VietBF
Page 1 of 9 1 2345 Last »

VietBF (https://www.vietbf.com/forum/index.php)
-   Member News | Tin thành viên (https://www.vietbf.com/forum/forumdisplay.php?f=189)
-   -   CHUYỆN LINH TINH BUỒN VUI TRONG ĐỜI (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=1222074)

hoanglan22 01-25-2019 20:41

CHUYỆN LINH TINH BUỒN VUI TRONG ĐỜI
 
1 Attachment(s)
MỤC LỤC

A
  1. Ai là tác giả bản "Cờ Ta Bay Trên Quảng Trị Thân Yêu" ?



B
  1. Bắc Việt Gửi Thư Đầu Hàng HK 1972
  2. Bài viết chửi Cộng hay nhất thế kỷ
  3. Bí ẩn về những chiếc vali hạt nhân
  4. Bí mật đằng sau cái Tên.
  5. 4 "Trọc Phú" lừng danh đất Sài G̣n xưa .
  6. Bản Lĩnh Của Nguyễn Văn Thiệu Trước Áp Lực Của Johnson
  7. Bí mật sức mạnh hệ thống pḥng thủ hoả tiển Mỹ
  8. Bom BLU-82
  9. Bắc Việt Gửi Thư Đầu Hàng HK 1972
  10. Bí Ẩn 30-4-1975
  11. 30 THÁNG 4 NĂM 1975: NHỮNG KHUÔN MẶT MỸ KHÓ QUÊN




C
  1. Con người đáng nể
  2. CH-47 Chinook
  3. Cô Gái Này Là Ai
  4. “cái ấy” và “chuyện ấy” trong ca dao, tục ngữ .
  5. Cuộc Chiến Không Được Thắng ...
  6. CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065
  7. Câu Chuyện Cuộc Đời...
  8. Cười Cay Đắng Từ Câu Chuyện "Lái Xe Cho Ông Sếp Nhật Dở Hơi"
  9. Cái chết của Thích Quảng Đức qua lời phát biểu của Thích Tâm Châu
  10. Con Đường Catinat và nếp sống Sài G̣n xưa
  11. Chuyến tầu định mệnh Trường Xuân Hành tŕnh t́m tự do
  12. Chiếc giường đắt nhất thế giới chính là giường bệnh: Đừng cố kiếm tiền chỉ để mua nó...
  13. Chiếc bàn ủi con gà nhà tôi
  14. Chuyến Đi Kinh Hoàng - Những Món Nợ Ân T́nh Không Bao Giờ Trả Được


D
  1. Du khách thích sờ 'của quư' của VICTOR NOIR


Đ
  1. Để Tang Cho Sách
  2. Đọc Khalil Gibran: The Prophet
  3. Định Nghĩa Chữ "BẠN"
  4. Đàn Bà, Đàn Ông


E

G

H
  1. Hiệp Định Paris 1973
  2. Ḥa B́nh của Nấm Mồ
  3. Hoa Con Vẹt
  4. HỘP ĐEN TRÊN PHI CƠ
  5. Hệ thống tiền tệ Mỹ .

I
  1. Im lặng nghĩa là yếu đuối? Không, đó là quyền năng của kẻ thông minh!


K
  1. Khóc & Cười với những con số


L
  1. LÁ THƯ CUỐI CÙNG CỦA TỔNG THỐNG NGUYỄN VĂN THIỆU

M
  1. 10 đài phun nước độc đáo nhất thế giới
  2. 15 câu nói đáng nhớ của TT Ronald Reagan

N
  1. NGƯỜI ĐẶT TÊN CHO CÁC ĐƯỜNG PHỐ SÀI G̉N TRƯỚC 1975
  2. Năm Kỷ Hợi nói chuyện… con heo
  3. Năm Hợi nói chuyện Heo
  4. Ngày Xuân nghe lính kể "Chuyện Ma"
  5. Nước bốc cháy
  6. Ngày Tết nói chuyện mâm ngũ quả
  7. Người cha nói với con rể
  8. Ngày 8/3: Tuần lễ khen vợ
  9. Người Vợ Tù Cải Tạo - Thụy Vi tự thuật
  10. Nói thêm về Thích Thiện Minh
  11. Người đàn ông Anh sống hạnh phúc cùng 12 búp bê t́nh dục
  12. [https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=1222074&page=9"]50 năm sự kiện Vịnh Bắc bộ: Nghị Quyết Vịnh Bắc bộ – 1964[/URL]
  13. Nhà hàng khỏa thân ở Paris đóng cửa v́ thiếu khách hàng






O
  1. Ở đâu đó có một nơi tên Sài G̣n


P
Q
R
  1. Ra tù

S
  1. Sài G̣n xưa : Ăn Chơi ngày Tết


T
  1. Tết về dzồi...Ai lo chuyện nấy
  2. Tết Tây và Tết Ta
  3. Tài Liệu SNIE 14.3-67: Bài Học Đắt Giá của Việc Chính-Trị-Hóa Tình Báo
  4. [URL="https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=1222074&page=5"]Tiếng Anh của bà nội trợ]/URL]
  5. Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hải-Quân Hoa-Kỳ
  6. Tử h́nh khủng bố VC Trần Văn Đang tại pháp trường cát
  7. Trên những vết thương c̣n chảy máu
  8. Thêm chuyện Paris: Tháo dỡ 65 tấn ổ khóa t́nh yêu ở Paris … đem bán
  9. Trại 5 - Mùa Cùm!




V
  1. Việt Cộng Nằm Vùng .





*************************************************





http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548448840

Tôi mở trang này để các bạn có thể post những chuyện trên trời dưới đất thật hay không thật . Bao gồm mọi vấn đề , tuy nhiên những post mà bạn nào chửi tục ở đây sẽ delete:thankyou::thankyou::handshake::handshake:

Mong rằng các bạn hăy tham gia và post nhiều điều hay cho tất cả các thành viên chúng biết thêm về những mới lạ . một lần nữa :thankyou: đến các bạn

Thân kính

hoanglan22 01-25-2019 20:42

Hiệp Định Paris 1973
 
Tháng tư 1973, thi hành Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973, Quân Lực Hoa Kỳ đơn phương rút khỏi Việt Nam.

Tháng tư 1975 Quân Đội Bắc Việt xâm chiếm Việt Nam Cộng Ḥa bằng vơ lực.

Mặc dầu vậy, Tướng William Westmoreland Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam nhận định : “Chúng ta (Hoa Kỳ) không thất trận tại Việt Nam. Nhưng chúng ta đă không giữ lới cam kết với Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Thay mặt Quân Đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn cựu chiến binh Quân Lực Miền Nam Việt Nam v́ chúng tôi đă bỏ rơi các bạn”(On behalf of the United States Armed Forces, I would like to apologize to the veterans of the South Vietnamese Armed Forces for abandoning you guys).

Và năm 1985, 10 năm sau khi Saigon thất thủ, trong cuốn “No More Vietnams”, Tổng Thống Richard Nixon tự phán : “Trong cuộc chiến đấu này Hoa Kỳ đă thất bại và phản bội đồng minh (failure and betrayal). Chúng ta đă thắng trong chiến tranh, nhưng đă thua trong ḥa b́nh."

Đúng lư Nixon phải nói : Chúng ta thắng về Quân sự, nhưng lại tháo chạy và đầu hàng lịch sự. Chúng ta thua về chính trị và, theo Thuyết Domino, đă gieo tai họa vô lường cho các Quốc gia đồng minh Đông Dương Việt-Miên-Lào, cũng như một số các Quốc gia Á Phi và Nam Mỹ như A-Phú-Hăn, Iran, Angola, Mozambique, Ethiopia, South Yemen, Nicaragua v.v...

Ngày nay, sau 40, năm chúng ta b́nh tâm duyệt lại bài học lịch sử 1975.

Bài này gồm 3 phần :

Thắng trong chiến tranh, Phản bội đồng minh và Lưỡng Diện Thụ Địch.


I. Thắng trong Chiến Tranh.

Việt Nam Cộng Ḥa và Hoa Kỳ đă thắng trong chiến tranh từ 1965 đến 1972.

1968 : Tổng Công Kích Tổng Khởi Nghĩa Tết Mậu Thân.

Cuộc Tổng Công Kích Tổng Khởi Nghĩa Tết Mậu Thân 1968 của Bắc Việt đă hoàn toàn thất bại về Chính trị cũng như về Quân sự.

Cộng Sản dối gạt các cán binh rằng vào Nam chỉ để tiếp thu, và sẽ có tổng khởi nghĩa của Nhân dân Miền Nam. Thật ra cuộc đồng khởi chính trị không được dân chúng hưởng ứng. Theo báo cáo của thủ trưởng Định Tường, ngày Tổng Khởi Nghĩa sẽ có 50 tổ đồng khởi. Vậy mà tới ngày đó, chỉ có một tổ của thủ trưởng mà thôi, “không thấy 49 tổ kia đâu !” Nhận định về sự sai biệt này, về chính trị Hồ Chí Minh đúc kết : “Tổng Khởi Nghĩa thất bại v́ báo cáo chủ quan”. (Tỷ lệ phóng đại là 98%).

Về Quân sự, cũng theo Hồ Chí Minh : “Tổng Công Kích thất bại v́ hạ tầng cơ sở du kích tan ră” (do Chiến Dịch “Lùng và Diệt Địch” phát động từ 1965). Nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam bị tiêu diệt toàn bộ; có đoàn quân đi 2.000 người mà sau một đêm chỉ c̣n có 30.

Mậu Thân, hai ngàn người xuống đồng bằng,
Chỉ một đêm, c̣n sống có ba mươi.
(Chế Lan Viên)
(Tỷ lệ tổn thất cũng là 98%)

Phục sinh 1972 : Mùa Hè Đỏ Lửa / Tổng Tấn Công Xuân Hạ.

Sự thật chiến trường cho biết, từ tháng 4-1972, khi Bắc Việt huy động hơn 200 ngàn quân trong Chiến Dịch Tổng Tấn Công Xuân Hạ hay Mùa Hè Đỏ Lửa (Easter Offensive), tới tháng 10-1972 khi Chiến Dịch tàn lụi, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă đẩy lui 14 Sư đoàn chính quy Bắc Việt, dầu rằng lúc này Quân Lực Hoa Kỳ không c̣n tham chiến trên bộ nữa. Và số thương vong của Bắc Việt đă vượt quá 100 ngàn.

Như vậy từ tháng 2-1968 (Tết Mậu Thân) đến tháng 10-1972 (sau Mùa Hè Đỏ Lửa), “Bắc Việt đă thực sự thua trận, nhưng họ làm ra vẻ thắng trận, trong khi Việt Nam Cộng Ḥa đă thực sự thắng trận”. Nixon, sách đă dẫn).

Giáng Sinh 1972 : Tập Kích Chiến Lược.

Đến Mùa Giáng Sinh 1972, sau cuộc Tập Kích Chiến Lược 12 ngày đêm của Không Lực B52 Hoa Kỳ tại Hà Nội, Hải Pḥng và vùng phụ cận (từ 18-12 đến 30-12, trừ Ngày Giáng Sinh), Bắc Việt đă hoàn toàn kiệt quệ. Tại Hà Nội và Hải Pḥng, tin trong nước cho biết, nhà nào cũng may cờ trắng đầu hàng để dân chúng nghênh đón các chiến sĩ Miền Nam ra giải phóng Miền Bắc.

Thế nhưng, ngày10-7-1971 và ngày 21- 2-1972 khi tiếp kiến Chu Ân Lai tại Bắc Kinh, Kissinger thú nhận Hoa Kỳ không chủ trương đánh bại Bắc Việt, chỉ muốn 3 điều là ngưng chiến, rút quân và trao đổi tù binh.

Tiết lộ bí mật Quân sự là nối giáo cho giặc và phản bội đồng minh.


II. Phản bội Đồng Minh.

Trong Chiến Tranh Việt Nam, Hoa Kỳ đă mắc phải 3 mâu thuẫn hay 3 nghịch lư về Chính trị, Quân sự, Pháp lư về sự chế tài vi phạm hiệp định của Bắc Việt.

Nghịch Lư Thứ Nhất về thành phần tham dự Hội Nghị.

Nghịch lư cơ sở thứ nhất là Hoa Kỳ đă thừa nhận một Quốc gia thứ hai tại Miền Nam Việt Nam là “nước” Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam (CHMNVN) với một “Chính phủ Lâm thời”(CPLT).

Cuối tháng 12-1960, để giàn dựng sân khấu nội chiến, Đảng Cộng Sản thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN). Và tới tháng 6-1969, tại Hội Nghị Paris, lại thấy xuất hiện cái gọi là CPLT CHMNVN.

MTGPMN do Đảng Cộng Sản Việt Nam dựng lên v́ lư do chính trị giai đoạn. Cũng như các cây kiểng Mặt Trận Việt Minh, Mặt Trận Liên Việt, Mặt Trận Tổ Quốc, Đảng Dân Chủ, Đảng Xă Hội v.v… là những tổ chức ngoại vi được Đảng Cộng Sản khai sanh từ thập niên 1940.

Từ sau 1975, khi Đảng Cộng Sản công khai xuất hiện, các tổ chức ngoại vi nói trên như Đảng Dân Chủ của Vũ Đ́nh Ḥe và Đảng Xă Hội của Nguyễn Xiển đă bị giải thể sau khi hoàn thành sứ mạng bầy cảnh đa đảng. Cùng chung số phận, MTGPMN cũng đă bị giải thể và sát nhập vào Mặt Trận Tổ Quốc từ tháng 11-1975 sau khi hoàn thành sứ mạng giàn dựng sân khấu nội chiến tại Miền Nam. Trước đó Quân Đội GPMN cũng được “thống nhất” với Quân Đội Bắc Việt từ sau tháng 4-1975.

Kế hoạch “3 Nước Việt” đă được Cộng Sản đề ra để giăng bẫy Hoa Kỳ. Bắc Kinh hứa sẽ dùng CHMNVN làm Quốc gia trung lập trái độn giữa Bắc và Nam Việt.

Từ 1969 Hoa Kỳ đă áp lực Việt Nam Cộng Ḥa phải nh́n nhận thực thể CHMNVN.

Nghịch Lư Thứ Hai về Rút Quân.

Trước kia, theo Hiệp Định Đ́nh Chiến Geneva 1954, trong thời hạn 300 ngày, Quân Đội Bắc Việt phải rút khỏi Miền Nam và tập trung tại phía Bắc Vĩ Tuyến 17. Trong khi đó, Hiệp Định Ḥa B́nh Paris 1973 buộc Hoa Kỳ phải đơn phương rút quân khỏi Miền Nam Việt Nam trong thời hạn 60 ngày.

Bắc Việt được hưởng quy chế ngừng bắn tại chỗ và không phải rút quân khỏi Miền Nam.

Nghịch Lư Thứ Ba về sự Bảo Đảm Thi Hành Hiệp Định.

Ngày 14-11-1972 Tổng Thống Nixon viết cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu : “Điều quan trọng hơn cả bản văn Hiệp Định là vấn đề chúng ta sẽ phản ứng thế nào trong trường hợp kẻ thù tái xâm lược. Tôi xin cam kết rằng, nếu Bắc Việt không tuân theo những điều khoản của Hiệp Định, tôi cương quyết sẽ trả đũa tức th́ và mănh liệt”.

Và 10 ngày trước khi kư Hiệp Định, ngày 17-1-1973, Nixon c̣n khẳng định : “Tự do và Độc lập của Việt Nam Cộng Ḥa là mục tiêu tối hậu của chính sách đối ngoại Hoa Kỳ... Tôi xin cam kết 3 điều sau đây :

Hoa Kỳ chỉ thừa nhận Chính Phủ Việt Nam Cộng Ḥa là chính phủ hợp pháp duy nhất tại Việt Nam;

Hoa Kỳ không chấp nhận cho Bắc Việt được đồn trú quân trên lănh thổ Miền Nam Việt Nam;

Hoa Kỳ sẽ trả đũa mănh liệt khi Bắc Việt vi phạm Hiệp Định”.

Đó cũng là điều cam kết của Tổng Thống Ford.

Sau khi Nixon từ chức, ngày 10-8-1974, với tư cách là người kế quyền Nixon, Tổng Thống Ford cũng gởi văn thư cho Tổng Thống Thiệu xác định rằng : “Những cam kết mà Hoa Kỳ đă hứa với Việt Nam Cộng Ḥa trong thời gian vừa qua vẫn giữ nguyên giá trị. Và tôi sẽ triệt để tôn trọng những cam kết này trong suốt thời gian nhiệm chức của tôi.”(Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter: The Palace File).

Năm tuần lễ sau khi kư Hiệp Định Paris, cũng tại Paris ngày 2-3-1973, với sự chứng kiến của ông Tổng Thư Kư Liên Hiệp Quốc, 12 quốc gia đă họp và kư tên vào bản Định Ước của Hội Nghị Quốc Tế về Việt Nam để “trịnh trọng ghi nhận những cam kết của 4 bên kết ước và đứng ra nhận trách nhiệm bảo đảm sự thi hành nghiêm chỉnh Hiệp Định.

Hoa Kỳ là quốc gia đứng ra triệu tập Hội Nghị Paris, đă cưỡng chế Việt Nam Cộng Ḥa phải tham dự Hội Nghị và phải kư Hiệp Định cùng với Hoa Kỳ.

Trong trường hợp Bắc Việt vi phạm Hiệp Định bằng xâm lăng vơ trang Hoa Kỳ có nghĩa vụ triệu tập Hội Nghị Quốc Tế để ban hành những biện pháp chế tài cần thiết.

Nói tóm lại :

Với sự xóa bỏ Hiệp Định Geneva 1954, sự thừa nhận nhà nước và chính phủ Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam, sự rút quân đơn phương của Hoa Kỳ, sự cắt giảm viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Ḥa từ sau Hiệp Định Paris, đặc biệt là việc Hoa Kỳ bội ước không tôn trọng lời cam kết của Tổng Thống Nixon trong 30 văn thư gửi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu hứa sẽ trả đũa quyết liệt trong trường hợp Bắc Việt tấn công vơ trang vi phạm nghiêm trọng Hiệp Định, Tổng Thống Nixon thú nhận : “Hoa Kỳ đă phản bội Đồng Minh và đă thất bại trong việc thực thi những điều cam kết bảo vệ Độc Lập và Tự Do của Việt Nam Cộng Ḥa. Đây là sự phản bội và thất bại không tiền khoáng hậu trong lịch sử Hoa Kỳ”.

Trước sự nhẫn tâm của Phe Phản Chiến, Tổng Thống Nixon nhận định :

“Các dân biểu và nghị sĩ phản chiến đă xóa tên Việt Nam Cộng Ḥa trong danh sách các Quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ. Kể cả từ sau Hiệp Định Ḥa B́nh Paris 1973, chúng ta đă thắng trong chiến tranh. Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă thành công trong việc chặn đứng những vụ vi phạm ngừng bắn của Bắc Việt trong suốt 2 năm (1973-1975). Lư do thất bại là v́ Quốc Hội Hoa Kỳ đă khước từ không chịu cấp quân viện cho Saigon ngang với số quân viện Liên Xô cấp cho Hà Nội. Tất cả các Tướng lănh chỉ huy cao cấp Hoa Kỳ tại Việt Nam và Hoa Thịnh Đốn đều xác nhận rằng, nếu được trang bị đầy đủ, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa sẽ có khả năng đẩy lui những Sư đoàn thiện chiến nhất của Bắc Việt xâm nhập vào Nam...” (Nixon, sách đă dẫn)


III. Lưỡng diện thụ địch.

Năm 1973, dưới áp lực của Hoa Kỳ, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bị du vào thế lưỡng diện thụ địch, phải kư Hiệp Định Paris để chấp nhận những tai ương gây ra bởi bản văn Hiệp Định, cũng như bởi sự trí trá của Cộng Sản và sự bội ước của Đồng Minh.

Chúng ta hăy nêu giả thuyết :

Trong trường hợp ông Thiệu có tinh thần vô uư không chịu lùi bước trước cái chết (như Thủ Tướng Sirik Matak tại Cao Miên) liệu ông có thể làm được những ǵ cho Quốc Gia ?

Với tư cách nguyên thủ của một Quốc Gia có Hiến Pháp và Quốc Hội, ông Thiệu có thể ra chỉ thị cho Chính phủ của ông không kư hiệp định trong trường hợp Hoa Kỳ cho quân Bắc Việt tiếp tục đồn trú tại Miền Nam trái với lời cam kết minh thị của Nixon. Về mặt hiến chế các hiệp ước do Hành Pháp kư chỉ có hiệu lực thi hành nếu được Lập Pháp phê chuẩn. Mà Quốc Hội Việt Nam Cộng Ḥa đầu thập niên 1970 vẫn tôn trọng Hiến Pháp Đệ Nhị Cộng Ḥa 1967 với chủ trương “đặt Cộng Sản ra ngoài ṿng pháp luật”.

Quốc Hội Việt Nam Cộng Ḥa sẽ công bố lập trường không chấp nhận và sẽ không phê chuẩn bất cứ hiệp định nào kư với Bắc Việt nếu có một trong ba sự kiện sau đây :

1. Có sự tham gia của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, một tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng Sản, đại diện bởi cái gọi là “Chính Phủ Lâm Thời” của “Nước” CHMNVN, một nước hữu danh vô thực CPLT được khai sanh vào tháng 6-1969 v́ nhu cầu chính trị giai đoạn. Nó bị khai tử tháng 11-1975 cùng với CHMNVN.

2. Trong Hiệp Định không có điều khoản ghi rơ Quân Đội Bắc Việt phải triệt thoái khỏi Miền Nam Việt Nam đồng thời với Quân Lực Hoa Kỳ.

3. Hoa Kỳ được vĩnh viễn giải kết tại Việt Nam nên không c̣n chịu trách nhiệm bảo đảm sự thi hành Hiệp Định, nhất là không trả đũa tái oanh tạc nếu Bắc Việt vi phạm Điều 15 Hiệp Định Paris bằng xâm lăng vơ trang để thôn tính Miền Nam Việt Nam.

Nếu có một trong ba trường hợp nói trên, Chính Phủ Việt Nam Cộng Ḥa sẽ không kư Hiệp Định v́ biết rằng Quốc Hội sẽ không phê chuẩn. Quốc Hội Việt Nam Cộng Ḥa sẽ ra Tuyên Cáo và Chính Phủ Việt Nam Cộng Ḥa sẽ họp báo tại Saigon, Paris và Hoa Thịnh Đốn để công bố lập trường và tranh thủ cảm t́nh của dư luận Quốc gia và Quốc tế.

Đó là sách lược Tổng Thống trao lại cho Quốc Dân-do Quốc Hội đại diện-quyền quyết định về vấn đề Ḥa hay Chiến theo gương Hội Nghị Diên Hồng chống Đế Quốc Mông Cổ hồi Thế Kỷ 13.

Hoa Kỳ sẽ phản ứng ra sao ?

Theo giới am hiểu, nhiều phần người Mỹ sẽ không dám hạ sát ông Thiệu năm 1973 như họ đă hạ sát ông Diệm năm 1963. Trong một thập niên, Hoa Kỳ không dám sát hại hai vị nguyên thủ của một Quốc gia đồng minh đă đồng tâm hiệp lực với Hoa Kỳ đứng ra làm tiền đồn chống Cộng để bảo vệ Tự Do cho các Quốc gia Đông Nam Á dưới sự lănh đạo của Hoa Kỳ qua Khối Liên Minh Pḥng Thủ Đông Nam Á (SEATO).

Tổng kết lại, trong trường hợp Việt Nam Cộng Ḥa không kư Hiệp Định Paris 1973 th́ việc ǵ sẽ xẩy ra, và Hoa Kỳ sẽ phản ứng ra sao ?

1. Rất có thể, do áp lực Quốc nội, cũng như v́ quyền lợi riêng tư, Hoa Kỳ sẽ kư hiệp ước tay đôi với Bắc Việt về ngừng bắn, rút quân và thả tù. Và để trả đũa Hoa Kỳ sẽ cắt hết viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Ḥa, để tạo cơ hội cho Cộng Sản thôn tính Miền Nam bằng vơ lực. Trước dư luận Quốc tế và Quốc nội, cũng như về mặt ngoại giao, liên minh, chính nghĩa, tín nghĩa và lương tâm, liệu Hoa Kỳ có dám nhẫn tâm làm điều đó không ?

Câu trả lời hợp lư là “không”.

V́ hành động như vậy là phản bội đồng minh và đầu hàng nhục nhă. Chẳng khác nào, nếu đầu thập niên 1940, Roosevelt kư với Đức Quốc Xă hiệp ước bất tương xâm để trao Tây Âu cho Hitler; hay cuối thập niên 1940, Truman ngưng tiếp vận hàng không cho Tây Bá Linh để trao Thị trấn này cho Honecker; hay đầu thập niên 1950, Truman kư ḥa ước với Bắc Hàn để rút quân và bán đứng Nam Hàn cho Kim Nhật Thành.

Những vụ phản bội và đầu hàng nhục nhă này nếu có, chẳng những tác hại đến Anh Quốc, Tây Đức và Đại Hàn, mà c̣n gây thảm họa cho toàn cơi Âu Châu, từ Tây Âu sang Đông Âu, cũng như cho toàn cơi Á Châu, từ Đông Bắc Á qua Đông Nam Á. Do hậu quả dây chuyền của Thuyết Domino.

2. Dầu sao, nhiều phần là, muốn ngừng bắn, rút quân và chuộc tù, Hoa Kỳ vẫn cần phải có sự tham dự của Việt Nam Cộng Ḥa tại Hội Nghị. Muốn thế Hoa Kỳ sẽ t́m cách lật đổ ông Thiệu theo kế hoạch “thay đổi nhân sự” được áp dụng năm 1963. Trong trường hợp này, cũng như 10 năm trước, rất có thể ông Dương Văn Minh sẽ lại được chiếu cố. Và ông này sẽ tuân lệnh Hoa Kỳ (và Bắc Việt) để thành lập một Chính Phủ Liên Hiệp 3 Thành Phần do Cộng Sản khống chế. Kết quả là phe Cộng Ḥa chỉ c̣n 1/3 chủ quyền, 1/3 chính quyền, 1/3 lănh thổ và 1/3 lực lượng tại Miền Nam. Nghĩa là trong toàn cơi Việt Nam, phe Cộng Sản chiếm tuyệt đại đa số 5/6. Trong điều kiện đó Bắc Việt sẽ thôn tính Miền Nam bằng bạo lực.

Trong trường hợp này, đối với Hoa Kỳ, hành động bán đứng Việt Nam Cộng Ḥa cũng là phản bội đồng minh và đầu hàng nhục nhă.

Và, một lần nữa, vấn đề đặt ra là, về mặt ngoại giao, liên minh, chính nghĩa, tín nghĩa và lương tâm, liệu Hoa Kỳ có dám nhẫn tâm làm điều đó không ?

Câu trả lời hợp lư cũng vẫn là “không”.

Rút kinh nghiệm vụ “thay đổi nhân sự” năm 1963 tại Việt Nam, Hoa Kỳ sẽ rất ngần ngại khi phải can thiệp lộ liễu vào nội bộ của một Quốc Gia Đồng Minh trong Thế Giới Dân Chủ.

Trong văn thư ngày 31-8-1972 chính Nixon cũng xác nhận điều này với ông Thiệu: “Tôi xin một lần nữa đoan chắc với Ngài về lập trường căn bản của Hoa Kỳ: Nhân dân Hoa Kỳ ư thức rằng muốn mang lại ḥa b́nh và danh dự cho quốc gia, chúng tôi không thể bỏ rơi một đồng minh dũng cảm ( như Việt Nam Cộng Ḥa ). Điều này tôi không thể làm và sẽ không bao giờ làm”.

V́ việc này đi trái Chính Nghĩa, Tín Nghĩa, Lương Tâm, Danh Dự, Quyền Lợi Quốc Gia và Truyền Thống Dân Chủ của Hoa Kỳ từ khi lập quốc.

Có điều là, trong lịch sử nhân loại cổ kim, chưa từng thấy một đế quốc nào dám ra tay hạ sát hai vị nguyên thủ của một Quốc gia đồng minh trong ṿng một thập kỷ.

Thật vậy, khi Hoa Kỳ nhẫn tâm rũ áo ra đi để mặc cho phe Quốc Tế Cộng Sản thôn tính Miền Nam bằng vơ lực, th́ bao nhiêu công lao, danh dự và uy tín quốc gia, xây dựng từ Thế Chiến I đến Thế Chiến II và Chiến Tranh Triều Tiên, sẽ phút chốc tiêu tan, đem lại sự bất b́nh và chê bai của các quốc gia văn minh trên thế giới. Hậu quả dễ thấy nhất là sự bành trướng thế lực vượt bực của phe Quốc Tế Cộng Sản tại Á Châu, Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh.

Ngoài ra, sự hoài nghi của các dân tộc trên thế giới về Quyết Tâm và Lư Tưởng Tự Do của Hoa Kỳ sẽ có tác dụng làm suy yếu cuộc đấu tranh giải thể chế độ độc tài Cộng sản tại Đông Âu và Liên Xô.

Do đó, cho đến nay không ai dám quyết đoán về việc Hoa Kỳ có theo chính sách thực dụng để nhẫn tâm làm việc đó không ?

Có điều là, nếu quân dân một ḷng, và nếu vị nguyên thủ quốc gia có tinh thần vô úy “coi tấm thân nhẹ tựa hồng mao”, không chịu lùi bước trước cái chết, th́ uy tín của Việt Nam Cộng Ḥa sẽ được bảo toàn, danh dự của Quân LựcViệt Nam Cộng Ḥa sẽ được ǵn giữ. Và vị nguyên thủ Quốc gia sẽ có cơ hội đi vào Lịch Sử Dân Tộc như Nguyễn Thái Học và Hoàng Diệu trong hai thế kỷ vừa qua.

Mà, nếu biết vận dụng t́nh thế, với quyết tâm, có cố vấn và mưu lược, rất có thể Việt Nam Cộng Ḥa sẽ tạo được thời cơ để bảo vệ chủ quyền lănh thổ quốc gia từng phần hay toàn diện.


Nhuệ Hồng Nguyễn Hữu Thống

hoanglan22 01-25-2019 20:46

Ḥa B́nh của Nấm Mồ
 
Cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trả lời phỏng vấn của Spiegel 1979
Phạm Thị Hoài dịch


Nguyễn Văn Thiệu và Henry Kissinger

Spiegel: Thưa ông Thiệu, từ 1968 đến 1973 Hoa Kỳ đă nỗ lực thương lượng ḥa b́nh cho Việt Nam. Trong cuốn hồi kư của ḿnh, ông Henry Kissinger, trưởng phái đoàn đàm phán Hoa Kỳ đă dùng nhiều trang để miêu tả việc ông, Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa, đă chống lại những nỗ lực nhằm đem lại ḥa b́nh cho một cuộc chiến đă kéo dài nhiều năm, với hàng triệu nạn nhân và dường như là một cuộc chiến để "bóp nát trái tim Hoa Kỳ". V́ sao ông lại cản trở như vậy?

Nguyễn Văn Thiệu: Nói thế là tuyệt đối vô nghĩa. Nếu tôi cản trở th́ đă không có Hiệp định Ḥa b́nh năm 1973 – mặc dù, như ai cũng biết, đó không phải là một nền ḥa b́nh tốt đẹp; hậu quả của nó ở Việt Nam là chứng chỉ rơ ràng nhất. Kissinger đại diện cho chính sách và lợi ích của chính phủ Mỹ. Là Tổng thống Nam Việt Nam, bổn phận của tôi là bảo vệ những lợi ích sống c̣n của đất nước tôi.

Tôi đă nhiều lần chỉ ra cho Tổng thống Nixon và TS Kissinger rằng, đối với một cường quốc như Hoa Kỳ th́ việc từ bỏ một số vị trí không mấy quan trọng ở một quốc gia bé nhỏ như Nam Việt Nam không có ǵ đáng kể. Nhưng với chúng tôi, đó là vấn đề sinh tử của cả một dân tộc.

Spiegel: Kissinger không phủ nhận rằng cuối cùng ông cũng đồng ư. Nhưng ông ấy cũng nói rằng phải đàm phán lâu như vậy v́ ông cản trở nhiều, rằng ông đồng ư với các đề xuất của Mỹ chỉ v́ ông chắc mẩm rằng đằng nào th́ Hà Nội cũng sẽ bác bỏ.

Nguyễn Văn Thiệu: Không đúng như vậy. Để chấm dứt một cuộc chiến tranh đă kéo dài gần 30 năm, người ta cần nhiều thời gian hơn là hai, ba ngày hay hai, ba tháng. Tôi hiểu rơ rằng đối với người Mỹ đă đến giúp chúng tôi, đây là cuộc chiến dài nhất trong lịch sử của họ. Có lẽ v́ thế mà họ vội vă như vậy. Nhưng điều chúng tôi cần là một nền ḥa b́nh lâu dài.

Spiegel: Kissinger có ư cho rằng ông không thực sự muốn kư kết một thỏa thuận về ḥa b́nh, đúng ra ông ngầm mong phía miền Bắc cũng sẽ cứng đầu như ông. Kissinger viết rằng ông đồng ư với nhiều đề xuất từ phía Mỹ - trong tinh thần sẵn sàng không tuân thủ, chỉ v́ trong thâm tâm ông không tin rằng ḥa b́nh sẽ được kư kết. Có phải là trong khi đàm phán, ông đă bịp, với hy vọng là sẽ không bao giờ phải ngửa bài lên?

Nguyễn Văn Thiệu: Không. Sao lại có thể nói là một dân tộc đă chịu đựng bao nhiêu đau khổ suốt 30 năm lại muốn kéo dài cuộc chiến? Kissinger muốn xúc tiến thật nhanh mọi việc để Mỹ có thể rút quân và tù binh Mỹ được thả. Mà có lẽ mục đích của chính phủ Mỹ cũng là cao chạy xa bay. Họ th́ có thể bỏ chạy. Nhưng chúng tôi th́ phải ở lại Nam Việt Nam.

Chúng tôi có quyền chính đáng để đ̣i hỏi một hiệp định ḥa b́nh toàn diện. Không phải là vài ba năm ḥa b́nh, rồi sau đó lại 30 năm chiến tranh.

Nguyễn Văn Thiệu và Richard Nixon tại cuộc họp ở Midway 1969

Spiegel: Vậy tại sao ông lại đi trước cả người Mỹ và tự đề nghị Hoa Kỳ rút quân trong cuộc họp tại đảo Midway ở Thái B́nh Dương tháng Sáu 1969, theo tường thuật của Kissinger?

Nguyễn Văn Thiệu: Trước khi họp ở Midway, việc chính phủ Mỹ dự định rút quân đă không c̣n là điều bí mật. Cho phép tôi nhắc để các ông nhớ lại, tin tức về việc Mỹ sẽ rút một số quân đă loan khắp thế giới, trước cuộc họp ở Midway. V́ sao? Theo tôi, chính phủ Mỹ muốn thả bóng thăm ḍ, tiết lộ thông tin trước cho báo chí và đẩy chúng tôi vào sự đă rồi.

Spiegel: Tức là ông đă nắm được t́nh h́nh?

Nguyễn Văn Thiệu: Đúng thế. Cuộc họp ở Midway nhằm hai mục đích. Thứ nhất, cho hai vị tân tổng thống cơ hội làm quen và bàn về đề tài Việt Nam. Điểm thứ hai đă vạch rất rơ là bàn về việc rút những toán quân Mỹ đầu tiên. Tôi đă không h́nh dung sai điều ǵ và đă làm chủ t́nh thế. Không có ǵ phải lo lắng, và tôi đă rất vững tâm.

