuối năm 1972, có lẻ do những cuộc không tập ngày càng ác liệt của Không Quân Mỹ trên Miền Bắc, nhóm tù binh của Th.úy Khánh bị di chuyễn đến trại tù Tràng Định nằm ở Lạng Sơn.

“Đêm mùa đông giữa rừng núi Lạng Sơn trời lạnh căm căm thật là khó ngủ. Để chống trả cái lạnh, chúng tôi phải hai đứa một cặp đem hết mền ra, một phần để lót lưng v́ nằm trên giường tre, gió cứ tha hồ luồn theo kẽ hở vào ve vuốt sống lưng, phần c̣n lại th́ dùng để đắp. V́ trời lạnh không có chú muỗi nào dám vo ve nên chúng tôi hạ luôn mùng xuống làm mền. Có bao nhiêu quần áo, chúng tôi mặc hết vào người rồi chui vào đống mùng mền, dựa lưng nhau mà t́m giấc ngủ. Phải một lúc sau mới có chút hơi ấm và v́ mệt mỏi sau một ngày làm việc quần quật chúng tôi cũng ch́m dần vào giấc ngủ.

Đang thiu thiu chúng tôi bỗng choàng thức dậy bởi tiếng loa léo nhéo ở giữa sân trại:

“Đả đảo đế quốc Mỹ đă dùng B-52 ném bom rải thảm vào bệnh viện Bạch Mai và khu vực dân cư ở thủ đô Hà Nội. Bọn chúng đă lật lọng không chịu kư hiệp định mà ḥng dùng sức mạnh quân sự để khuất phục nhân dân ta, bắt đảng và nhà nước ta phải kư một hiệp định với nhiều bất lợi cho ta. Nhân dân ta quyết đập tan âm mưu của đế quốc Mỹ và tố cáo tội ác dă man của chúng trước dư luận thế giới”.

Dù bị mất giấc ngủ, chúng tôi hết sức nôn nao và x́ xầm bàn tán với nhau v́ đây là sự việc lạ lùng chưa từng xảy ra trong suốt 2 năm tù lao động khổ sai khắp các miền rừng sâu bắc Việt. Trong chế độ tù đày mà cộng sản gọi là cải tạo, việc lao động nặng nhọc phải đi đôi với nhồi sọ chính trị mà việc đọc báo, nghe loa phát thanh là một chính sách lớn v́ họ lập luận rằng cứ cho nghe măi rồi cũng phải tin. Dĩ nhiên chỉ có những tin tức hạn chế do một đài của nhà nước, và sau khi đă được bóp méo, vo tṛn theo ư họ rồi mới cho cả toàn dân miền Bắc nghe. Điều này cho thấy nhà nước cộng sản không hề tôn trọng người dân mà họ vẫn tôn làm chủ, v́ trong khi họ theo đuổi hơn 4 năm trời một cuộc tranh đấu chính trị trên bàn hội nghị mà kết quả có tầm ảnh hưởng rất quan trọng cho vận mệnh của đất nước th́ người dân chẳng hề biết một tí ǵ hết. Cho đến khi Hà Nội ăn bom B52, chẳng dấu ai được họ mới la ầm lên đổ thừa cho đế quốc Mỹ. Thế mà hôm nay không hiểu tại sao bỗng dưng họ lại phát thanh cho toàn dân nghe một bản tin thuộc loại cơ mật như vậy.

Tối hôm sau và những hôm kế tiếp, sau khi ăn cơm, chúng tôi nhanh chóng thu xếp rồi lên giường nằm vừa bàn chuyện vừa ngóng tai chờ nghe loa. Cái loa thường ngày chúng tôi ghét cay ghét đắng v́ âm thanh chát chúa của nó, bỗng dưng hôm nay chúng tôi lại mong được nghe những ǵ nó mang đến. Quả nhiên, qua chiếc loa, người xướng ngôn với giọng đanh thép, ngoài bài xă luận một chiều thường lệ, c̣n cho biết “bộ đội pḥng không anh dũng đă bắn rơi nhiều máy bay B52, bắt sống nhiều giặc lái Mỹ”.

Chúng tôi lại được dịp luận bàn: nhiều là không đếm được, không đếm được tức là không có ǵ để đếm”.

Từ khi bị bắt trên chiến trường Hạ Lào, chúng tôi coi như không biết ngày về trừ khi có một hiệp định được kư kết giữa các bên tham chiến trong đó có quy định việc trao trả tù binh bị giam giữ. Lâu nay chúng tôi âm thầm chịu đựng mọi nghiệt ngă trong trại giam cộng sản cũng chỉ v́ hy vọng vào hiệp định Paris với việc kư kết thành công và thi hành đúng đắn mới là con đường giải thoát chúng tôi ra khỏi nhà tù cộng sản. Phải chăng hôm nay ước vọng của chúng tôi đang thành sự thật?

Qua những bản tin nghe được, dần dà chúng tôi có thể tổng hợp lại và suy đoán như sau. Hội nghị Paris 4 bên được h́nh thành sau trận thảm bại Tết Mậu Thân của cộng sản với mục đích giải quyết trong ḥa b́nh cuộc chiến Vĩệt Nam. Nhưng sau 4 năm c̣ kè, mặc cả giữa Hà Nội và Washington, có lúc tưởng đi đến chỗ bế tắc, đến mùa hè năm 1972 những trận đánh ngày càng khốc liệt ngoài chiến trường cho thấy hội nghị đang đi đến giai đoạn chót. Cộng sản cố đánh Quảng Trị ở vùng 1, Tân cảnh ở vùng 2, Lộc Ninh ở vùng 3 để chiếm đất. Về phía Mỹ th́ kể từ ngày 14 tháng 6 năm 1972 các cuộc ném bom đă leo thang ra ngoài vùng giới hạn vĩ tuyến 20 đến tận gần biên giới với Trung Cộng. Trận cường tập 12 ngày đêm ở thủ đô Hà Nội là cú đấm knock out cuối cùng của Mỹ.

Quả nhiên, một tuần sau, quên hết những lời chỉ trích gay gắt trước đó, chiếc loa cho biết Hà Nội tưng bừng trải thảm đỏ tiếp đón trọng thể Ngoại Trưởng Kissinger đến thăm Việt Nam. Khoảng đấu tháng 2, 1973, sau 3 ngày viếng thăm, Hà Nội lại “lưu luyến” tiễn chân Kissinger và không quên tặng không cho ông tiến sĩ 3 tù binh phi công Mỹ đang bệnh nặng cần chữa trị.

Ít lâu sau trước Tết Quư Sửu, ngày 27 tháng 1 năm 1973 hiệp định Paris được kư kết giữa 4 bên và sau đó được 12 cường quốc bảo đảm thi hành đúng đắn nhằm đem lại ḥa b́nh cho Việt nam.

Hơn một tuần sau, như thường lệ vào sáng sớm ngày thứ hai chúng tôi chuẩn bị lănh cuốc xẻng, dao rựa đi cuốc đất, đốn cây th́ bỗng được lệnh miễn lao động, mặc quần áo dài lên hội trường tập họp. Linh tính báo cho chúng tôi biết có điều quan trọng xảy đến.

Quả như vậy, sau lời mở đầu của trại trưởng trung tá Quân “rắn”, tên thượng tá chính trị viên Thường “vẹt” (v́ đặc tính nói lập đi lập lại không biết ngượng miệng) của trại tù đọc và giải thích từng điều một trong bản hiệp định. Đại khái điều 1 các bên tôn trọng lănh thổ của nhau, điều 2 tôn trọng chủ quyền, điều 3 ngưng bắn kể từ ngày kư hiệp định, điều 4 các bên cam kết trao trả hết các nhiên viên quân sự và dân sự bị bắt trong chiến tranh chậm nhất là 2 tháng sau ngày hiệp định có hiệu lực.

Chúng tôi liếc nh́n nhau vui sướng. Đúng là niềm hy vọng của chúng tôi đă thành hiện thực. Và theo quy định của bản hiệp định, chỉ c̣n tối đa 2 tháng nữa là chúng tôi được trao trả về cho chính phủ Việt Nam Cộng Hoà.

Đến đây Thường “vẹt” nhấn mạnh:

- Tuy nhiên, việc thả các anh về chủ yếu vẫn là do các anh có lao động tốt, học tập tốt hay không th́ chính phủ ta mới căn cứ vào đăy mà khoan hồng cho các anh thôi.

Thường “vẹt” tiếp tục thao thao những điều khoản khác, nhưng chúng tôi không c̣n thiết tha nghe nữa. Là người có học, ai cũng biết rằng khi đă kư kết một hiệp định th́ phải thi hành đúng đắn những ǵ hiệp định đă quy định chứ không thể vin vào những chính sách b́nh thường của quốc gia ḿnh được. Giải thích như vậy chứng tỏ Hà Nội coi như không có hiệp định nào trên đời này cả. Chúng tôi cảm thấy ngao ngán, nhưng vẫn c̣n một phần nào hy vọng v́ bản hiệp định đă được các cường quốc bảo đảm trong đó có cả đàn anh Trung cộng của Hà Nội.

Cuối cùng, Quân “rắn” kết thúc buổi họp và nói tiếp:

- Thôi, các anh cố gắng học tập lao động tốt để sớm trở về với gia đ́nh. Và để đánh dấu cho một mùa xuân hoà b́nh trên đất nước, trại được trên cho phép tổ chức một cái Tết thật to, có bánh kẹo, có thịt lợn, thịt trâu và có cả văn nghệ nữa”. (6)

Niềm vui rộ lên, cả trại nhốn nháo vui mừng với bao nhiêu hy vọng sẽ được trao trả về Miền Nam sau hiệp định Paris. Các bạn tù được cho phép tự tổ chức văn nghệ mừng Xuân năm 1973.

“Một nhóm anh em có máu văn nghệ, thích ca hát được thành lập gồm có anh Trụ, anh Bửu, anh Hạnh, Siêm, Dự và tôi. Chúng tôi bàn bạc với nhau để chọn bài hát. Đă gọi là hoà giải th́ phải có cả nhạc bản của cả hai miền Nam, Bắc chứ. Bàn đi tính lại cuối cùng chúng tôi lựa các bài như sau : Ly rượu mừng, Nối ṿng tay lớn, Đôi bạn (nhạc của Phạm Duy phổ thơ Hoàng trung Thông là nhà thơ tiền chiến hiện c̣n sống ở Hà Nội), Chuyện hàng cây (của một nhạc sĩ lô-can trong trại, chuẩn uư Trần thanh Hùng phổ thơ của một thi sĩ không có tiếng ở ngoài bắc), bản Romance de l'Amour sẽ do anh Trụ độc tấu tây ban cầm và một đoạn sớ Táo Quân sẽ do anh Khoan diễn tấu. V́ tất cả đều bị kiểm duyệt trước nên chúng tôi phải ḍ từng chữ, nhất là những bản nhạc xuất bản ở Miền Nam, nếu cần th́ đổi lời chút ít để tránh đụng chạm.

Sáng mùng một Tết, chúng tôi ngồi túm trong lán trại, ăn kẹo uống trà, hút thuốc lào. Năm nay Tết lớn nên anh em mỗi người được phát thêm một điếu thuốc thơm Tam Đảo ngoài 3 điếu thuốc đen Trường Sơn thường lệ. Lác đác một vài quản giáo ghé vào các lán thăm xă giao chúc Tết. Ngoài sân trại cũng có vài nhóm anh em tù đứng tán chuyện, thấp thoáng bóng áo xanh bộ đội chen với màu áo trắng xọc đỏ của tù nhân.

Sau bữa cơm chiều, lúc 7 giờ tối, mọi người tập trung vào hội trường xem văn nghệ. Chúng tôi tŕnh diễn không micrô, nhạc cụ th́ mượn được của cảnh vệ một đàn guitar thêm vào với cây guitar tự tạo bởi Dự và anh Trụ. Vậy là xôm tụ rồi.

Để mở đầu, anh Bửu trưởng ban văn nghệ có vài lời cám ơn trại đă cho phép tŕnh diễn văn nghệ và cuối cùng xin trại nhớ thi hành hiệp định một cách đúng đắn để anh em chúng tôi sớm được trao trả về Miền Nam.