Spiegel: Khi đề xuất Mỹ rút quân, ông có thật sự tin rằng Nam Việt Nam có thể chiến đấu một ḿnh và cuối cùng sẽ chiến thắng trong một cuộc chiến mà hơn 540.000 lính Mỹ cùng toàn bộ guồng máy quân sự khổng lồ của Hoa Kỳ không thắng nổi không? Chuyện đó khó tin lắm.

Nguyễn Văn Thiệu: Không, đề xuất đó không phải của tôi. Tôi chỉ chấp thuận. Tôi chấp thuận đợt rút quân đầu tiên của Mỹ, v́ Tổng thống Nixon bảo tôi là ông ấy gặp khó khăn trong đối nội và việc rút quân chỉ mang tính tượng trưng. Ông ấy cần sự ủng hộ của dư luận và của Quốc hội. Nhưng tôi cũng bảo ông ấy rằng: Ông phải chắc chắn rằng Hà Nội không coi việc bắt đầu rút quân đó là dấu hiệu suy yếu của Hoa Kỳ.

Spiegel: Và ông không nghĩ đó là khởi đầu của việc rút quân toàn bộ?

Nguyễn Văn Thiệu: Không. Tôi đă h́nh dung được rằng, đó là bước đầu tiên để cắt giảm quân số. Nhưng không bao giờ tôi có thể nghĩ Mỹ sẽ rút hẳn và bỏ rơi Nam Việt Nam. Tôi đă tŕnh bày với Tổng thống Nixon rằng việc cắt giảm quân số sẽ phải tiến hành từng bước, như khả năng chiến đấu và việc tiếp tục củng cố Quân lực Việt Nam Cộng ḥa cho phép – tương ứng với những viện trợ quân sự và kinh tế có thể giúp Nam Việt Nam tự đứng trên đôi chân của ḿnh.

Quan trọng hơn, tôi đă bảo ông ấy phải yêu cầu Hà Nội có một hành động tương ứng đáp lại. Phía Mỹ đồng ư với tôi ở mọi điểm; về một sự rút quân từng bước và của cả hai phía...

Spiegel: ... và mang tính tượng trưng?

Nguyễn Văn Thiệu: Tôi hiểu rơ rằng cuộc chiến ở Việt Nam cũng là một vấn đề đối nội của Hoa Kỳ. Và Tổng thống Nixon giải thích rằng ông ấy cần một cử chỉ tượng trưng để giải quyết vấn đề đó. Trước đó một tuần tôi đến Seoul và Đài Loan, tôi đă nói với Tổng thống Park Chung Hee và Tổng thống Tưởng Giới Thạch rằng tôi hy vọng việc rút quân sắp bàn với Tổng thống Nixon ở Midway chỉ là một sự cắt giảm quân số mang tính tượng trưng. Song tôi cũng lưu ư rằng nếu Hoa Kỳ muốn rút hẳn th́ chúng tôi cũng không thể ngăn cản. Vậy th́ đề nghị họ rút quân từng bước, đồng thời viện trợ để củng cố một quân đội Nam Việt Nam hùng mạnh và hiện đại, có thể thay thế người Mỹ, sẽ là hợp lư hơn. Không bao giờ tôi đặt giả thiết là lính Mỹ sẽ ở lại Việt Nam vĩnh viễn.

Spiegel: Mỹ vẫn đóng quân ở Hàn Quốc và Tây Đức mà.

Nguyễn Văn Thiệu: Nhưng chúng tôi là một dân tộc rất kiêu hănh. Chúng tôi bảo họ rằng, chúng tôi cần vũ khí và viện trợ, nhưng nhiệt huyết và tính mạng th́ chúng tôi không thiếu.

Spiegel: Ông đánh giá thế nào về t́nh thế của ông khi ấy? Vài tháng trước đó, Bộ trưởng Quốc pḥng Mỹ Melvin Laird vừa đưa ra một khái niệm mới: "Việt Nam hóa chiến tranh". Trước đây người Mỹ chỉ nói đến việc "phi Mỹ hóa" cuộc chiến. Cái khái niệm mới ấy đă thể hiện rơ dự định rút khá nhanh của người Mỹ rồi, đúng không?

Nguyễn Văn Thiệu: Khi đến Sài G̣n vào tháng Bảy 1969, ông Nixon đă nhắc lại rằng ông ấy cần được sự hậu thuẫn của dư luận trong nước Mỹ. Tôi hiểu ông ấy. Nhưng ông ấy không hề tuyên bố rằng việc rút quân là một lịch tŕnh mang tính hệ thống do sáng kiến của Mỹ. Ông ấy chỉ nói với tôi về những khó khăn trong nước, ở Mỹ, và đề nghị tôi giúp. Ông ấy bảo: "Hăy giúp chúng tôi giúp ông." Tôi đáp: "Tôi giúp ông giúp chúng tôi." Trong lần họp mặt đó, chúng tôi lại tiếp tục bàn về việc rút quân từng bước.

Spiegel: Nhưng không đưa ra một lịch tŕnh cụ thể?

Nguyễn Văn Thiệu: Không. Và ông Nixon lại hứa rằng việc rút quân của Mỹ sẽ phải đi đôi với những hành động tương ứng của Bắc Việt và phải phù hợp với khả năng pḥng thủ của Nam Việt Nam cũng như phải phù hợp với việc Mỹ tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế cho Nam Việt Nam.

Spiegel: Ở thời điểm đó ông có nhận ra rằng nếu thấy cần th́ Mỹ cũng sẽ sẵn sàng đơn phương rút quân không?

Nguyễn Văn Thiệu: Có, tôi đă ngờ. Nhưng lúc đó tôi vẫn rất vững tâm và tin tưởng vào đồng minh lớn của chúng tôi.

Spiegel: Có lẽ ông tin thế là phải. Cuốn hồi kư của Kissinger cho thấy khá rơ rằng chính phủ Nixon không thể dễ dàng "đ́nh chỉ một dự án liên quan đến hai chính phủ, năm quốc gia đồng minh và đă khiến 31,000 người Mỹ phải bỏ mạng, như thể ta đơn giản chuyển sang một kênh TV khác."

Rơ ràng là người Mỹ muốn thoát khỏi Việt Nam bằng con đường đàm phán. Chỉ trong trường hợp cần thiết họ mới muốn đơn phương rút quân. Ông có đưa ra yêu sách nào liên quan đến những cuộc thương lượng giữa Washington và Hà Nội không?

Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi đă chán ngấy chiến tranh và quyết tâm chấm dứt nó qua đàm phán. Chúng tôi yêu cầu những kẻ xâm lăng đă tràn vào đất nước của chúng tôi phải rút đi. Tất cả chỉ có vậy.

Spiegel: Ông đă oán trách rằng sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam năm 1975 chủ yếu là do sau Hiệp định Paris, miền Bắc vẫn được phép đóng quân tại miền Nam. Ông khẳng định rằng ḿnh chỉ chấp nhận sự hiện diện đó của miền Bắc trong quá tŕnh đàm phán, c̣n sau khi kư kết th́ Hà Nội phải rút quân.

Nhưng Kissinger lại khẳng định trong hồi kư rằng ông thừa biết việc Hà Nội sẽ tiếp tục trụ lại ở miền Nam, và cho đến tận tháng Mười 1972 ông cũng không hề phản đối những đề xuất của phía Mỹ liên quan đến điểm này.

Nguyễn Văn Thiệu: Đó là một lời nói dối hết sức vô giáo dục của Kissinger, rằng tôi chấp thuận cho quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam. Nếu ngay từ đầu tôi đă chấp thuận như Kissinger nói th́ lúc ông ấy cho tôi xem bản dự thảo, trong đó không có điều khoản nào về việc rút quân của Bắc Việt, tôi đă chẳng phản đối quyết liệt như thế.

Điểm then chốt nhất mà tôi dốc sức bảo vệ, từ đầu cho đến khi kết thúc đàm phán, chính là yêu cầu Hà Nội phải rút quân. Tôi đă tuyên bố rơ với Kissinger là nếu không đạt được điều đó th́ không có kư kết.

Sau nhiều ngày tranh luận gay gắt, cuối cùng ông ta bảo: "Thưa Tổng thống, điều đó là không thể được. Nếu được th́ tôi đă làm rồi. Vấn đề này đă đặt ra ba năm trước, nhưng phía Liên Xô không chấp nhận." Tôi hiểu ra rằng chính phủ Mỹ đă nhượng bộ trước yêu sách của Liên Xô, và đó là nỗi thất vọng lớn nhất của tôi.

Spiegel: Có lẽ Liên Xô không thể làm khác, v́ Hà Nội không chấp nhận coi Nam Việt Nam là một quốc gia khác, và một thời gian dài họ c̣n phủ nhận việc họ đă đưa quân đội chính quy vào miền Nam.

Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi đă chiến đấu hơn 20 năm và học được rằng, đừng bao giờ tin lời Nga Xô và Hà Nội. Bắc Việt đóng quân ở cả Lào, Campuchia và Nam Việt Nam, tôi tin rằng một người mù cũng nh́n ra điều đó. Muốn chấm dứt chiến tranh th́ chúng ta phải nh́n vào hiện thực chứ không thể chỉ nghe lời kẻ địch.

Spiegel: Ông có lập luận như thế với Kissinger không?

Nguyễn Văn Thiệu: Tất nhiên, và với cả Tướng Haig nữa. Tôi bảo ông ấy thế này: "Ông Haig, ông là tướng, tôi là tướng. Ông có biết một hiệp định ḥa b́nh nào trong lịch sử lại cho phép kẻ xâm lăng tiếp tục đóng quân tại lănh thổ mà nó xâm lược không? Ông có cho phép Liên Xô vào Hoa Kỳ đóng quân rồi tuyên bố rằng ông đă kư kết thành công một hiệp định ḥa b́nh với Liên Xô không?"

Spiegel: Ông ấy trả lời sao?

Nguyễn Văn Thiệu: Ông ấy không trả lời được. Mà trả lời thế nào cơ chứ, chuyện đó hoàn toàn vô lư. C̣n ǵ mà nói nữa.

Spiegel: Nhưng Kissinger th́ có câu trả lời trong hồi kư. Ông ấy viết rằng khó mà bắt Hà Nội rút quân, v́ họ hoàn toàn không sẵn sàng từ bỏ trên bàn đàm phán những thứ mà họ không mất trên chiến trường. Nhưng ông ấy cũng nói rằng trong Hiệp định Paris có một điều khoản không cho phép xâm lấn. Ông ấy đi đến kết luận rằng "lực lượng miền Bắc sẽ tự nhiên tiêu hao sinh lực và dần dần biến mất."

Nguyễn Văn Thiệu: Tôi thấy chính phủ Mỹ và đặc biệt là TS Kissinger không hề rút ra được bài học nào khi phải đàm phán với cộng sản, sau những kinh nghiệm đau thương năm 1954 giữa Pháp và cộng sản Việt Nam và từ Chiến tranh Triều Tiên. Họ cũng không học được ǵ từ những cuộc đàm phán về Lào và Campuchia và cũng không nắm bắt được là nên xử sự thế nào với cộng sản và cần phải hiểu chiến lược và chiến thuật của cộng sản ra sao.

Tức là ta lại phải trở về với vấn đề rằng, v́ sao TS Kissinger, người đại diện cho một quốc gia lớn và tự cho ḿnh là nhà thương thuyết giỏi giang nhất, lại có thể tin rằng quân Bắc Việt đóng tại miền Nam sẽ không xâm lấn. Sao ông ấy có thể tin như vậy cơ chứ?

Ông ấy đủ sức kiểm soát từng tấc đất trên biên giới của Campuchia, và của Lào, và của Nam Việt Nam à? Dù có cả triệu nhân viên quốc tế giám sát, chúng tôi cũng không bao giờ có thể khẳng định là đă có đủ bằng chứng rằng không có xâm lấn. Sao ông ấy lại có thể tin những ǵ Bắc Việt nói. Ông ấy có thể tin lời cộng sản, nhưng chúng tôi th́ không. V́ thế mà tôi đă cương quyết đ̣i Bắc Việt phải rút quân. Nếu họ thực sự muốn ḥa b́nh th́ họ ở lại miền Nam làm ǵ?

Spiegel: Vậy Kissinger nói sao?

Nguyễn Văn Thiệu: C̣n nói ǵ được nữa? Ông ấy và chính phủ Mỹ chỉ muốn chính xác có một điều: rút khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt và đảm bảo việc trao trả tù binh Mỹ. Họ bảo chúng tôi là họ mong muốn một giải pháp trong danh dự, nhưng sự thực th́ họ chỉ muốn bỏ của chạy lấy người. Nhưng họ lại không muốn bị người Việt và cả thế giới kết tội là đă bỏ rơi chúng tôi. Đó là thế kẹt của họ.

Spiegel: Kissinger viết rằng, ngay sau Chiến dịch Xuân-Hè 1972 của Hà Nội, các bên dường như đă đổi vai. Hà Nội đột nhiên muốn đàm phán trở lại, c̣n Sài G̣n th́ muốn đánh cho đến khi giành toàn thắng.

Nguyễn Văn Thiệu: Hoàn toàn vô nghĩa! Ông TS Kissinger hiểu thế nào là chiến thắng? Bắc Việt đă đem chiến tranh vào miền Nam. Chúng tôi yêu cầu họ phải rút quân. Thế là chiến thắng hay sao? Tôi chưa bao giờ yêu cầu Bắc Việt tự coi ḿnh là tù binh của miền Nam. Tôi chưa bao giờ yêu cầu Bắc Việt bồi thường cho tổn thất chiến tranh. Tôi chưa bao giờ đ̣i hỏi Bắc Việt giao nộp lănh thổ. Tôi chưa bao giờ đ̣i có chân trong chính phủ ở Hà Nội. Vậy ông Kissinger hiểu thế nào về chiến thắng và toàn thắng?

Spiegel: Về vấn đề rút quân của miền Bắc, 31 tháng Năm 1971 là một ngày quan trọng. Kissinger cho biết là khi đó, trong các cuộc họp kín, Mỹ đă đưa ra yêu cầu hai bên cùng rút quân. Trong hồi kư, ít nhất ba lần TS Kissinger viết rằng không những ông được thông báo trước, mà ông c̣n chấp thuận.

Nguyễn Văn Thiệu: Tôi không bao giờ chấp thuận việc rút quân đơn phương. Từ cuộc họp ở Midway, tôi luôn luôn yêu cầu rút quân từng bước và cả hai bên cùng rút. Hoa Kỳ đă thay đổi lập trường và t́m cách ép chúng tôi, với những chiến thuật mà họ thường sử dụng, bằng cách huơ thanh gươm Damocles trên đầu tôi, chẳng hạn họ đem công luận Mỹ ra đe tôi, họ bảo: "H́nh ảnh của ông tại Hoa Kỳ hiện nay rất tồi tệ!" Hoặc: "Quốc hội muốn cắt giảm viện trợ." Vân vân. Họ áp dụng đúng những chiến thuật đă biết, tiết lộ thông tin cho báo giới và đặt tôi trước sự đă rồi.

Nếu tôi từ chối, công luận sẽ quay ra chống tôi: "Ông ta đ̣i quá nhiều, ông ta sẽ không bao giờ cho Mỹ được rút, ông ta sẽ không bao giờ cho tù binh Mỹ được trở về." Thế là tôi luôn phải chấp thuận. Không phải tự nguyện, mà miễn cưỡng. Tôi phản đối làm sao được, khi lần nào họ cũng bảo rằng: "Ông mà chống th́ sẽ bị cắt viện trợ."

Spiegel: Kissinger viết rằng trước bất kỳ một quyết định dù dưới h́nh thức nào, phía Mỹ cũng hỏi ư kiến ông trước.

Nguyễn Văn Thiệu: Vâng, họ hỏi ư kiến tôi, nhưng chắc chắn không phải là để nghe tôi nói "Không", nếu đó là những quyết định phục vụ cho lợi ích của Hoa Kỳ. Họ ưa gây sức ép hơn, và đạt được gần như mọi thứ bằng cách đó.

Spiegel: Bây giờ Kissinger cay đắng chỉ trích về Chiến dịch Hạ Lào năm 1971. Ông ấy viết rằng, ông đă đồng ư rằng chiến dịch này nhất định phải thực hiện trong mùa khô. Vậy ư tưởng đó ban đầu là của ai?

Nguyễn Văn Thiệu: Của người Mỹ. Trước đó khá lâu, chúng tôi từng có ư định thực hiện, nhưng không đủ khả năng tiến hành một ḿnh. Đến khi phía Mỹ đề xuất th́ chúng tôi sẵn sàng đồng ư, để sớm chấm dứt chiến tranh. Chiến dịch đó do liên quân Việt-Mỹ thực hiện và được vạch ra rất rơ ràng: Chúng tôi tác chiến tại Lào, c̣n phía Mỹ th́ hỗ trợ tiếp vận từ Việt Nam và từ biên giới.

Spiegel: V́ sao? V́ Quốc hội Mỹ có luật cấm quân đội Mỹ xâm nhập lănh thổ Lào?

Nguyễn Văn Thiệu: Vâng, tôi tin là vậy. Nhưng cũng v́ chúng tôi không có đủ phương tiện để tiếp tế cho binh lính, và nhất là để cứu thương binh ra ngoài. Việc đó chỉ có thề thực hiện bằng trực thăng, và chỉ phía Mỹ mới có đủ trực thăng. Không có họ th́ không đời nào chúng tôi đồng ư thực hiện chiến dịch tại Lào.

Spiegel: Kissinger viết rằng quân của ông gặp khó khăn khi yêu cầu không quân hỗ trợ, v́ gần như không có báo vụ viên nói được tiếng Anh.

Nguyễn Văn Thiệu: Hoàn toàn không có vấn đề ǵ với việc hỗ trợ của không quân. Đôi khi không có th́ chúng tôi cũng không lo lắng; chúng tôi có thể dùng pháo binh. Vấn đề là: trong ba ngày mở đầu chiến dịch, phía Mỹ đă mất rất nhiều phi công trực thăng. V́ thế mà họ chần chừ, không bay đúng thời điểm và ở quy mô cần thiết. Điều đó thành ra một vấn đề lớn với quân lực Nam Việt Nam.

Spiegel: Tinh thần binh lính bị suy sụp?

Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi không đem được binh lính tử trận và thương binh ra ngoài. Không phải chỉ tinh thần binh lính, mà cả tiến độ của chiến dịch cũng bị ảnh hưởng.

Spiegel: Kissinger nêu ra một lư do khác. Rằng ông đă lệnh cho các sĩ quan chỉ huy phải thận trọng khi tiến về hướng Tây và ngừng chiến dịch nếu quân số tổn thất lên tới 3000. Kissinger viết rằng nếu phía Mỹ biết trước điều đó th́ không đời nào họ đồng ư tham gia chiến dịch này.

Nguyễn Văn Thiệu: Đối với một quân nhân, định trước một tổn thất về quân số là điều phi lư. Nếu TS Kissinger nói thế th́ ông ấy thật giàu trí tưởng tượng. Chúng tôi chỉ có thể tiến về phía Tây trong giới hạn mà trực thăng cứu viện có thể bay đến. Kissinger bảo là chúng tôi đă rút quân mà không báo cho phía Mỹ. Làm sao chúng tôi có thể triệt thoái trên 10,000 quân mà họ không hay biết ǵ?

Spiegel: Tức là ông đă thông báo cho họ?

Nguyễn Văn Thiệu: Ồ, tất nhiên. Để tôi kể cho ông nghe một câu chuyện. Hồi đó tờ Time hay tờ Newsweek có đăng bức h́nh một người lính Nam Việt Nam đang bám vào càng một chiếc trực thăng cứu viện. Bên dưới đề: "Nhát như cáy". Tôi chỉ cười. Tôi thấy nó tệ. Không thể ngăn một người lính lẻ loi hành động như vậy được. Nhưng báo chí lại kết tội lính Nam Việt Nam là hèn nhát và đồng thời giấu biến sự thật về tinh thần chiến đấu sút kém của phi công trực thăng Mỹ trong chiến dịch này.

Spiegel: Một điểm gây rất nhiều tranh căi giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam là vấn đề ngưng bắn. Theo cuốn hồi kư của Kissinger th́ ngay từ mùa Hè 1970 chính phủ Mỹ đă thống nhất về việc sẽ đề xuất một thỏa thuận ngưng bắn tại các chiến tuyến hiện có. Kissinger khẳng định rằng ông không chỉ chấp thuận mà c̣n ủng hộ đề xuất này.

Nguyễn Văn Thiệu: Đúng như vậy, tôi cũng cho rằng ngưng bắn phải là bước đầu tiên để đáp ứng một hiệp định ḥa b́nh. Nhưng ngưng bắn ngay lập tức – và tôi xin nhắc lại: ngay lập tức – th́ tôi không bao giờ đồng ư với Kissinger. Tôi bảo, chúng ta phải cân nhắc hết sức kỹ lưỡng việc này. Không thể thực hiện ngưng bắn trước khi tính kỹ việc ai sẽ giám sát việc ngưng bắn, nếu ai vi phạm th́ hậu quả sẽ thế nào, hai bên sẽ đóng quân ở đâu, vân vân.

Spiegel: Kissinger viết: "Khi đó chúng tôi vẫn tưởng rằng chúng tôi và Thiệu cùng đồng hành hợp tác." Phía Mỹ đă không hiểu rằng ông đem những "chiến thuật né tránh" mà "người Việt thường áp dụng với người ngoại quốc" ra dùng.

Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi là một nước nhỏ, gần như mọi thứ đều nhờ ở một đồng minh lớn và vẫn tiếp tục phải xin viện trợ dài hạn của đồng minh đó, không bao giờ chúng tôi lại cho phép ḿnh dùng những thủ đoạn nào đó.

Spiegel: Khi Mỹ đă rút, c̣n Hà Nội th́ được phép tiếp tục đóng quân ở miền Nam, chắc ông phải thấy là ông đă thua trong cuộc chiến này?

Nguyễn Văn Thiệu: Không hẳn, nếu chúng tôi tiếp tục được sự trợ giúp cần thiết từ phía Mỹ, như chính phủ Mỹ đă hứa khi chúng tôi đặt bút kư hiệp định. Ngay cả khi kư, tôi đă coi đó là một nền ḥa b́nh tráo trở.

Nhưng chúng tôi vẫn tin rằng có thể chống lại bất kỳ sự xâm lăng nào của Bắc Việt. V́ hai lư do: Chúng tôi có lời hứa chắc chắn bằng văn bản của Tổng thống Nixon rằng Hoa Kỳ sẽ phản ứng quyết liệt, nếu Bắc Việt vi phạm hiệp định.

Spiegel: Mặc dù ông ấy không hề cho biết sẽ phản ứng bằng cách nào.

Nguyễn Văn Thiệu: Thứ hai, chúng tôi được đảm bảo là sẽ có đủ viện trợ quân sự và kinh tế cần thiết để chống Bắc Việt xâm lược. Nếu chính phủ Mỹ thực ḷng giữ lời hứa th́ chiến tranh có thể kéo dài, nhưng miền Nam sẽ không bị Bắc Việt thôn tính.

Spiegel: Về điều này th́ ông và Kissinger ít nhiều đồng quan điểm. Ông ấy viết rằng chiến lược toàn cục có thể sẽ thành công, nếu Mỹ đủ khả năng hành động trước bất kỳ một vi phạm nào của Hà Nội và tiếp tục viện trợ đầy đủ cho miền Nam. Nhưng chuyện ǵ đă xảy ra? Kissinger quy lỗi cho vụ Watergate, v́ sau đó Tổng thống Mỹ không c̣n đủ uy tín. Ông có nghĩ rằng vụ Watergate thực sự chịu trách nhiệm, khiến tất cả sụp đổ không?

Nguyễn Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi không phải là người Mỹ. Tôi không muốn quét rác trước cửa nhà người Mỹ. Nhưng nếu người Mỹ giữ lời hứa th́ đó là sự cảnh báo tốt nhất, khiến Bắc Việt không tiếp tục xâm lăng, và chiến tranh có thể sẽ dần chấm dứt.

Spiegel: Nếu Hoa Kỳ giữ lời th́ theo ông, hiệp định hoàn toàn có thể thành công?

Nguyễn Văn Thiệu: Tôi cho là như vậy.

Spiegel: Như vậy về tổng thể, Hiệp định Paris không đến nỗi tồi?

Nguyễn Văn Thiệu: Đó chắc chắn không phải là một hiệp định có lợi cho chúng tôi. Nó tráo trở. Nhưng đó là lối thoát cuối cùng. Ông phải hiểu rằng chúng tôi đă kư kết, v́ chúng tôi không chỉ có lời hứa của chính phủ Mỹ như tôi đă nói, mà hiệp định đó c̣n được mười hai quốc gia và Liên Hiệp Quốc đảm bảo.

Spiegel: Trong cuốn hồi kư, TS Kissinger có những b́nh luận rát mặt về khá nhiều chính khách đầu đàn. Nhưng riêng ông th́ bị ông ấy dành cho những lời hạ nhục nhất. Tuy đánh giá cao "trí tuệ", "sự can đảm", "nền tảng văn hóa" của ông, nhưng ông ấy vẫn chú tâm vào "thái độ vô liêm sỉ", "xấc xược", "tính vị kỷ chà đạp" và "chiến thuật khủng khiếp, gần như bị ám ảnh điên cuồng" trong cách ứng xử với người Mỹ của ông. V́ thế, cuối cùng Kissinger nhận ra "sự phẫn nộ bất lực mà người Việt thường dùng để hành hạ những đối thủ mạnh hơn về thể lực". Ư kiến của ông về những khắc họa đó thế nào?

Nguyễn Văn Thiệu: Tôi không muốn đáp lại ông ấy. Tôi không muốn nhận xét ǵ về ông ấy. Ông ấy có thể đánh giá tôi, tốt hay xấu, thế nào cũng được. Tôi muốn nói về những điều đă xảy ra giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam hơn.

Spiegel: Hay ông đă làm ǵ khiến ông ấy có cái cớ để viết về ông với giọng coi thường như thế?

Nguyễn Văn Thiệu: Có thể ông ấy đă ngạc nhiên v́ gặp những người quá thông minh và mẫn cán. Có thể cũng do cái phức cảm tự tôn của một người đàn ông hết sức huênh hoang. Có thể ông ấy không tin nổi là người Việt đối thoại với ông ta lại địch được một người tự coi ḿnh là vô cùng quan trọng.

Để tôi kể thêm một câu chuyện nữa: Ở đảo Midway tôi thấy buồn cười, v́ thật chẳng bao giờ tôi có thể h́nh dung là những người như vậy lại tệ đến thế. Chúng tôi, gồm ông Nixon, ông Kissinger, phụ tá của tôi và tôi, gặp nhau ở nhà một sĩ quan chỉ huy hải quân ở Midway. Ở đó có ba chiếc ghế thấp và một chiếc ghế cao. Ông Nixon ngồi trên chiếc ghế cao.

Spiegel: Như trong phim Nhà độc tài vĩ đại của Chaplin? Hitler cũng ngồi trên một chiếc ghế cao để có thể nh́n xuống Mussolini, ngồi trên một chiếc ghế thấp hơn.

Nguyễn Văn Thiệu: Nhưng tôi vào góc pḥng lấy một chiếc ghế cao khác, nên tôi ngồi ngang tầm với Nixon. Sau buổi gặp đó ở Midway, tôi nghe bạn bè người Mỹ kể lại rằng Kissinger đă rất bất ngờ v́ Tổng thống Thiệu là một người như vốn dĩ vẫn vậy.

Spiegel: Trong hồi kư, Kissinger phàn nàn là đă bị cá nhân ông đối xử rất tệ; ông bỏ hẹn để đi chơi trượt nước. Nixon c̣n quá lời hơn. Theo Kissinger th́ Nixon đă gọi ông là "đồ chó đẻ" (son of a bitch) mà Nixon sẽ dạy cho biết "thế nào là tàn bạo".

Nguyễn Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi không thể cho phép ḿnh đáp lại những lời khiếm nhă, thô tục đó của Nixon, v́ tôi xuất thân từ một gia đ́nh có nề nếp.

Nếu tôi không tiếp TS Kissinger và Đại sứ Bunker th́ đơn giản chỉ v́ chúng tôi chưa chuẩn bị xong để tiếp tục đàm thoại. Họ đă cần đến 4 năm, vậy v́ sao lại bắt tôi trả lời ngay lập tức trong ṿng một tiếng đồng hồ?

Có lẽ họ sẽ hài ḷng, nếu chúng tôi chỉ biết vâng dạ. Nhưng tôi không phải là một người chỉ biết vâng dạ, và nhân dân Nam Việt Nam không phải là một dân tộc chỉ biết vâng dạ, và Quốc hội của chúng tôi không phải là một Quốc hội chỉ biết vâng dạ. Mà tôi phải hỏi ư kiến Quốc hội.

Spiegel: TS Kissinger viết rằng thái độ của ông với ông ấy chủ yếu xuất phát từ "ḷng oán hận độc địa".

Nguyễn Văn Thiệu: Không. Tôi chỉ bảo vệ lợi ích của đất nước tôi. Dĩ nhiên là đă có những cuộc tranh luận nảy lửa, nhưng thái độ của tôi xuất phát từ tinh thần yêu nước của tôi.

Spiegel: Kissinger viết rằng ông ấy hoàn toàn "thông cảm với hoàn cảnh bất khả kháng" của ông. Ông có thấy dấu hiệu nào của sự thông cảm đó không?

Nguyễn Văn Thiệu: Không, tôi không thấy. Tôi chỉ thấy duy nhất một điều, đó là áp lực từ phía chính phủ Mỹ.

Spiegel: Kissinger viết rằng ông không bao giờ tham gia vào các buổi thảo luận về chủ trương chung. Ông ấy bảo rằng ông chiến đấu "theo kiểu Việt Nam: gián tiếp, đi đường ṿng và dùng những phương pháp khiến người ta mệt mỏi hơn là làm sáng tỏ vấn đề", rằng ông "chê bai mọi thứ, nhưng không bao giờ nói đúng vào trọng tâm câu chuyện".

Nguyễn Văn Thiệu: Hăy thử đặt ḿnh vào t́nh thế của tôi: Ngay từ đầu tôi đă chấp nhận để chính phủ Mỹ họp kín với Hà Nội. Kissinger bảo là đă thường xuyên thông báo cho tôi. Vâng, tôi được thông báo thật – nhưng chỉ về những ǵ mà ông ấy muốn thông báo. Nhưng tôi đă tin tưởng rằng đồng minh của ḿnh sẽ không bao giờ lừa ḿnh, không bao giờ qua mặt tôi để đàm phán và bí mật bán đứng đất nước tôi.

Các ông có h́nh dung được không: vỏn vẹn bốn ngày trước khi lên đường đến Hà Nội vào tháng Mười 1972, ông ấy mới trao cho tôi bản dự thảo mà sau này sẽ được chuyển thành văn bản hiệp định ở Paris, bằng tiếng Anh? Chúng tôi phải làm việc với bản dự thảo tiếng Anh này, từng điểm một.

Và bản dự thảo đó không phải do Nam Việt Nam cùng Hoa Kỳ soạn ra, mà do Hà Nội cùng Hoa Kỳ soạn ra. Các ông có thể tưởng tượng được điều đó không? Lẽ ra, trước hết phía Mỹ nên cùng chúng tôi thống nhất quan điểm về những điều kiện đặt ra cho hiệp định, và sau đó, nếu Bắc Việt có đề nghị ǵ khác th́ Kissinger phải trở lại hội ư với chúng tôi. Nhưng ông ấy không hề làm như vậy.

Thay vào đó, ông ấy cùng Bắc Việt soạn ra các thỏa thuận rồi tŕnh ra cho tôi bằng tiếng Anh. Các ông có thể hiểu cảm giác của tôi khi cầm văn bản của hiệp định ḥa b́nh sẽ quyết định số phận của dân tộc tôi mà thậm chí không buồn được viết bằng ngôn ngữ của chúng tôi không?

Spiegel: Nhưng cuối cùng ông cũng có bản tiếng Việt?

Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi cương quyết đ̣i bản tiếng Việt, đ̣i bằng được. Măi đến phút cuối cùng ông ấy mới miễn cưỡng chấp nhận. Sau đó chúng tôi phát hiện ra rất nhiều cái bẫy. Tôi hỏi Đại sứ Bunker và Kissinger, ai đă soạn bản tiếng Việt. Họ bảo: một người Mỹ rất có năng lực thuộc International Linguistics College tại Hoa Kỳ cùng với phía Hà Nội. Nhưng làm sao một người Mỹ có thể hiểu và viết tiếng Việt thành thạo hơn người Việt. Và làm sao một người Mỹ có thể ứng đối bằng tiếng Việt với cộng sản Bắc Việt giỏi hơn chính chúng tôi? Đồng minh mà như thế th́ có chân thành và trung thực không?

Spiegel: Một số quan chức cao cấp ở Hoa Kỳ từng nhận định rằng thực ra Kissinger chỉ cố gắng đạt được một khoảng thời gian khả dĩ giữa việc Mỹ rút quân và sự sụp đổ tất yếu của Nam Việt Nam. Trong cuốn sách của ḿnh, Kissinger bác bỏ quan niệm đó. Ư kiến của ông th́ thế nào?

Nguyễn Văn Thiệu: Bất kể người Mỹ nói ǵ, tôi tin rằng mục đích cuối cùng của chính phủ Mỹ là một chính phủ liên hiệp tại Nam Việt Nam.

Spiegel: Nhưng Kissinger đưa ra cả một loạt điểm để chứng minh rằng không phải như vậy.

Nguyễn Văn Thiệu: Chính phủ Mỹ t́m cách ép chúng tôi phải đồng ư. Để họ có thể hănh diện là đă thoát ra được bằng một "thỏa thuận danh dự". Để họ có thề tuyên bố ở Hoa Kỳ rằng: "Chúng ta rút quân về nước, chúng ta đảm bảo việc phóng thích tù binh Mỹ." Và ở ngoài nước Mỹ th́ họ nói rằng: "Chúng tôi đă đạt được ḥa b́nh cho Nam Việt Nam. Bây giờ mọi chuyện do người dân Nam Việt Nam định đoạt. Nếu chính phủ liên hiệp biến thành một chính phủ do cộng sản chi phối th́ đó là vấn đề của họ. Chúng tôi đă đạt được một giải pháp danh dự."

Spiegel: Kissinger viết như sau: "Nguyên tắc mà chúng tôi tuân thủ trong các cuộc đàm phán là: Hoa Kỳ không phản bội đồng minh."

Nguyễn Văn Thiệu: Ông cứ nh́n miền Nam Việt Nam, Campuchia và toàn bộ Đông Dương hiện nay th́ biết. Khi tranh luận với các đại diện chính phủ Mỹ về hiệp định ḥa b́nh, chúng tôi thường có ấn tượng rằng họ không chỉ đóng vai, mà thực tế là đă biện hộ cho ác quỷ.

Spiegel: Có bao giờ ông thấy một chút ǵ như là biết ơn đối với những điều mà người Mỹ đă làm để giúp nước ông không? Trong cuốn sách của ḿnh, Kissinger viết rằng: "Biết công nhận những cống hiến của người khác không phải là đặc tính của người Việt."

Nguyễn Văn Thiệu (cười): Về những điều mà Kissinger viết trong cuốn sách của ông ấy th́ tôi cho rằng chỉ một người có đầu óc lộn bậy, chỉ một người có tính khí tởm lợm mới nghĩ ra được những thứ như vậy. Trong cuốn sách đó ông ấy c̣n tỏ ư sợ người Việt sẽ đem những người Mỹ c̣n sót lại ra trả thù, sau khi Washington bỏ rơi chúng tôi. Không bao giờ chúng tôi làm những điều như thế, không bây giờ và không bao giờ.

Spiegel: Cá nhân ông có cảm thấy một chút hàm ơn nào với họ không?