Sau đó toàn ban văn nghệ chúc Tết mọi người bằng bản nhạc quen thuộc Ly rượu mừng. Màn thứ hai do Siêm, một chuẩn uư sư đoàn 1 với giọng ca khá giống Chế Linh trong bài Trường sơn đông, Trường sơn tây. Bản nhạc chấm dứt, anh em vỗ tay tán thưởng nhất là bộ đội, quản giáo. Sang đến bài Nối ṿng tay lớn do Dự, thiếu uư viễn thám TQLC tay đàn miệng hát, đă lôi cuốn mọi người cùng vỗ tay theo nhịp vang động cả hội trường. Tiếp đến là bài Đôi bạn hát bởi anh Hạnh, sĩ quan đề lô của sư đoàn 1, buồn buồn như quê nghèo sỏi đá miền trung. Bản nhạc vừa dứt, Hạnh ngoắc tay về phía Khánh, từ hậu trường Khánh tiến tới đứng sát bên Hạnh; cả hai chúng tôi song ca bản T́nh khúc cho em của Lê uyên Phương, một bản nhạc không có trong chương tŕnh. Hơi bất ngờ một chút, rồi anh em mọi người đồng vỗ tay, huưt sáo. Hứng chí chúng tôi đi 2 bè thật hay. Chợt Khánh nh́n thấy từ hàng ghế đầu, mặt đanh lại Quân “rắn” đứng lên đi thẳng ra ngoài. Vài quản giáo và cảnh vệ cũng đi theo.

Bản nhạc dứt, trong tiếng vỗ tay tán thưởng, anh Trụ đang sửa soạn thế ngồi để chơi bản Romance th́ Thường “vẹt” tiến tới quay xuống mọi người nói :

- Thôi đủ rồi, giải tán.

Mọi người vừa đi vừa cười nói, bàn tán. Ban văn nghệ chúng tôi vừa thu dọn nhạc khí xong th́ quản giáo Hoàng “choắt”, người nhỏ xíu cao chừng 1 mét rưỡi, vào bảo chúng tôi đi theo anh ta sang nhà họp của cảnh vệ. Tại đây đă có Quân “rắn”, Thường “vẹt” cùng vài cảnh vệ đứng chung quanh sát tường. Chỉ vào băng ghế đối diện, Quân “rắn” hầm hầm bảo:

- Các anh ngồi xuống đây.

Rồi Quân “rắn” rít qua 2 hàm răng :

- Ai cho các anh hát nhạc vàng? Các anh vượt quy định, không đăng kư trước.

Anh Bửu phân trần:

- Đấy chỉ là t́nh cảm đằm thắm thương vợ, nhớ t́nh nhân mà anh em chân thành bộc phát ra.

- Các anh lợi dụng chúng tôi hoà hoăn, định dùng nhạc vàng để lung lạc t́nh cảm chân chính của chúng tôi hay sao? Đừng tưởng có cái hiệp định mà chúng tôi sợ không dám đụng đến các anh hả! Nói cho các anh biết thả hay không là ở tôi này. Nhốt các anh suốt đời cũng c̣n được. Bọn lính Tây Điện Biên Phủ ta c̣n giữ đến bây giờ, huống hồ các anh.

Rồi Quân rắn đổi giọng:

- Cảnh vệ đâu? Tống chúng nó vào nhà kỷ luật ngay. Quần áo, chăn màn th́ cho đứa nào đem xuống cho chúng nó sau. Đi nhanh!

Thế là chúng tôi bị dẫn đi xuống khu nhà kỷ luật. Khu nhà kỷ luật nằm ở cuối trại gần trạm canh. Khu này được dựng bằng gỗ chắc chắn. Cứ 2 pḥng một cạnh nhau, mỗi pḥng độ 3 thước vuông với một cái giường tre vừa đủ nằm. Không có cửa sổ và chung quanh rào dây kẽm gai kiên cố.

Chúng tôi mỗi người bước vào căn xà lim của ḿnh. Vắng vẻ, lạnh lẽo và dư thừa th́ giờ để nghiền ngẫm về chính sách hoà giải của người cộng sản” (6)

Sau nhiều tuần được “vỗ béo”, khẩu phần dinh dưỡng tăng, lao động tối thiểu, anh em tù binh đều phấn khởi, lâng lâng với cảm giác ḿnh không bị bỏ rơi bởi quốc gia ḿnh. Vài tháng sau Ḥa Đàm Paris được kư kết, nhóm tù binh bị bắt tại Lào như Khánh không được trao trả. Không phải v́ lao động không giỏi hoặc học tập không tốt. Đến lúc đó mới thấy bọn CS thâm hiểm. Chúng gian xảo tráo trở cho rằng nhóm tù binh bị Pathet Lào bắt tại Lào, và v́ chưa có hiệp định nào kư kết giữa VNCH và Pathet Lào, nên không thể trao trả tù binh VNCH bị Pathet Lào bắt trên nước Lào. Đương nhiên chúng đă nghĩ trước những kẻ hở này khi kư kết Ḥa Đàm nên mặc nhiên trở mặt, lật lọng vào phút chót. Thế là bao nhiêu hạnh phức và kỳ vọng của nhóm tù binh Hạ Lào được trở về Miến Nam biến thành mây khói, bao mơ ước bị sụp đổ tan tành. Sau đó là những ngày tăm tối, buồn bả tuyệt vọng, suy sụp đến chết người dưới sự giam cầm tàn ác ngày một tăng.

Rồi lại chuyễn trại đến Cao Bằng trong năm 1974. Rồi tin Miền Nam bị tan rả dần, Mỹ quyết định bỏ rơi người bạn đồng minh của ḿnh khiến quân đội VNCH đành phải thúc thủ buông súng, VNCH hoàn toàn mất vào tay CS Bắc Việt vào 30 tháng 4, 1975. Một cú atemi ác nghiệt chém vào tử huyệt mọi tù binh c̣n lại trong trại. Biết từ đây không c̣n một sức mạnh, một thế lực nào khả dĩ cứu vớt họ. Cơn ác mộng đen tối bao phủ toàn trại khi họ biết từ đây họ sẽ vĩnh viễn mất tự do.

Khánh lại được chuyễn đến một trại tù mới tên Nghĩa Lộ tại Yên Bái, và nằm ở đó thêm một thời gian dài nữa. Trại tù này, cũng như bao trại tù mà Khánh đă ở qua, hoàn toàn không có bóng dáng của các tù binh trong những tháng cuối cuộc chiến tại Miền Nam VN hoặc những tù cải tạo sau này. Trong những lần lao động bên ngoài trại, thỉnh thoảng Khánh gặp dân trong vùng. Đa số tử tế với tù nhân, đôi khi c̣n cho củ khoai, củ sắn.

Ngày 7 tháng 6, 1976, từ trại tù Nghĩa Lộ, Th.úy Không Quân Bùi Tá Khánh của chiếc trực thăng H34 bị bắn và đáp khẩn xuống Đồi 31 tại Hạ Lào tháng 2, 1971, được thả cho về nhà cha mẹ ở đường Lư Thái Tổ, quận 10, Sài G̣n. Sau trên 5 năm làm tù binh ở Miền Bắc.