Nguyễn Văn Thiệu: Hết sức thực ḷng: Nếu chính phủ Mỹ không phản bội, không đâm dao sau lưng chúng tôi th́ nhân dân Việt Nam măi măi biết ơn họ. Có lần, sau khi chúng tôi tranh luận rất kịch liệt về một văn bản trong hiệp định, một số thành viên trong chính phủ của tôi bảo rằng, nếu Kissinger lập công với miền Nam như ông ta đă lập công với miền Bắc th́ may mắn biết bao. Tôi bảo họ: nếu ông ấy thương lượng được một nền ḥa b́nh thực sự với Hà Nội th́ miền Nam sẽ dựng tượng ông ấy, như MacAthur ở Nam Hàn.

Nhưng đáng tiếc là đă không như vậy. Nh́n vào những hậu quả của nền ḥa b́nh ấy: trại tập trung cải tạo, nạn đói, nhục h́nh tra tấn, hàng ngàn thuyền nhân bỏ mạng trên biển, và một cuộc diệt chủng tàn bạo hơn, hệ thống hơn và hoạch định hơn cả ở Campuchia, tôi nghĩ tốt nhất là người Mỹ nên tự đánh giá những điều mà ông Nixon và ông Kissinger đă gây ra cho miền Nam Việt Nam. Kissinger không có ǵ để tự hào về nền ḥa b́nh mà ông ấy đă đạt được. Đó là ḥa b́nh của nấm mồ.

Spiegel: Xin cảm ơn ông Thiệu đă dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.

Tuesday, 28 April 2015 16:11
(Nguồn: "Die Amerikaner haben uns verraten", tạp chí Spiegel số 50/1979. Những người thực hiện: Engel, Johannes K., Lohfeldt, Heinz P.)

hoanglan22 01-25-2019 20:53

Hoa Con Vẹt
 
1 Attachment(s)
http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548449578

Độc đáo Hoa , h́nh con Vẹt

Khi ngắm nh́n những bông hoa này rất nhiều người đă nhầm tưởng đây là những con vẹt tuyệt đẹp với cái đầu màu đỏ và bộ cánh màu hồng. Loài hoa mang h́nh con vẹt này có tên khoa học là Impatiens Psittacina, tuy nhiên người ta thường gọi chúng là Parrot Flower (Hoa con vẹt). Chúng rất quư hiếm, chỉ mọc tại một số vùng của Ấn Độ, Thái Lan, Myanmar với số lượng rất ít.

Hoa con vẹt do nhà thực vật học người Anh, ông Joseph Dalton Hooker t́m thấy vào năm 1901. Ông Hooker t́nh cờ phát hiện ra loài hoa này ở Ấn Độ và đă mang hạt giống của nó về ươm thử ở Vườn Bách thảo Hoàng gia Kew ở London, tuy nhiên trải qua vài năm mà hạt vẫn không thấy nảy mầm. Hoa con vẹt rất khó để nhân giống, bởi chúng đ̣i hỏi loại đất trồng phải có một độ kiềm rất khắt khe th́ hoa mới có h́nh dáng đẹp mắt của một con vẹt đang bay với 'bộ lông' màu hồng và xanh nhạt.

Hoa con vẹt đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng, chính v́ vậy chính phủ Thái Lan đă cấm xuất khẩu hạt giống sang nước khác, họ sợ việc làm này sẽ ảnh hưởng tới sự sống của các cây hoa.

hoanglan22 01-25-2019 20:58

HỘP ĐEN TRÊN PHI CƠ
 
2 Attachment(s)
http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548449834

Hộp đen là thiết bị ghi lại những dữ kiện của chuyến bay, giúp cơ quan điều tra có thể t́m ra nguyên nhân nào đă xảy ra trong chuyến bay,khi gặp những chuyện bất lành.
Tiến sĩ David Warren ở Melbourne( AUSTRALIA) phát minh ra chiếc Hộp đen này vào năm 1954, nhưng nay Hộp đen đă được cải tiến rất nhiều để phù hợp cho những trường hợp khó khăn, tinh vi, xảy ra.

Hộp đen gồm có 02 phần chính:
• Thiết bị ghi âm buồng lái( CVR )
• Thiết bị ghi dữ kiện chuyến bay( FDR )

CVR: được nối với những micro đặt trong buồng lái, để ghi lại những âm thanh, như lời nói, tiếng bật công tắc, tiếng gơ cửa…
Thường có 04 cái, đặt trên đầu phi công chính, phi công phụ, phi công thứ 03(nếu có) và ở giữa buồng lái.
CVR: có thể ghi dữ liệu suốt 02 giờ
FDR: được nối với các thiết bị cảm ứng đặt ở nhiều nơi trên máy bay, có nhiệm vụ ghi lại những thông tin về thời gian, áp suất, tốc độ, độ cao, hướng, số, tay lái, nhiên liệu…
FDR: có thể ghi lại những dữ liệu suốt 25 giờ.
Hộp đen chịu được:
* Va đập lên tới 3.400Gs
* Sức ép 227kg/6.5cm2
* Nhiệt độ 1.100oC
* Nước muối( dưới đáy biển) 24 đến 30 ngày, không bị rỉ sét, không bị hư hại.
Hộp đen được đặt ở đuôi máy bay để giảm thiểu các tác động khi máy bay bị rơi.
Hộp được sơn màu Đen lúc khởi thủy, nhưng nay người ta thường sơn màu sáng, thường là màu cam để dễ t́m kiếm, nhưng theo thói quen ban đầu, người ta vẫn gọi hộp này là Hộp đen.
Trên Hộp đen c̣n có một thiết bị( ULB ) giúp định vị khi hộp đen rơi xuống nước, thiết bị này có 02 “mắt thần”, khi nước ngập đến mắt thần, thiết bị sẽ phát ra sóng âm thanh ở 37,5 kHz với tần suất 1 lần/ giây trong suốt 30 ngày.
Ngày nay, Hộp đen không chỉ dùng trên máy bay mà c̣n dùng trên nhiều phương tiện khác, như xe hơi, tàu lửa ….

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548449834

( Theo Howstuff Works )

hoanglan22 01-26-2019 00:42

Con người đáng nể
 
4 Attachment(s)
Giấc mơ bay xa và cao của trẻ nhỏ là ǵ? Trở thành một phi công lái chiến đấu cơ oai hùng, một hạm trưởng với giấc mộng hải hồ hay một sĩ quan biệt hải Navy Seal can trường, vào sinh ra tử? Hay trở thành một lương y cứu người, tốt nghiệp từ ngôi trường Harvard danh tiếng thế giới? Hoặc xa hơn nữa, là giấc mơ trở thành một phi hành gia, với những chuyến thám hiểm không gian kỳ thú? Là ǵ đi nữa th́ chỉ cần đạt đến một trong những thành tựu kể trên đă được xem như là sự thành công nghề nghiệp lớn của một đời người. Bởi bất cứ ai đạt đến những cơ hội hiếm hoi trên đều được xem là những thanh niên ưu tú và xuất chúng, là một thứ tài sản quốc gia. Nên khi một thanh niên 34 tuổi gốc Đại Hàn đạt được đồng thời cả ba điều kể trên th́ có lẽ khó có ai đă và sẽ gộp chung được một hồ sơ cá nhân đầy kỳ tích như anh. Bạn đă nghe đến cái tên Jonny Kim thuộc thế hệ phi hành gia tương lai của nước Mỹ chưa?

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548462994

Người ta vẫn thường nói đến mức độ tinh nhuệ và thiện chiến của đơn vị biệt hải, tức lực lượng người nhái đặc biệt Navy Seal trong quân đội. Đó là những con người có thể chất hơn người, có một tinh thần thép cùng một tâm lư vững chăi, bén nhạy. Họ được tuyển chọn và vượt qua những cuộc huấn luyện cam go và nguy hiểm, có lắm người từng là một lính chiến mạnh mẽ cũng phải bỏ cuộc hay bị loại giữa đường, thậm chí bỏ mạng trước khi trở thành một người lính biệt hải thực thụ. Jonny Kim đă vượt qua được điều này.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548462994

Jonny sau một trận đánh ở Iraq

Sinh năm 1984 tại Los Angeles trong một gia đ́nh di dân Đại Hàn, mang giấc mộng đời binh nghiệp, Jonny đăng lính ngay sau khi tốt nghiệp trung học và chọn ngay binh chủng thử thách, nguy hiểm nhất trong quân đội: lực lượng biệt hải. Jonny kể lại rằng, anh không thích cái con người trong cái gia đ́nh và văn hóa mà anh đă đang lớn lên, muốn thoát ra khỏi cái bảo bọc, không gian an toàn đó mà muốn đi t́m bản thể thật sự cho chính ḿnh và của chính ḿnh. Anh muốn dấn thân vào một cuộc phiêu lưu, phục vụ với lư tưởng cao hơn đời sống mưu cầu cá nhân. Anh được chọn và cho cơ hội để tham dự khóa huấn luyện khắc nghiệt và căng thẳng trong hai năm trời, cùng những lời cảnh báo trước rằng, không có ǵ bảo đảm là những ai được chọn theo huấn luyện cũng sẽ đủ khả năng và có cơ hội trở thành một người lính biệt hải thực thụ. Bởi các số liệu cho biết có khoảng ba phần tư quân nhân được huấn luyện đă phải bỏ cuộc hay bị loại khóa huấn luyện, đặc biệt là trong “tuần lễ địa ngục” (Hell Week), khi những huấn nhục này có thể gấp 20 lần những ǵ người lính tưởng tượng. Đó là cuộc thử thách để quân đội lọc và chọn được những người lính biệt hải đúng theo tiêu chuẩn khắt khe nhất của binh chủng này. Được huấn luyện chung với những người lính ưu tú từ các binh chủng khác, Jonny Kim cũng không là ngoại lệ. Anh thú nhận đó là tuần lễ huấn nhục trong băng tuyết khủng khiếp nhất mà anh tưởng đă phải bỏ cuộc, khi người lính chỉ được ngủ đôi lần, mỗi lần chỉ dăm ba tiếng trong suốt năm ngày. Nhưng anh đă vượt qua được, để tốt nghiệp khóa huấn luyện, trở thành một sĩ quan biệt hải thiện chiến thực thụ. Jonny Kim được điều sang Iraq hai lần, tham gia hàng trăm đặc vụ trong vị trí một xạ thủ bắn tẻ, một nhân viên cứu thương chiến trường, một người dẫn đường, từng phục vụ chung toán với những tay bắn tỉa huyền thoại như Chris Kyle (người được dựng thành bộ phim Sniper mà chuyên mục đă từng có bài viết) với hàng chục huân chương chiến công oai hùng. Nhưng rồi cái chết của hai đồng đội, là những người bạn thân thiết nhất của anh trong một đặc vụ nguy hiểm tại Iraq mà anh không cách nào cứu chữa được ngay trên tay ḿnh, là nỗi ám ảnh và ngã rẽ đưa Jonny Kim đến với suy nghĩ về nghề Y. Anh quyết định đi theo nghề Y khi vẫn c̣n tại ngũ, với ư định sẽ quay lại quân ngũ và tiếp tục phục vụ trong vai tṛ bác sĩ quân y.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548462994
Bác sĩ khoa cấp cứu Jonny Kim
Tham gia chương trình Hải Quân trừ bị RNOTC dành cho các sĩ quan hiện dịch quay lại đại học, chàng Trung Úy Jonny tốt nghiệp cử nhân ưu hạng tại Đại Học San Diego sau ba năm ṛng ră theo học. Với thành tích và hồ sơ đặc biệt của ḿnh, Jonny được đại học Harvard thu nhận cho theo học và đào tạo thành một bác sĩ chuyên khoa cấp cứu cho Hải Quân. Ba năm trước, năm 2016, Jonny Kim tốt nghiệp bác sĩ Y Khoa tại Đại Học Harvard và chuyển sang nội trú tại khoa cấp cứu của bịnh viện Massachusetts. Jonny là một trong những bác sĩ nội trú hiếm hoi từng có kinh nghiệm cấp cứu trên chiến trường. Những bác sĩ trưởng khoa tại đây nhắc về anh như một bác sĩ khiêm cung, tài ba cùng tính cách đặc biệt và hiếm thấy, mà bất cứ bịnh viện hay bịnh nhân nào cũng mong muốn có những bác sĩ như vậy. Dù họ biết rằng anh sẽ quay lại với Hải Quân sau khi hoàn tất nội trú, v́ Hải Quân cũng cần có anh. Câu chuyện đến đây tưởng cũng đủ để kết thúc câu chuyện đặc biệt về một người lính biệt hải trở thành bác sĩ, một nỗ lực đáng ngưỡng mộ của một chàng sĩ quan trẻ hào hùng, mang đầy tinh thần phục vụ quốc gia. Nhưng nó không dừng lại ở đó.

Hồi tháng Sáu năm ngoái, Phó Tổng Thống Mike Pence đă thay mặt Tổng thống, đích thân bay sang trung tâm NASA tại Houston, Texas để tham dự buổi lễ đặc biệt, công bố và giới thiệu thế hệ phi hành gia tương lai của Hoa Kỳ đến người dân. Trong đó cái tên Jonny Kim được xướng lên. Anh là một trong 12 người đă được NASA chọn để huấn luyện trở thành phi hành gia sau nhiều ṿng xét tuyển khắt khe của NASA từ hơn 18,000 sĩ quan, bác sĩ, kỹ sư, khoa học gia, những nhà nghiên cứu xuất sắc, có nhiều thành tích khắp nước Mỹ gởi đơn về để ứng tuyển, trong đó có đơn của Jonny đă nộp. Với 44 phi hành gia đang có, NASA tuyển chọn và huấn luyện các thế hệ phi hành gia tương lai cho nước Mỹ mỗi bốn năm. Khoá phi hành gia 22 này là đông đảo nhất trong lịch sử, với khoảng một nửa là những sĩ quan từng tốt nghiệp các Học Viện Quân Đội, Không Quân hay Hải Quân, cộng thêm các bằng cấp kỹ thuật và chuyên môn cao (từ Cao học) và hàng ngàn giờ bay thực thụ cùng các chuyên gia dân sự khác, đều là những người có hồ sơ cá nhân đáng nể. Sau hai năm được huấn luyện về ngoại ngữ (tiếng Nga), thể lực và chuyên môn tại trung tâm NASA Johnson Space Center, các phi hành gia này sẽ làm việc, nghiên cứu trong các pḥng thí nghiệm phi hành gia, chờ tham gia các phi vụ nghiên cứu trên trạm không gian quốc tế ISS hay các chương tŕnh thám hiểm không gian tương lai của Hoa Kỳ.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548462994

Jonny Kim, phi hành gia tương lai của Hoa Kỳ

Trung Úy Hải Quân Biệt Hải, bác sĩ Y Khoa Harvard, Phi Hành Gia Jonny Kim quả thật là câu chuyện kỳ tích khó ai làm được. Anh là niềm hănh diện của Đại Học Harvard, của các bịnh viện anh đă từng nội trú và của Hải Quân Hoa Kỳ. Tạp chí Hải Quân Navy Times đưa cái tên Jonny Kim vào danh sách những sĩ quan hải quân xuất chúng nhất mọi thời đại, bên cạnh những nhân vật vĩ đại của nước Mỹ từng phục vụ Hải Quân Hoa Kỳ như Tổng Thống John F. Kennedy, phi hành gia Neil Armstrong – người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng… Chàng thanh niên Jonny Kim trong gia đ́nh di dân gốc Đại Hàn này ắt cũng là niềm hănh diện thật sự và đúng nghĩa cho cộng đồng Đại Hàn khi có đứa con xuất chúng, người mang tài trí ḿnh để phục vụ cho lư tưởng quốc gia. Và chắc chắn, anh đă mang lại sự ngưỡng mộ và niềm hứng khởi cho giới trẻ bởi những ǵ anh đạt được tưởng như không thể xảy ra với cùng một người. Nhưng nó đă xảy ra.

ĐYT

hoanglan22 01-26-2019 02:09

Bắc Việt Gửi Thư Đầu Hàng HK 1972
 
Vào năm 1972, Bắc Việt đă gửi thư đầu hàng HK vô điều kiện
Tác Giả: Saigon Echo sưu tầm

Đây là sự thực của cái mà Đảng CSVN huyênh hoang về chiến thắng đánh "Mỹ nguỵ". Bắc Việt đă đầu hàng, nhưng Kissinger có ư đồ riêng, không chấp nhận.



Đoạn video tài liệu được giải mật, dài 3:50, có 2 phần. Phần 1 dài 1:50 là bản dịch tiếng Việt không có âm thanh. Phần 2 c̣n lại nói Tiếng Anh và có âm thanh. Xem để biết CS Hà Nội đă gởi điện thư đầu hàng vô điều kiện nhưng bản văn đă bị ém nhẹm...
Những tài liệu bất ngờ cùng nhân chứng cao cấp của chính quyền Hoa Kỳ cho biết sau năm 1968, CSVN đă bị kiệt quệ nhân sự v́ hầu hết các lực lượng chính quy chủ lực quân cộng sản bắc Việt đă bị Mỹ và VNCH tiêu diệt . Vào năm 1972 máy bay B52 đă san bằng Bắc Việt đưa tới sự việc lănh đạo đảng CSVN gửi điện thư Đầu Hàng Vô Điều Kiện tới pḥng truyền tin Hoa Kỳ. Bức điện thư đầu hàng của CSVN đă được pḥng truyền tin gửi về NGŨ GIÁC ĐÀI .
Thay v́ tuyên bố cho thế giới biết về sự việc cộng sản bắc Việt đầu hàng.Nhưng ngược lại, CIA đă đưa về nước 79 nhân viên pḥng truyền tin Hoa Kỳ và thay đổi hoàn toàn nhân viên mới.
Điện thư đầu hàng của CS bắc Việt đă được ém lại.

Trên 80% quân đội nhân dân Trung cộng đă đánh chiếm cao nguyên miền Nam VNCH, Lính Trung cộng đă ngụy trang cộng sản bắc Việt xâm chiếm miền Nam Việt Nam.!!! Tại Sao ???

Chúng tôi phỏng vấn anh Nguyễn Hoàng Việt về sự kiện nầy.

Thu Hiền: Xin anh cho biết những sự kiện bất ngờ về việc CSVN đă đầu hàng VNCH từ năm 1973, thêm sự việc quân Trung Quốc ngụy trang lính Bắc Việt đánh chiếm Miền Nam VN vào năm 1975, anh nghĩ sao về vấn đề nầy?

Hoàng Việt: Tôi nghĩ tất cả là sự thật nhưng nguyên do tại sao chính quyền Ḥa Kỳ lúc bấy giờ không tuyên bố bức điện thư đầu hàng từ của CSVN mà lại t́m cách ém chuyện nầy đó là điều ḿnh phải cần phân tích.

Ông Ted Gunderson là nhân viên đặc nhiệm ở Los Angeles và Washington DC (Special Agent in Charge, Los Angeles, Special Agent in Charge, Washington,D.C. offices) Trong thời gian cuộc chiến tranh VN ông ta là Trưởng Pḥng điều tra, làm việc với những hồ sơ thuộc loại bảo mật quốc pḥng (high-profile cases) . Trong thời gian gần đây, ông đă tiết lộ cho biết là CSVN đă có điện thư đầu hàng Đồng Minh vào đầu năm 1973 trong một cuộc nói chuyện tại Washinton DC, ông cho biết như vậy . Trong cuộc nói chuyện nầy được nhiều cựu chiến binh Hoa Kỳ hỏi về chiến dịch "Operation Linebacker" là chiến dịch dùng B52 để san bằng, tiêu diệt quân đội Bắc Việt đă đưa tới kết quả nào th́ ông cho biết là CSVN đă đầu hàng sau đó . Chiến dịch "Operation Linebacker" bắt đầu từ mùa Xuân 1972.

Thu Hiền: Như vậy anh cho biết tại sao tin CSVN đầu hàng không được phổ biến để rồi kết quả cuộc chiến ngược lại ?

Hoàng Việt: Ông Ted Gunderson cho biết là trong thời gian làm việc tại VN, ông đă tiếp xúc nhiều sĩ quan cao cấp Quân Đội Hoa Kỳ nhất là nhân viên thuộc pḥng Truyền Tin bộ Tham Mưu Hoa Kỳ tại VN, họ đă cho ông biết về bức điện thư CSVN tuyên bố đầu hàng vô điều kiện quân Đồng Minh vào đầu năm 1973 . Bức điện thư đó cho tới nay vẫn chưa được giải mă, Ông Ted Gunderson c̣n cho biết thêm là tất cả các nhân viên thuộc pḥng truyền tin sau đó đă được CIA thay thế toàn bộ ! Tôi t́m ra được một đoạn Video Ông Ted Gunderson có nói về vấn đề nầy.

hoanglan22 01-26-2019 02:41

Bài viết chửi Cộng hay nhất thế kỷ
 
LTS: Bài viết chửi Cộng Sâu Sắc nhất mà BBT Vietland chưa từng đọc qua . Bài viết thâm thúy và diễn tả xác thực chế độ ngày nay của Việt Nam dưới quyền đảng CSVN .

Bài viết nầy của tác giả lấy nickname: Shinra được đăng trên diễn đàn lề phải hoangsa.org . Bài viết bị bôi đỏ (dĩ nhiên) nhưng được nhiều thành viên trong nước cảm ơn bài viết đầy ư nghĩa nầy . Bài viết nói lên tâm trạng thay cho nhiều người không nói được . Bài viết nói lên sự thật hiện t́nh đang xảy ra tại VN .

Bài viết nầy được BBTVietland bầu lần nhất là Bài "Hay nhất trong năm" nhưng nghĩ ra cho cùng . Trên 34 năm nay chưa có đoản văn nào ngắn gọn mà lại lột hết được sự thật của một xă hội , hơn nữa tác giả của bài viết không phải là một văn sĩ mà chỉ là của một thanh niên Việt Nam khắc khoải trước sự tồn vong của Dân Tộc, bài viết lên án hành động bán nước và hèn hạ của tập đoàn lănh đạo CSVN , nói hết những ǵ muốn nói nhưng chỉ dài vọn vẹn một trang giấy!

Bài viết nầy theo chúng tôi là bài viết chửi cộng "Hay nhất thế kỷ ." Mời bạn đọc VL cùng đọc .





"Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn"
Lời: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu


Tác giả : Shinra



Đây là bài đầu tiên tôi viết trong diễn đàn này.

Khỏi mất thời gian của quư vị, xin nói mấy lời chân t́nh.

Quư vị có biết vụ tẩy trứng gà Tàu thành trứng gà ta không? Quư vị có suy nghĩ như thế nào?

Nếu hỏi quư vị một câu rằng nếu quư vị là một người dân thuộc làng Đông Ngàn, quư vị có tham gia vào cái việc tẩy trứng rồi đem đầu độc lại đồng bào của các vị không, th́ chắc 100% quư vị ở đây trả lời là không !

Nhưng kỳ thực là quư vị đang làm những việc tệ hại hơn nhiều so với việc ấy.

Quư vị có bao giờ thấy người dân các nước "tư bản thối nát" "theo đuôi Mỹ" như châu Âu, Nhật, hàn Quốc người ta làm những cái tṛ đồi bại như tẩy trứng bằng axit, trộn melamin vào sữa, bơm hoá chất vào rau quả, quết mật ong giả vào chân gà thối.... để đem đầu độc chính gịng giống của họ không? Tuyệt nhiên là không.

Những vị nào đọc đến đây mà bảo tôi là "rân chủ", "ăn phải bả của tư bản", th́ mời quư vị khỏi đọc nữa, đỡ mất thời gian của quư vị.

Quư vị có bao giờ nói hàng Mỹ, châu Âu, Nhật, Hàn, Thái là rởm, là đểu, là lừa đảo, là chạy theo đồng tiền... không? Hay là quư vị lùng sục mua bằng được những món đồ sản xuất ở những nước "tư bản thối nát" ấy với giá đắt gấp đôi gấp ba so với hàng của Trung Quốc?

Quư vị có thể không tẩm chất độc vào trứng, vào rau như những người nông dân kém hiểu biết, nhưng quư vị lại tẩm chất độc vào đầu óc của những con người xung quanh quư vị bằng những lời dối trá, hối lộ, chạy chọt để được vinh thân ph́ gia. Dần dần, mọi người trong xă hội đều chạy theo quư vị với một suy nghĩ cực kỳ lệch lạc rằng "ḿnh không làm ắt sẽ có người khác làm".

Kinh tế quyết định chính trị, nhưng chính trị lại có tác động ngược trở lại kinh tế.

Một xă hội mà ai cũng chỉ biết lo cho bản thân ḿnh như xă hội Việt Nam, xă hội Trung Quốc th́ có đáng được gọi là "xă hội chủ nghĩa" không?

Các vị có hiểu thế nào gọi là "xă hội chủ nghĩa" và "tư bản chủ nghĩa" không?

Các vị hiểu "XHCN" tức là có đảng cộng sản lănh đạo c̣n "TBCN" là có nhiều đảng thay nhau lănh đạo, hoặc là "nhiều đảng tư sản thay nhau lănh đạo" phải không? Sai lầm

Xă hội chủ nghĩa là đặt xă hội lên đầu, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân, nó đối lập với tư bản chủ nghĩa nơi mà "tư bản" được đặt lên đầu, mà tư bản chính là "tiền nằm trong lưu thông", hay nói tóm lại "tư bản" là lợi ích cá nhân.

Theo Hán Việt "tư bản" nghĩa là "vốn".

Một xă hội như Mỹ, Nhật là nơi mà con người luôn sống v́ lợi ích riêng, nhưng không chà đạp lên lợi ích chung.

Người Nhật không bao giờ tẩm thuốc kích thích vào rau quả v́ họ biết làm như thế sẽ gây hại cho những người đồng bào của họ, họ cũng không xuất khẩu những đồ kém chất lượng v́ nó sẽ gây hại đến những đồng loại của họ, dù là người nước ngoài.

Người Nhật có thể tự sát, kết thúc sinh mệnh của ḿnh, để bảo toàn danh dự cho gia đ́nh, cho ḍng tộc của họ.

Một xă hội như Việt Nam, trung Quốc là nơi con người miệng th́ nói rằng "v́ lợi ích tập thể", "xă hội chủ nghĩa", nhưng tay và chân th́ chà đạp giày xéo lên người khác. Hăy nh́n thử một vụ tắc đường ở Việt Nam và một vụ tắc đường ở Thái Lan th́ biết.

Vậy ở đâu mới xứng đáng là xă hội chủ nghĩa?

Đó là một điều mà tôi muốn nói với quư vị

Các vị nói rằng ngày xưa dù nghèo khổ nhưng Việt Nam vẫn kiên cường chống lại hai đế quốc to. Điều này là đúng và theo một nghĩa nào đó, th́ đáng tự hào

Nhưng các vị lại nói ngày nay để được hoà b́nh, hay nói toẹt ra là để các vị được yên ổn làm ăn, yên ổn kiếm tiền, th́ Việt Nam cần mềm dẻo với trung quốc, cho dù trên thực tế và trên tuyên bố, Trung Quốc đă và đang chiếm nhiều đất của chúng ta.

Vậy theo cái lư ngày xưa của quư vị th́ đáng ra Việt Nam phải vùng lên đánh lại Trung Quốc, hoặc theo cái lư ngày nay của quư vị th́ đáng ra ngày xưa Việt Nam không nên đánh lại Pháp và Mỹ mới phải.

Nhưng sự thực th́ quư vị luôn tự hào về ngày xưa và đớn hèn về ngày nay. Chẳng có cái lư nào ngoài cái lư tiền. Các vị sợ đánh nhau với trung quốc th́ con cái các vị phải ra trận, hoặc ít ra th́ khi có chiến tranh, việc làm ăn kiếm tiền của các vị sẽ khó khăn hơn. Tóm lại các vị chỉ biết có bản thân ḿnh, các vị cá nhân chủ nghĩa ở tŕnh độ cao cấp.

Đó là cái thứ hai tôi muốn nói với các vị.

Các vị khi th́ hô hào "Việt Nam là bạn với thế giới" , khi th́ hô hào "Việt Nam phải cảnh giác với Mỹ, Âu, Tàu, Nhật". Như thế là cái lư ǵ?

V́ cái tư tưởng lúc nào cũng thù với hận của các vị, nên các vị không bao giờ thật ḷng giao hảo với bất cứ ai. Các vị bắt tay người nước ngoài khi họ đến mang theo đô la và các vật dụng đắt tiền cho các vị hưởng, nhưng các vị lại vênh mồm lên chửi khi họ chỉ ra những cái sai lầm của quư vị. Quư vị biện luận rằng trong quan hệ quốc tế thằng nào cũng chỉ lợi dụng lẫn nhau thôi. Vậy th́ người ta sẽ nghĩ về quư vị đúng như thế. Thuỵ Điển, na uy hàng năm cho không Việt Nam hàng triệu đô la và nhiều chương tŕnh đào tạo phát triển, họ lợi dụng ǵ quư vị? Hay là quư vị nghĩ rằng họ chẳng qua muốn lấy ḷng quư vị nên mới thế? Vậy nghĩ xem quư vị đă là cái thá ǵ mà người ta phải lấy ḷng?

Quư vị thử ch́a tay ra cho một người, rồi biết được người ấy lúc nào cũng nhăm nhăm "cảnh giác cao độ" với cái ch́a tay của quư vị, th́ quư vị sẽ nghĩ ǵ về người đó?

Đầu óc quư vị quá đen tối và nói thẳng ra quư vị cũng suốt ngày t́m cách lợi dụng người khác nên mới nghĩ cho người khác đen tối như thế.

V́ thế nên Việt Nam ta mới tụt hậu so với nước ngoài như hôm nay. Những quốc gia như Nhật, Hàn, Thái Lan vốn có điểm xuất phát không hơn ta là mấy nhưng nay họ đă vượt ta nhiều, đó là v́ sao? V́ họ có tầm nh́n hơn chúng ta. V́ họ hiểu được một lư thuyết cơ bản nhất của thương mại đó là cả hai bên cùng có lợi, họ không bao giờ bắt tay với người khác mà trong bụng th́ cứ nơm nớp lo người ta "lợi dụng" ḿnh. Suy nghĩ kiểu như thế chỉ tồn tại trong những bộ óc chưa tiến hoá hết từ vượn sang người.

Nói thẳng ra, các vị là những kẻ hám tiền, lo cho lợi ích của cá nhân và cùng lắm là gia đ́nh ḿnh, là hết. Các vị ưa xiểm nịnh, khi báo Washington Post đưa tin rằng nền KT việt nam đang cất cánh th́ quư vị tung hô tờ báo ấy như là chuẩn mực của sự trung thực, c̣n khi cũng báo Washington Post đưa tin về tham nhũng của Việt Nam th́ các vị nói họ đưa tin không chính xác. Cái thái độ lá mặt lá trái ấy cũng đúng trong trường hợp người ta nói về "kẻ thù" của quư vị, ví như việc Ân Xá Quốc Tế lên án Mỹ vi phạm nhân quyền và cũng lên án Việt Nam với tội danh tương tự.

Đây là điều thứ ba tôi muốn nói với quư vị.

Điều thứ tư nghe sẽ hơi sốc: nói thẳng ra là quư vị cực ngu.

Quư vị không tin vào các thông tin "lề trái", tức là những thông tin trái ngược với báo chí chính thống và những tuyên bố chính thức của Việt Nam. Nhưng bản thân quư vị đang sinh hoạt ở một diễn đàn có tên miền quốc tế, đă hoạt động được hơn 2 năm nhưng ngân khoản duy tŕ sự tồn tại của nó vẫn là từ tiền của cá nhân những con người đáng trân trọng đă lập ra website này. Tại sao website này không thể có đuôi .vn và cũng không thể đăng quảng cáo được, quư vị nếu đủ thông minh th́ đă nghĩ ra từ lâu rồi.

Quư vị quy kết tất cả những lời nói, bài viết của người khác là "phản động" "chống lại Việt Nam", "bán rẻ tổ quốc" chỉ v́ những người ấy không có tư tưởng giống như quư vị. Quư vị bỏ ngoài tai mọi lời phân tích không theo ư kiến của quư vị, quư vị biến một diễn đàn trao đổi tri thức thành một cái chợ để căi nhau và sỉ vả nhau bằng những từ như "thằng chó", "con lợn", một cách tự nhiên không biết ngượng mồm. Nếu vậy quư vị mất thời gian lên diễn đàn làm ǵ? Sao không trùm chăn lại tự nói cho xong?

Quư vị gọi người khác là "chống lại đất nước" bởi v́ họ chống lại suy nghĩ của quư vị, như thế khác ǵ quư vị tự coi ḿnh là đại diện của nước Việt Nam? Quư vị tự cho ḿnh là người phát ngôn của chính phủ Việt Nam, hay ngắn gọn, quư vị chính là Việt Nam?

Quư vị kêu gọi người ta "cảnh giác với những âm mưu gây chia rẽ", nhưng lại không nhận ra rằng chính cái lời kêu gọi ấy của quư vị là một âm mưu gây chia rẽ. Nếu quư vị muốn sống tốt với hàng xóm của ḿnh, ắt quư vị không bao giờ bắc loa giữa phố mà rằng "hăy cảnh giác với thằng A, con B, hàng xóm của tôi, chúng nó đang âm mưu chia rẽ".

Quư vị ngu lắm.

Muốn đất nước phát triển được, hăy thôi ṃ mẫm và ảo tưởng trong cái thế giới độc tôn của quư vị, hăy tỉnh táo trước những khẩu hiệu, hăy đi vào bản chất thay v́ hô hào bên ngoài, hăy lắng nghe xem người khác nói thế nào, và hăy chân thật trong mọi mối quan hệ.

Nhưng tôi không vọng tưởng rằng một ngày nào đó quư vị sẽ thay đổi. Quư vị sẽ măi măi là người dân của một đất nước tụt hậu, tham nhũng, ô nhiễm và không được bạn bè quốc tế coi trọng.

Đên đây chợt nhớ câu nói của cụ Tản Đà:

"Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn..."

Gửi một số quư vị trong diễn đàn, ai đọc thấy không phải ḿnh th́ tức là không phải đối tượng mà tôi nói đến.

hoanglan22 01-26-2019 02:43

Bí ẩn về những chiếc vali hạt nhân
 
Từng được gọi với nhiều cái tên - như "Nuclear Football", "President's Emergency Satchel", "The Button" - những chiếc vali hạt nhân (VLHN - hay c̣n gọi là nút bấm hạt nhân) luôn là đề tài bí ẩn thu hút được sự ṭ ṃ của công chúng, mỗi khi người ta nh́n thấy chúng trên tay các sĩ quan quân đội hộ tống đi kèm các nguyên thủ của Nga và Mỹ. Trong lịch sử hàng chục năm tồn tại của ḿnh, đă có không ít những câu chuyện kỳ thú xung quanh những chiếc vali hạt nhân này...



Eisenhower – Cha đẻ của vali hạt nhân


Là quốc gia đầu tiên có vũ khí hạt nhân, chính người Mỹ cũng là người đầu tiên nghĩ ra chiếc VLHN, bắt đầu từ thời của Tổng thống Eisenhower (1953-1961). Khi đó, phía Mỹ cũng đang có được một ưu thế về vũ khí hạt nhân - 300 quả bom hạt nhân so với vỏn vẹn 10 quả của Liên Xô.
Tuy nhiên, phương tiện kiểm soát khả năng khai hỏa vũ khí hạt nhân này của Mỹ chỉ có được h́nh dạng tương tự như chiếc VLHN hiện nay bắt đầu xuất hiện từ cuộc khủng hoảng Caribe, khi Tổng thống Kennedy nghi ngờ về khả năng kiểm soát kho vũ khí hạt nhân của ông với tư cách là Tổng tư lệnh tối cao.
Trước những lời kêu gọi có phần cực đoan từ nhiều viên chức cao cấp quân sự cũng như dân sự đ̣i "trừng phạt người Nga" vào những thời khắc cao điểm của cuộc khủng hoảng, Kennedy lo ngại lệnh phát động đ̣n tấn công hạt nhân có thể được thực thi mà không có sự đồng ư của ông ta. Mặt khác, Kennedy mong muốn khi cấp thiết có thể ban hành lệnh tấn công này mà không cần phải có mặt tại trung tâm điều hành. Đó là những lư do chính dẫn tới sự xuất hiện của chiếc VLHN như hiện nay. Kể từ thời điểm đó, chỉ riêng Tổng thống Mỹ mới có khả năng ban hành lệnh phóng hoả tiển hạt nhân. Ông chủ Nhà Trắng có thể làm được điều này ngay cả tại pḥng ngủ của ḿnh, với điều kiện bên cạnh ông ta có mặt chiếc VLHN.

Bên trong chiếc vali hạt nhân Mỹ

Bất cứ người dân nào cũng ṭ ṃ muốn biết: Chiếc VLHN của Mỹ có h́nh dạng như thế nào? Và bên trong nó có chứa đựng những ǵ? Thành phần và nguyên tắc hoạt động của chiếc VLHN luôn là bí mật, cho dù qua một vài nguồn tin nội bộ, vẫn có thể biết được không ít chi tiết. Đó thực ra là một chiếc tráp bằng da màu đen, bên trong là một vali bằng titan rất chắc nặng 18kg, kích thước 45x35x25cm với khóa bằng mật mă - do Hăng Zero Halliburton sản xuất. Chiếc vali này không được phép rời xa viên sĩ quan phụ tá đặc biệt của tổng thống.


Khi đang trong ca trực, viên trợ lư này luôn "dính chặt" với chiếc VLHN bằng một chiếc ṿng đặc biệt gắn vào cổ tay. Có tất cả 5 viên trợ lư như vậy trực liên tục suốt ngày đêm theo ca - tất cả được lựa chọn hết sức kỹ lưỡng từ các sĩ quan không quân và lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ. Họ phải trải qua các thủ tục kiểm tra chi tiết nhất về tiểu sử và những mối quan hệ. Những sĩ quan này được phép mang vũ khí, có quyền khai hỏa mà không cần cảnh cáo để tiêu diệt đối phương, và điều quan trọng nhất - luôn luôn phải ở bên cạnh Tổng thống. Chính v́ vậy, viên phụ tá xách vali hạt nhân luôn phải đi đứng bênh cạnh Tổng thống, ở cùng với ông ta trên máy bay hay trong xe hơi. Nói tóm lại, viên phụ tá phải luôn là "cái bóng" của Tổng thống.



Bên trong chiếc vali nhỏ trên là một máy phát sóng vệ tinh và một số tài liệu, dựa vào đó Tổng thống cần phải đưa ra quyết định về việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Trong số này có một "cuốn sách đen" dày 30 trang ghi những phương án sơ lược của kế hoạch đ̣n đánh hạt nhân. Vào thời cao điểm của Chiến tranh lạnh, bản kế hoạch tổng thể này từng bao gồm 12.500 mục tiêu khác nhau trên lănh thổ Liên Xô
Trong vali c̣n có danh sách những hầm ngầm bí mật mà Tổng thống có thể sử dụng trong trường hợp nước Mỹ phải hứng chịu đ̣n tấn công hạt nhân, kèm theo đó là chỉ dẫn liên lạc với Ngũ giác đài và đề xuất về các bước hành động tiếp theo. Ngoài ra, c̣n có các thủ tục để kích hoạt hệ thống thông tin khẩn cấp EAS, nhờ đó Tổng thống có thể phát biểu trước toàn dân chỉ trong ṿng 10 phút, sau khi tuyên bố về t́nh trạng khẩn cấp, không phụ thuộc vào việc ông ta đang ở đâu.
Một khi Tổng thống quyết định sử dụng vũ khí hạt nhân, lực lượng bảo vệ cần tăng cường bảo đảm an toàn cho ông ta, trong khi viên sĩ quan phụ tá đặc biệt mở vali. Tiếp đó, Tổng thống và trợ lư này cần phải lựa chọn phương án hành động thích hợp nhất, trước khi liên lạc với Lầu Năm Góc hay Bộ chỉ huy trên không được đặt trên một chiếc máy bay Boeing E-4B. Nhưng để cho mệnh lệnh được thực thi, Tổng thống phải xác nhận bản thân ḿnh nhờ một "mật mă vàng" đặc biệt - lưu trong một chiếc thẻ nhựa tương tự như chiếc thẻ tín dụng ngày nay. Thực ra đó chính là mật mă riêng của Tổng thống dưới dạng các con số và chữ cái, có thể ra lệnh cho tất cả những cá nhân có trách nhiệm nhấn nút phóng hoả tiển từ các hầm chứa hay tàu ngầm.
Mật mă vàng vào… hiệu tẩy hấp đồ
VLHN được chuyển giao chính thức giữa các đời Tổng thống Mỹ vào đúng giữa trưa ngày tuyên thệ nhậm chức, đúng thời điểm diễn ra lễ chuyển giao quyền lực. Mỗi ông chủ mới của Nhà Trắng đều được giải thích chi tiết cách sử dụng VLHN. Tuy nhiên, cũng có không ít trường hợp rắc rối khi các ông chủ Nhà Trắng quên mất sự tồn tại của chiếc VLHN.
Tổng thống Carter từng làm giới lănh đạo quân sự phải đứng tim, khi để quên chiếc thẻ "mật mă vàng" của ḿnh trong túi một chiếc áo khoác, được gửi đến hiệu tẩy hấp đồ.
Reagan lại nhét thẻ trong ví để ở túi quần sau, và sau vụ ám sát hụt nhằm vào ông ta, người ta đă không thể t́m lại được chiếc thẻ mật mă trên.
Hay như Tổng thống Ford bỏ mặc chiếc vali cùng trợ lư đặc biệt của ḿnh trên khoang máy bay ở Paris.
Cũng lại Carter không cho phép phụ tá đặc biệt ở cùng với ḿnh trong thời gian đi nghỉ tại trang trại ở bang Georgia, khiến chiếc vali phải ở tại một khách sạn cách xa Tổng thống tới 10km.
Bush-cha sau buổi đánh tennis tại Los Angeles đă lên xe đi thẳng, khiến trợ lư phải xách VLHN đuổi theo chiếc Limousine của Tổng thống bằng... taxi.
Nhưng tất cả những vụ trên chưa thể bằng việc Tổng thống Bill Clinton vào đúng ngày kỷ niệm 50 năm thành lập NATO tại Washington, đă bỏ mặc viên phụ tá đặc biệt cùng chiếc VLHN ngay trên đường phố. Anh chàng tội nghiệp này đă phải đuổi theo đoàn xe của Tổng thống trên đường về Nhà Trắng trong suốt 15 phút.
Vali hạt nhân cho Tổng Bí thư Liên Xô

So với người Mỹ, Liên Xô bắt đầu có VLHN chậm hơn tới 20 năm, khi mức độ phát triển các loại hoả tiển hạt nhân của họ đă đủ cho khả năng ra đ̣n tấn công bất ngờ. Dù triển khai nghiên cứu chế tạo từ những năm 70 thế kỷ trước,
từ thời Brejnev, nhưng phải đến thờiChernenko mới bắt đầu xuất hiện các sĩ quan xách VLHN hộ tống Tổng bí thư. VLHN của Liên Xô (có mật danh là "Cheget") là một phần trong hệ thống tự động hóa điều khiển các lực lượng hạt nhân chiến lược "Kazbek", được chính thức đưa vào hoạt động từ năm 1983. Công chúng cho tới giờ vẫn chưa thể biết những ǵ được cất giữ trong chiếc vali nặng tới 11kg này.
Dưới thời Brejnev, từng có ư tưởng đề nghị về sự tồn tại của 3 chiếc vali hạt nhân giống nhau do Tổng bí thư, Bộ trưởng Quốc pḥng và Tổng tham mưu trưởng nắm giữ. Tuy nhiên, ư tưởng này đă bị băi bỏ do khó có khả năng luôn bảo đảm được sự liên lạc đồng thời giữa 3 quan chức này, chưa kể thời gian để đưa ra một quyết định khó khăn như trên chỉ chưa đầy 30 phút (thời gian để hoả tiển đối phương bay tới mục tiêu).
Theo như toán , khi có dấu hiệu đối phương phóng hoả tiển , viên sĩ quan trực tại trung tâm phải xác định đó có thực sự là cuộc chiến hay không. Khi mọi chuyện đă rơ ràng, tín hiệu báo động ngay lập tức được gửi tới Tổng bí thư, Bộ trưởng Quốc pḥng, Tổng tham mưu trưởng và trực chỉ huy của tất cả các quân chủng. Đầu tiên là một đường dây nóng được nối nhằm xác minh t́nh h́nh. Khi ba quan chức hàng đầu trên đưa ra quyết định cuối cùng, các sĩ quan trực chỉ việc mở khóa, nhấn nút phóng hoả tiển và... chiến tranh hạt nhân bắt đầu.
Vali hạt nhân của Nga hiện nay
Ban đầu, việc duy tŕ VLHN của Nga đă gặp nhiều khó khăn sau khi Liên Xô tan ră. Đến năm 1993, tất cả những nguồn tài nguyên kỹ thuật cho hệ thống này gần như đă cạn kiệt. Trong hệ thống sử dụng toàn những chi tiết nội địa, trong khi các vi mạch điện tử thời gian này hầu hết được sản xuất ở nước ngoài. Việc sử dụng các phụ tùng nhập ngoại lại không được phép về mặt nguyên tắc, v́ rất có thể chúng đă được cài những con chip gián điệp. Chưa kể phần lớn các chuyên gia thành thạo về hệ thống trên đều đă qua đời.
Về mặt thủ tục, đích thân Phó tổng tham mưu trưởng quân đội Nga là người lựa chọn các sĩ quan xách VLHN tháp tùng tổng thống. Theo mỗi phiên trực thường có hai người túc trực, luôn đi bên cạnh Tổng thống, hoặc ở gian pḥng cạnh đó, chỉ cách một bức tường. Trong những lúc này, nếu một người được phép thiếp đi, người kia phải thường xuyên kiểm tra khả năng hoạt động của vali, cũng như thử nghiệm tất cả các tần số liên lạc đặc biệt.
Để liên lạc không bao giờ bị ngắt trong hệ thống, người Nga trước đó cũng từng đưa vào sử dụng một hệ thống liên lạc và phối hợp song song có tên "Chu vi". Vai tṛ của hệ thống này là nhằm bảo đảm có thể phóng kịp thời hoả tiển từ các bệ phóng trên mặt đất hay tàu ngầm, ngay cả trong trường hợp đối phương đă kịp tiêu diệt hết tất cả các mắt xích liên lạc, điều hành và chỉ huy khác.
Được nghiên cứu, chế tạo, thử nghiệm trong giai đoạn 1979-1982, "Chu vi" chính thức được đưa vào trực chiến từ tháng 1/1985. Người Mỹ chỉ biết tới hệ thống này vào năm 1993, khi một trong những tác giả của dự án "Chu vi" đào thoát và khai ra tất cả mọi thông tin nắm được. Ngày 8-10-1993, tờ The New York Times đă cho đăng tải một bài báo nhan đề "Russia Has Doomsday Machine" (Nước Nga có cỗ máy ngày tận thế), nói về hệ thống đặc biệt trên. Theo các thỏa thuận trong Hiệp ước START-I, Nga chính thức rút hệ thống "Chu vi" khỏi chế độ trực chiến vào tháng 6/1995.
Đối với Tổng thống đầu tiên của nước Nga là Boris Eltsin, chiếc VLHN luôn được nh́n nhận như một biểu tượng về quyền lực, của một cường quốc. Ngay cả khi phải vào pḥng phẫu thuật tim, ông Eltsin vẫn không chịu trao lại chiếc vali cho bất cứ ai. Các sĩ quan mang VLHN phải ngồi túc trực ngay tại tiền sảnh của bệnh viện, và ngay khi Tổng thống vừa hồi tỉnh sau ca phẫu thuật, chiếc vali được đưa ngay vào trong pḥng. Tuy nhiên, thời gian gần đây, bên cạnh Tổng thống Nga trong các chuyến đi trong nước cũng như ngoài nước, người ta không nh́n thấy bóng dáng của các sĩ quan xách VLHN. Rất có thể theo một số quy định mới, những sĩ quan này tháp tùng Tổng thống Nga trong điều kiện kín đáo hơn.

Một chi tiết nữa được nhiều người quan tâm là thủ tục chuyển giao chiếc VLHN từ đời Tổng thống này sang đời Tổng thống khác tại Nga. Theo các quy định, chiếc vali được Tổng thống măn nhiệm chuyển giao cho người kế nhiệm vào đúng ngày tuyên thệ nhậm chức (tương tự như tại Mỹ). Tuy nhiên, thủ tục đầy đủ này chỉ được thực hiện lần đầu tiên khi ông Putin bàn giao quyền lực cho tân Tổng thống Medvedev. C̣n Eltsin trao chiếc VLHN cho Putin vào đúng ngày tuyên bố từ chức của ḿnh.
Trước đó, Gorbachev c̣n nhất quyết không chịu đích thân trao lại vali cho Eltsin. Khi đó, một chỉ huy của Bộ tổng tham mưu là tướng Boldyrev xách chiếc vali cùng với các sĩ quan liên lạc đặc biệt xuất hiện tại pḥng khách của Tổng thống Nga, qua đường điện thoại thông báo: "Chúng tôi đă tới chỗ của ngài".

Sưu-Tầm

hoanglan22 01-26-2019 02:44

Bí mật đằng sau cái Tên.
 
Chữ cái bắt đầu tên bạn có thể nói lên rất nhiều điều về tính cách của bạn. Nó sẽ giúp bạn tự đánh giá được điểm mạnh và điểm yếu của ḿnh bởi “nhân vô thập toàn”.

A (Ă, Â)


Nếu chữ cái đầu tên bạn là một trong ba chữ trên chứng tỏ bạn là một người tự lập và đầy tham vọng. Bạn không bao giờ để tuột khỏi tay cơ hội gần như đă nắm chắc và thường nhanh chóng đưa ra quyết định chứ không phải là người nước đôi, ba phải. Nếu ở cương vị của một nhà lănh đạo, bạn sẽ chứng tỏ được nhiều hơn năng lực của ḿnh.
Những nguyên âm này chứa đựng năng lực chỉ huy, có khả năng đứng vững trên đôi chân của ḿnh. Họ có nhiều tham vọng, thường rơi vào t́nh thế phải đưa ra những quyết định nhanh. Mặt tiêu cực: cố chấp, hơi bảo thủ và ích kỷ. Đặc biệt: dễ mắc bệnh về hô hấp.


B
Họ thường là những người nhút nhát, sống coi trọng t́nh cảm và đặc biệt là biết kiềm chế bản thân trước những cám dỗ. Những người tên bắt đầu bằng chữ B cũng là người thích sưu tầm và giữ ǵn những ǵ mà họ tôn trọng và yêu mến.
Bạn có tính cách rụt rè, kín đáo, luôn khao khát t́nh cảm yêu thương. Bạn rất hay dồn nén những buồn vui cho riêng ḿnh chịu đựng. Chớ nên quá cầu toàn đi t́m điều tốt đẹp hơn một khi bạn đă chấp nhận những sự việc chung quanh ḿnh. Mặt tiêu cực: bạn sống hơi cô lập và ủy mị.


C
C là một chữ cái mở bởi thế mà những người có tên bắt đầu bằng chữ C là những con người thân thiện, dễ ḥa đồng, cởi mở. Không chỉ có vậy, họ c̣n rất năng động và sáng tạo. Họ ưa thích đi đây đi đó nên thường rất khó tiết kiệm tiền.
Bạn thích làm việc trong môi trường chuyên nghiệp, thích du lịch và chấp nhận rủi ro để kiếm tiền. Mặt tiêu cực: đôi khi bạn hay lănh đạm, dửng dưng và tủn mủn.


D (Đ)
Chữ D (Đ) vốn là một chữ cái đóng nên nếu tên của bạn bắt đầu bằng chữ D (Đ) th́ bạn là người khá dè dặt, thận trọng, không có tính phiêu lưu. Điểm đáng quư của bạn là coi trọng cuộc sống gia đ́nh nhưng hơi tham công tiếc việc. Nếu đảm nhận vai tṛ người quản lư bạn sẽ làm rất tốt.
Nếu có tên bắt đầu bằng chữ D, bạn có thể là một quản trị gia tài ba. Bạn là người rất bảo thủ. Mặt tiêu cực: khắt khe, bướng bỉnh và thích tranh căi.


E (Ê)
Nếu tên bạn bắt đầu bằng chữ E (Ê) bạn là một người cởi mở, thích tự do và đôi khi dễ thay đổi. Do chữ E có h́nh dạng quay về phía trước nên bạn là người lạc quan, nh́n xa trông rộng. Tuy nhiên, bạn rất nóng tính.


G
Nếu chữ cái đầu tên bạn rơi vào chữ G, bạn không được cởi mở cho lắm. Bạn có khuynh hướng thích sống một ḿnh. Bởi vậy, bạn thường bị người khác hiểu lầm là lạnh lùng, khó gần. Khi bạn đă thích điều ǵ, bạn sẽ say mê đến cuồng nhiệt và thường đánh giá mọi người qua bản chất chứ không phải qua h́nh thức. Ngoài ra, bạn c̣n có khả năng diễn thuyết trước đám đông.
Bạn sống cô lập, bảo thủ. Bạn rất hay bị hiểu lầm, người khác nh́n bạn như một ốc đảo. Tuy nhiên, bạn có quyết tâm cao và luôn xem “chất lượng hơn số lượng”. Mặt trái của bạn là thích chỉ trích và dễ làm tổn thương người khác.


H
Chữ H giống như một chiếc thang. Bởi vậy, bạn sẽ có nhiều bước thăng trầm trong cuộc đời. Bạn là người tự chủ, biết ḿnh muốn ǵ, cần ǵ và hơn hết bạn là người đầy tham vọng, luôn khát khao vươn lên nấc thang của sự thành công. Nhược điểm duy nhất của bạn là quá ham kiếm tiền.
Bạn tự kiểm soát tốt, có khát vọng mạnh mẽ đến thành công. Nếu có địa vị, bạn có thể là người lănh đạo tốt, song cũng có thể rất tồi. Mặt tiêu cực: Hơi khắt khe trong cách nh́n nhận, đánh giá con người và sự việc. Bạn cũng nên cẩn thận với tiền bạc v́ chữ H của bạn trống rỗng cả đầu lẫn đuôi.


K
Nếu K là chữ cái bắt đầu tên bạn chứng tỏ bạn thích cuộc sống tự do, vui vẻ và vô tư. Bạn đặc biệt yêu thích âm nhạc v́ âm nhạc có thể làm dịu bớt sự căng thẳng trong tâm hồn. Bạn thường chủ động đối mặt với những vấn đề nan giải trong cuộc sống.
Bạn hành động rất ngẫu hứng, lúc nào cũng khẳng khái, ung dung và cạn nghĩ. Các giác quan của bạn hơi kém. Nên lắng nghe những mối linh cảm của ḿnh. Mặt tiêu cực của người có tên bắt đầu bằng phụ âm này: ít thật ḷng và hay ủ dột.


L
Chữ L nói lên bạn là người thân thiện, nồng hậu, có đôi chút lăng mạn và thường coi trọng cuộc sống gia đ́nh. Bạn có khả năng sư phạm hoặc năng khiếu âm nhạc. Tuy vậy, điều duy nhất mà bạn c̣n thiếu là sự kiên nhẫn.
Đôi khi, bạn c̣n tỏ ra là người rất lăng mạn. Nghề giáo, hoặc các hoạt động trong lĩnh vực âm nhạc rất thích hợp với bạn. Bạn hay có cảm giác bị người khác hiểu lầm. Chỉ cần rèn luyện thêm tính kiên nhẫn, bạn có thể trở thành một “quan ṭa” tốt cho những rắc rối.


M
Bạn là người trầm tính và suy nghĩ khá chín chắn nếu tên bạn bắt đầu bằng chữ M. Bạn c̣n có năng lực quản lư mọi việc và tương đối chăm chỉ. Nhược điểm lớn nhất của bạn là tính thực dụng.
Bạn siêng năng làm việc, cầu tiến và biết tổ chức tốt công việc. Mẫu người nội trợ giỏi cũng chính là bạn. Một khi đă vươn lên được một bậc, bạn biết cách giữ vững chỗ đứng của ḿnh. Mặt tiêu cực của những người có tên bắt đầu bằng chữ M: hơi lạnh lùng, thiếu cảm thông và thiếu nhạy cảm.


N
Chữ N ở đầu tên cho thấy bạn là người thích tự do, bộc trực và đôi lúc có những ư tưởng hay. Trong suốt cuộc đời của ḿnh, bạn có thể sẽ được đi rất nhiều nơi. Điểm thiếu sót của bạn là lập trường không vững vàng.
Chữ N vốn có h́nh dạng “kết mở” ở cả 2 đầu. V́ thế, người có tên bắt đầu bằng chữ này có suy nghĩ cực kỳ phóng khoáng. Tuy nhiên, họ không phải là người ồn ào. Những người này có trực giác tốt, tư duy linh hoạt. Mặt tiêu cực: hơi độc đoán, dễ cáu gắt và ích kỷ.


O (Ô, Ơ)
Người có tên bắt đầu bằng một trong ba chữ cái trên là người cố chấp nhưng có trách nhiệm trong công việc. Họ cũng rất trung thực và luôn coi gia đ́nh là quan trọng. Tuy nhiên, họ là người hơi tự măn và thường bằng ḷng với những ǵ ḿnh đă có. Điều đó lư giải v́ sao những người có quyền hành thường ít bắt đầu bằng chữ O (Ô, Ơ) trong tên.
Bảo thủ là tính cách dễ nhận thấy nhất ở bạn. Chính h́nh thù tṛn trĩnh, khép kín của chữ O đă thể hiện sự “tự vệ” ấy. Tuy nhiên, bạn là người có tinh thần trách nhiệm và rất “có duyên” với tiền bạc. Đối với bạn, mái ấm gia đ́nh rất quan trọng. Đó là nơi để bạn đi về sau một ngày làm việc mệt nhọc. Một ưu điểm nữa của bạn là sống rất thật ḷng. Mặt tiêu cực: hay tự cho ḿnh là đúng, hơi tự măn và đa nghi.


P
Bạn là người hiểu biết và tập trung cao độ khi làm việc. Bởi thế nên không có ǵ khó hiểu khi bạn thường giải quyết công việc một cách nhanh chóng và kiên tŕ trước những khó khăn trong cuộc sống.
Tên bắt đầu bằng chữ P là người uyên bác và có năng lực tập trung cao. Tính hay lo xa, v́ thế, bạn luôn làm việc chăm chỉ, xử sự và chi tiêu luôn có cân nhắc. Điều đó không có nghĩa là suốt ngày bạn vùi đầu vào công việc. Bạn biết tận hưởng những giây phút thư giăn quư báu. Mặt tiêu cực: bướng bỉnh, hay tự cao tự đại và thường ưu sầu.


Q
Chữ Q cho biết bạn là người trung thành, ít thay đổi tâm t́nh và rất hiểu biết. Bạn có khả năng kiếm ra tiền nhưng đôi khi giàu trí tưởng tượng và thiếu thực tế.
Bạn là người đằm thắm, thủy chung và có hiểu biết. Những người này có thiên hướng h́nh thành tính cách, phẩm chất như tầng lớp quư tộc. Hăy cẩn thận, mặt tiêu cực của chữ cái bắt đầu này có thể rất nguy hiểm.


R
Những người bắt đầu tên bằng chữ R thường hiểu biết rộng nhưng khá thực dụng. Họ là những người tự tin và truyền niềm tin cho người khác bởi họ thích làm những công việc từ thiện. Nhược điểm của họ là thiếu kiên nhẫn.


S
Bạn là người thích làm việc một ḿnh và có tính tự lập từ khá sớm. Bạn có trí nhớ tốt nên có thể thích hợp với nghề diễn viên. Nhược điểm của bạn là thường làm việc không đến nơi đến chốn.
Thường chỉ kết thúc đường công danh sự nghiệp khi đă làm ông, bà chủ. Bạn thường muốn đạt cho bằng được mục đích, nhưng đôi khi cũng hay bỏ dở nửa chừng. Khúc lượn ngay giữa chữ S chính là nguyên do của tính cách này. Mặt tiêu cực: hơi tự phụ.


T
H́nh dạng của chữ T quay về hai phía nên nếu tên bạn bắt đầu bằng chữ T bạn là người tinh tế và luôn nh́n vào hai mặt của một vấn đề. Bạn hay giúp đỡ người khác nhưng cũng rất dễ bị tổn thương. Bạn có tính đoàn kết cao.
Bạn thường biết ngăn ngừa những điều xấu có thể xảy ra với ḿnh. Tuy nhiên, bạn cũng rất dễ bị tổn thương. Những người có tên bắt đầu bằng chữ T có tinh thần hợp tác tốt, rất thích hợp với vai tṛ ḥa giải. Mặt tiêu cực: bướng bỉnh, nóng tính và thích mỉa mai.


U
Bạn là người cởi mở, thân thiện. Điều đáng quư ở bạn là sự trung thực và đáng tin cậy. Nhưng cũng chính bởi sự thật thà, trung thực mà đôi khi bạn không sáng suốt và hay cả tin.
Bạn có diện mạo dễ coi, có đầu óc sáng tạo, trí nhớ tốt đối với những vấn đề có liên quan đến ngôn từ, chữ nghĩa. Mặt tiêu cực: bạn rất hay ghen. Đôi khi không kiềm chế được cảm xúc, bạn dễ nổi nóng, sẵn sàng gây gỗ với người khác. Rắc rối rất dễ xảy ra.


V
Chữ V cho thấy bạn là người biết cân bằng mọi vấn đề trong cuộc sống. Không chỉ có vậy, bạn c̣n hơn những người có tên bắt đầu bằng chữ cái khác ở chỗ bạn biết đặt ra cho ḿnh mục tiêu vươn lên và sẵn sàng làm việc không biết mệt mỏi để có thể đạt được.
Suốt cuộc đời, bạn luôn phải xây dựng một sự cân bằng như 2 vế của chữ V. Chữ V thoải dốc, có đáy nhọn. Đây cũng là nét tính cách của bạn: biết đúc kết những suy nghĩ thành ư tưởng. Mặt tiêu cực trong tính cách của bạn là không thận trọng trong công việc, thực dụng, đôi khi hoang phí và thiếu cân nhắc.


X
Nếu tên bạn bắt đầu bằng chữ X, bạn là người biết cân bằng giữa vật chất và tinh thần, không bao giờ có những đ̣i hỏi quá cao. Bạn thích giúp đỡ gia đ́nh và bạn bè.
Những người có cái tên bắt đầu với chữ X luôn có được một tinh thần sáng suốt và lành mạnh. Chính nhờ ưu điểm này bạn luôn giúp ích được cho bạn bè và người thân. Tuy nhiên, bạn thường hay gặp khó khăn, cuộc sống của bạn chứa đựng nhiều cay đắng và thù hận.


Y
Chữ Y cho biết bạn là người có suy nghĩ chín chắn nhưng rất quyết đoán. Bạn lúc nào cũng thích hoạt động và ghét phải ngồi rỗi. Trong cuộc sống bạn là người thường phải đối mặt với khó khăn và đặc biệt là sự đơn độc.
Bạn yêu thích t́m ṭi, học hỏi và không thích ngồi lê đôi mách. Tuy nhiên trong cuộc sống thường ngày, bạn thường không dứt khoát khi đưa ra quyết định cuối cùng cho một vấn đề. Mặt tiêu cực của những người này: thường cảm thấy ḿnh rất cô đơn, hơi nhiều dục vọng.

hoanglan22 01-26-2019 02:49

CH-47 Chinook
 
2 Attachment(s)
CH-47 Chinook là máy bay trực thăng vận tải hạng nặng đa năng 2 động cơ 2 cánh quạt do Boeing Integrated Defense Systems thiết kế và chế tạo. Công năng thiết kế của máy bay này là chuyển quân, chuyển vũ khí hạng nặng và hỗ trợ hậu cần cho chiến trường.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548470899

Lịch sử
CH-47 Chinook được thiết kế vào năm 1962. Chinook vốn là tên một dân tộc ở Tây Bắc Thái B́nh Dương. Đến tháng 2 năm 1966, 161 chiếc Chinook đă được chế tạo và bàn giao cho Quân đội Hoa Kỳ.
Năm 1965, Sư đoàn Kỵ binh Bay số 1 của Hoa Kỳ sang Việt Nam tham chiến đă biên chế 1 tiểu đoàn máy bay Chinook. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Chinook trong Chiến tranh Việt Nam là vận chuyển pháo lên các điểm cao và đảm bảo cung cấp đạn dược cho các khẩu pháo này.
Trong chiến tranh Iraq, có tới khoảng 163 chiếc Chinook đă được sử dụng.
http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548470899

hoanglan22 01-26-2019 02:55

Cô Gái Này Là Ai
 
2 Attachment(s)
http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548471224http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548471224

Jennifer Katherine Gates!! Con gáí của Bill Gates, người giàu nhất hành tinh

Rất khâm phục con gái của người giàu nhất Thế giới !

Thật giản dị, đẹp, phúc hậu và dễ thương vô cùng ....

phải không ?

TỈ PHÚ MỸ GIÁU NHẤT THẾ GIỚI XÀI TIỀN NHƯNG THẾ NÀO?

Là vợ của Bill Gates, người đàn ông giàu nhất hành tinh nhưng Melinda không mấy quan tâm đến những cửa hàng thời trang sang trọng, những loại mỹ phẩm đắt tiền hay những tác phẩm nghệ thuật danh giá. Thay vào đó, suốt ngày bà chúi mũi vào những chuyện đại loại như... chu tŕnh sống của con muỗi.

Ngay sau khi cưới nhau, vợ chồng Bill Gates bắt đầu làm từ thiện nhưng làm một cách dè dặt, trong đó có lần tặng máy vi tính xách tay cho các ngôi làng ở khu vực cận Sahara (Phi châu). Nhưng rồi hai người nhận ra người dân lục địa đen cần thức ăn để no bụng và thuốc men để chống lại cái chết hơn là phần mềm Windows xa xỉ. Thế là họ tậu bao nhiêu là sách về các bệnh lây lan v́ kư sinh trùng, về hệ miễn dịch, về cách pḥng bệnh... "Bạn không thể nói về chuyện tài trợ cho thuốc chống sốt rét nếu như bạn không hiểu rơ chu tŕnh sống của con muỗi. Làm từ thiện không chỉ đơn giản là kư séc chi tiền", Melinda nói."Tại sao lại phải nhọc công đến thế? " Melinda có thể tận hưởng một cuộc sống trong nhung lụa, dành thời gian chăm sóc con cái.

"Khi cưới nhau, tôi và Bill định khi về già sẽ chia sẻ tiền bạc với người khác.. Lần đầu tiên chúng tôi đến châu Phi là nhân một chuyến đi săn năm 1993. Chúng tôi không thể nào tận hưởng thiên nhiên hoang dă v́ cảnh tượng mọi người đi chân đất, phụ nữ phải vừa bế con vừa xách nước đi hàng cây số và bởi lời mời từ một bộ lạc về việc dự buổi lễ cắt âm vật phụ nữ.Sau đó về nhà, chúng tôi t́m đọc Báo cáo về phát triển thế giới năm 1993 và không khỏi giật ḿnh. Trẻ con đang chết hàng loạt chỉ v́ căn bệnh tiêu chảy và những loại bệnh cơ bản mà trẻ con ở nước chúng tôi đă được tiêm vắc-xin. Chúng tôi tự thấy ḿnh phải có trách nhiệm t́m hiểu sự thật và càng t́m hiểu, chúng tôi càng thấy không thể chờ v́ bệnh tật không đợi chúng tôi. Tôi đi ṿng quanh thế giới để xem điều ǵ đang xảy ra.Nỗi sợ hăi khi quay về quá khủng khiếp đến độ tôi không dám hy vọng. Nhưng rồi bạn thấy đó, kinh tế đang thay da đổi thịt ở các nước phát triển và tự nó cải thiện mọi chuyện. Điều đó đă vực Bill và tôi dậy". "Chúng ta có xem rẻ mạng sống của người Phi châu hơn mạng sống của chúng ta không? Bill và tôi cho rằng không có sinh linh nào mang giá trị hơn hay kém so với sinh linh khác. Chính sự công bằng này là lư do để quỹ từ thiện của chúng tôi hoạt động" Quỹ từ thiện Bill & Melinda Gates (BMGF) bắt đầu hoạt động với quy mô nhỏ vào năm 1997 rồi chính thức khai trương vào năm 2000. Vợ chồng Gates đă cam kết sẽ trao tặng hết 95% tài sản khổng lồ của ḿnh (hiện ước tính khoảng 46 tỉ USD). Vắc-xin và tạo hệ miễn dịch cho trẻ em là mục tiêu chính của quỹ.Đến nay BMGF đă chi tổng cộng 28,8 tỉ USD. Hồi đầu năm, BMGF đă tặng cho Liên minh Vắc-xin và miễn dịch toàn cầu (Gavi) 750 triệu USD - một trong những món quà cá nhân lớn nhất lịch sử. Những lần tài trợ trước đó của vợ chồng Bill Gates đă giúp tiêm pḥng viêm gan siêu vi B cho 43 triệu trẻ em, giúp giảm 39% tỷ lệ trẻ em bị sởi... Ngoài ra, BMGF c̣n chi mạnh cho các dự án khoa học nghiên cứu vắc-xin và thuốc men, trong đó phải kể đến chương tŕnh trị giá 35 triệu USD để thử nghiệm vắc-xin chống sốt rét ở Zambia. Hẳn nhiều người sẽ ngạc nhiên v́ ông bà Gates không dành phần lớn tài sản của ḿnh để lại cho con cái. Hiện họ đang có 3 đứa con nhỏ nhưng Melinda không tỏ ra lo lắng: "Bất cứ lúc nào gia đ́nh tôi nói tới chuyện tài sản, chúng tôi đều nói đến trách nhiệm phải trao tặng nó cho thế giới. Các con của chúng tôi đă có tài khoản riêng của chúng. Không phải lúc nào chúng muốn mua ǵ cũng được nấy mà phải đợi đến những dịp như sinh nhật mới được tặng hay đợi cho đến khi chúng tự để dành đủ tiền".Hiệp hội Bill & Melinda Gates đă chi bao nhiêu cho ai? Tính đến đầu năm 2005, tỷ phú này đă cam kết số tiền 28 tỷ USD cho nhiều dự án cứu tế, từ thiện, y tế và giáo dục. Tức ông đă đem cho không đến 38% tổng tài sản của ḿnh.12,5 tỷ USD là tổng số tiền mà tỷ phú giàu nhất thế giới Bill Gates đă chi cho các công cuộc từ thiện cứu tế và giáo dục thông qua hiệp hội mang họ tên ḿnh thành lập vào năm 2000. Chúng được chia ra như sau: - Sức khoẻ: 5,4 tỷ USD (gồm chi An lược sức khoẻ toàn cầu, 2,3 tỷ USD nghiên cứu trị HIV/AIDS, bệnh lao và y tế sinh sản, 1,5 tỷ USD; các bệnh lây lan khác, 1,1 tỷ USD; nghiên cứu phát triển công nghệ y tế toàn cầu, 0,4 tỷ USD; nghiên cứu y tế, chiến dịch y tế toàn cầu…, 0,1 tỷ USD)

- Giáo dục: 2,4 tỷ USD
- Chương tŕnh xây dựng thư viện toàn cầu: 0,3 tỷ USD
- Những dự án đặc biệt khác: 0,6 tỷ USD
- Các chương tŕnh từ thiện ở khu vực Tây Bắc Thái B́nh Dương: 0,6 tỷ USD

- Quỹ Thiếu Niên Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc : 1,2 tỷ USD

- Quỹ hoạt động Tổ chức Liên Hiêp Quốc : 1 tỷ USD

- Quỹ Tổ chức Y Tế Thế Giới : 1 tỷ USD


PS : tui nh́n thấy đẹp thật từ con người đến cách ăn mặc thật giản dị

hoanglan22 01-26-2019 03:32

10 đài phun nước độc đáo nhất thế giới
 
13 Attachment(s)
Với h́nh dạng, màu sắc cùng kiến trúc vô cùng độc đáo, những đài phun nước “độc nhất vô nhị” trên thế giới vẫn luôn là điểm đến có sức hút vô cùng lớn với khách du lịch. Hăy cùng chiêm ngưỡng 10 đài phun nước độc đáo nhất thế giới.