Tr. úy Nhảy Dù Phạm Đồng của Đồi 31 Hạ Lào, sau lần bị thương tật ở đầu gối phải trong trận đánh tháng 3, 1972 tại Căn Cứ Hỏa Lực 5 ở Tân Cảnh, Pleiku, từ giả nhiệm vụ tác chiến và trở về làm việc hành chánh tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù ở Trại Hoàng Hoa Thám cho đến ngày 30 tháng 4, 1975. Tŕnh diện cải tạo, Phạm Đồng ở tù học tập gần 8 năm.

Anh Bùi Tá Khánh, một thân một ḿnh, vượt biên thành công vào năm 1981, đến nước Mỹ năm 1982. Định cư đầu tiên ở San Jose, anh di chuyển sau đó qua Denver vào năm 2005.

Anh Phạm Đồng định cư ở Denver sau khi đến Mỹ vào năm 1993 với vợ và hai con qua chương tŕnh HO.

Trong một buổi tiệc do anh chị Phạm Đồng tổ chức tại tư gia nhân dịp đón mừng vợ chồng chúng tôi đến chơi Denver tháng 4, 2017, anh Hoàng Gia Viễn, một cựu Tr.úy phi công F5, đến tham dự với vợ cùng 2 cặp vợ chồng đàn em trong Không Quân VNCH, cũng là cư dân Denver. Đây là lần đầu tiên anh chị Đồng gặp gở 2 căp vợ chồng trẻ tuổi này, mà anh Viễn cho biết một người là sĩ quan chuyên về bảo tŕ phi cơ ở phi trường quân sự Pleiku, và người kia là sĩ quan phi hành trực thăng. Chuyện tṛ qua lại trong bửa ăn, và sau màn giới thiệu sơ khởi, anh phi công trực thăng buộc miệng tâm t́nh anh là phi công của Phi Đoàn 219, chuyên lái trực thăng H34, không một ngày tù cải tạo nhưng lại là tù binh ở ngoài Bắc. Vào chi tiết hơn nữa, anh tóm tắc câu chuyện đời phi công của anh, mà ngay chính anh Hoàng Gia Viễn, người đàn anh KQ, cũng chưa hề nghe qua. Ngang giữa câu chuyện trực thăng H34 của anh lâm nạn và phải đáp xuống Đồi 31 trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, gia chủ Phạm Đồng bật đứng dậy “tôi cũng ở Đồi 31 thời gian đó…”.

Thế là hai anh, Bùi Tá Khánh và Phạm Đồng, đồng loạt cùng đứng lên, xô ghế tiến sát gần nhau và ôm choàng lấy nhau, nhích ra rồi lại ôm nhau lại, nắm chặc tay nhau, mắt nh́n nhau, miệng cười lớn, mừng rở như t́m thấy lại một người thân quư nhất trong đời bị thất lạc từ nhiều năm qua. Giữa tiếng chúc mừng, vổ tay hoan hỷ của bàn tiệc.

Sau đó, từng người một, thay phiên nhau cụng ly chúc mừng sự trùng phùng quá đặc biệt và kỳ thú này. Sự ngẫu nhiên hi hữu như do trời định. Thật vậy, một người là sĩ quan Nhảy Dù cấp trung đội chiến đấu sống c̣n tại Đồi 31, người kia là sĩ quan phi hành trực thăng H 34 đáp khẩn trên Đồi 31 rồi bị kẹt tại đó. Cả hai đều là nhân chứng trong những ngày cuối của Đồi 31, để sau đó một người trở thành tù binh bị dẫn độ ra tận Miền Bắc, người kia chiến đấu đến giây phút cuối và sống sót rút khỏi Đồi với chỉ 6 người c̣n lại của trung đội ḿnh. Về sau, một người tiếp tục chiến đấu cho Miền Nam đến tận ngày mất nước, người kia không được trao trả theo cam kết Hiệp Định Paris. Cả hai đều chưa từng gặp nhau, chưa hề biết hoặc nghe tên nhau khi c̣n tại Đồi 31 hay ngay cả sau này khi là tù binh hay tù cải tạo trong suốt cả 46 năm. Hôm nay cả hai bất ngờ gặp nhau. Trong một buổi tiệc không tên. Ngay tại Denver dù cả hai từng sinh sống tại thành phố này hơn cả mươi năm qua. Quả là diệu kỳ. C̣n ǵ vui sướng cho bằng! C̣n ǵ nhiệm mầu hơn nữa!

Như mọi người có mặt trong đêm, cá nhân tôi thật xúc động, nhất là sau khi nghe cả hai anh Khánh và Đồng lần lượt kể câu chuyện của ḿnh từ Đồi 31 cho đến về sau. Như một chia xẻ chân thành, tôi vuột miệng “tôi xin phép được ghi lại câu chuyện độc đáo có một không hai này và lấy đề tựa ngay từ bây giờ: H 34 trên Đồi 31”. Toàn thể đều tán thành và nâng cao ly rượu.

Et voila.

Mission Viejo, Tháng 1, 2018

Vĩnh Chánh


Từ trái qua phải: chị Khánh, chị & anh Tạ Quang Thạch ( KQ/ Pleiku), anh Bùi Tá Khánh, anh & chị Vĩnh Chánh, chị & anh Phạm Đồng, anh Dược Sĩ Nguyễn Hữu Tiến (Quân Y Nhảy Dù), anh & chị Hoàng Gia Viễn (phi công F5), anh Đoàn Vũ (TĐ14ND, mà vợ là người bấm máy chụp h́nh).

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1542079155

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1542079260

Anh Phạm Đồng và anh Bùi Tá Khánh bên nhau, 46 năm sau khi cùng có mặt trên Đồi 31 (h́nh chụp tháng 8, 2017 tại Denver)


chú thích :

1) : Mặt Trận Ngoại Vi.Tác giả: Phan Hội Yên

(2) : Vào Đồi 31 Hạ Lào. Tác giả: Kingbee Bùi Tá Khánh

(3) : Đồi 31. Tác giả: Phan Hội Yên

(4) : Chuyến Bay Tử Thần. Tác giả: Kingbee Bùi Tá Khánh

(5) : Ngọn Đồi Vĩnh Biệt. Tác giả: Phan Hội Yên

(6) : Tết Ḥa Giải. Tác giả: Bùi Tá Khánh

hoanglan22 11-14-2018 04:15

Binh Chung Truyen Tin
 
1 Attachment(s)
http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1542168826


Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa
BINH CHỦNG TRUYỀN TIN

Tiểu sử:
Binh chủng Truyền Tin được thành lập cùng với Q LVNCH kể từ khi Quốc Gia Việt nam được Pháp trả một phần độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp, để bảo vệ lảnh thổ quốc gia đương đầu với bộ đội kháng chiến do Cộng sản Quốc Tế yểm trợ .
Hồi đó, vị Tổng Tham Mưu trưởng được chỉ định là một vị tướng lảnh trong quân đội Pháp biệt phái sang quân độI Việt nam Cộng Ḥa, v́ vậy vị chỉ huy trưởng Viển Thông củng là một sỉ quan cao cấp trong quân đội viển chinh Pháp tại Đông Dương .Các vị chỉ huy trưởng trực thuộc củng như các đơn vị trưởng đều là người Pháp ; đa số sỉ quan Truyền tin VN được đào tạo trong nước, ngoại trừ một số nhỏ được chọn lọc gởi đi học tại trường Truyền Tin Montargis .
Mải cho đến khi người Pháp rút khỏi Đông Dương và trao trả trọn vẹn chủ quyền lại cho VN, nền Đệ Nhất Cộng Ḥa được thành lập và canh tân lại Quân Đội Việt Nam, binh chủng Truyền Tin mới thật sự do người VN chỉ huy . Từ đó hầu hết các sỉ quan Truyền Tin được gởi đi Hoa Kỳ tu nghiệp để làm nồng cốt cho việc tổ chức lại hệ thống Truyền Tin theo quân đội Hoa Kỳ .

Nhiệm Vu:
Binh chủng Truyền Tin cung cấp phương tiện liên lạc nhanh chóng, liên tục và cẩn mật cho QLVNCH về diện địa củng như về chiến thuật giửa các đơn vị lưu động và các Bộ Tư Lệnh Hành Quân .
Thánh tổ Truyền Tin là là một vị Đại thần nhà Lê, ông Trần nguyên Hản. là người đả dung chim bồ câu để thông tin từ đơn vị hành quân về hậu cứ ;v́ vậy chim Bồ Câu được tiêu biểu cho Binh chủng Truyền Tin .

Tổ chức:
Ạ .Binh chủng Truyền Tin hồi thời Pháp được thành lập và tổ chức như sau :
1. Thành phần lảnh thổ:
a .Tại Trung ương : BCH Viển Thông QĐVNCH, trực thuộc Bộ TTM/QĐVNCH
-Pḥng Mật Mả Trung Ương, trực thuộc BCH VT
-Trung t âm Truyền Tin TTM, trực thuộc BCHVT
-Cơ sở Vật Liệu Truyền Tin (ECMT)
-Trựng Truyền Tin (tại Liên trường Vỏ khoa Thủ Đức)

b. Tại Quân Khu : Bộ chỉ huy Viển Thông Quân Khu I, II, III & IV
trực thuộc BTK/QK
-Đại đội Truyền Tin địa phương 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8
-TTHL Truyền Tin (CITT 1, 2, 3, 4)
-Kho Vật Liệu Truyền Tin địa phương (ERMT 1, 2, 3, 4)

c. Tại Tiểu Khu :Pḥng Truyền Tin Tiểu Khu trưc thuộc Tiểu Khu,
Biệt đội Truyền Tin Tiểu Khu

2. Thành phần Lưu Động
a . Lử đoàn Lưu Động : Đơn vị Truyền Tin Lử đoàn Lưu Động 1, 2 v.v…
-Biệt đội Truyền Tin Lưu Động 1, 2 v.v…
b. Chiến dịch : Đội Truyền Tin Chiến dịch/Hành quân .
B.

(đoạn nầy không thấy rỏ v́ SEAL mực đậm quá ở trang 45, nhờ Ḥa bổ túc lại)



1. Thành phần Lảnh Thổ :
a . Tại Trung Ương : Bộ chị huy Viển Thông QĐVNCH trực thuộc
Bộ TTM/QĐVNCH
-Pḥng Mật Mả Trung Ương
-Tiểu đoàn 1 Truyền Tin
-Đại đội 1 Khai Thác Truyền Tin
-Đại đội 1 Siêu tần số
-Tiểu Nha Vật Liệu Truyền Tin (sau đổi ra Sở Vật Liệu Truyền Tin)
-Đại đội 1 Tồn Trử trung ương(sau sát nhập lại và đổi ra ..)
-Đại đội 1 Sửa Chửa trung ương (Tiểu đoàn 1 Tiếp Vận trung ương)
-Trường Truyền Tin Vủng Tàu

b .Tại Quân Khu :Bộ chỉ huy Viển Thông Quân Khu Thủ Đô 1, 2, 3, 4,
trực thuộc BTL/QK
-Đại đội Truyền Tin Địa Phương 1, 2, 3, 4, 5
-Đại đội Khai Thác Truyền Tin
-Đại đội Tồn Trử Địa Phương

c. Tại Tiểu Khu :Pḥng Truyền Tin Tiểu Khu, trực thuộc Tiểu Khu,
Biệt đội Truyền Tin Tiểu Khu

2. Thành phần Lưu Động :
a . Sư dơàn Dả Chiến
-Pḥng Truyền Tin SĐC 1, 2, 4, 5, 7
-Đại đôi Truyền Tin SĐC 1, 2, 4, 5, 7

b. Sư đoàn Khinh Chiến:
-Pḥng Truyền Tin SDKC 11, 12, 13, 14, 15, 16
-Đại đội Truyền Tin SĐKC 12, 13, 14, 15, 16

c. Đơn vị Trừ bị :
-Pḥng Truyền Tin Binh chủng Nhảy Dù
-Đại đội Truyền Tin Lử đoàn Nhảy Dù
-Pḥng Truyền Tin Binh chủng TQLC
-Đại đội Truyền Tin Liên đoàn TQLC
-Pḥng Truyền Tin Binh chủng Biệt Động Quân
-Đại đội Truyền tin BĐQ