1. Đài phun nước tại cầu Banpo, Seoul, Hàn Quốc
Đài phun nước tại cầu Banpo ở Seoul có một bề mặt được dàn trải được tạo nên bởi 10.000 ṿi phun nước nhỏ được bố trí dọc theo 2 bên thành cầu. Những ṿi phun này th́ mới được lắp đặt vào thời gian gần đây nhưng hoá ra việc này đă giúp cho cây cầu trở thành một địa điểm tham quan rất hấp dẫn du khách.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548472465http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548472465

Đó là điều dễ hiểu bởi chắc chắn rằng không có ai chỉ lái xe qua một chiếc cầu đang liên tục phun ra 190 tấn nước mỗi phút mà không chiêm ngưỡng qua vẻ đẹp vô cùng ngoạn mục của nó. Và kể từ khi nó bơm nước lên từ ḍng sông bên dưới, nó thật sự khoác lên ḿnh vẻ đẹp lộng lẫy và trở nên thân thiện với môi trường hơn bao giờ hết.

2. Loá mắt trước vẻ đẹp của đài phun nước tại Dubaihttp://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548472593

3. Đài phun nước Floating, Osaka, Japan
Đài phun nước Floating là một tác phẩm độc đáo cuối cùng mà kiến trúc sư Isamu Noguchi dành cho hội chợ triển lăm quốc tế tại Osaka, Nhật Bản.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548472669

Ông Noguchi đă làm cho những ḍng nước chảy ra một cách ảo tưởng và tạo thêm thành 9 đài phun nước “lơ lửng” tại hội chợ thế giới trong thời gian đó. Những đài phun nước không tưởng này tạo cho người xem cảm giác có vẻ như chúng đang bay lơ lửng trong không khí.

4. Đài phun nước tại quảng trường nhà hát tại Nhà hát lớn ở Nga.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548472753

5. Đài phun nước Swarovski, Áo
Swarovski Kristallwelten, toạ lạc tại khu vui chơi giải trí Swarovski Crystal World, là một đài phun nước độc đáo thuộc vùng Tyrol, Áo (gần khu vực dăy núi Alpes) với vị trí giống như một viên đá quư nằm trên chiếc nhẫn.
http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548472819


Đây là khu du lịch nổi tiếng rất hấp dẫn khách du lịch tại nước Áo do tập đoàn Swarovski đầu tư xây dựng vào năm 1995 nhân kỷ kiệm 100 năm công ty được thành lập.

6. Đài phun nước Vortex ấn tượng do William Pye thiết kế.http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548472947

7. Đài phun nước h́nh núi lửa ở Abu Dhabi.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548473010

8. Bellagio Fountains (Las Vegas, Mỹ).
Đài phun nước của khách sạn Bellagio ở được mệnh danh là Vũ điệu Ba lê của nước những ḍng nước được bắn lên trời và nhảy múa theo nhịp điệu của bản nhạc "Fly Me To The Moon" (Frank Sinatra), "Time to Say Goodbye" (Sarah Brightman and Andrea Bocelli) và "My Heart Will Go On" (Celine Dion).http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548473097

Hàng ngày đài nước sẽ phun 30 phút vào lúc hoàng hôn và và buổi sáng sớm, sau đó cứ 15 phút một lần từ 8 giờ sáng cho tới nửa đêm. Đài phun nước này có tới 1200 ống dẫn nước và 4,500 ngọn đèn màu chiếu sáng và xây hết 50triệu USD.

9. Đài phun nước Wealth (Suntec, Singapore).
Đài phun nước nằm thấp hơn mặt đất của trung tâm thương lớn nhất thành phố Suntec City. Theo đạo Hindu 4 cột cùng hoà chung một ḍng nước tượng trưng cho sự hoà hợp của 4 sắc tộc chủ yếu ở đảo quốc sư tử này.
http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548473168

Đài phun nước làm bằng đồng cao 13.8m và chu vi là 1683 m và nước được phun từ độ cao 30m.

10. Đài phun nước Montjuic (Barcelona, Tây Ban Nha).
Đươc miêu tả là vũ điệu ngoạn mục của nước và ánh nằm ở giữa Placa d’Espanya và National Palau. Đài phun nước này làm cảnh đêm của Barcelona thêm huyền ảo và thu hút hàng ngàn du khác.http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548473299


Đây là công tŕnh đạt giải Great Universal Exhibition do kỹ sư Carles Buigas thiết kế năm 1929 và 3000 công nhân làm việc.

*********


(Việt Nam cũng có những đài phun nước tự nhiên rất độc đáo

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548473513

hoanglan22 01-26-2019 16:01

15 câu nói đáng nhớ của TT Ronald Reagan
 
6 Attachment(s)
http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548518077

1. “Chấm dứt chiến tranh không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. V́ lẽ, cái giá phải trả cho loại ḥa b́nh đó là ngàn năm tăm tối cho các thế hệ sinh tại Viêt Nam về sau.”

2. “Chúng ta đang chiến đấu với một đối thủ nguy hiểm nhất trong lịch sử nhân loại, và nếu chúng ta thua trong cuộc chiến này, chúng ta sẽ mất đi sự tự do, lịch sử sẽ ghi nhận lại rằng những người có nhiều thứ để mất nhất đă làm ít nhất để ngăn chặn nó.”

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548518077

3. “Làm thế nào để bạn biết người đó là một người cộng sản? Đó là những người đọc Marx và Lenin. Và làm thế nào để bạn biết được người đó là người chống cộng sản? Đó là những người hiểu Marx và Lenin.”

4. “Nếu chúng ta mất tự do ở đây (nước Mỹ), sẽ không c̣n một nơi nào khác để trốn. Đây là trụ cột cuối cùng trên trái đất. Và cái ư tưởng rằng chính phủ phải lệ thuộc người dân, là một ư tưởng mới lạ và khác biệt nhất trong lịch sử nhân loại.”

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548518077

5. “Chúng ta đă được bảo rằng chúng ta phải chọn giữa phe cánh hữu hay phe cánh tả, nhưng tôi muốn gợi ư rằng chẳng có tả hay hữu ǵ cả. Chỉ có tiến bước hoặc lùi bước. Tiến bước để bảo vệ giấc mơ của nhân loại; quyền tự do trong mỗi cá nhân – hoặc lùi bước để trở về với sự độc tài, và những ai đă bán đổi sự tự do của chúng ta để lấy một chút ḥa b́nh đă lùi bước vào nô lệ.”

6. “Tôi và bạn đều biết ḥa b́nh dù có đẹp cách mấy cũng không có ư nghĩa ǵ nếu nó được mua với cái giá gông cùm và nô lệ.”

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548518260

7. “Chúng ta nên làm ǵ để có được ḥa b́nh? Chỉ một cách, rất đơn giản. Bạn và tôi phải có đủ can đảm để nói với địch thủ, “Có một cái giá mà chúng tôi sẽ không trả.” Có một ư nghĩa trong câu nói của Barry Goldwater, “ḥa b́nh qua sức mạnh.””

8. “Bạn và tôi đều có cuộc đối mặt với đệnh mệnh. Chúng ta sẽ ǵn giữ cho con cháu chúng ta điều này, niềm hy vọng cuối cùng cho nhân loại, hoặc chúng ta sẽ kết án chúng bước bước cuối cùng vào một ngàn năm đen tối.”

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548518260
9. “Chúng ta sẽ luôn nhớ, luôn tự hào. Chúng ta sẽ luôn chuẩn bị, để chúng ta sẽ măi được tự do.”

10. “Trong cơn khủng hoản hiện tại, chính phủ không phải là giải pháp cho các vấn đề; chính chính phủ là vấn đề. Từ ngàn xưa chúng ta đều tin rằng xă hội quá phức tạp để cho phép quyền tự chủ, rằng chính phủ của một nhóm ưu tú sẽ tốt hơn một chính phủ của dân, cho dân và v́ dân. Nếu không một ai trong chúng ta có đủ khẳ năng để tự chủ th́ làm sao ai có đủ khả năng để tự quyết giùm người khác?”

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548518260

11. “Trên hết, chúng ta phải nhận ra rằng không có vũ khí nào lợi hại hơn ư chí và sự dũng cảm đức hạnh của những con người tự do. Đó là một vũ khí mà địch thủ chúng ta không có, nhưng đó là một vũ khí mà người Mỹ chúng ta có. Tất cả những tổ chức độc tài khủng bố trên thế giới nên nhớ điều đó.”

12. “Chúng ta là một quốc gia có một chính phủ, chứ không phải ngược lại. Và điều này khiến chúng ta rất đặc biệt so với các nước khác. Chính phủ chúng ta không có quyền lực ǵ trừ những quyền lực mà nhân dân đă giao cho họ.”

13. “Khi bạn bắt đầu một cuộc tranh đấu, bạn sẽ không biết nó sẽ đi về đâu. Chúng ta muốn thay đổi một đất nước, nhưng thay vào đó chúng ta đă thay đổi cả thế giới.”

14. ““Chúng ta, những người dân” cho chính phủ biết họ nên làm ǵ, họ không không có quyền làm ngược lại. Chúng ta là người lái, chính phủ là chiếc xe. Và chúng ta sẽ quyết định chiếc xe đó sẽ đi về đâu, bằng đường nào, với tốc độ bao nhiêu. Hầu hết tất cả các hiến pháp trên thế giới đều viết với khái niệm chính phủ sẽ cho nhân dân biết quyền lợi của họ là ǵ. Hiến pháp của chúng ta được viết với khái niệm “Chúng Ta” sẽ cho chính phủ biết quyền lợi của họ là ǵ. “Chúng ta, những người dân” đang tự do.”

15. “Có một quy luật nhân quả đơn giản và dễ hiểu như luật vật lư: “chính phủ càng lớn, tự do càng bị thu hẹp.” Con người sẽ không được tự do trừ khi chính phủ bị giới hạn.”

Dịch: Nguyễn Trọng Nhân

hoanglan22 01-26-2019 16:07

4 "Trọc Phú" lừng danh đất Sài G̣n xưa .
 
Vào cuối thế kỷ 19, đất Sài G̣n - Chợ Lớn nổi lên bốn vị trọc phú có gia sản kếch xù, được mệnh danh là “Tứ đại phú hộ” mà tiếng tăm c̣n truyền lại đến bây giờ qua câu nói dân gian “Nhất Sỹ, Nh́ Phương, Tam Xường, Tứ Định”.

Huyện Sỹ - Lê Phát Đạt: Giàu hơn vua Bảo Đại

Nhân vật số một của Tứ đại phú hộ là Huyện Sỹ (1841 – 1900), người có tên khai sinh là Lê Nhứt Sỹ, sinh ra tại Sài G̣n trong một gia đ́nh theo đạo Công giáo. Từ nhỏ ông đă được các tu sỹ người Pháp đưa đi du học ở Malaysia. Tại đây, ông đổi tên thành Lê Phát Đạt do tên cũ của ông trùng với tên một người thầy dạy.

Sau khi về nước, ông được Chính phủ Pháp bổ nhiệm làm thông ngôn, từ năm 1880 làm Ủy viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ. Dù đă đổi tên nhưng người quen vẫn gọi ông bằng tên cúng cơm, v́ vậy mà cái tên Huyện Sỹ đă gắn bó với số phận của ông.

Sự giàu có nhanh chóng của Huyện Sỹ - Lê Phát Đạt bắt đầu từ một việc trớ trêu. Khi người Pháp chiếm Nam Kỳ, dân cư tản mát, nhiều ruộng đất trở nên vô chủ, bán rẻ mạt mà không ai mua. Chính quyền thuộc địa ép Lê Phát Đạt, khiến ông bất đắc dĩ phải đi vay mượn mà mua liều. Không ngờ ruộng của ông trúng mùa liên tiếp mấy năm liền, khiến ông bỗng chốc phát tài. Dù nhiều tiền của nhưng ông không tiêu xài phung phí mà c̣n dạy người nhà thói cần kiệm.

Là người mộ đạo, ông đă dùng gia sản khổng lồ của ḿnh để xây các nhà thờ bề thế ở Sài G̣n, là nhà thờ Huyện Sỹ và nhà thờ Chí Ḥa ngày nay. Người con trai của ông là kỹ sư Lê Phát Thanh cũng bỏ tiền ra xây nhà thờ Hạnh Thông Tây, nay thuộc quận G̣ Vấp của TP HCM.

Các con cái của Huyện Sỹ đều là những đại điền chủ sở hữu vô số đất đai ở Nam Kỳ lục tỉnh, nhận nhiều bổng lộc từ triều đ́nh nhà Nguyễn dù không phải người hoàng tộc. Sau này, một người cháu ngoại của Huyện Sỹ là Nguyễn Hữu Thị Lan đă trở thành hôn thê của vua Bảo Đại, được biết đến với danh xưng Nam Phương hoàng hậu. Mức độ giàu có của gia tộc Huyện Sỹ được đồn thổi là lớn hơn rất nhiều lần so với vua Bảo Đại.

Sự giàu có của Huyện Sỹ ngày nay c̣n được thể hiện một cách rơ nét qua các công tŕnh xây dựng mà ông để lại. Nổi bật số đó là nhà thờ Huyện Sỹ, công tŕnh mà ông đă hiến 1/7 tài sản cá nhân để xây dựng. Nhà được khởi công xây dựng từ năm 1902 và đến năm 1905 hoàn thành theo thiết kế của linh mục Bouttier, tiêu tốn khoảng 30 ngàn đồng bạc Đông Dương thời bấy giờ.

Huyện Sỹ - Lê Phát Đạt qua đời năm 1900, trước khi ngôi nhà thờ tâm huyết của ông được xây dựng. Sai khi vợ của ông là bà Huỳnh Thị Tài mất năm 1920, con cháu đă đưa thi hài hai ông bà về chôn ở gian chái sau cung thánh của nhà thờ Huyện Sỹ. Nơi đây cũng đặt tượng của ông cùng vợ và các con.

Ngày nay, nhà thờ Huyện Sỹ là một điểm đến thu hút khách du lịch, đặc biệt là đối với những ai muốn t́m hiểu về cuộc đời của đại gia giàu có bậc nhất Sài G̣n thời xưa.


Đỗ Hữu Phương: Tiến thân nhờ theo Pháp

Đỗ Hữu Phương (1841 - 1914), nhân vật số hai trong “Tứ đại phú hộ” sinh tại Sài G̣n, là con của Bá hộ Khiêm – một người giàu có của đất Nam Kỳ lúc đó. Ông được đánh giá là người rất khôn ngoan, có sự nghiệp gắn với chính quyền bộ máy thực dân Pháp.

Năm 1859, khi quân Pháp tiến đánh Gia Định, Đỗ Hữu Phương lui về Bà Điểm, Hóc Môn lánh thân và chờ thời. Năm 1861, ông được nhận làm cộng sự của người Pháp với sự giới thiệu của cai tổng Đỗ Kiến Phước. Sài G̣n Chợ Lớn thời đó chia làm 20 hộ. Đỗ Hữu Phương được chính quyền cho làm hộ trưởng, từ đó lần lượt leo lên nhiều chức vụ khác nhau.

Từ năm 1866 - 1868, Đỗ Hữu Phương chỉ huy hoạt động do thám phong trào chống đối Pháp và tham gia dẹp nhiều cuộc khởi nghĩa ở vùng Sài G̣n – Chợ Lớn và lân cận. So với những tay sai khác của Pháp, ông tỏ ra khéo léo và mềm mỏng, chủ trương tránh gây đổ máu, chuốc thù oán. Bằng sự khôn khéo của ḿnh, ông đă thuyết phục nhiều nhân vật nổi dậy quy hàng, đồng thời xin chính phủ Pháp ân xá cho họ.

Dù vậy, Đỗ Hữu Phương tỏ ra rất không thương xót với những người nổi loạn cứng rắn. Ông đă thẳng tay trừng trị Thủ khoa Huân (Đỗ Hữu Huân) - một trong những bạn hồi thơ ấu, khi bị nhà lănh đạo khởi nghĩa này bội tín. Bản thân Đỗ Hữu Phương đă có lần suưt chết v́ sự chống trả của quân khởi nghĩa.

Với các công trạng của ḿnh, Đỗ Hữu Phương tiếp tục thăng tiến. Đến năm 1872, ông trở thành hội viên Hội đồng thành phố Chợ Lớn và năm 1879 làm phụ tá Xă Tây Chợ Lớn cho Antony Landes.

Tận dụng chức vụ này, Đỗ Hữu Phương thường ngầm làm trung gian để giới thương gia người Hoa hối lộ cho các viên chức Pháp và bỏ túi những lợi nhuận khổng lồ. Ông giàu lên nhanh chóng, uy thế lớn đến mức quan Toàn quyền Paul Doumer cũng biết tiếng và ghé thăm. Lợi dụng cái bóng của Paul Doumer, ông thâu tóm được một diện tích đất ruộng lên đến 2.223 mẫu.

Trên đường quan lộ, Đỗ Hữu Phương vẫn thăng tiến như diều gặp gió, được thưởng tam đẳng bội tinh, thăng Tổng đốc hàm và nhận được nhiều ưu đăi khác. Năm 1881, ông gia nhập quốc tịch Pháp, các con đều được đưa sang Pháp du học.

Ông được người Pháp ca ngợi rằng: “Phương tích cực phục vụ cho sự nghiệp của nước Pháp, không chỉ với khả năng quân sự mà c̣n với sự hiểu biết tường tận về xứ này, đặc biệt là Chợ Lớn”. Trên thực tế, Đỗ Hữu Phương là một trong những tay sai đắc lực nhất cho các sĩ quan Pháp trong việc b́nh định xứ Nam Kỳ.

Đỗ Hữu Phương mất năm 1914. Đám tang của ông được tổ chức rất trọng thể. Thi hài của ông được quàn nửa tháng mới chôn, mỗi ngày đón hàng trăm lượt khách viếng. Trâu, ḅ, lợn, gà được mổ liên miên để cúng và đăi khách.


Bá hộ Xường: Đại gia ngành thực phẩm

Bá hộ Xường (1842 – 1896) tên thật là Lư Tường Quan, tên tự là Phước Trai, là nhân vật thứ ba trong Tứ đại phú hộ đất Sài G̣n.

Cuộc đời và sự nghiệp của Bá hộ Xường - Lư Tường Quan được ghi chép lại rất ít, hầu hết chỉ c̣n lưu lại trong những giai thoại. Theo đó, Lư Tường Quan là người Minh Hương (Hoa Kiều trung thành với nhà Minh) chống lại nhà Thanh nên đến lánh nạn ở miền Nam Việt Nam.

Thông thạo cả tiếng Hoa lẫn tiếng Pháp, Lư Tường Quan trở thành thông ngôn cho Pháp và được chính quyền thực dân tin tưởng, trọng dụng.

Tuy vậy, địa vị mà nghề thông ngôn mang lại không làm Lư Tường Quan thỏa măn. Khoảng năm 30 tuổi, ông bỏ nghề này và nhảy vào thương trường.

Lĩnh vực mà Lư Tường Quan nhắm đến là cung cấp lương thực, thực phẩm cho Sài G̣n và các tỉnh lân cận. Biết tranh thủ thời cơ khan hiếm hàng hóa, lại giỏi lấy ḷng quan Tây để được che chở, nâng đỡ, ông nhanh chóng trở thành đại gia số một trong lĩnh vực lương thực - thực phẩm lúc bấy giờ. Do Tường Quan c̣n có tên khác là Xường, lại rất giàu có, nên người dân thường gọi ông là Bá hộ Xường.

Với lợi nhận từ việc kinh doanh thịt cá, Bá hộ Xường bắt đầu mua đất xây cất biệt thự tại vùng Chợ Lớn để cho thuê và bán, gia sản lại càng được mở rộng.

Dinh thự của Bá hộ Xường rất bề thế, ngày nay tọa lạc trên đường Hải Thượng Lăn Ông, được nhà nước xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp thành phố.

Một công tŕnh khác ông để lại là khu nhà mồ cổ xây dựng năm 1896, hiện thuộc địa phận quận Tân B́nh, TP HCM. Toàn bộ công tŕnh tuy không đồ sộ nhưng rất khoáng đạt và tinh tế, là sự kết hợp của lối kiến trúc gôtich với phong cách Á Đông.

Bá hộ Xường qua đời năm 1896. Sau khi ông mất, hầu hết tài sản bị con cháu ăn xài, tiêu phí hết.


Bá hộ Định và các “ứng viên” khác

Trong câu truyền miệng trong dân gian “Nhất Sỹ, Nh́ Phương, Tam Xường, Tứ Định”, nếu ba vị trí đầu tiên của Tứ đại phú hộ được phân định rơ ràng th́ vị trí thứ tư lại có nhiều “phiên bản” khác nhau. Đôi khi “Tứ Định” được thay thế bằng Tứ Hỏa, Tứ Trạch hoặc Tứ Bưởi.

“Tứ Định” ở đây chính là bá hộ Định, một thương gia có tên thật là Trần Hữu Định. Ông vốn là chủ tiệm cầm đồ rồi được chính quyền Pháp cho làm Hộ trưởng kinh doanh đất đai, xuất nhập khẩu vải sợi, phất lên thành đại gia nhờ biết nắm thời cơ những lúc hàng khan hiếm, tương tự như bá hộ Xường. Và cũng giống bá hộ Xường, sau khi bá hộ Định mất, gia sản của ông bị con cháu tàn phá tan hoang.

Trong vị trí thứ tư của Tứ đại phú hộ, “Tứ Hỏa”, thường được gọi là Chú Hỏa, là nhân vật gắn với nhiều giai thoại về sự giàu có.

Chú Hỏa (1845-1901) có tên thật là Hứa Bổn Ḥa, có tổ tiên là người Hoa ở Phúc Kiến chống chính quyền măn Thanh nên di cư sang Việt Nam. Vốn là người nhặt ve chai, Chú Hỏa đă trở nên giàu có một cách lạ kỳ.

Thiên hạ đồn rằng, khi đi nhặt ve chai Chú Hỏa đă nhặt được cả túi vàng nằm trong một chiếc ghế nệm cũ và dùng số vàng đó làm ăn rồi giàu lên nhanh chóng. Các phiên bản khác của giai thoại này thay túi vằng bằng bức tượng đúc đồng nhưng bên trong đầy vàng, hoặc những thứ đồ cực kỳ quư hiếm trong những món đồ vứt đi.

Rồi có cả những giai thoại cho rằng chú Hỏa an táng mộ cha đúng long mạch nên làm ăn phát đạt hay thừa hưởng cả một kho báu của nhà Minh để lại. Những giả thiết có phần thực tế hơn cho rằng Hỏa đă tích cóp để trở thành chủ đại lư ve chai, hoặc được một ông chủ người Pháp thương t́nh giúp đỡ, từ đó có vốn liếng để làm ăn.

Dù sự thật như thế nào th́ Chú Hỏa đă chứng tỏ được ḿnh là một nhà kinh doanh có tài. Ông là chủ nhân của công ty bất động sản Hui Bon Hoa, từng sở hữu trên 20.000 căn nhà ở Sài G̣n.

Công ty của Chú Hỏa đă xây dựng nhiều công tŕnh có giá trị, c̣n tồn tại đến nay như Bảo tàng Mỹ thuật TP HCM, Khách sạn Majestic, Bệnh viện Từ Dũ, Trung tâm cấp cứu Sài G̣n, khu nhà khách Chính phủ v..v.

Ngoài ra, “Tứ Trạch” trong Tứ đại phú hộ là Trần Trinh Trạch (1872-1942). Tương truyền, ông xuất thân nhà nghèo, đi làm mướn cho một điền chủ nhập tịch Pháp nên có vốn chữ nghĩa tiếng Pháp. Sau này, ông đi làm viên chức cho ṭa hành chính tỉnh Bạc Liêu. Nhờ vốn kiến thức về luật pháp mà ông giàu lên nhờ thu mua tài sản điền địa của các địa chủ thất vận.

Trần Trinh Trạch được xem là một trong những đồng sáng lập Ngân hàng Việt Nam năm 1927- ngân hàng đầu tiên do chính người Việt Nam sáng lập và điều hành, trụ sở đặt tại Sài G̣n.

Người con trai thứ ba của ông chính là Công tử Bạc Liêu, một cậu ấm ăn chơi khét tiếng cả Nam Kỳ.

“Tứ Bưởi” trong Tứ đại phú hộ chính là Bạch Thái Bưởi, người được xem là nhà tư sản dân tộc tiêu biểu thời cận đại trong lịch sử Việt Nam.

Hoàng Phương

hoanglan22 01-26-2019 16:19

Bản Lĩnh Của Nguyễn Văn Thiệu Trước Áp Lực Của Johnson
 
1 Attachment(s)
Các ông sẽ bỏ rơi chúng tôihttp://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548519495

Năm 1968, ngày 13-10, Đại sứ Bunker cùng với Phó đại sứ Berger và Tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam là Tướng Abrams đến dinh Độc Lập tŕnh bày diễn biến những ǵ mới xảy ra tại Paris và yêu cầu Tổng thống Thiệu chuẩn bị soạn thảo một tuyên bố chung với Tổng thống HK về việc ngưng ném bom toàn Miền Bắc và xúc tiến ḥa đàm.

Tổng thống Thiệu không tin CSVN thực sự muốn đàm phán, ông nghĩ rằng Hà Nội chỉ bắt nọn các chính trị gia HK trong cuộc vận động tranh cử đang tới hồi kết thúc. Rồi ông cho biết ông chỉ kư tên vào bản tuyên bố chung nếu Hoa Kỳ vẫn c̣n duy tŕ một lực lượng đủ để đối phó nếu Hà Nội xua quân qua vùng phi quân sự, và Hoa Kỳ phải bảo đảm sẽ tái oanh tạc Bắc Việt nếu Hà Nội lợi dụng ḥa đàm để tạo lợi thế tấn công quân sự.

Tổng thống Thiệu nói với 3 vị khách: “Vấn đề chính không phải là việc ngưng ném bom Bắc Việt mà là ngưng chiến tranh. Chúng ta thử đưa ra những lời tuyên bố như thế xem Hà Nội nghiêm chỉnh đến độ nào”. ( Tức là tuyên bố duy tŕ một số quân và sẽ ném bom trở lại nếu Hà Nội vi phạm. Stepen Young, Victory Lost, Bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 229 ).

Bunker trả lời là chuyện “thử xem” như vậy không thể nào đưa ra trong một tuyên bố kêu gọi ngưng bắn, chỉ có thể đưa ra trong một tuyên bố kêu gọi đầu hàng ( Tôi bảo anh hạ súng xuống, nếu không tôi sẽ thả bom ), nhưng đây không phải là kêu gọi đầu hàng. Sau đó Tổng thống Thiệu đồng ư là sẽ cùng nhau ra bản tuyên bố chung.

– Ngày 16-10, Đại sứ Bunker bị dựng dậy vào lúc 3 giờ 15 sáng bởi v́ ông nhận được lệnh của Washington là phải đến gặp Tổng thống Thiệu để thảo luận về bản dự thảo chung sẽ công bố nếu Bắc Việt chấp thuận cùng ngồi vào bàn ḥa đàm. Lúc 7 giờ sáng Bunker gọi điện thoại xin gặp Tổng thống Thiệu để tŕnh bản dự thảo tuyên bố chung do Hoa Kỳ soạn.

Khi gặp nhau Tổng thống Thiệu cho biết ông không đồng ư một số điểm trong bản dự thảo do Bunker đưa ra. Và ông sẽ có một bản tuyên bố riêng cho đồng bào Miền Nam Việt Nam.

Sau đó Tổng thống Thiệu họp Hội đồng an ninh Quốc gia và hai vị chủ tịch Quốc hội. Tại buổi họp, Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ đọc chậm từng điểm của bản dự thảo do Bunker soạn cho mọi người nghe, rồi Kỳ kết luận: “Chúng ta không thể chấp nhận bản dự thảo này được, nó mơ hồ quá”.

– Ngày 18-10, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao VNCH thông báo cho Cố vấn chính trị Hoa Kỳ biết rằng Sài G̣n sẽ không tham dự bất cứ cuộc đàm phán nào mà trong đó có sự hiện diện của MTGPMN trong tư cách là một thành phần riêng biệt ( Nghĩa là chỉ chấp nhận đại diện của MTGPMN như là một nhánh của phái đoàn Hà Nội ).

– Ngày 19-10, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu họp báo tại Vũng Tàu, nội dung cũng cho biết VNCH không chấp nhận MTGPMN như là một thành phần riêng biệt, hiện nay giữa Hoa Kỳ và Hà Nội cũng chưa đạt được những thỏa thuận căn bản.

Chiều hôm đó Phó đại sứ Berger đến gặp Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ. Tướng Kỳ từ chối ủng hộ kế hoạch của Washington nhưng cũng hứa sẽ không vào hùa với ông Thiệu về việc làm khó dễ cho bản tuyên bố chung.

Đến tối Ṭa đại sứ Hoa Kỳ nhận được tin Tướng Kỳ ra lệnh cho một số sĩ quan Không quân chuẩn bị dội bom dinh Độc Lập ( Cho rằng ông Thiệu bắt tay với Hoa Kỳ phản bội dân chúng Miền Nam. Kỳ đại diện cho phe diều hâu trong quân đội, chủ trương Bắc tiến hoặc tử chiến với Cọng sản chứ nhất quyết không bắt tay ).

– Ngày 20-10, Đại sứ Bunker và Phó đại sứ Berger đến gặp Tổng thống Thiệu. Bunker cáo buộc Thiệu đă đưa ra vấn đề Mặt trận Giải phóng để làm khó dễ Hoa Kỳ. Sư hiện diện của MTGP trong bàn hội nghị là một điều bắt buộc phải có, nhưng họ có với tư cách nào là trong chuyện nội bộ của họ. Giờ đây HK và VNCH không thể buộc MTGP phải tham dự với những quy định sẵn rằng MTGP phải như thế này hay phải như thế kia trong bàn hội nghị.

Tổng thống Thiệu đáp lại: “Vấn đề là chúng tôi không chấp nhận sự hiện diện của Mặt trận Giải Phóng như thể một phần tử biệt lập. Quá đáng ở chỗ nào?”.

Ông nói tiếp: “Điều ấy dễ dàng đối với các ông, với Hoa Kỳ, một cường quốc đến bàn hội nghị cùng với Mặt trận Giải phóng mà không cần xác định căn bản họ là ai; nhưng không dễ dàng đối với chúng tôi, một nước nhỏ…

Tôi là một quân nhân và tôi cũng đă chuẩn bị đối phó với những bất trắc có thể xảy đến. Nhưng tôi phải nói rơ rằng, sẽ có những bất ổn theo sau nếu vấn đề trở thành đề tài thảo luận lan rộng trong cả nước. Lư do là dân chúng sợ hăi các ông sẽ bỏ rơi chúng tôi như trường hợp nước Pháp đă làm vào năm 1954” ( Tài liệu của Bunker do Stephen Young phổ biến. Bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 239 ).

Những điều trái ngược với quyền lợi của dân tộc chúng tôi

– Ngày 23-10, Cơ quan an ninh quốc gia Hoa kỳ ( NSA, National Security Agency ) phát hiện một bức điện mật của đại sứ VNCH tại Hoa Kỳ là Bùi Diễm gởi về cho Nguyễn Văn Thiệu: “Nhiều người trong đảng Cọng Ḥa khuyên chúng ta giữ vững lập trường. Họ đang quan tâm về phía chúng ta đang bắt đầu nhượng bộ”. Và ngày 27-10, một bức mật điện nữa từ Bùi Diễm: “Nên kéo dài t́nh trạng như hiện nay, càng lâu th́ càng có lợi cho chúng ta” ( Nghĩa là càng có lợi cho Nixon ).

Từ tháng 4 năm 1968 Tổng thống Johnson ra lệnh đặt máy nghe lén điện thoại và theo dơi mật điện giữa Ṭa đại sứ VNCH với Sài G̣n. Tháng 7-1968 Cơ quan mật vụ đă phát hiện quan hệ giữa Đại sứ Bùi Diễm và ứng cử viên Cọng Ḥa Nixon qua trung gian là bà Chenault.

Nhận được báo cáo của NSA về các bức điện của Bùi Diễm, Tổng thống Johnson biết rằng có thể Nguyễn Văn Thiệu sẽ phá Humphrey bằng cách không kư vào bản thông cáo chung cho đến ngày bầu cử. Nếu VNCH không tham dự ḥa đàm th́ ḥa hội bất thành và như vậy lời hứa hẹn nhanh chóng giải quyết chiến tranh Việt Nam sẽ trở thành xa vời. Cử tri Hoa kỳ sẽ quay sang với Nixon v́ ông này tuyên bố nếu đắc cử th́ sẽ có cách giải quyết chiến tranh êm đẹp.

Cũng trong ngày 23-10, Bunker và Berger họp với Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao VNCH. Tài liệu của Bunker ghi lại:

“ Phó Tổng thống Kỳ thêm vào, chính phủ của ông không muốn đón nhận những nguy hiểm qua các cuộc thương thuyết và mong muốn Hoa Kỳ giải thích cho dân chúng Miền Nam hiểu rằng chính phủ Việt Nam không bắt buộc phải thương thuyết với Mặt trận Giải phóng.

Bunker phản ứng: “Ông là nhân vật lănh đạo, thưa Phó tổng thống, điều đó chỉ tạo nên sự phức tạp đối với dân chúng”.

Kỳ đáp lại, nhà lănh đạo là ở chỗ đó, là chính phủ th́ phải thấy điều mà dân chúng miền Nam Việt Nam lo lắng và quan tâm sâu xa nhất…Tiếp theo Kỳ than phiền, thời điểm này không đúng lúc. Dân chúng Miền Nam sẽ cho rằng, do cuộc bầu cử của Hoa Kỳ, mà Sài G̣n phải nói chuyện với Hà Nội” ( Bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 243 ).

– Ngày 28-10, buổi sáng, Bunker lại gặp riêng Nguyễn Văn Thiệu nhằm chuẩn bị lần cuối bản dự thảo tuyên bố chung. Lần này Bunker kèm theo lời đe dọa: “Nếu Miền Nam Việt Nam lại đặt ra những điều kiện mới và không tham dự vào cuộc đàm phán th́ Bunker e rằng Thiệu sẽ không thể nào lường trước được hậu quả do Thiệu gây ra”. Thiệu đồng ư là ông ta biết hậu quả sẽ nghiêm trọng nhưng cuối cùng ông nói: “Tôi nghĩ là không cần đ̣i hỏi thêm ǵ nữa”.