C. Cho đến khi cường độ chiến tranh lên tới cực điểm là lúc quân lực Hoa Kỳ tham chiến sau ngày cách mạng 1-11-63. binh chủng Truyền Tin lại canh tân một lần nửa để có thể làm việc song hành với ngành Truyền Tin của quân đội Đồng Minh, đồng thời yểm trợ cho một đội quân trên 1 triệu người phối trí trên 4 vùng Chiến thuật .Bộ chỉ huy Viển Thông QĐVNCH được tổ chứa lại thành Pḥng 6/TTM và Cục Truyền Tin .P6/TTM phối hợp với P.6 Không quân và P.6 Hải quân ;Cục Truyền Tin phụ trách Lục quân và Tiếp vận . Tổ chức Truyền Tin tăng trưởng như sau, kể cả các cơ sở và hệ thống do Hoa Kỳ giao lại :
1. Thành phần Lảnh Thổ :
ạ . Tại Trung Ương :
-Pḥng 6 Bộ Tổng Tham Mưu
-Cơ Quan Quản Trị Viển Liên (CMA)
-Cục Truyền Tin
-Liên đoàn 65 Truyền Tin
-Căn cứ 60 Tiếp Vận Truyền Tin
-Cơ sở Yểm Trợ vật Dụng Viển Liên (AMSF)
-Trường Truyền Tin Vủng Tàu

b. Tại Vùng Chiến Thuật :
-Pḥng 6 Vùng chiến Thuật 1, 2, 3, 4
-Tiểu đoàn 610 Truyền Tin
-Liên đoàn Khai Thác Truyền Tin Địa Diện 65, 66, 67
-Tiểu đoàn Yểm Trợ Truyền Tin (thuộc Liên đoàn Tiếp Vận)

c. Tại Tiểu Khu
-Pḥng Truyền Tin Tiểu Khu
-Biệt đội truyền Tin tiểu Khu

2. Thành phần Lưu Động :
a . Sư đoàn Bộ binh :
-Pḥng Truyền Tin Sư đoàn 1, 2, 4, 5, 7, 9, 18, 21, 22, 23, 25
-Tiếu đoàn Truyền Tin SĐBB

b. Đơn vị Trừ bị :
-Pḥng Truyền Tin Sư đoàn Nhảy dù
-Tiểu đoàn Truyền Tin Sư đoàn Dù
-Pḥng Truyền Tin Sư đoàn TQLC
-Tiếu đoàn Truyền Tin Sư doàn TQLC
-Pḥng Truyền Tin ……
-Đại đội Truyền Tin ……. (phần nầy đọc không rỏ)
HỆ THỐNG :
A ………………….(phần nầy đọc không rỏ)

B. Kỷ thuật : Vô tuyến điện thoại và điện tín dung tần số AM là phương tiện chính từ Trung Ương cho tới Địa phương, dùng mật mả Carte SLIDEX để bảo mật . Điện thoại chỉ giới hạn tại các địa phương an ninh như thành phố, quận lỵ, tính lỵ mà thôi . Đến năm 1957 điện thoại tự động được thiết lập tại Sàig̣n với 4 Tổng đài Cộng Ḥa, Cường Để, Công Tâm và Công Lư .Các đơn vị hành quân dùng các máy lưu động thuộc tầng số AM hoặc FM và điện thoại với dây dả chiến nối vào các tổng đài nho 12 hay 24 đường dây. Cho đến cuối thập niên 50 mới được viện trợ máy giai tần đơn (SSB) dung cho vô tuyến viển thoại và máy siêu tầng số .Khi quân đội Hoa Kỳ sang tham chiến thiết lập hệ thống cố định như đài Viển thông Liên Kết (ICS) dùng tần số truyền sóng xuyên chân trời (troposheric propagation) , tổng đài Tan dem. Đài giây cáp ngầm đại dương tại Đà Nẳng, Qui Nhơn, Nha Trang và Vủng Tàu để liên lạc giửa VN với Honolulu và Satahip . Đó là chưa kể các máy móc khác như sensors dung trong chiến tranh điện tử .Sau Hiệp Định Paris 1973 quân đội Hoa Kỳ rút về nước đả để lại tất cả các hệ thống kỷ thuật nói trên cho Binh chủng Truyền Tin QLVNCH .

C. Tiếp Vận :
Tất cả các dịch vụ tiếp liệu và sửa chửa các vật dụng truyền tin trong quân đội dù trong Binh chủng hay thuộc Binh đoàn đều do Tiểu Nha Vật Liệu Truyền Tin, sau nầy là Cục Truyền Tin đảm trách .Hệ thống tiếp vận truyền tin được ấn định từ trên xuống dưới và từ đơn vị yểm trợ tới đơn vị được yểm trợ .V́ vậy máy móc truyền tin của đơn vị hành quân được các Biệt đội Yểm Trợ sửa chửa hoặc thay thế ngoài trận địa tới cấp 3, cấp 4 được đưa về Tiểu đoàn Yểm Trợ và cấp 5 được đưa về Căn Cứ 60 Tiếp vận Truyền Tin tân trang lại .

Kết luận :
Binh chủng Truyền Tin đả trưởng thành trong khói lửa chiến tranh từ giai đoạn sơ khai cho đến ngày trở thành binh chủng tân tiến như Binh Chủng Truyền Tin quân đội Hoa Hỳ đó là nhờ sự cố gắn và tinh thần cầu tiến của các quân nhân các cấp đả dày công học hỏi, trao dồi kỷ thuật, tôn trọng kỷ luật của QLVNCH .Trong suốt thời kỳ chiến tranh dành Độc Lập và bảo vệ Tự Do cho miềm Nam VN, Binh chủng Truyền Tin đả cung cấp hệ thống thông tin liên lạc hửu hiệu cho QLVNCH trong chiến dịch Hạ Lào, Mùa Hè đỏ lửa, trong chiến thắng Quảng Trị, An Lộc …; tất cả chúng ta đều hảnh diện là quân nhân phục vụ trong Binh chủng Truyền Tin, hậu thân của một Trần nguyên Hản, đại thần nhà Tiền Lê nước Việt .

(1) V́ không có tài liệu tham khảo, tài liệu nầy được viết dựa vào trí nhớ của một số sỉ quan cao cấp BCTT .Nếu có điều chi cần bổ túc xin gởi về :

Hội Ái Hửu Binh Chủng Truyền Tin
11212 Faye Ave .
Garden Grove, CA 92840

Lan-Anh 11-14-2018 20:14

Lan Anh bỏ vô phần mềm chỉnh sửa lỗi chính tả, có khoảng vài trăm lỗi, ko biết v́ lí do ǵ. Ở dưới là đă sửa lại rồi đó cụ Hoàng Lan.

Quote:

Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa
BINH CHỦNG TRUYỀN TIN

Tiểu sử:
Binh chủng Truyền Tin được thành lập cùng với QLVNCH kể từ khi Quốc Gia Việt nam được Pháp trả một phần độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp, để bảo vệ lănh thổ quốc gia đương đầu với bộ đội kháng chiến do Cộng sản Quốc Tế yểm trợ .
Hồi đó, vị Tổng Tham Mưu trưởng được chỉ định là một vị tướng lĩnh trong quân đội Pháp biệt phái sang quân độI Việt nam Cộng Ḥa, v́ vậy vị chỉ huy trưởng Viễn Thông củng là một sỉ quan cao cấp trong quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương .Các vị chỉ huy trưởng trực thuộc cũng như các đơn vị trưởng đều là người Pháp ; đa số sỉ quan Truyền tin VN được đào tạo trong nước, ngoại trừ một số nhỏ được chọn lọc gởi đi học tại trường Truyền Tin Montargis .
Măi cho đến khi người Pháp rút khỏi Đông Dương và trao trả trọn vẹn chủ quyền lại cho VN, nền Đệ Nhất Cộng Ḥa được thành lập và canh tân lại Quân Đội Việt Nam, binh chủng Truyền Tin mới thật sự do người VN chỉ huy . Từ đó hầu hết các sỉ quan Truyền Tin được gởi đi Hoa Kỳ tu nghiệp để làm ṇng cốt cho việc tổ chức lại hệ thống Truyền Tin theo quân đội Hoa Kỳ .

Nhiệm Vụ:
Binh chủng Truyền Tin cung cấp phương tiện liên lạc nhanh chóng, liên tục và cẩn mật cho QLVNCH về diện địa cũng như về chiến thuật giữa các đơn vị lưu động và các Bộ Tư Lệnh Hành Quân .
Thánh tổ Truyền Tin là là một vị Đại thần nhà Lê, ông Trần nguyên Hăn. là người đă dùng chim bồ câu để thông tin từ đơn vị hành quân về hậu cứ ;v́ vậy chim Bồ Câu được tiêu biểu cho Binh chủng Truyền Tin .

Tổ chức:
Ạ .Binh chủng Truyền Tin hồi thời Pháp được thành lập và tổ chức như sau :
1. Thành phần lănh thổ:
a .Tại Trung ương : BCH Viễn Thông QĐVNCH, trực thuộc Bộ TTM/QĐVNCH
-Pḥng Mật Mă Trung Ương, trực thuộc BCH VT
-Trung t âm Truyền Tin TTM, trực thuộc BCHVT
-Cơ sở Vật Liệu Truyền Tin (ECMT)
-Trường Truyền Tin (tại Liên trường Vơ khoa Thủ Đức)

b. Tại Quân Khu : Bộ chỉ huy Viễn Thông Quân Khu I, II, III & IV
trực thuộc BTK/QK
-Đại đội Truyền Tin địa phương 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8
-TTHL Truyền Tin (CITT 1, 2, 3, 4)
-Kho Vật Liệu Truyền Tin địa phương (ERMT 1, 2, 3, 4)

c. Tại Tiểu Khu :Pḥng Truyền Tin Tiểu Khu trực thuộc Tiểu Khu,
Biệt đội Truyền Tin Tiểu Khu

2. Thành phần Lưu Động
a . Lữ đoàn Lưu Động : Đơn vị Truyền Tin Lữ đoàn Lưu Động 1, 2 v.v…
-Biệt đội Truyền Tin Lưu Động 1, 2 v.v…
b. Chiến dịch : Đội Truyền Tin Chiến dịch/Hành quân .
B.

(đoạn này không thấy rơ v́ SEAL mực đậm quá ở trang 45, nhờ Ḥa bổ túc lại)



1. Thành phần Lănh Thổ :
a . Tại Trung Ương : Bộ chỉ huy Viễn Thông QĐVNCH trực thuộc
Bộ TTM/QĐVNCH
-Pḥng Mật Mă Trung Ương
-Tiểu đoàn 1 Truyền Tin
-Đại đội 1 Khai Thác Truyền Tin
-Đại đội 1 Siêu tần số
-Tiểu Nha Vật Liệu Truyền Tin (sau đổi ra Sở Vật Liệu Truyền Tin)
-Đại đội 1 Tồn Trữ trung ương(sau sát nhập lại và đổi ra ..)
-Đại đội 1 Sửa Chữa trung ương (Tiểu đoàn 1 Tiếp Vận trung ương)
-Trường Truyền Tin Vũng Tàu

b .Tại Quân Khu :Bộ chỉ huy Viễn Thông Quân Khu Thủ Đô 1, 2, 3, 4,
trực thuộc BTL/QK
-Đại đội Truyền Tin Địa Phương 1, 2, 3, 4, 5
-Đại đội Khai Thác Truyền Tin
-Đại đội Tồn Trữ Địa Phương

c. Tại Tiểu Khu :Pḥng Truyền Tin Tiểu Khu, trực thuộc Tiểu Khu,
Biệt đội Truyền Tin Tiểu Khu

2. Thành phần Lưu Động :
a . Sư đoàn Dă Chiến
-Pḥng Truyền Tin SĐC 1, 2, 4, 5, 7
-Đại đôi Truyền Tin SĐC 1, 2, 4, 5, 7

b. Sư đoàn Khinh Chiến:
-Pḥng Truyền Tin SDKC 11, 12, 13, 14, 15, 16
-Đại đội Truyền Tin SĐKC 12, 13, 14, 15, 16

c. Đơn vị Trừ bị :
-Pḥng Truyền Tin Binh chủng Nhảy Dù
-Đại đội Truyền Tin Lữ đoàn Nhảy Dù
-Pḥng Truyền Tin Binh chủng TQLC
-Đại đội Truyền Tin Liên đoàn TQLC
-Pḥng Truyền Tin Binh chủng Biệt Động Quân
-Đại đội Truyền tin BĐQ