Buổi chiều Bunker họp với Thiệu, Kỳ và Ngoại trưởng VNCH. Sau khi hoàn tất bản dự thảo tuyên bố chung, Kỳ lên tiếng: “Một cách thẳng thắn, chúng tôi không hài ḷng, nhưng với bản công bố này (sau khi đă thay đổi một số từ ngữ), chúng tôi có thể trấn an đồng bào chúng tôi nếu cuộc đám phán kéo dài trong nhiều tháng…”

Bây giờ chỉ c̣n chờ phúc đáp của Hà Nội về ngày giờ bắt đầu nhóm họp và ngày giờ hai bên cùng ra thông báo.

– Ngày 29-10, Bunker đến thông báo cho Tổng thống Thiệu biết là Hà Nội đồng ư ngày ngưng ném bom là 30-10 và bắt đầu họp là 2-11-1968. Hoa Kỳ và VNCH sẽ cùng đọc bản thông cáo chung vào lúc 8 giờ sáng ngày 30-10, giờ Sài G̣n, và 7 giờ chiều ngày 29-10, giờ Washington. Thiệu đồng ư về ngày giờ đọc thông cáo nhưng ngày họp đầu tiên là 2-11 th́ quá sớm và quá nhanh, phía VNCH không thể nào chuẩn bị kịp.

Đến tối, sau khi họp Hội đồng an ninh Quốc gia, Bunker đến gặp Thiệu và Kỳ, hai ông cho biết là cần phải có từ 7 tới 10 ngày để chuẩn bị cho cuộc họp đầu tiên. (Nghĩa là qua ngày bầu cử 5-11). Bunker về báo lại cho Washington.

– Ngày 30-10, lúc 1 giờ sáng (?), Bunker trở lại dinh Độc Lập nhưng không có Thiệu ở đó, chỉ có Ngoại trưởng VNCH là Trần Chánh Thành, ông này cho biết Thiệu c̣n phải chờ lưỡng viện Quốc hội nhóm họp và cho phép Tổng thống được quyền đàm phán với Hà Nội. Bunker gần phát điên v́ như vậy là qua ngày bầu cử rồi c̣n ǵ?

Đă vậy Ngoại trưởng Thành c̣n cho biết thêm là ông ta mới nhận được điện từ Paris cho biết tại Paris đại diện Hoa Kỳ là Hariman đă tuyên bố khác với những thỏa thuận trước đây giữa Washington và Sài G̣n. Phía Việt Nam cần phải nghiên cứu lại tuyên bố mới này của Hariman, và do đó có thể bản thông cáo chung cần phải viết lại.

Bunker cực lực phản đối, cho rằng tại sao trước đây ông Thiệu không cho Bunker biết rằng cần phải có sự chấp thuận của Quốc hội? Ngoài ra ông cũng bảo đảm rằng không có chuyện khác nhau giữa những ǵ Hariman tuyên bố tại Paris với những ǵ đă ghi trong bản dự thảo.

Cuối cùng Bunker nói với Nguyễn Chánh Thành: “Nếu ông muốn, chúng tôi có thể tường tŕnh về Washington là bây giờ Sài G̣n không đồng ư tiếp tục tiến tới những điều căn bản mà hai chính phủ đă thảo luận và đồng ư”. Ông Thành trả lời rằng những điều mà hai chính phủ thỏa thuận trước kia khác với những điều tuyên bố mới đây của Hariman cho nên VNCH không thể thỏa thuận với những điều mới được sửa đổi. Vả lại VNCH cần có thêm thời gian.

Bunker quay về tŕnh lại với Washington, đề nghị hoăn ngày giờ công bố thêm 24 giờ và dời ngày khai mạc hội nghị đến ngày 7-11 thay v́ 2-11.

– Ngày 31-10, lúc 1 giờ sáng (?), Bunker trở lại dinh Độc Lập để chuyển một công điện của Tổng thống Johnson gởi cho Tổng thống Thiệu. Trong đó Johnson cho rằng nếu Thiệu là một trở ngại cho cuộc đàm phán th́ Quốc hội Hoa kỳ sẽ ngưng viện trợ cho VNCH. Ngoài ra Johson cũng xa gần de dọa Thiệu về việc âm mưu với Nixon làm thiên lệch kết quả cuộc bầu cử.

Trong sự xúc động và ở trạng thái xa cách, Thiệu nói với Bunker: “Các ông là một cường quốc, các ông có thể nói với các nước nhược tiểu những điều các ông muốn. Chúng tôi hiểu rằng Hoa Kỳ đă hy sinh nhiều cho đất nước chúng tôi. Dân chúng Miền Nam chúng tôi đều biết rằng nền độc lập của chúng tôi có được là nhờ sự giúp đỡ của Hoa Kỳ.

Nhưng các ông không thề cưỡng bức chúng tôi phải thực hiện những điều trái ngược với quyền lợi của dân tộc chúng tôi. Cuộc đàm phán này không phải là một vấn đề sống c̣n với Hoa Kỳ nhưng là vấn đề chết sống của Miền Nam chúng tôi. Tôi sẽ đọc một thông điệp trước quần chúng, và nhân danh cá nhân, chính phủ, và đồng bào tôi, tỏ ḷng tri ân sâu xa về những ǵ mà Tổng thống Johnson đă giúp đỡ chúng tôi” ( Stephen Young, Victory Lost, Bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 250 )

Một biểu hiện tháo chạy của đồng minh

– Ngày 31-10, lúc sáng sớm, Bunker đến gặp Tổng thống Thiệu để thông báo rằng Hà Nội đă thỏa thuận những điều ghi trong bản dự thảo công bố của HK và VNCH. Sau 40 phút thảo luận, Tổng thống Thiệu hứa là ông sẽ triệu tập một buổi họp Hội đồng an ninh Quốc gia và chủ tịch lưỡng viện Quốc hội vào chiều hôm đó.

Lúc 11 giờ sáng, Bunker đến gặp Ngoại trưởng Nguyễn Chánh Thành để cùng nhau duyệt lại tiến tŕnh đàm phán tại Paris. Đến 11 giờ 45 Bunker đến gặp Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ. Kỳ hứa sẽ thuyết phục các thành viên khác trong Hội đồng an ninh Quốc gia chấp thuận những đề nghị của phía Hoa Kỳ. Ông nói thêm rằng giữa ông và Tổng thống Thiệu luôn có sự nhất trí và ông sẽ cố sức để giữ sự đoàn kết này.

Lúc 8 giờ tối, Bunker và những nhân viên của ông họp với Ngoại trưởng Nguyễn Chánh Thành tại pḥng họp của dinh Độc Lập. Cuối cùng Ngoại trưởng Thành kết luận: “ Vấn đề căn bản là phía bên kia chỉ có 1 phái đoàn. Ông phải yêu cầu Hà Nội chấp nhận điều cơ bản đó. Mọi vấn đề khác sẽ giải quyết sau”.

Sau đó Bunker gặp Tổng thống Thiệu cùng với Phó tổng thống Kỳ. Ông Thiệu cho biết ông đă họp Hội đồng an ninh Quốc gia và tất cả đồng ư là cần Hoa Kỳ bảo đảm 3 điểm: (1) Hà Nội phải cam kết xuống thang chiến tranh. (2) Hà Nội phải cam kết sẽ đàm phán trực tiếp với Sài G̣n. (3) Hà Nội phải bảo đảm MTGPMN không được coi như là một thành phần riêng biệt.

Ngoài ra Nguyễn Văn Thiệu cũng đưa ra nhận xét chua chát rằng việc ngưng ném bom vô điều kiện có vẻ như là một biểu hiện sẽ tháo chạy của đồng minh. Phó Tổng thống Kỳ cũng lên tiếng đồng ư với Tổng thống Thiệu. Cuối cùng cả hai ông đều không c̣n muốn nghe Bunker. Phó tổng thống Kỳ nói VNCH cần thêm thời gian để Sài G̣n có thể hỏi chuyện với Hà Nội tại Paris. Và Kỳ chấm dứt phiên họp vào lúc 3 giờ sáng (?) ngày 1-11 với lời yêu cầu hoăn tuyên bố ngưng ném bom 24 giờ.

– Ngày 1-11, lúc 5 giờ sáng (?), Bunker và Phó đại sứ Berger tái họp với Tổng thống Thiệu, Phó Tổng thống Kỳ và Phụ tá của Tổng thống Thiệu Nguyễn Phú Đức. Lại tiếp tục tranh căi ṿng vo. Có những đoạn đối thoại rất căng thẳng được ghi lại trong tài liệu của Bunker:

“Tổng thống Thiệu: Tại sao ông phản đối chúng tôi đặt ra những câu hỏi với Hà Nội? Nguyên tắc tiên khởi cho cuộc thương thuyết là phải đặt căn bản trên vấn đề lănh thổ.

Phó đại sứ Berger: Nếu chúng tôi thực hiện những điều ấy tại cuộc thương thuyết, có nghĩa là Hà Nội chỉ có một phái đoàn- chúng tôi sẽ không hỗ trợ cho ông.

Tổng thống Thiệu: Tôi sẽ lưu ư điều này. Ông nói là ông sẽ không ủng hộ chúng tôi nếu phía bên kia chỉ có một phái đoàn?

Phó đại sứ Berger: Tôi không nói như thế.

Đại sứ Bunker: Tôi không nói như thế.

Tổng thống Thiệu: Tôi đă thu băng điều đó.

Phó đại sứ Berger: Ư của tôi là nếu ông xem đó là một điều kiện để tham dự ḥa đàm th́ chúng tôi sẽ không hỗ trợ ông. Nhưng chúng tôi sẽ hỗ trợ ông trong tư thế thương thuyết, xem phía bên kia như một phái đoàn”. (Bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 261).

Cuộc họp chấm dứt lúc 7 giờ 45 sáng. Tới lúc đó Đại sứ Bunker mới biết chắc rằng Tổng thống Johnson phải đơn phương tuyên bố. C̣n Thiệu và Kỳ sẽ có tuyên bố riêng với quốc dân.

Kể từ lúc này dưới mắt báo chí Hoa Kỳ, ông Thiệu trở thành “kẻ phá hoại ḥa b́nh”, “kẻ luôn luôn đi ngược lại đường lối của HK”, “một kẻ phản bội”, “một tên tay sai không sài được”.


Bùi Anh Trinh

“Giải Mă Những Bí Ẩn Của Chiến Tranh Việt Nam

ChickenGook 01-26-2019 17:04

Quote:

Originally Posted by hoanglan22 (Post 3586240)
.....
Mặc dầu vậy, Tướng William Westmoreland Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam nhận định : “Chúng ta (Hoa Kỳ) không thất trận tại Việt Nam. Nhưng chúng ta đă không giữ lới cam kết với Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Thay mặt Quân Đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn cựu chiến binh Quân Lực Miền Nam Việt Nam v́ chúng tôi đă bỏ rơi các bạn”(On behalf of the United States Armed Forces, I would like to apologize to the veterans of the South Vietnamese Armed Forces for abandoning you guys).
......

Tôi không kiếm ra được cái source nào về cái quote này của tướng William Westmoreland, chỉ thấy toàn các trang tiếng Việt sử dụng câu nói này.

Bạn có cái link tin tưởng nào không???

hoanglan22 01-26-2019 17:19

1 Attachment(s)
Quote:

Originally Posted by ChickenGook (Post 3586659)
Tôi không kiếm ra được cái source nào về cái quote này của tướng William Westmoreland, chỉ thấy toàn các trang tiếng Việt sử dụng câu nói này.

Bạn có cái link tin tưởng nào không???


http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548523042

Nhân Lễ Kỷ Niệm Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa tại New Orleans, Louisiana vào năm 1987; đứng trước một cử tọa gồm hàng ngàn cựu quân nhân Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Ḥa, Đại Tướng Westmoreland đă tuyên bố nguyên văn, “Thay mặt cho quân đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn cựu quân nhân của Quân Lực Miền Nam Việt Nam v́ chúng tôi đă bỏ rơi các bạn.” (On behalf of the United States Armed Forces, I would like to apologize to the veterans of the South Vietnamese Armed Forces for abandoning you guys.)


Cả hội trường New Orleans Convention Center gồm hàng ngàn cựu quân nhân Việt-Mỹ và gia đ́nh đă ôm choàng lấy nhau mắt lệ nghẹn ngào v́ lời xin lỗi đầy t́nh huynh đệ chi binh của Đại Tướng Westmoreland. Ngay lúc đó từ hàng ghế danh dự, chúng tôi đă bước ngay đến vị trí của diễn đàn, đứng trong thế nghiêm, chào tay để cám ơn Đại Tướng Westmoreland, một vị tướng lănh đạo đức và là một người bạn đồng minh khả kính của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa cho đến giờ lâm chung


Ghi chú

Mùa hè năm 1987, chúng tôi đă được vinh dự đón nhận trọng trách của Tổng Hội Cựu Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa tại hải ngoại để đảm nhận chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Tổ Chức Lễ Kỷ Niệm Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa tại thành phố New Orleans, Louisiana. Chúng tôi đă đạt thư mời Đại Tướng và Bà Westmoreland cùng nhiều tướng lănh Việt-Mỹ khác về tham dự buổi lễ. Nhiều tướng lănh Việt-Mỹ đă nhận lời tham dự, ngược lại một số cựu tướng lănh V.N.C.H. khác đă viện nhiều lư do khác nhau từ chối không tham dự. Sự hiện diện của Đại Tướng Westmoreland đối với Lễ Kỷ Niệm Ngày Quân Lực V.N.C.H. năm 1987 đă nói lên sự ngưỡng mộ của cá nhân ông đối với tinh thần chiến đấu anh dũng của quân lực V.N.C.H. trong suốt cuộc chiến. Trong những cuộc mạn đàm thân mật với Đại Tướng và Bà Westmoreland sau đó, Đại Tướng đă bày tỏ sự bất đồng về đường lối chánh trị của Hoa Kỳ đối với Việt Nam Cộng Ḥa lúc bấy giờ; đồng thời ông cũng bùi ngùi nhắc đến thời gian phục vụ của ông tại Việt Nam, những người bạn đồng minh c̣n lại tại Sài G̣n, cũng như sự bức tử Việt Nam Cộng Ḥa vào tháng Tư năm 1975.

hoanglan22 01-26-2019 17:58

Bí mật sức mạnh hệ thống pḥng thủ hoả tiển Mỹ
 
10 Attachment(s)
Người ta nói rất nhiều về hệ thống pḥng thủ tên lửa Mỹ, nhất là khi xảy ra các cuộc khủng hoảng tại Iran hay Triều Tiên...Nga và Trung Quốc cũng luôn bất an về hệ thống này.
Hệ thống pḥng thủ tên lửa NMD được h́nh thành bởi Cơ quan Quốc pḥng quốc gia Hoa kỳ và được điều hành bởi cơ quan pḥng thủ tên lửa (Missile Defense Agency) (MDA) của Mỹ. NMD c̣n gọi là GMD (Ground-based midcourse interseptor).http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548524753

Hệ thống đánh chặn tên lửa trên mặt đất, Theo cấu h́nh, hệ thống đánh chặn tên lửa có căn cứ trên mặt đất là hệ thống bệ phóng tên lửa cố định, các tên lửa pḥng không có nhiệm vụ đánh chặn các tên lửa đạn đạo trong vũ trụ. Các bệ phóng tên lửa được lắp đặt trong các hầm ngầm, khi phóng đạn, tên lửa đẩy đạt vận tốc 10 km/s mang theo đầu đạn nặng 64 kg có khả năng cơ động rất cao và tấn công theo phương pháp sử dụng động năng va chạm "Kamikaze". Đầu đạn có nhiệm vụ tiêu diệt các tên lửa đạn đạo khi tên lửa bay ở giai đoạn giữa của quỹ đạo tên lửa.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548524753

Hệ thống pḥng thủ tên lửa bao gồm có các thành phần cơ bản như sau:
GBI (Ground-based interseptor) Thiết bị bay và đầu đạn đánh chặn (Interceptor) - "Raytheon". Tên lửa đẩy mang thiết bị bay đánh chặn và đầu đạn đánh chặn bằng va chạm, được phóng lên từ những hầm phóng dưới mặt đất (Hệ thống GBI) - "Peace Sayent".
Trung tâm chỉ huy, điều hành tác chiến, kiểm soát phóng đạn và liên kết phối hơp (BMC3), bao gồm có hệ thống BMC2 và hệ thống liên kết truyền thống đầu đạn đánh chặn (IFCS). "Northrop Grumman". Radar mặt đất - X-Band Radars (XBRs) "Raytheon"
Radar cảnh báo sớm bao gồm cả các radar trên các tầu trinh sát, cảnh giới (UEWR) "Pawe Paws" - "Raytheon". Hệ thống cung cấp thông tin t́nh báo trên các vệ tinh trinh sát quân sự (SBIRS) - "Raytheon"
Có thể nhận thấy rằng, thành phần cơ bản của tổ hợp GMD trên đất liền là các radars tiền tiêu cố định hoặc cơ động trên biển.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548524753
Radar di động thuộc hệ thống pḥng thủ tên lửa Mỹ

Một trong những radars trinh sát tầm xa đă được đưa vào biên chế trong lực lượng pḥng thủ vũ trụ lá chắn tên lửa trên biển.
Có khả năng rà quét và trinh sát ở tầm xa đến 2000 km, tổ hợp radars tầm xa có khả năng triển khai nhanh khi có nguy cơ tên lửa đạn đạo. Đến tháng 6 năm 2009, tổ hợp radars trinh sát tầm xa được triển khai trên các ḥn đảo của Aleutian ở Alaska nhằm kiểm soát các khu vực của Trung Quốc và Triều Tiên. Vào tháng 6/2009 tổ hợp được điều chuyển đến quần đảo Hawai, như một phương thức nhằm kiểm soát các hoạt động thử tên lửa của Bắc Triều Tiên.
Thành phần quan trọng thứ hai của hệ thống NMD trên đất liền là các radars cảnh báo sớm.
Hệ thống tập hợp các radars cảnh báo sớm có nhiệm vụ phát hiện ra tên lửa đạn đạo khi tên lửa đi vào giai đoạn tiếp cận khu vực mục tiêu, trong trường hợp các radars trinh sát tầm xa không phát hiện được mục tiêu..
Thành phần thứ ba đóng vai tṛ chủ chốt trong công tác t́nh báo là Hệ thống các vệ tinh trinh sát quân sự (SBIRS) bằng hồng ngoại, ảnh nhiệt và quang học.
Khi các radars đă phát hiện và khóa mục tiêu, trung tâm chỉ huy đánh chặn ra lệnh phóng tên lửa. Tên lửa pḥng thủ được phóng lên với vận tốc lên đến 10km/s mang theo thiết bị đánh chặn nặng 64kg, thiết bị đầu đạn sẽ bám tên lửa đạn đạo và lao thẳng vào tên lửa, tạo ra một vụ va chạm mạnh và tiêu diệt tên lửa. Thiết bị có hệ thống điều khiển đạo hàng quán tính, thiết bị bị ảnh hưởng rất ít bởi nhiễu điện từ trường và có thể thực hiện nhiệm vụ lựa chọn mục tiêu (mỗi thiết bị đánh chặn một tên lửa). Động năng khi va chạm của thiết bị vượt quá 50 MJ. Hoàn toàn đủ để phá hủy đầu đạn hạt nhân, hoặc loại ra khỏi ṿng chiến đấu.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548524753
Đầu đạn đánh chặn GBI.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548525021
Cấu trúc hệ thống GMD.


Hệ thống được triển khai vào năm 2000, mặc dù vẫn c̣n những vấn đề chưa được giải quyết, khi thử nghiệm, hiệu quả đánh trúng mục tiêu không vượt quá 53%. Cũng cần phải tính đến các t́nh huống khi thử nghiệm, phần lớn các trường hợp không đánh chặn được là do các phương tiện bay - mục tiêu không đi đúng quỹ đạo dự kiến (có nghĩa là bay qua mà không gây nguy hiểm), nếu loại trừ các trường hợp này, hiệu quả tác chiến tăng lên thêm 17% hoàn toàn phù hợp với những mục tiêu mà hệ thống có nhiệm vụ tiêu diệt. Hệ thống cho hiệu quả rất thấp khi chống lại các tên lửa đạn đạo mang nhiều đầu đạn (ngoại trừ trường hợp đánh chặn ngay khi tên lửa đạn đạo trong giai đoạn đầu tiên (giai đoạn tên lửa bay lên độ cao cần thiết), nhưng các tên lửa mang nhiều đầu đạn hạt nhân chỉ có ở rất ít các nước (Liên bang Nga) do đó, điều này có thể loại bỏ.
Hiện nay, Mỹ đă triển khai hai căn cứ đánh chặn trên mặt đất gồm: Fort Greely, Alaska và California. Dự kiến triển khai căn cứ thứ ba tại Ba lan, nhưng do phản ứng dữ dội từ phía Nga, do đó Mỹ buộc phải từ bỏ ư định này.
ABM (Aegis Ballistic Missile Defense System) hệ thống pḥng thủ tên lửa đạn đạo phi chiến lược - Aegi:

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548525021
Tàu khu trục lớp Aegis mang tên lửa đánh chặn


Aegis system – Chương tŕnh đánh chặn tên lửa đạn đạo do lực lượng Hải quân Mỹ phát triển trên đại dương. Chương tŕnh trong mọi điều kiện chính trị đang phát triển ở thời điểm thuận lợi nhất và có lẽ là “rẻ nhất” bởi v́ cấu h́nh cơ bản của hệ thống đă có sẵn các thành phần như radars Aegis, tên lửa "Standard". Thành phần mới nhất chỉ là thiết bị đánh chặn có khối lượng nhỏ hơn, được lắp đặt trong các tên lửa đẩy này.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548525021

Thiết bị đánh chặn hạng nhẹ trên tên lửa SM-3


Chương tŕnh được triển khai vào năm 1965, khi lực lượng Hải quân lần đầu tiên thử nghiệm sử dụng tên lửa pḥng không lớp "Corporal" và "Redstone." Thử nghiệm được tiến hành, cơ bản chỉ là thử nghiệm với mục đích chung, không có những quan điểm dự kiến ứng dụng trong thực tiễn đánh chặn.
Sự phát triển được thực sự tiến hành vào năm 1991, khi trong khuôn khổ của chương tŕnh phát triển vũ khí pḥng không đă chế tạo ra máy bay tiêm kích khối lượng nhẹ ngoài khí quyển. Thiết bị bay này được chế tạo như một máy bay tiêm kích thu nhỏ, tấn công phá hủy mục tiêu bằng phương thức động năng va chạm.
Thực tế đă chứng minh rằng đây là phương thức hiệu quả nhất. Mảnh vỡ của đầu đạn có khối nổ không đủ năng lực tạo ra sự hủy diệt tên lửa, vốn được thiết kế khá chắc chắn, nhưng một cú va chạm của một thiết bị bay hạng nhẹ có tốc độ từ 2 - 10 km/s hoàn toàn có khả năng biến một đầu đạn tên lửa thành một đám mây mảnh vụn.
Phát triển hệ thống đánh chặn được bắt đầu từ năm 2003. Cơ sở căn bản là tên lửa ba tầng đẩy SM-3, bán kính hoạt động là 500 km với tầm cao tiêu diệt mục tiêu đến độ cao 160 km. Tên lửa có khả năng đẩy thiết bị đánh chặn đến tốc độ 2,5km/s, hoàn toàn đủ để đánh chặn mọi tên lửa đạn đạo.
Giá trị cao nhất của tên lửa là hệ thống radars dẫn đường và chỉ thị mục tiêu thông thường AEGIS có thể lắp đặt trên các chiến hạm không cần có những thiết kế lại cấu trúc thân tầu. Chương tŕnh được đánh giá là một trong những phát triển quân sự thành công nhất, tất cả những yêu cầu kỹ chiến thuật đặt ra đều được đáp ứng đầy đủ, điều này đă được minh chứng trong rất nhiều lần diễn tập hỏa lực và đă có một lần phóng thành công “gần với điều kiện chiến trường” khi bắn hạ một vệ tinh không điều khiển.
Trong giai đoạn hiện nay, các tên lửa đánh chặn được trang bị cho 3 tầu tuần dương lớp "Ticonderoga" và 12 tầu khu trục lớp"Arleigh Burke". Năm 2010 Chính phủ Mỹ quyết định lắp đặt cho tất cả các tầu tuần dương lớp "Ticonderoga" các hệ thống tên lửa đánh chặn này. Dự kiến sau năm 2010 sẽ có tới 21 tầu được trang bị hệ thống đánh chặn tên lửa đạn đạo, năm 2012 có 27 tầu và đến năm 2015 sẽ có 38 tầu tuần dương, khu trục được trang bị tên lửa đánh chặn lớp AEGIS.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548525021


THAAD (Hệ thống tên lửa đánh chặn giai đoạn cuối -Therminal High-Altitude Area Defense) – hay c̣n gọi là hệ thống pḥng thủ tên lửa chiến trường được phát triển bởi lực lượng bộ binh - lục quân với mục đích đánh chặn các đầu đạn tên lửa bay ở giai đoạn cuối của quỹ đạo đường đạn. Được phát triển từ năm 1987, hệ thống pḥng thủ tên lửa chiến trường được đưa vào biên chế sẵn sàng chiến đấu vào năm 2008.
Hệ thống THAAD là hệ thống tên lửa tác chiến cơ động, được lắp đặt trên các xe chuyên dụng siêu trường, siêu trọng của lục quân. Hệ thống tên lửa có thể tiêu diệt mục tiêu trong bán kính 200 km và độ cao tối đa 150 km.
Hệ thống THAAD có độ tin cậy rất cao, trong thử nghiệm của những năm đưa vào biên chế, tính từ năm 2000 đă tiến hành 12 lần phóng đạn, chỉ có 2 lần đánh trượt mục tiêu do vật bay – mục tiêu không chuẩn. Bản thân đối với tên lửa không có khiếu nại và nhận xét xấu nào, cho đến hiện nay vẫn được coi là tổ hợp có hiệu quả nhất của hệ thống pḥng thủ tên lửa chiến trường.
Trong giai đoạn ngày nay, Mỹ đang thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động chế tạo mới và hoàn thiện hệ thống pḥng thủ tên lửa cấp chiến lược – với sự gia tăng ứng dụng các công nghệ hiện đại và siêu hiên đại - lực lượng pḥng thủ tên lửa – pḥng thủ vũ trụ đă mang những tính chất mới.
Không ngừng phát triển và hoàn thiện lực lượng và vũ khí trang bị tấn công cấp chiến lược, đồng thời, các thế lực chính trị nước Mỹ đă ra những quyết định chính trị liên quan đến không gian vũ trụ, cho phép nước Mỹ, trước hết là lực lượng chính trị, quân sự tiến hành định hướng các hoạt động chiến lược nhằm chiếm được ưu thế tuyệt đối về kỹ thuật quân sự trong lĩnh vực chiến dịch – chiến lược trước mọi kẻ thù tiềm năng hoặc các đồng minh của kẻ thù.

Lực lượng pḥng thủ chiến lược, bao gồm binh lực và phương tiện cảnh báo sớm về đ̣n tấn công tên lửa hạt nhân (SPRYAU), binh lực và phượng tiện pḥng thủ vũ trụ (FFP), kiểm soát không gian vũ trụ (SKKP), binh lực và phương tiện pḥng thủ tên lửa, lực lượng pḥng không của toàn bộ vùng Bắc Mỹ, trên thực tế đă được gắn kết và liên kết phối hợp trở thành một hệ thống Pḥng không và Pḥng thủ vũ trụ EKR.

Trong khoảng giữa những năm 1980, trong tài liệu “Huyền thoại và thực tế” (cùng với sự tiếp nhận chương tŕnh SDI) của Mỹ có tuyên bố: “Sự phát triển của lực lượng vũ trang Mỹ trên thực tế cần hướng tới không chỉ là chạy đua với Liên bang Xô Viết trong số lượng và chất lượng các đơn vị tăng thiết giáp và bộ binh cơ giới để tiến hành các trận đánh trên đất liền, mà sử dụng tất cả tiềm năng của nền công nghiệp Mỹ và tiềm năng công nghệ hiện đại để chế tạo các loại vũ khí có độ chính xác cao được bố trí trên các phương tiện mang trên biển và trên không với ư nghĩa thực tế là các loại vũ khí trên vũ trụ, các phương tiện có người lái và không có người lái trên không, các tổ hợp robot trinh sát – công kích, đồng thời là các hệ thống điều hành tác chiến trên toàn cầu, các trang thiết bị, vũ khí chiến trường có thể tấn công ồ ạt với số lượng lớn bằng các xung điện từ trường và hỏa lực, đ̣n đánh có tính quyết định ngay từ đợt tấn công đầu tiên và cuối cùng, dành thắng lợi và giải quyết chiến trường , kết thúc chiến tranh mà không cần phải đổ bộ lực lượng lên lănh thổ đối phương.

Đánh giá t́nh h́nh chính trị quân sự trong những năm gần đây, phát biểu về những vấn đề chính trị và an ninh trong Hội nghị quốc tế tại Munich, 10 Tháng 2 năm 2007. Vladimir Putin đă nhấn mạnh “ … Chúng tôi thấy được càng ngày càng có những hành động bỏ qua những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Hơn thế nữa, một số các tiêu chí hoặc theo thực tế hầu như toàn bộ hệ thống pháp luật của một quốc gia, mà trước nhất là nước Mỹ đă vượt qua những giới hạn vốn có của một quốc gia trong tất cả mọi lĩnh vực của quốc tế…
Vị trí địa lư của Hoa Kỳ đă cho thấy, mọi nguy cơ chính đe dọa tiềm lực kinh tế và quân sự của Mỹ chỉ có thể bắt đầu từ những phương tiện chiến tranh, hoạt động trên không trung và vũ trụ. Có thể thấy rằng nước Mỹ không có đường biên giới với những nước mà ở đó có một lực lượng lục quân lớn, nước Mỹ có một lực lượng Hải quân mạnh nhất thế giới, do đó, nguy cơ bị tấn công bằng đổ bộ đường biển hoàn toàn không có khả năng. Xây dựng một vùng đệm từ những nước ở Đông Âu và bố trí các căn cứ quân sự tiền tiêu của khối NATO trên lănh thổ các nước đó, nguy cơ bị tấn công đă được đẩy lên đến tầng không gian vũ trụ. Đồng thời, tiềm lực quân sự và kinh tế của các nước châu Âu tập trung chủ yếu ở phía Tây, do đó, nhiệm vụ bảo vệ tiềm lực kinh tế - quân sự của các nước Tây Âu trong trường hợp xảy ra xung đột sẽ là nhiệm vụ quan trong bậc nhất hiện nay.
Trên quan điểm thống trị không gian, xây dựng hệ thống pḥng không – pḥng thủ vũ trụ của Mỹ và các nước đồng minh được nh́n nhận như là một nội dung cơ bản trong các nội dung nhằm đạt được ưu thế chiến lược trên toàn cầu. Trong định hướng chiến lược này, bộ máy lănh đạo quân sự, chính trị của Mỹ nh́n nhận hệ thống pḥng thủ vũ trụ, pḥng thủ tên lửa và pḥng không (Aerospace Defence- ASD) sẽ là một hệ thống đồng bộ thống nhất về kỹ thuật và một định hướng chiến lược thống nhất cho những người đặt hàng (các lực lượng pḥng thủ) và những nhà phát triển vũ khí trang bị.