C. Cho đến khi cường độ chiến tranh lên tới cực điểm là lúc quân lực Hoa Kỳ tham chiến sau ngày cách mạng 1-11-63. binh chủng Truyền Tin lại canh tân một lần nữa để có thể làm việc song hành với ngành Truyền Tin của quân đội Đồng Minh, đồng thời yểm trợ cho một đội quân trên 1 triệu người phối trí trên 4 vùng Chiến thuật .Bộ chỉ huy Viễn Thông QĐVNCH được tổ chức lại thành Pḥng 6/TTM và Cục Truyền Tin .P6/TTM phối hợp với P.6 Không quân và P.6 Hải quân ;Cục Truyền Tin phụ trách Lục quân và Tiếp vận . Tổ chức Truyền Tin tăng trưởng như sau, kể cả các cơ sở và hệ thống do Hoa Kỳ giao lại :
1. Thành phần Lănh Thổ :
ạ . Tại Trung Ương :
-Pḥng 6 Bộ Tổng Tham Mưu
-Cơ Quan Quản Trị Viễn Liên (CMA)
-Cục Truyền Tin
-Liên đoàn 65 Truyền Tin
-Căn cứ 60 Tiếp Vận Truyền Tin
-Cơ sở Yểm Trợ vật Dụng Viễn Liên (AMSF)
-Trường Truyền Tin Vũng Tàu

b. Tại Vùng Chiến Thuật :
-Pḥng 6 Vùng chiến Thuật 1, 2, 3, 4
-Tiểu đoàn 610 Truyền Tin
-Liên đoàn Khai Thác Truyền Tin Địa Diện 65, 66, 67
-Tiểu đoàn Yểm Trợ Truyền Tin (thuộc Liên đoàn Tiếp Vận)

c. Tại Tiểu Khu
-Pḥng Truyền Tin Tiểu Khu
-Biệt đội truyền Tin tiểu Khu

2. Thành phần Lưu Động :
a . Sư đoàn Bộ binh :
-Pḥng Truyền Tin Sư đoàn 1, 2, 4, 5, 7, 9, 18, 21, 22, 23, 25
-Tiếu đoàn Truyền Tin SĐBB

b. Đơn vị Trừ bị :
-Pḥng Truyền Tin Sư đoàn Nhảy dù
-Tiểu đoàn Truyền Tin Sư đoàn Dù
-Pḥng Truyền Tin Sư đoàn TQLC
-Tiểu đoàn Truyền Tin Sư đoàn TQLC
-Pḥng Truyền Tin ……
-Đại đội Truyền Tin ……. (phần này đọc không rơ)
HỆ THỐNG :
A ………………….(phần này đọc không rơ)

B. Kỹ thuật : Vô tuyến điện thoại và điện tín dụng tần số AM là phương tiện chính từ Trung Ương cho tới Địa phương, dùng mật mă Carte SLIDEX để bảo mật . Điện thoại chỉ giới hạn tại các địa phương an ninh như thành phố, quận lỵ, tỉnh lỵ mà thôi . Đến năm 1957 điện thoại tự động được thiết lập tại Sài G̣n với 4 Tổng đài Cộng Ḥa, Cường Để, Công Tâm và Công Lư .Các đơn vị hành quân dùng các máy lưu động thuộc tần số AM hoặc FM và điện thoại với dây dă chiến nối vào các tổng đài nho 12 hay 24 đường dây. Cho đến cuối thập niên 50 mới được viện trợ máy giai tầng đơn (SSB) dung cho vô tuyến viễn thoại và máy siêu tầng số .Khi quân đội Hoa Kỳ sang tham chiến thiết lập hệ thống cố định như đài Viễn thông Liên Kết (ICS) dùng tần số truyền sóng xuyên chân trời (tropospheric propagation) , tổng đài Tandem. Đài dây cáp ngầm đại dương tại Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang và Vũng Tàu để liên lạc giữa VN với Honolulu và Sattahip . Đó là chưa kể các máy móc khác như sensors dung trong chiến tranh điện tử .Sau Hiệp Định Paris 1973 quân đội Hoa Kỳ rút về nước đă để lại tất cả các hệ thống kỹ thuật nói trên cho Binh chủng Truyền Tin QLVNCH .

C. Tiếp Vận :
Tất cả các dịch vụ tiếp liệu và sửa chữa các vật dụng truyền tin trong quân đội dù trong Binh chủng hay thuộc Binh đoàn đều do Tiểu Nha Vật Liệu Truyền Tin, sau này là Cục Truyền Tin đảm trách .Hệ thống tiếp vận truyền tin được ấn định từ trên xuống dưới và từ đơn vị yểm trợ tới đơn vị được yểm trợ .V́ vậy máy móc truyền tin của đơn vị hành quân được các Biệt đội Yểm Trợ sửa chữa hoặc thay thế ngoài trận địa tới cấp 3, cấp 4 được đưa về Tiểu đoàn Yểm Trợ và cấp 5 được đưa về Căn Cứ 60 Tiếp vận Truyền Tin tân trang lại .

Kết luận :
Binh chủng Truyền Tin đă trưởng thành trong khói lửa chiến tranh từ giai đoạn sơ khai cho đến ngày trở thành binh chủng tân tiến như Binh Chủng Truyền Tin quân đội Hoa Kỳ đó là nhờ sự cố gắn và tinh thần cầu tiến của các quân nhân các cấp đă dày công học hỏi, trau dồi kỹ thuật, tôn trọng kỷ luật của QLVNCH .Trong suốt thời kỳ chiến tranh giành Độc Lập và bảo vệ Tự Do cho miền Nam VN, Binh chủng Truyền Tin đă cung cấp hệ thống thông tin liên lạc hữu hiệu cho QLVNCH trong chiến dịch Hạ Lào, Mùa Hè đỏ lửa, trong chiến thắng Quảng Trị, An Lộc …; tất cả chúng ta đều hănh diện là quân nhân phục vụ trong Binh chủng Truyền Tin, hậu thân của một Trần Nguyên Hăn, đại thần nhà Tiền Lê nước Việt .

(1) V́ không có tài liệu tham khảo, tài liệu này được viết dựa vào trí nhớ của một số sỉ quan cao cấp BCTT .Nếu có điều chi cần bổ túc xin gởi về :

Hội Ái Hữu Binh Chủng Truyền Tin
11212 Faye Ave .
Garden Grove, CA 92840

cha12 ba 11-14-2018 21:02

3 Attachment(s)
Quote:

Originally Posted by Lan-Anh (Post 3540687)
Lan Anh bỏ vô phần mềm chỉnh sửa lỗi chính tả, có khoảng vài trăm lỗi, ko biết v́ lí do ǵ. Ở dưới là đă sửa lại rồi đó cụ Hoàng Lan.

:thankyou::thankyou::handshake:
Nhờ tác giả Trang của Lính thay dùm cái insignia CTT cho đúng màu sắc của nó
Cục TT insignia (cũ)
http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1542229177
CTT (vẽ lại)
http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1542229310
Trường Truyền Tin insignia
http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1542229177


All times are GMT. The time now is 11:26.
Page 1 of 18 1 234511 Last »

VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2006 - 2024
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2024 DragonByte Technologies Ltd.

Page generated in 0.45071 seconds with 9 queries