Khi xây dựng hệ thống pḥng thủ không gian khu vực Bắc Mỹ và Phía Tây Âu trong giai đoạn hiện đại hóa công nghệ, đồng bộ hóa thành một hệ thống thống nhất. Hệ thống sẽ tích hợp và liên kết trao đổi thông tin trinh sát t́nh báo và các hệ thống cấp thấp hơn, nhất thể hóa hệ thống điều hành tác chiến, liên kết phối hợp các phương tiện, vũ khí trang bị của các quân binh chủng trong các lực lượng vũ trang các nước.
Một điều hiển nhiên là giải quyết sứ mệnh pḥng thủ vũ trụ hoàn toàn không thể thực hiện được nếu không xây dựng một hệ thống pḥng thủ vũ trụ rộng khắp, đồng bộ thống nhất từ các hệ thống pḥng thủ cấp thấp hơn. Như vậy, một trong những nhiệm vụ trung tâm để đạt được ưu thế chiến dịch – chiến lược trong không gian cũng như ưu thế tuyệt đối trong công nghệ quân sự, theo những tuyên bố và hành động của bộ máy lănh đạo chính trị quân sự nước Mỹ, là xây dựng một hệ thống pḥng thủ vũ trụ nhiều tầng, nhiều lớp, cơ quan pḥng thủ không gian Aerospace Defence và pḥng thủ tên lửa Missile Defense Agency xây dựng mô h́nh pḥng thủ thành 3 tuyến pḥng thủ với các thành phần lực lượng có căn cứ trên đất liền, căn cứ trên biển, các phương tiện mang trên không và trên vũ trụ, đồng thời liên kết phối hợp, chia xẻ thông tin từ hệ thống các trang thiết bị pḥng không, hệ thống cảnh báo sớm về nguy cơ tấn công bằng tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hủy diệt lớn và hệ thống kiểm soát không gian vũ trụ.
Trong giai đoạn tiến hành vận động bầu cử Tổng thống Mỹ, ông Barac Obama đă nhiều lần phát biểu về những vấn đề liên quan đến hệ thống pḥng thủ tên lửa. Trong một khía cạnh nào đó, ông Obama đă khẳng định rằng Mỹ không và sẽ không xây dựng bất cứ hệ thống nào chống lại các đ̣n tấn công từ phía Nga, nhưng không hề quan tâm đến những tuyên bố chính thống trên các phương tiện thông tin đại chúng, chính phủ Mỹ tiếp tục phát triển hệ thống pḥng thủ tên lửa, có khả năng trong tương lai bảo vệ chắc chắn nước Mỹ trước mọi đ̣n tấn công bằng tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân từ bất cứ kẻ thù tiềm năng nào…
Cần phải xác định rơ, quyết định mang tính nguyên tắc về việc triển khai hệ thống pḥng thủ tên lửa NMD được đưa ra từ thời Tổng thống Mỹ Bill Clinton. Như vậy, sự cần thiết phải có hệ thống pḥng thủ tên lửa đă được sự đồng thuận của cả chính giới lănh đạo nước Mỹ. Quy mô toàn cầu của hệ thống pḥng thủ do Mỹ và các đồng minh trong khối quân sự Bắc Đại Tây Dương triển khai, cũng không cho phép chúng ta thấy được, hệ thống có mục đích pḥng thủ chống lại một kẻ thù cụ thể nào, do hệ thống trinh sát t́m kiếm, t́nh báo và đảm bảo cung cấp thông tin, hệ thống điều hành tác chiến và các phương tiện, vũ khí trang bị đảm bảo có khả năng đánh chặn tên lửa từ mọi hướng.
Như vậy, ư đồ xây dựng hệ thống pḥng thủ tên lửa của Mỹ, những tính năng kỹ chiến thuật và khả năng tác chiến của hệ thống, nước Nga hoàn toàn không thể bỏ qua, cần phải nghiên cứu xem xét sự triển khai lá chắn tên lửa của Mỹ dưới góc độ như là một nguy cơ đe dọa an ninh của Liên bang Nga.
Nghiên cứu và phân tích t́nh h́nh triển khai và phát triển hệ thống pḥng thủ tên lửa của Mỹ tại châu Âu, cần phải chú ư đến những điểm sau: Thứ nhất: Các tổ hợp trang thiết bị thu thập thông tin của hệ thống – trước hết là các phương tiện bay trong không gian vũ trụ của hệ thống SBIRS, STSS và SBR các phương tiện tích hợp thông tin cảnh báo sớm đ̣n tấn công bằng tên lửa hạt nhân SPRYAU và các phương tiện kiểm soát không gian vũ trụ SKKP. Các phương tiên thông tin, trinh sát và t́nh báo đang được đưa vào hoạt động chính xác theo biểu đồ yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan pḥng thủ tên lửa. Kế hoạch được đặt ra là đưa các phương tiện và các trang thiết bị vào hoạt động từ năm 2006 đến 2010. Thực tế cho thấy đă hoàn thành mọi khối lượng công việc, trang thiết bị hoạt động ổn định.
Hệ thống t́nh báo, trinh sát và cảnh báo sớm được coi là bộ khung kết cấu cơ bản của hệ thống pḥng thủ vũ trụ và pḥng thủ tên lửa, hệ thống cho phép tăng cường và tập trung mọi vũ khí, phương tiện tác chiến đến mức độ cần thiết về hướng có nguy cơ bị tấn công với tốc độ nhanh nhất dựa trên khả năng cơ động cao của các phương tiện cùng với các tính năng kỹ chiến thuật liên tục được nâng cấp và hoàn thiện trong khuôn khổ các chương tŕnh hiện đại hóa các vũ khí trang bị, khí tài tác chiến và chế tạo theo phương thức module hóa các vũ khí, trang bị, phương tiện tác chiến mới.
Thứ hai, hệ thống pḥng thủ tên lửa được triển khai theo phân đoạn, phụ thuộc vào yêu cầu thực tế t́nh h́nh quân sự - chính trị thế giới do hệ thống pḥng thủ tên lửa GMD có giá thành quá cao, nên thường phải dừng lại theo thời gian. Một trong những thay đổi cơ bản trong GMD so với kế hoạch đă đặt ra là sự thoái lui khỏi kế hoạch tăng cường sức mạnh cho cụm tên lửa chống tên lửa đạn đạo GBI ở Fort Greely (Alaska) hay trên căn cứ không quân "Vandenberg” (California).
Song song cùng với việc thay đổi kế hoạch, vấn đề xây dựng khu vực pḥng thủ tên lửa chiến lược GMD trên lănh thổ Mỹ tại căn cứ không quân "Grand Forks" hiện nay cũng không được xem xét lại. Đồng thời cũng dừng lại việc triển khai hệ thống tên lửa đánh chặn GBI ở Ba Lan (khu vực Gdansk và hệ thống radar chống tên lửa đạn đạo loại GBR tại Tiệp Khắc).
Theo thông báo của phó Tổng tham mưu trưởng Hội đồng liên quân Mỹ James Cartwright, năng lực tác chiến của tên lửa đánh chặn 3 tầng đẩy ngăn chặn các đ̣n tấn công của tên lửa đạn đạo liên lục địa phụ thuộc vào kết quả phát triển tên lửa đánh chặn model cơ động trên xe. Đồng thời, mặc dù đă có quyết định ngừng sản xuất những tên lửa đánh chặn phóng dưới hầm ngầm GBI (trên thân và động cơ tên lửa "Minuteman"), quá tŕnh nghiên cứu và phát triển tên lửa đánh chặn GMD vẫn được tiếp tục.
Hiện nay, công ty Boeing tiếp tục hoàn thiện tên lửa đánh chặn GBI, một phần của kế hoạch là phát triển hệ thống phóng tên lửa cơ động với tên lửa đánh chặn tầm xa, đầu đạn được trang bị nhiều đầu tự dẫn hồng ngoại. Công ty Boeing đă giới thiệu mẫu tên lửa đánh chặn hạng nhẹ, có thể phóng từ các bệ phóng trên xe cơ giới. Theo thông báo chính thức của đại diện công ty Boeing, hệ thống bệ phóng tên lửa cơ động có thể sẵn sàng vào năm 2015.
Riêng với các hệ thống tên lửa đánh chặn mặt đất cơ động. Phó chủ nhiệm chương tŕnh tên lửa đánh chặn của công ty Boeing Greg Hyslop thông báo rằng, giá thành chế tạo các dàn phóng tên lửa đánh chặn cơ động trên xe cơ giới cùng với việc triển khai hệ thống trên thực tế rẻ hơn nhiều lần so với việc triển khai các hệ thống GBI phóng từ hầm ngầm. Hệ thống tên lửa cơ động này có thể triển khai trên mọi nước trong khối NATO, cùng với nước Mỹ có kư hiệp ước có sự có mặt của lực lượng quân sự Mỹ, đồng thời hệ thống có khả năng trở thành yếu tố ngăn chặn những nguy cơ từ phía Liên bang Nga. Công ty cho rằng, tính từ thời điểm cơ động di chuyển đến của các tổ hợp tên lửa đánh chặn trên xe cơ giới từ bất cứ vùng nào của nước Mỹ, chỉ sau 24 giờ, các hệ thống tên lửa đánh chặn GBI đă ở trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất.
Cần thấy rằng, việc triển khai các tên lửa đánh chặn GBI và những hoạt động nghiên cứu khoa học riêng lẻ như tổ hợp pháo laser trên các máy bay (chương tŕnh ABL) ở giai đoạn đầu tiền hầu hết mang ư nghĩa chính trị, thực tế các hoạt động cơ bản về đồng bộ hóa và nhất thể hóa chương tŕnh đánh chặn tên lửa đạn đạo vẫn nằm trong việc xây dựng hạ tầng cơ cở cho hệ thống pḥng thủ vũ trụ Aerospace Defence (ASD), trước hết vẫn là đồng bộ hóa và hiện đại hóa các phương tiện trinh sát và t́nh báo thông tin, các trung tâm chỉ huy, điều hành tác chiến, các hệ thống điều hành tác chiến và truyền thông liên kết phối hợp.
Căn cứ vào những quyết định của bộ máy lănh đạo nước Mỹ vào năm 2009, sự phát triển tiếp theo của hệ thống pḥng thủ tên lửa Mỹ và các nước trong khối quân sự NATO sẽ định hướng triệt để theo phương án các phương tiện đánh chặn cơ động, c̣n được gọi là Hệ thống đánh chặn tên lửa phi chiến lược. Để tăng cường hiệu quả tác chiến của hệ thống pḥng thủ tên lửa, Mỹ lên kế hoạch hoàn thiện và tăng cường sức mạnh của các cụm lực lượng đánh chặn Phi chiến lược, cơ sở căn bản của kế hoạch này là các tổ hợp tên lửa đánh chặn Standard Missile-3 (SM-3) được bố trí trên đất liền và trên đại dương, hệ thống tên lửa đánh chặn Terminal High Altitude Area Defense (THAAD) và pḥng không ЗРК Patriot Advanced Capability-3 (PAC-3).
Vũ khí cơ bản giải quyết các nhiệm vụ đánh chặn tên lửa đạn đạo khi đang bay ở giai đoạn giữa của quỹ đạo đường đạn được lựa chọn là tên lửa SM-3 (Option block IA) tích hợp với hệ thống radars Aegis, tổ hợp tên lửa đánh chặn này khi thử nghiệm trên thực địa cho khả năng tiêu diệt mục tiêu đang bay ở độ cao 250 km với vận tốc 7,5 km/s (thông số theo nhiệm vụ tiêu diệt thiết bị bay vũ trụ của Mỹ USA – 193 bằng tên lửa SM-3), theo khả năng tác chiến th́ tên lửa SM-3 tương đương với các tên lửa đánh chặn của hệ thống đánh chặn chiến lược GMD trên mặt đất.
Trong giai đoạn hiện nay, trong biên chế của Lực lượng Hải quân Mỹ có 18 tầu tên lửa, được trang bị hệ thống radars Aegis. Đây là tầu tuần dương "Ticonderoga" và tầu khu trục "Arleigh Burke", có khả năng sử dụng tên lửa SM-3. Bộ Quốc pḥng Mỹ dự kiến tiếp tục tăng cường phát triển chương tŕnh tên lửa SM-3.
Chi phí tài chính đến năm 2010 cho hệ thống Aegis được tăng đến 900 triệu USD, 200 triệu USD nhằm để trang bị hệ thống radars Aegis cho 6 tầu chiến của Hải quân Mỹ. Cần phải nhận thức rằng, phát hiện ra hệ thống Aegis trên chiến hạm tương đối khó khăn, do tầu được trang bị Aegis hoàn toàn không khác ǵ với tầu chiến thông thường, không được trang bị tên lửa đánh chặn. Đây là một vấn đề rất quan trọng đối với Liên bang Nga, xét từ góc độ an ninh quốc gia, khi các chiến hạm Mỹ đang hoạt động trên các vùng nước quốc tế thuộc Biển Đen, Biển Baltic hay biển Bắc, theo ư kiến của các chuyên gia quân sự Mỹ, không thể được xem xét như là một yếu tố đe dọa an ninh quốc gia Liên bang Nga theo các điều khoản của các hiệp ước đă được kư kết. Đồng thời, sự triển khai các chiến hạm đó trong khu vực hoạt động của các tầu ngầm chiến lược – mang các tên lửa đạn đạo hoàn toàn có thể làm giảm rất nhiều hiệu quả răn đe của tiềm năng vũ khí hạt nhân Liên bang Nga.
Cơ quan pḥng thủ tên lửa (МDA) trong giai đoạn ngày nay đặc biệt chú ư đến những giải pháp làm hoàn thiện tên lửa đánh chặn SM-3 Block IВ và phát triển loại tên lửa thế hệ tiếp theo SM-3 Block IIA, IIВ với khả năng tăng tầm xa đánh chặn đến 2 lần. Cùng với các nhà phát triển tên lửa Mỹ, trong quá tŕnh hoàn thiện tên lửa đánh chặn c̣n có sự tham gia của các chuyên gia khoa học quân sự Nhật bản trong hiệp ước được kư kết giữa hai nước Mỹ và Nhật, các công ty Nhật tham gia nghiên cứu chế tạo cấp độ đánh chặn mới của tên lửa đồng thời chế tạo các đầu đạn đa thành phần tự dẫn hồng ngoại, động cơ tăng tốc phản lực và đầu chụp khí động học của tên lửa.

Lực lượng Hải quân của Nhật trong giai đoạn hiện nay có trong biên chế các chiến hạm, có đủ khả năng tiếp nhận và và sử dụng tên lửa đánh chặn SM-3. Ngày 18/9/2007, trong khu vực quần đảo Hawai, cuộc tập trận chung pḥng thủ tên lửa Mỹ Nhật, các trắc thủ trên tầu khu trục Kongo, được trang bị hệ thống Aegis, đă tiến hành thực nghiệm tính toán và phóng tên lửa đánh chặn, tiêu diệt mục tiêu mô phỏng trên độ cao 180 km.
Với những hoạt động đó, đă có nhiều khả năng Mỹ và đồng minh sẽ triển khai lực lượng pḥng thủ tên lửa tại vùng Viễn Đông dưới chiêu bài bảo vệ đồng minh trước nguy cơ tấn công bằng tên lửa đạn đạo từ phía Triều Tiên hay kể cả địch thủ tiềm năng là Trung Quốc. Hệ thống chống tên lửa đă nêu cũng dễ dàng chuyển hướng sang thành lá chắn tên lửa đối với lực lượng hạt nhân chiến lược Liên bang Nga, đang được bố trí tại vùng Viễn đông và Camchatka, và chính vấn đề đó cũng tạo lên áp lực đe dọa sự cân bằng cán cân lực lượng đối với Liên bang Nga.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548525401

Lá chắn tên lửa phi chiến lược trên biển Atlantic của Mỹ với nước Nga.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1548525401
Lá chắn tên lửa phi chiến lược trên biển của Mỹ với nước Nga ở Đông Âu.


Những thử nghiệm đầu tiên của tên lửa SM-3 Block IВ được tiến hành vào đầu năm 2011, với những thành công đă đạt được, nội dung triển khai các hệ thống tên lửa SM-3 Block IВ sẽ được tiến hành vào năm 2013. Phương án sẽ là sử dụng các tầu chiến để trang bị hệ thống Aegis và các bệ phóng tên lửa cơ động trên đất liền, nằm trong biên chế của hệ thống pḥng thủ Bờ biển Aegis (Aegis Ashore).
Tầm bắn của tên lửa đánh chặn có thể được tăng lên dựa trên cơ sở đặt các tên lửa đánh chặn ở rất xa khu vực bố trí các đài radars và hệ thống điều khiển hỏa lực. Hiện nay đang triển khai đồng bộ các giải pháp và triển khai thiết kế, chế tạo nhằm đảm bảo SM-3 tương thích và có thể sử dụng các bệ phóng đạn trên mặt đất. Lần đầu tiên phương án lắp đặt SM-3 được công ty Raytheo đề xuất từ năm 2003, theo ư kiến của các lănh đạo hăng Raytheo th́ các thử nghiệm trên thực địa của SM-3 Block-1В có thể bắt đầu vào năm 2013.
Giải pháp đưa tên lửa SM-3 vào hệ thống với giải pháp phương án cơ động trên mặt đất, theo ư kiến của đại diện Raytheo, có thể dễ dàng tích hợp với hệ thống tên lửa pḥng thủ chiến trường THAAD ( điểm phức tạp mấu chốt là đưa hệ thống tên lửa sang hoạt động tích hợp với radars của tên lửa PAC THAAD AN/TPY – 2–3-см có dải tần số là 2-3cm, trong đó SM-3 hoạt động với radars có dải tần số là 10 cm. Để t́m kiếm và thực hiện giải pháp đó, Cơ quan lănh đạo MDA được nhận thêm một khoản ngân sách bổ xung là 50 triệu USD trong tài khóa năm 2010.
Cùng với những quyết định đă được đưa ra của Nhà trắng vào tháng 9 năm 2009, trong tương lại gần, trọng tâm sẽ là hệ thống đánh chặn tên lửa trên mặt biển, được triển khai lần lượt các thành phần cho các hạm đội trên biển Địa Trung hải, biển Ban Tích, Biển Nauy, Biển Bắc và vùng biển Đen, đồng thời triển khai các đơn vị cơ động trên đất liền trên lănh thổ của các nước thuộc châu Âu.
Nền tảng kỹ thuật cơ bản của hệ thống cơ động tác chiến đánh chặn bao gồm: Hệ thống radars mặt biển Aegis, tổ hợp tên lửa đánh chặn SM-3 Block-1В và SM-3 Block-IIA. Các hệ thống mặt đất sử dụng radars AN/ТPY-2, loại radars trong biên chế của hệ thống đánh chặn tên lửa chiến trường THAAD.
Thông tin t́nh báo và trinh sát bảo đảm cho hệ thống radars chiến đấu Aegis và tên lửa SM-3 ở các khu vực không có hệ thống vệ tinh quân sự, radars trinh sát của các lực lượng pḥng thủ vũ trụ và lực lượng pḥng thủ tên lửa hạt nhân chiến lược, có thế sử dụng các radars X-band SBX trên các tầu cơ động trên biển. Đồng thời các radars trên biển cũng có khả năng tăng cường sức mạnh cho các lực lượng radars trên mặt đất của hệ thống pḥng thủ tên lửa và pḥng thủ vũ trụ trên các hướng có nguy cơ tập trung nhiều tên lửa đạn đạo.
Một trong những phương tiện tác chiến được chuyên biệt hóa cao, nằm trong lĩnh vực sử dụng phi chiến lược, là tổ hợp tên lửa pḥng thủ chiến trường THAAD. Đây là các tổ hợp tên lửa đánh chặn pḥng thủ trên chiến trường có hiệu quả tác chiến rất cao. Trong giai đoạn hiện này Mỹ có hai đơn vị tên lửa THAAD (căn cứ đóng tại Bliss, bang Texas) hai tiểu đoàn tên lửa này nằm trong biên chế của lữ đoàn số 11 thuộc quân đoàn chống tên lửa đạn đạo và pḥng không số 32 của lực lượng Lục quân Mỹ.
Trong biên chế của mỗi một tiểu đoàn THAAD có các tên lửa đánh chặn, các bệ ống phóng tên lửa, hệ thống điều khiển hỏa lực, radar điều khiển hỏa lực X- tần số (3cm) với các an ten mạng pha AN/TPY-2. Một trong những tính năng kỹ chiến thuật quan trọng của THAAD là tổ hợp có thể cơ động bằng đường không do đó, có thể được vận tải bằng các máy bay vận tải đường không đến mọi điểm của chiến trường.
Nhịp độ biên chế các tổ hợp tên lửa THAAD vào lực lượng vũ trang Mỹ như sau: tháng 3 năm 2009, một tiểu đoàn, tháng 10 năm 2009, 2 tiểu đoàn, đến năm 2013 trong biên chế của lục quân mỹ sẽ có 5 tiểu đoàn THAAD với 24 xe phóng tên lửa đánh chặn.
Phương án GBI được đề xuất trước đây với lá chắn tên lửa châu Âu (mục đích của lá chắn này là ngăn chặn các đ̣n tấn công bằng tên lửa đạn đạo từ lănh thổ Iran) được xây dựng trên cơ sở sủ dụng công nghệ hầm phóng tên lửa, công nghệ này đ̣i hỏi thời gian dài để xây dựng, thực hiện các thử nghiệm đắt đỏ về kỹ thuật, hoàn thiện cấu h́nh hệ thống phóng đạn và khai thác sử dụng, đồng thời, các hệ thống hầm phóng rơ ràng không an toàn đối với các đ̣n phản kích chống tên lửa của đối phương.
Với phương hướng phát triển hệ thống pḥng thủ tên lửa mới ở châu Âu, theo ư kiến của Bộ trưởng BQP Mỹ Robert Gates, cùng với nội dung triển khai các tổ hợp tên lửa PAC-3, mục đích chiến thuật là che chắn pḥng không cho các trận địa tên lửa SM-3 chống lại các đ̣n tấn công của các tên lửa phản kích tấn công các trận địa tên lửa đánh chặn. Trên lănh thổ của Ba Lan và Tiệp Khắc sẽ triển khai các tên lửa đánh chặn SM-3 trên mặt đất.
Thứ trưởng Bộ quốc pḥng Mỹ Alexander Vershbow, với vấn đề an ninh thế giới, trong cuộc viếng thăm Vacsava đă tuyên bố: “Chúng tôi rất quan tâm đến vấn đề, Ba Lan sẽ đồng thuận cho chúng tôi xây dựng 2 trong số 4 căn cứ tên lửa SM-3, kế hoạch xây dựng và lắp đặt các tên lửa đánh chặn SM-3 sẽ được dự kiến triển khai trong kế hoạch 4 năm, theo đề xuất của tổng thống Mỹ Obama”.
Ngoài các kế hoạch triển khai hệ thống đánh chặn tên lửa GMD ở Cộng ḥa Sec và Balan, Trong giai đoạn hiện nay, bộ máy quân sự chính trị Mỹ cũng quan tâm đến khả năng triển khai tên lửa đánh chặn phi chiến lược sử dụng hệ thống Aegis (Pḥng thủ bờ biển) sử dụng các tổ hợp tên lửa đánh chặn hải quân SM-3 Block-1В (Block-IIA) tại Rumani và Hungary.
Trong tương lai gần, có những khả năng đầy hứa hẹn cho việc triển khai các thành phần của hệ thống pḥng thủ tên lửa (theo tuyên bố của một số quan chức Mỹ) trên lănh thổ của các nước vùng Balkans và Thổ Nhĩ Kỳ. Các cuộc đàm phán về việc triển khai các tổ hợp tên lửa đánh chặn trên lănh thổ các đồng minh của Mỹ ở Trung Đông.
Trước mắt, các tổ hợp tên lửa pḥng thủ chiến trường THAAD được dự kiến triển khai tại các Tiểu vương quốc Arab, Israel cũng muốn có được các hệ thống tên lửa THAAD. Nhiệm vụ xây dựng hệ thống đánh chặn tên lửa tại Tây Âu và Trung Đông dự kiến sẽ triển khai vào năm 2015. Như vậy, cơ cấu lại và tăng cường sức mạnh của hệ thống pḥng thủ tên lửa ở Châu Âu cho phép giảm giá thành xây dựng hệ thống và nâng cao hiệu quả tác chiến đánh chặn các tên lửa đạn đạo. Đồng thời, cùng với việc chính thức hủy bỏ kế hoạch lắp đặt là chắn tên lửa chiến lược ở châu Âu có thể làm giảm đi sự căng thẳng chính trị giữa nước Mỹ với các nước châu Âu trong vấn đề xây dựng hệ thống pḥng thủ tên lửa của chính Tây Âu.
Triển khai các phương tiện đánh chặn tên lửa gần với biên giới của Liên bang Nga cho phép NATO sử dụng tên lửa đánh chặn tên lửa đạn đạo của Liên bang Nga ngay trong giai đoạn đầu của quỹ đạo tên lửa, làm tăng gấp nhiều lần hiệu quả tác chiến của các tên lửa đánh chặn, khi tác chiến với các tên lửa mang nhiều đầu đạn hạt nhân.
Cùng với định hướng phát triển các thành phần của hệ thống đánh chặn tên lửa đạn đạo sang hướng phi chiến lược pḥng thủ tên lửa, ngân sách quốc pḥng Mỹ vào năm 2010 đă giảm nhiều chi phí (1,4 tỷ USD) cho việc triển khai các hệ thống pḥng thủ tên lửa theo chương tŕnh GMD (sử dụng tên lửa đẩy "Minuteman" hủy bỏ kế hoạch mua máy bay Boeing – 747- 400 theo chương tŕnh ABL (do hiệu quả tác chiến rất thấp đồng thời giá thành lại quá cao khi trong thực tế tác chiến phải đối phó với các tên lửa đạn đạo liên lục địa hạng nặng), đồng thời cũng giảm chi phí cho nghiên cứu model tên lửa KEI với các đầu đạn casset Multiple Kill Vehicle cỡ nhỏ nhằm tấn công nhiều mục tiêu cho các tên lửa GBI trong khuôn khổ của chương tŕnh GMD (dừng các chương tŕnh nghiên cứu chế tạo tên lửa đánh chặn hạng nặng). Nhưng nguồn tài chính cho những hoạt động theo các hướng phát triển tên lá chắn tên lửa vẫn tiếp tục, và những trang thiết bị đă đặt hàng vẫn được tiến hành nghiên cứu thử nghiệm.
Có thể thấy rơ, mặc dù có những tuyên bố của các quan chức chính phủ Mỹ và những quyết định hạn chế các thành phần chiến lược của GMD, bằng cách chuyển các định hướng tài chính và nguồn lực cho việc hoàn thiện các thành phần, phương tiện tác chiến, vũ khí trang bị của hệ thống pḥng thủ tên lửa phi chiến lược, h́nh thành một hệ thống đánh chặn tên lửa mới, hệ thống đánh chặn tên lửa mới này hoàn toàn cho phép Mỹ không những giữ được hiệu quả cần thiết của lá chắn tên lửa chống lại mọi đ̣n tấn công bằng tên lửa đạn đạo của mọi đối thủ tiềm năng, bao gồm cả các đ̣n tấn công của Liên bang Nga, đồng thời, các trang thiết bị của hệ thống nhờ vào khả năng cơ động rất cao, trong một khoảng thời gian rất ngắn có thể được triển khai ở bất cứ một khu vực nào trên trái đất và đại dương, khi xuất hiện những nguy cơ đe dọa bằng vũ khí hạt nhân.
Ngoài ra, những tính năng kỹ chiến thuật mới của hệ thống pḥng thủ tên lửa c̣n đảm bảo tăng cường khả năng sống c̣n của hê thống trước các đ̣n công kích nhằm tiêu diệt hệ thống lá chắn bằng tên lửa đạn đạo của đối phương.
Những hoạt động nghiên cứu nhằm phát triển hệ thống pḥng thủ và tấn công phản kích hệ thống pḥng thủ của đối phương của các nước châu Âu, không phụ thuộc vào lá chắn tên lửa của Mỹ , như chương tŕnh “Tuyến pḥng thủ tên lửa tích cực chiến trường” (ALTBMD), được bắt đầu vào năm 2005, mục đích của hệ thống là đảm bảo bảo vệ lực lượng quân sự NATO, sau đó là các mục tiêu dân sự trước những đ̣n tấn công của tên lửa đạn đạo, có tầm bắn lên đến 3000km. Sự phát triển của hệ thống đánh chặn tên lửa đạn đạo và tấn công bằng tên lửa đạn đạo cùng với sự triển khai của hệ thống trên chiến trường châu Âu rơ ràng cũng làm tăng đáng kể sức mạnh và khả năng lá chắn tên lửa của Mỹ.
Đối với an ninh quân sự của Liên bang Nga, một điều rất quan trọng là số lượng và biên chế các phương tiện, vũ khí trang bị của hệ thống đánh chặn tên lửa của Mỹ và khối NATO. Với số lượng từ 1.500 – 2.000 tên lửa đánh chặn, một phần không nhỏ các tên lửa đó có thể được triển khai gần sát với biên giới của Liên bang. Trong khuôn khổ của Hiệp ước giảm thiểu vũ khí hạt nhân chiến lược ОСВ-2, Liên bang Nga có 700 phương tiện mang, 1.550 đầu đạn hạt nhân. Như vậy Mỹ và khối quân sự NATO hoàn toàn có khả năng ngăn chặn nguy cơ tên lửa đạn đạo chiến lược của Liên bang Nga với lănh thổ của Mỹ và NATO.
Phân tích và đánh giá mọi mặt của tiến tŕnh xây dựng hệ thống pḥng thủ tên lửa và nội dung hoàn thiện hệ thống pḥng không – pḥng thủ vũ trụ của Mỹ nói chung và sự gắn kết chặt chẽ với việc phát triển và hoàn thiện các lực lượng tiến công chiến lược, các phương tiện tiến công chiến lược cho phép đặt ra những vấn đề trọng tâm sau:
Hoàn thành việc tái cơ cấu lại cơ bản bộ tư lệnh chỉ huy chiến lược, được lănh đạo bởi một quan chức cao cấp của lực lượng không quân Mỹ, các cấp chiến dịch và một phần cơ quan hành chính thuộc quyền chỉ huy của lực lượng pḥng thủ chiến lược (ASD) Mỹ.
Ư nghĩa đặc biệt trong việc hoàn thiện hệ thống pḥng thủ pḥng không - vũ trụ Hoa Kỳ và các nước Tây Âu hiện nay là việc thành lập một hệ thống đồng bộ nhất thể hóa trong khuôn khổ quy mô rộng khắp của ASD các hệ thống thông tin, chỉ huy, kiểm soát, thông tin liên lạc và truyền thông, xử lư dữ liệu. Gần như hoàn tất việc tạo ra các phân khúc trên mặt đất của hệ thống thông tin và quản lư đảm bảo cung cấp thông tin, hệ thống chỉ huy, điều hành tác chiến lệnh và điều khiển ASD của Mỹ. Hệ thống pḥng thủ vũ trụ sẽ được phát triển và triển khai theo kế hoạch và sẽ được đưa vào biên chế và chính thức hoạt động vào năm 2020.
Cho đến nay, Mỹ gần như đă hoàn thành các nghiên cứu trên quy mô lớn và các giải pháp phát triển, được dựa trên công nghệ tiên tiến và thế hệ một mới của các thành phần cơ bản của thế hệ vũ khí, trang bị và phương tiện tác chiến mới, cũng như hiện đại hóa đến mức cơ bản các phương tiện, vũ khí trang bị hiện có và các hệ thống tác chiến cấp chiến lược, bao gồm cả thử nghiệm thực tiễn và tiến hành các chuyến bay thử nghiệm các nguyên mẫu của phương tiện, vũ khí trang bị nói riêng cũng như toàn hệ thống vũ khí, phương tiện chiến tranh nói chung.
Những nhiệm vụ cơ bản là hoàn thiện hệ thống Pḥng thủ vũ trụ ASD của khu vực Bắc Mỹ và các nước đồng minh trong giai đoạn 2015 – 2020. Nhiệm vụ sẽ đạt được là trên mọi độ cao, mở rộng các vùng phát hiện từ xa, nhận dạng mục tiêu, điều hành tác chiến và tiêu diệt các mục tiêu trên vũ trụ, tên lửa đạn đạo và các mục tiêu trên không (bao gồm cả các mục tiêu bay với vận tốc siêu âm), có khả năng tiêu diệt các mục tiêu ngoài khu vực pḥng thủ. Trong lĩnh vực pḥng thủ tên lửa, lực lượng quân sự Mỹ đang cố găng mở rộng số lượng và chất lượng các phương tiện đánh chặn, đồng thời tiếp tục nâng cao năng lực tác chiến của các loại vũ khí, trang bị, phương tiện chiến tranh.
Những hoạt động nhằm chế tạo các loại vũ khí trang thiêt bị, phương tiện và cấu trúc các hệ thống trong Tập hợp hệ thống pḥng thủ vũ trụ ASD nằm trong khuôn khổ của chương tŕnh nâng cấp và hoàn thiện hệ thống pḥng không , hệ thống cảnh báo sớm đ̣n tấn công bằng vũ khí hạt nhân SPRYAU, hệ thống đánh chặn tên lửa GMD, hệ thống kiểm soát không gian vũ trụ PAC và hệ thống pḥng thủ vũ trụ FFP (CAP) được định hướng tập trung chặt chẽ và liên quan tương thích lẫn nhau với không chỉ với các thành phần công nghệ, mà c̣n định hướng phát triển chung đồng bộ trong tương lai, nội dung công tác theo quy định được ưu tiên đầu tư xây dựng, chế tạo và phát triển các trang thiết bị, phương tiện thông tin tích hợp có độ chính xác cao, các hệ thống trinh sát thông tin, t́nh báo và truyền thông trên các phương tiện mang trong không gian, trên mặt đất, trên không và trên biển.
Tiến hành các hoạt động nhằm phát triển và thử nghiệm các loại vũ khí trang bị, phương tiện tác chiến và các hệ thống tên lửa, vũ khí trang bị đánh chặn tên lửa đạn đạo sao cho có thể, tùy thuộc vào các t́nh huống chính trị - quân sự trên thế giới, trong một thời gian ngắn nhất có thể triển khai quy mô đầy đủ hệ thống đánh chặn và các loại vũ khí, trang thiết bị đi cùng, đảm bảo rằng thực hiện các nhiệm vụ pḥng không và pḥng thủ vũ trụ khu vực Bắc Mỹ và các nước thuộc khu vực Tây Âu.
Những hoạt động được triển khai phạm vi rộng lớn nhằm xây dựng và hiện đại hóa của hệ thống ASD, và một trong những thành phần chính - các hệ thống pḥng thủ tên lửa đă minh chứng những tham vọng của chính giới lănh đạo quân sự-chính trị của Hoa Kỳ với mục đích tăng cường rất mạnh khả năng của các lực lượng pḥng thủ chiến lược trong khuôn khổ của Hiệp ước cắt giảm và giới hạn vũ khí chiến lược tấn công. Giới quân sự Mỹ bằng mọi phương án đang nỗ lực đạt được ưu thế vượt trội về chiến dịch - chiến lược và sự hơn hẳn về kỹ thuật- công nghệ quân sự trong lĩnh vực pḥng thủ chiến lược so với bất kỳ đối thủ tiềm năng nào trong tương lai gần.

Trịnh Thái Bằng

hoanglan22 01-26-2019 18:04

“cái ấy” và “chuyện ấy” trong ca dao, tục ngữ .
 
C. so với các cơ phận khác có những cái rất là đặc biệt. Nó rất mẫn cảm đối với phía bên kia:
“Ra đường gặp ả hồng nhan /
Thằng cu nghển cổ nóng ran cả người”.


Nó rất thích của lạ:
“Cái ǵ không mắt, không tai
Cổ đeo hai bị, tóc dài ngang lưng
Của nhà thấy cứ lừng khừng
Hễ thấy của lạ bừng bừng ngổng lên”.
Hoặc:
“Cái ǵ chỉ có một đầu
Có mồm không mắt, đeo râu xồm xoàm
Khỏe đứng thẳng, nhọc nằm ngang
Thất thường tính khí họ hàng không ưa
Của lạ xài mấy cũng vừa
Của nhà th́ cứ dây dưa khất lần”.

Chồng người buôn bán ngược xuôi
Chồng em xó bếp để buồi dính tro

Bố mẹ sinh ra vốn chẳng hèn
Tối tuy không mắt (mà) sáng hơn đèn
Đầu đội nón da loe chóp đỏ (vẫn c̣n da quy đầu)
Lưng đeo bị đạn rủ thao đen(thao=tua bằng vải)
Hồ xuân Huơng

Kích thước, h́nh thù của nó cũng mỗi người mỗi khác.
V́ thế, mới có chuyện:
Ba chị đi chợ về đố nhau:
“Của cánh đàn ông thế nào th́ sướng?”.
Chị th́ nói ngắn ,
Chị th́ nói dài,
Chị th́ nói cong.

Chẳng ai chịu ai. Cuối cùng cả ba kéo nhau đến gặp một ả có tiếng lẳng lơ, mới được “bật mí” như thế này:
“Ngắn sướng ngoài,
Dài sướng trong
Cong cong sướng chính giữa”.

V́ nó sướng thế nên phía bên kia đă “cương quyết chiến dấu” để “không cho chúng nó thoát”:
“Nhịn ăn, nhịn mặc, không ai nhịn C.. cho ai”.

Chuyển sang cái Bướm
“Nửa đêm thức dậy đâm xay (đâm xay = giă gạo và xay lúa)
Khải (găi) L. xoạc xoạc lông bay đầy nhà”.

“Chiều chiều xách mủng (thúng) xuống đồn
Cậu cho bát gạo, banh L. cậu coi”.

“Mẹ em cứ bảo không L.
Cái chi dưới háng như cồn cỏ may”.

“ Bướm đồng, động đến th́ bay
Bướm nhà động đến lăn ngay ra giường”.

Một chàng trai thấy một cô gái đẹp liền hát:
“Hỡi người đi đó xinh thay
Có khuôn đúc tượng, cho anh đây đúc cùng”.
Cô gái đă trả lời rất t́nh tứ:
“Người sao ăn nói lạ lùng
Khuôn ai nấy đúc, đúc cùng ai cho!”.


Có một cô gái ngây thơ hỏi chị dâu khi cả hai
“Chị em rủ nhau tắm đầm
Của em sao đỏ, chị thâm thế này?”.

Đă được cô chị dâu cho biết nguyên nhân:
“Nó thâm bởi tại anh mày
Xưa kia chị cũng hạt chay đỏ ḷm”

Sự cân đối so với các cơ phận khác cũng mỗi người mỗi vẻ.
Thông thường th́ tỷ lệ thuận: “To đường cấy, nậy ngả ba”.
Hoặc:
“Em là con gái Phú Đa
Con người phốp pháp, ngă ba to đùng”.

Nhưng cũng có khi ngược lại:
“Em là con gái chợ Cồn
Người th́ bé nhỏ, cái L. lại to !”.

Rồi diện mạo của nó thế nào?
Một chàng trai hỏỉ:
“Cô kia, cô kỉa, cô ḱa
Người cô thế ấy, cái kia thế nào?”.

Đă được phía bên kia trả lời thật tuyệt vời:
“Nó x́nhh, nó xỉnh, nó xinh
Nó cũng như ḿnh, nó đă có ria!.”

Nó giống mồm anh. Đau hơn hoạn !
Nó cũng có độ sâu chết người. Bởi thế có khách qua sông đă hỏi cô lái đ̣:
“Sông này sâu cạn thế nào
Lại đây anh thả một con sào hỡi em”.

Đă bị đối phương giáng trả:
“Sông này chỗ cạn chỗ sâu
Sa chân th́ ngập cả đầu đó anh!”.

Lại có chuyện: Ba anh chàng đi học về, thấy một chị nông dân đang cấy dưới ruộng, xúc cảnh sinh t́nh, liền đố nhau:
“Của chị ấy thế nào?”.
Anh nói tṛn,
Anh nói méo,
Anh nói vuông.
Chẳng ai chịu ai, bèn kéo nhau vào huyện đường nhờ quan phân xử. Quan phán: “ Mai gọi thị ấy xuống đây, rồi ta phân xử cho”.
Về nhà, ba anh biện ba món quà để “ hối lời” chị ta. Sáng hôm sau kéo nhau vào huyện đường.
Lập nghiêm, quan hỏi: “Thị kia ! Của mày thế nào mà để ba thầy đây đi học về đố nhau: Thầy nói tṛn, thầy nói méo, thầy nói vuông?”
Được quan cho phép, chị nông dân lễ phép thưa
:“Bẩm quan, cả ba thầy đều đúng ạ!”
Quan ngạc nhiên. Chị ta nói tiếp:
“Khi con đi, th́ của con méo
Khi chồng con đến đéo, th́ của con tṛn
Những khi ngồi đ̣n, th́ của con vuông!”

Có người c̣n vẽ h́nh hài nó như thế này:
“Đi nhai, đứng ngậm, ngồi cười
Vô phúc mạt đời, mọc cái răng nanh !”.

L. có sức mạnh hơn cả ma quỷ:
“Ma hớp hồn, không bằng L. rút ruột”.

V́ nó mà có kẻ mất hết cả trí tuệ:
“Khoe anh lắm khéo, lắm khôn
Qua cửa nhà L. bảy vía, c̣n ba !”

Đến những bậc văn nhân,tài tử mà dính lấy nó th́ cũng trở nên đần độn:
“Văn chương chữ nghĩa bề bề
Thần L. ám ảnh th́ mê mẩn đời !”.

Nó làm cho các vip, các sếp đến mê mệt mất cả tỉnh táo:
“ Cây luồng mà bỏ u rê ( mùi ammoniac khai khai giống mùi L.)
Các vip, các sếp đều mê cây luồng”.

Ḱ diệu hơn, nó có thể tái sinh sự sống.
Bởi thế mới có chuyện: một ả đi cày thách đố một chàng trai:
“Đưa chàng một nắm ngô rang
Chàng đút vô cho nó mọc, thiếp theo chàng về ngay”.

Anh ta đă trả lời thật hóm hỉnh:
“Nơi nào mà nắng không khô/
Mà mưa không ướt đút vô, mọc liền !”.

Có khi nó trở thành “tiêu chuẩn”để đo sự trưởng thành của một đấng tu mi nam tử:
“Làm trai cho đáng nên trai
Mồm thơm mùi rượu, tay khai mùi L.”.

Bước chân vào quán đèn mờ ,
Ngồi gần con gái không sờ là ngu .
Thà rằng cắt tóc đi tu ,
Ngồi gần con gái , sao … ngu không sờ ?

Đến các bậc quân tử cũng có khi “gương mẫu” như thế này:
“Tưởng là quân tử nhất ngôn
Ai ngờ quân tử rờ L. hai tay”.

Bởi thế, mới có kẻ tuyên bố:
“Quân tử nhất ngôn là quân tử dại
Quân tử nói lại, là quân tử khôn
Quân tử rờ L. là quân tử giỏi !”.

Thật là hết chỗ nói ! Lắm anh chàng nổi tiếng khôn cũng bởi do biết :
“Làm trai như thế mới khôn
Ăn cơm dùng đũa, rờ L. dùng tay”.

Giờ nói đến chuyện ấy.
Đó là chuyện “ làm t́nh” của một cặp t́nh nhân muôn đời. Có nhiều cách để gọi sự ... ấy.
Thông thuờng th́ gọi là đụ Khi th́ gọi là “mần”, là “ấy”:

Nhưng phổ biến nhất vẫn là đụ. Từ xa xưa, tạo hóa đă bắt C. và L. phải làm bạn với nhau. Ai không có bạn “ thân mến” ấy là bất hạnh, là vô phúc ! Bởi thế một cô gái mới đem “của ḿnh” ra để đố bạn trai:
“ L. vàng, bẹn ngọc, đóc sơn son
Trai nam nhi đối được, thiếp theo non về dừ”.

Bạn trai của cô ta đă đối lại khá chuẩn:
“Lông mun, dái chắc, C. xà cừ
Anh đây đối được, em cho dừ hay mai ?”.

Rơ ràng là cái chắc đă ngoắc lấy cái đẹp. Và cái đẹp đă kẹp lấy cái chắc!
Ca dao phồn thực c̣n cho ta biết:
“Con gái 17, vú cảy, L. sưng
Hai mắt trập trừng, H́nh như muốn đu.”

V́ thế đến tuổi dậy th́, mới có chuyện con trai trách con gái:
“Tổ cha ba đứa có L.
Không cho tui đụ để L. mần chi?”.

Liền được phía con gái trả lời:
“Anh hỏi th́ em xin thưa
L. em đang nhỏ, chưa vừa C. anh ”.

Nó c̣n cho biết chuyện ấy sẽ xẩy ra khi nào:
“No th́ L. .L., C. C.
Đói th́ hục hặc chuyện ăn”.

Con người khác với loài vật ở chỗ nào:
“ Chó mùa thu, tru (trâu) mùa hè
Người th́ nhè bát tiết” (Nghĩa là quanh năm).

Trong ca dao chuyện ấy ít nói bóng, nói gió. Đa phần là nói thẳng.
Cho nên có anh chàng nào đó đă đề nghị:
“L. em tủm hủm mu rùa
Cho anh đụ cái, đến mùa lấy khoai”.

“Hôm qua lên núi hái chè
Gặp thằng phải gió nó đè em ra
Em lạy mà nó chẳng tha
vội vàng nó nhét đầu cha nó vào
Đêm về L. thấy khát khao
Ngày mai em lại đồi cao hái chè !”.

Có khi phái yếu ở trong tư thế sẵn sàng “chiến đấu”:
“Nửa đêm nghe chuột khoét dần
Tưởng chồng đến đụ trương gân banh L. !”.

Có người c̣n so sánh, đề ra ‘tiêu chí” thế nào là cha thương con, vợ thương chồng:
“Cha thương con làm nhà tứ trụ
Vợ thương chồng cho đụ suốt đêm”.

Có chỗ c̣n nói tới tác hại của nó khi vượt ngưỡng:
“Hay ăn th́ béo, hay đéo th́ gầy”.

Trong khi văn chương bác học nêu lên cách tẩm bổ và hành lạc như thế này:
“B́nh minh nhất trản trà
Bán dạ tam bôi tửu
nhất nguyệt giao nhất độ
Lương y bất đáo gia”.
Nghĩa là:
B́nh minh một chén trà
“Nửa đêm ba ly rượu
Một tháng “ấy” một cái
Thầy thuốc chẳng tới nhà”.

Th́ tục ngữ dân gian nói: “Đêm bảy ngày ba, vô ra không kê”.

Để giữ được nhịp độ đó, người xưa bày cho:
“Thương chồng nấu cháo cu cu
Chồng ăn chồng đụ như tru (trâu) phá ràn”.

“Thương chồng th́ nấu cháo lươn
Chồng ăn chồng đụ cho trườn ra sân”.

“Thương chồng th́ nấu cháo gà/
Chồng ăn chồng đụ gấp ba ngày thường”.

Thật là khủng khiếp! Lại c̣n bày cho cách tiến hành thế nào để đạt đến cực điểm của sự khoái lạc:
“Kéo gỗ th́ cốt bỏ đà
Đụ chắc th́ cốt đàn bà nắc lên”.

Ca dao c̣n cho biết trong chuyện ấy, thành phần nào, lứa tuổi nào là khỏe nhất:
“Lính về, lính đụ ba ngày
Bằng anh dân cày đụ trong ba tháng”.
Hoặc:
“Ba năm quân tử nằm kề
Không bằng lính chiến chỉ về một đêm”.

“Ăn th́ đi rú, đụ th́ đi lính”
(muốn ăn th́ đi vào rừng rú, muốn đụ thi đi theo lính).

Rồi h́nh dung bề ngoài như thế nào, th́ khỏe khoản ấy. Nào là:
“Người gầy thầy đụ”.
Hoặc :
“Trai tơ mà đu. gái tơ
Hắn sướng trong bụng hơn mơ được vàng”.

C̣n lớp người “trên bảo dưới không nghe” th́:
“Ông già mà đụ bà già
Cũng bằng bốc trấu mà xoa giữa L.”.

Hoặc coi đây là một phép dưỡng sinh cực kỳ quí giá:
“Trẻ th́ lấy con, lấy cái
Già th́ thông đái, ngon cơm”.
( đi đái thông suốt, không bi’ đái).

Nhưng cũng có khi:
“Càng già càng dẻo, càng dai”,
như cái chuyện đă xẩy ra ở một xă, tại huyện nọ:
“Qùynh Lưu lại có chuyện cười
Dưỡng sinh, sinh dưỡng mới ḷi đuôi ra
Cụ ông mà đụ cụ bà
Người già L., C. chưa già, lạ thay !”.

Nhiều khi nó có giá trị như một liều thuốc “cải lăo hoàn đồng”:
“Cụ già tuổi dă tám mươi
Nghe nói chuyện đụ trong người nóng ran”.
Hay:
“Lâu ngày đụ 1 cái khỏe ra
Mặt mày trẻ lại, cái già mất tiêu”.

Bởi thế nhịn “khoản ấy” là con người trở nên tiều tụy, phờ phạc:
“Nhịn ăn mười bữa chưa gầy
Nhịn đụ một bữa mặt mày xanh xao”.

Nhiều kẻ giàu có, v́ chuyện ấy mà khuynh gia bại sản:
“Anh kia tan cửa nát nhà
V́ một cái đụ nên ra thế này”.
Hoặc:
“Tan cửa nát nhà, cũng v́ ba cái đụ!”.

Người ta có nhiều cái khổ. Một trong những cái khổ ấy là vợ mất sớm.
Vợ mất sớm là một trong ba “nhân sinh tam khổ”:
“Tuổi trẻ mất cha, về già mất con
Trung niên mất vợ héo hon vô cùng”.

V́ thế vợ chết, hoặc vợ đi đâu lâu ngày, lắm người đă khổ và than thở như thế này:
“Vợ chết mới được ba ngày
Con C. đă ngỏng như chày đâm vưng (vừng)”.
Hoặc :
“Vợ chết mặt c̣n rầu rầu
Con Cac. đă nóng như đầu hỏa xa”.

C̣n phía bên kia th́ sao? Cũng khổ không kém !
“Chồng chết sang ngày thứ tư
Cái vú hắn dựng y như ḥn lèn”.
Hoặc:
“Đàn bà chồng chết ba năm
Được một cái đụ sướng rân tháng tṛn”.
Hoặc:
“Chồng chết c̣n chưa đoạn tang
Cái L. ngáp ngáp như mang cá mè”.

Cho nên có trường hợp đă phải t́m cách “phá bỏ gông xiềng nô lệ !”.
Nếu xa vợ lâu ngày quá th́:
“Vợ rồi th́ mặc vợ rồi
Lâu ngày đại hạn, sang ngồi với em”.
Nếu xa chồng lâu ngày quá th́:
“Có chồng th́ mặc có chồng
Lâu ngày vắng vẻ, “tơ hồng” cứ se”.

Thậm chí có chị vừa ru con, vừa thông báo hoàn cảnh của ḿnh cho láng giềng biết:
“Lâu nay bố nó vắng nhà
Muốn ấy một cái la cà sang đây !”.

C̣n trường hợp sau đây th́ không biết là “khổ” hay là “sướng”, phản đối hay không phản đối:
“Hôm qua lên núi hái chè
Gặp thằng phải gió nó đè em ra
Em lạy mà nó không tha
Tụt quần, hắn nhét đầu cha hắn vào
Đêm về ḷng những khát khao/
Ngày mai em lại đồi cao hái chè !”.

Tóm lại, hai cái ấy và chuyện ấy sớm được đề cập trong ca dao, tục ngữ. Nó trở thành của “gia bảo”, “liều thuốc vạn năng” để người lao động có thêm sức lực vượt qua những “chướng ngại vật” trên đường đời.
Bởi thế, mất ǵ th́ mất, nhưng những câu ca dao , tục ngữ nói về hai cái ấy và chuyện ấy, th́ dù không được bày, dạy vẫn “thừa sức” lướt qua phong ba băo táp của thời gian;
Chỉ cần một lần thoảng qua cái lỗ tai là găm lại trong trí nhớ. Nó trở thành “tiềm lực” trong con người, đặc biệt là những người lao động chân tay.
Ca dao xưa có câu:
“Chàng làng chèo chẹt nỏ mần (chẳng làm) chi ai
Chim cu ngẩm ngẩm, ăn hết đậu, hết khoai nhà người”.

Một số người, nh́n bề ngoài có vẻ “đạo mạo, đứng đắn”, nhưng bên trong lại là những tay “thợ giác, thợ khoan” “nổi tiếng”!
V́ thế, người xưa đă lớn tiếng tố cáo,vạch mặt:
“Bộ Binh, bộ Hộ, bộ H́nh
Ba bộ đồng t́nh bóp vú con tôi”.
Hoặc:
“Ban ngày quan lớn như thần
Ban đêm quan lớn tần mần như ma”

(Sưu-Tầm)

hoanglan22 02-07-2019 05:04

Tiếng Anh của bà nội trợ
 
Nhiều bà nội trợ có cách học tiếng Anh độc đáo: nh́n vào vật ǵ th́ liên tưởng đến chữ có cách phát âm tương tự. Nh́n vào cái mâm th́ nói "Mâm đây": thứ hai (Monday)...

Dưới đây là một ví dụ về cách họ học đọc các ngày trong tuần:

Nh́n vào cái mâm th́ nói "Mâm đây": thứ hai (Monday).

Nh́n vào hũ tiêu và nói "Tiêu đây": thứ ba (Tuesday).

Nh́n vào cái chổi và nói "Quét đây": thứ tư (Wednesday).

Nh́n vào cái thớt nói " Thớt đây": thứ năm (Thursday).

Nh́n vào con dao, nói "Phay đây": thứ sáu (Friday).

Nh́n vào hũ rượu rắn của chồng và nói "Xà tửu đây": thứ bảy (Saturday).

C̣n Chủ nhật th́ tất cả đều đồng thanh: "sướng đây" (Sunday)

ST

hoanglan22 02-07-2019 05:17

Để Tang Cho Sách
 
3 Attachment(s)
....Sau tháng tư năm ấy, cái tháng tư mà dù nằm dưới mộ sâu ông vẫn c̣n đau đớn, những cuốn sách của ông tưởng sẽ sống đến ngàn năm đă bị bức tử một cách oan nghiệt.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1549516486


Bà tôi thường than thở, hết một nửa cơ nghiệp của nhà này đă tan tành theo sách. Một nửa cơ nghiệp nói cho to, cho xứng với nỗi đau tiếc của của bà, chứ thực ra chỉ vài trăm cuốn sách của ông tôi thôi. Có điều, đó không phải là những quyển sách bèo nhèo giấy rơm thô kệch, đang tràn ngập trong các hiệu sách, trong trường học và trong thư viện.

Chưa nói tới nội dung, chỉ mới lật qua vài trang mờ nhoẹt vàng đục với những con chữ ốm o đói khát như những người bị sốt rét rừng là đă thấy chán lắm rồi.

Sách của ông tôi, bạn chỉ ngắm không thôi cũng đă thấy thích. Những cuốn tự điển của Pháp, của Việt, thư pháp của Trung Hoa, những sách thuốc, sách khoa học, những bộ tiểu thuyết của các nhà văn danh tiếng, những sách học làm người, những sách triết…đứng sát bên nhau phơi cái gáy mạ vàng như cả một đội ngự lâm quân thông thái và oai vệ. Trang nghiêm nhưng không lạnh lẽo, bọn họ là thầy là bạn của ông tôi. Và v́ vậy, bạn cũng như tôi chỉ được phép đứng nh́n mà thôi.

Ông tôi là một người mê sách (cũng lại là cách nói vừa tấm tức vừa giận hờn của bà) mê hơn cả vợ con. Nếu bảo rằng “thư trung hữu nữ nhan như ngọc”, th́ ông tôi tuy đă già nhưng lại có đến những mấy trăm người đẹp như các vua chúa ngày xưa, nên bà tôi “ghen” cũng phải.

Ông mê sách như người mê đồ cổ. Nghe ở đâu có sách quư là ông t́m tới dù có phải tốn kém tàu xe và phải bỏ ra cả một ṃn tiền lớn để “rước” người có nhan như ngọc đó về, ông cũng dám chơi một phen cho thơa chí. Như cuốn Tự vị của Paulus Của, nghe đâu như là ấn bản đầu tiên của một ông cụ nào đó bắc bực làm cao đến tận giời, ông tôi đă phải lặn lội vào tận xứ Thủ Dầu Một xa lắc xa lơ để mua cho bằng được. Công cuộc mua quyển sách đó, chẳng những khiến ông mất đến mấy chỉ vàng, mà c̣n ốm một trận thừa sống thiếu chết.


http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1549516486

Cuốn sách cũ đến nỗi như đă ngàn năm tuổi. C̣n hơn một người chơi đồ cổ, ông tôi lại phải tốn thêm một món tiền và nhất là tốn rất nhiều th́ giờ để nài nĩ và kiên nhẫn ngồi chờ anh thợ đóng sách đóng lại giùm. Lúc này quyển sách đối với ông như một con bệnh thập tử nhất sinh và anh thợ đóng sách cứ như một bác sĩ. Khi anh thợ tháo bung sách ra, ông đau nhói như thể gan ruột của ḿnh cũng bị lôi ra như thế. Ông hồi hộp theo dơi từng mũi chỉ khâu, nín thở xem anh ta cắt xén, làm b́a. Cho đến khi sách được làm mới một cách khỏe mạnh, xinh đẹp, ông ôm quyển sách trước ngực như một người mẹ ôm đứa con bé bỏng vừa được bác sĩ cứu sống. Ông hết lời cảm ơn anh ta, đưa cho anh một tờ tiền lớn và hào phóng không nhận tiền thối lại. Đem quyển sách về nhà, ông lại mất cả buổi ngồi ngắm đến nỗi quên cả bữa cơm khiến bà tôi phải giục.

Đó là với những sách cũ quư hiếm. C̣n sách mới, ông lại “phá của” một cách không giống ai. Sách nào ông cũng phải mua đến những hai quyển, một để đọc và cho mượn, một để nguyên không đụng tới. Những quyển sách để nguyên ấy nằm im trong tủ kính, mỗi lần mở ra là thơm nồng mùi giấy mới và mực in. Đối với ông, đó là một mùi thơm huyền hoặc đầy quyến rủ và mê đắm như những người nghiện nghe thấy mùi thuốc phiện. Chẳng những chỉ mùi thơm trinh nguyên không thôi, quyển sách vẫn c̣n trinh trắng khi hăy c̣n những lề chưa rọc.

Học cách người xưa, không để của cải cho con cháu mà để sách, nên giá như có phải v́ thế mà tiêu hết cả cơ nghiệp, ông tôi cũng không tiếc. Chỉ có một điều khiến ông băn khoăn, ấy là trong đám con cháu thực sự chưa có một người nào đủ để ông tin tưởng. Gạt hết những đứa chỉ biết có nhà to xe đẹp, những đứa chỉ biết vung tiền trong các cuộc ăn chơi, suốt một đời chưa đụng tới một quyển sách nào, những đứa mà ông bảo là trong đầu toàn chứa những thứ vớ vẩn nếu không muốn nói là hôi thối ấy, c̣n lại chỉ vài đứa có để mắt tới sách, nhưng với một thái độ hờ hững, một đôi khi thô bỉ xúc phạm đến sách.

Ông ghét nhứt ai đó đọc sách mà miệng cứ nhai nhồm nhoàm, vừa đọc vừa tán chuyện, bạ chỗ nào cũng đọc ngay cả trong nhà cầu, đang đọc mà có ai ới lên một tiếng là ném ngay cái xạch sau khi đă tàn nhẫn xếp lại một góc để làm dấu, rồi bỏ đi mà không cần biêt tới quyển sách có thể bị ướt, bị bẩn hay bị cháy. Ông cũng không chịu được cái cách lật sách thô bạo bằng cả bàn tay úp lên trang giấy hay thấm nước bọt trên đầu ngón tay. Đó là cách cư xử của kẻ phàm phu tục tử, của phường giá áo túi cơm. Lật sách mà như thế có khác ǵ sàm sỡ nếu không muốn nói là cưỡng bức. Phải lật như những nhà sư nâng nhẹ một trang kinh hay là như khẽ lay một người đẹp đang ngủ.

Đối với ông, đọc sách là để được tiếp cận với những tâm hồn ngoại hạng, cho nên trước hết phải tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc chỉnh tề, phải “dọn ḿnh”như con chiên quỳ trước Chúa, như nhà sư đảnh lễ trước bàn thờ Phật. Chẳng những sạch ở phần xác mà c̣n sạch cả phần hồn. Nghĩa là không để những giận hờn phiền muộn hay những ư nghĩ ô trọc dính bám cho dù chỉ một tí trong đầu. Chỉ đọc trong lúc thanh tịnh giữa khuya hay khi gần sáng tinh mơ. Đọc với hương trầm cộng với mùi hương ngai ngái của giấy mực, hương của sương đêm loáng thoáng hay hương của nước mưa mát dịu. Đọc là mở hồn ra để hơi thở của sách ùa vào căng buồm lên cho con thuyền bé nhỏ của ḿnh được dọc ngang trên biển học mông mênh.

Đương nhiên là ông tôi khó tính nhất nhà. Cái viện sách bé nhỏ của ông là một nơi khả kính, thâm nghiêm như một ngôi đền không một ai ngay cả bà tôi dám động tới. Bảy mươi năm sống trên đời của ông th́ hết một nửa là ở trong cái gian pḥng đựng đầy sách với mùi hương và sắc màu của những tâm hồn kỳ vĩ. Dạo ấy, mặc dù được cưng chiều và rất có triển vọng được ông tin tưởng, tôi cũng chưa được một lần đọc một quyển sách nào trong tủ sách ấy. Ông bảo tôi chưa đủ tuổi và chưa học được cách nâng niu ǵn giữ theo cách gần như tôn thờ, th́ đọc chẳng ích lợi ǵ mà c̣n “giết” sách. Theo ông, đọc v́ ṭ ṃ, đọc như “luà cơm”, đọc như ngốn ngấu th́ cả đầu óc ḿnh chỉ là một băi hoang chứa đầy những xác chết của sách bị vất ngổn ngang mà thôi. Đọc là phải ngấm từng chữ từng câu, phải để nó bén rễ trong đầu mới có thể thành cây cho trái ngọt.

Năm tháng qua đi, ông tôi âm thầm làm một cuộc chuyển giao lặng lẽ. Tiền bạc trong nhà cứ cạn dần nhưng sách của ông lại đầy lên, phải đóng thêm tủ kê thêm kệ. Cô chú tôi biết ư ông, nên mừng tuổi không bằng trà ngon rượu bổ, mà bằng những phong b́ ít nhất cũng đủ cho ông mua được một hai quyển sách. Những lúc ấy ông vui như một đứa trẻ lên 5 được nhận tiền ĺ x́. Rồi ông đi ra tiệm sách, khệ nệ ôm về những chồng sách mà ông ao ước nhưng chưa đủ tiền mua. Ông ve vuốt từng cái b́a, ngắm nghía từng con chữ, đê mê những sách của Lá Bối, An Tiêm, mơ màng với những tác giả Saint Exsupéry, Bùi Giáng…Giá như ông sống đến một trăm tuổi và giá như ông c̣n có đủ tiền th́ cái viện sách của ông sẽ kín đặc những sách. Ông sẽ ngồi giữa những bức tường dày cộm thơm tho đó như một anh lính già đang tử thủ trong một cái lô cốt văn hóa.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1549516486

Sau tháng tư năm ấy, cái tháng tư mà dù nằm dưới mộ sâu ông vẫn c̣n đau đớn, những cuốn sách của ông tưởng sẽ sống đến ngàn năm đă bị bức tử một cách oan nghiệt.

Khi người ta đội lên đầu những quyển sách của ông, có những quyển già như một ông tiên đầu bạc, có những quyển xinh tươi như những thiếu nữ trẻ trung, những chiếc mũ có tên là “nọc độc”, là “đồi trụy”, là “phản động” th́ hơn ai hết ông hiểu đó là một lời tuyên án tử h́nh.

Ông suy nghĩ lung lắm, không phải để t́m cách chôn dấu hay tẩu tán. Mà suy nghĩ làm sao để chọn cho sách một cái chết xứng đáng với ḷng tin yêu và kính trọng của ông.

Một đêm thức trắng.

Rồi hai đêm thức trắng.

Ngày thường ông b́nh tĩnh là thế nhưng lúc này, ông bối rối run rẩy. Có lúc mặt ông đỏ bừng và mắt ông lóe lên những tia lửa căm hờn. Cả nhà chẳng ai dám hỏi nói ǵ với ông. Giống như một con sư tử già bị săn đuổi cùng đường, lâu lâu ông lại gầm lên một cách tuyệt vọng.

Cuối cùng ông đă chọn cho mấy trăm cuốn sách một cái chết dũng cảm. Đó là chính ông tự ḿnh đốt sách.

Một quyết định cháy ḷng.

Tôi cũng được dự phần trong cuộc hỏa thiêu đau đớn ấy, bằng cách giúp ông bê hết sách ra sân. Dù đem đi đốt nhưng ông không cho phép tôi làm rơi rớt xuống đất, không được nặng tay, mà phải sẽ lén nhẹ êm như đang bồng một em bé say ngủ. Phải rồi, những cuốn sách của ông đang say ngủ. Đánh thức chúng dậy, ông sẽ không chịu nổi những tiếng khóc mà chỉ riêng ông mới nghe được mà thôi.

Sách được xây thành một cái tháp quanh những thanh củi chẻ nhỏ. Ông không muốn đốt chúng bằng xăng hay dầu. Ông lại càng không muốn xé sách ra từng mảnh nhỏ để đốt. Xé ra là làm chúng đau. Và làm cho chúng đau trước khi chết là tội ác. Một người coi sách là sinh vật sống, để cả đời nâng niu bồng ẳm, vậy mà phải giết do chính bàn tay của ḿnh, bạn phải biết là ông tôi đă đau khổ đến nhường nào.

Đó là một đêm tháng năm lặng gió. Cây cối im ngủ. Những ngôi sao như tan đi trong khói trời mờ đục. Ông tôi cử hành lễ đốt sách cũng bi tráng và lẫm liệt như Huấn Cao cho chữ trong ngục. Ông mặc toàn đồ trắng, cắm một cây đuốc giữa trời, khấn khứa ŕ rầm rồi lạy bốn hướng mỗi nơi một lạy. Xong ông lấy cây đuốc đang cháy đặt vào giữa tháp. Dứt khoát và quyết liệt như cái cách các vơ sĩ đạo đâm kiếm vào bụng.

Lửa bắt rất nhanh, chỉ trong phút chốc đă bắn vọt lên đầu ngọn tháp.

Đă nghe mùi mực và mùi giấy.

Đă nghe tiếng vặn ḿnh của các b́a sách.

Đă nghe những âm thanh líu ríu như run như rẩy của những trang sách méo mó cong vênh.

Lửa trào ra như từ miệng hỏa diệm sơn.

Lửa ôm choàng lấy sách, hôn dữ dội bằng đôi môi bỏng cháy.

Sau cùng, cái tháp bằng sách đỏ rực như một trái tim để lộn ngược.

Ông tôi ngồi xếp bằng, cố giữ nét mặt trầm tĩnh một cách cao cả. Không một giọt nước mắt cho dù là v́ khói cay xè. Ông như thượng tọa Thích Quảng Đức đang ngồi kiết già với ngọn lửa bao quanh. Có thể nói, chính ông cũng đang tự thiêu. Bất giác tôi cảm thấy muốn khóc v́ lo sợ. Đến một lúc nào đó, biết đâu ông đứng bật dậy bước thẳng vào ngọn lửa.

Ông chết theo sách.

Đó là một cái chết đẹp, xứng đáng với một người yêu sách như ông.

Nhưng ông chưa muốn chết v́ ông c̣n phải để tang cho sách như một đứa con chí hiếu. Ngay lúc lửa tàn, ông quỳ xuống lạy ba lạy. Rồi ông kiên nhẫn ngồi đợi cho tất cả biến thành tro nguội. Ông bảo tôi hốt tro vào bao, cất vào tủ rồi mới chịu đi vào nhà. Gần như suốt đêm ông không ngủ. Bà tôi than thở là nghe tiếng dép của ông kéo lê lệt sệt măi tới tận sáng.

Hôm sau, ông bảo tôi thuê thợ đóng nhiều chiếc hộp để đựng tro. Mỗi chiếc để một ngăn tủ. Ông khóa lại và dặn không được dùng vào việc ǵ khác ngoài việc ǵn giữ những chiếc quách ấy. Hơn 30 năm sau, cái tủ đựng đầy những hộp tro vẫn đứng im đó như một nhà mồ. Ngày giỗ ông, chúng tôi cũng đem một bát nhang đến thắp trên đầu tủ. Có cảm giác như hồn ông và hồn sách cùng lảng đảng bay về.

Vẫn chưa hết chuyện về ông tôi đâu. Một tháng trước ngày mất ông muốn tôi làm cho ông những tấm mộ bia bằng giấy. Ông đưa tôi một danh sách dài những quyển sách bị đốt, cứ mỗi tấm bia đề tên một quyển sách. Hơn mấy trăm cái bia như thế, phải mất cả tuần mới làm xong. Những mộ bia không có ngày sinh nhưng có chung một ngày tử. Chúng được xếp lên kệ thay cho hàng trăm cuốn sách đă chết tập thể.

Cả viện sách của ông giờ đây biến thành một nghĩa trang.

Ông trịnh trọng chít khăn trắng, lên nhang đèn rồi cung kính khấn vái như trước bàn thờ tổ tiên. Trong những lời ŕ rầm, nhiều lúc bỗng vang lên như tiếng khóc, ta là người có tội, có tội. Theo như tôi hiểu đó là cái tội không bảo vệ được sách, tội với các tác giả, tội với những thợ sắp chữ ở nhà in và xa hơn nữa là có tội với giấy và mực.

Ông biết ơn họ bao nhiêu th́ bây giờ ông ray rứt v́ ḿnh có tội bấy nhiêu.

Từ đó ông ăn ít ngủ ít. Ông đem từng tấm bia đặt lên bàn, lặng lẽ ngồi ngắm hằng giờ như đang đọc sách. Mỗi tấm bia gợi nhớ đến màu b́a, co chữ, tranh vẽ và cả nội dung mà chỉ có ông mới thấy được, hiểu được. Ông như sống lại những năm dài trước đó với những niềm vui kín đáo khi t́m được sách quư, hay mua được những sách hay. Những lần như thế, ông tự thưởng cho ḿnh khi th́ một b́nh trà, lúc một chung rượu hay tách cà phê và những điếu thuốc thơm thay cho hương trầm.

Rồi đến một lúc ông không ăn mà cũng chẳng ngủ. Người ông khô kiệt tái xám. Ba tôi và các chú đi cải tạo chưa về đương nhiên là khoét sâu vào hồn ông những nỗi buồn lo khôn nguôi. Nhưng dù vậy, tận cùng của đêm th́ cũng phải sáng. Ông có thể đợi đến mười năm hay hai mươi năm. Chỉ có những quyển sách bị đốt là không đợi được. Ông nói với bà, biết trước như vầy tôi đă để hết tiền cho bà chứ mua sách làm chi. Bà tôi cay đắng, ai mà có con mắt sau lưng.

Buổi chiều cuối cùng ngồi bóp chân cho ông, tôi nghe ông hỏi, cháu thấy ông thế nào? Tôi nói, dạ, ông nên ăn chút cháo, trông ông gầy lắm. Không phải, ông nói, da ông thế nào, đă ngă thành màu đất chưa? Không biết da màu đất là màu ǵ, tôi nói đại, chưa ông à. Ngă màu đất là sắp chết đấy cháu, ông nói. Ông đă có ư để lại sách cho cháu, nhưng ta tính làm sao được bằng trời tính. Cháu nhớ giữ giùm ông cái tủ và mấy cái kệ.

Nghe ông nói, tôi thấy da ông quả thật rất giống với màu đất bạc phếch, lạnh lẽo ở nghĩa địa. Da ông là da của một người đă chết từ lâu nhưng chưa chôn. Hay là ông đă chết từ cái đêm hôm ấy. Hồn ông đă cùng với hồn sách nương theo khói bay lên tận trời cao. Cái miền đất ồn ào đầy ô trọc và thù hận này biết đến bao giờ mới lại có được những con người, những quyển sách biết yêu quư tương kính lẫn nhau như thế. Chính lúc này tôi mới thấy thấm thía nỗi đau mất sách của ông.

Tôi vừa buông tay ra th́ ông ngừng thở. Ông chết nhẹ nhàng như gấp lại một cuốn sách. Tính ra, ông đă để tang cho sách đúng một trăm ngày.



Khuất Đẩu

hoanglan22 02-08-2019 04:40

Ngày Xuân nghe lính kể "Chuyện Ma"
 
1 Attachment(s)
Vào Đông. Tiết trời lành lạnh. Tôi kéo cao cổ áo “trận” để tránh giá buốt của đêm trừ tịch kéo về. Ngoài khung cửa sổ, gió hiu hiu, đong đưa những cành lá rũ chết. Bầu trời không trăng sao! Tôi. Một ḿnh. Ngồi nhớ nhà!

Giờ này sắp giao thừa rồi đó! Tôi định lấy giấy, viết, khai bút đầu xuân. Tôi cũng không biết ḿnh sẽ viết những ǵ trong đêm giao thừa. Ư nghĩ chờn vờn. Muốn viết nhiều mà chữ nghĩa dường như trốn mất. Giờ này có lẽ Mẹ tôi sắp sửa “ĺ x́” cho các cháu Nội, Ngoại của Mẹ, đang tề tựu dưới mái ấm gia đ́nh. Chúng đang xếp hàng thành nửa ṿng tṛn h́nh bán nguyệt, trước bàn thờ tổ tiên, để chờ Mẹ tôi cho mỗi đứa một phong b́ đỏ, có tiền ĺ x́ c̣n thơm mùi giấy. Nghĩ thế mà ḷng tôi se lại!

Tôi nh́n quanh pḥng. Ngoài chiếc giường lẻ loi kê sát vách, cạnh cái bàn nhỏ, tựa cửa sổ; không c̣n một thứ ǵ khác hơn.

Đây là một pḥng ngủ “Văng Lai” của Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận Tiểu Khu B́nh Thuận; đơn vị mới mà tôi vừa đảm nhậm. Vị sĩ quan tiền nhiệm của đơn vị này, mặc dù đă nhận bàn giao công tác của tôi tại Khánh Ḥa, hơn một tuần trước; nhưng măi cho đến nay, vẫn chưa bàn giao lại “cư xá sĩ quan” mà tôi được sử dụng, trong suốt thời gian phục vụ tại đơn vị này.

Tôi đảm nhậm đơn vị mới và nhận bàn giao chỉ trước giao thừa có mấy đêm. V́ vị sĩ quan tiền nhiệm chưa bàn giao cư xá, nên tôi được Thiếu tá Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận, cho phép tôi được xử dụng một pḥng của Văng Lai Sĩ quan, cho đến khi tôi được nhận cư xá sĩ quan cấp riêng cho tôi.

Tôi c̣n nhớ, khi tŕnh bày với Thiếu tá Phạm Minh, Chỉ Huy Trưởng để xin xử dụng tạm thời pḥng văng lai, Thiếu tá Minh, có vẻ lưỡng lự, không bằng ḷng. Ông nhíu mày dường như đang suy nghĩ để lấy quyết định.

Một chập lâu sau, ông nói với tôi:

-Thật ra cũng bất tiện cho anh. T́nh h́nh an ninh không được khả quan. Anh là sĩ quan cấp tá, càng không nên cư ngụ bên ngoài doanh trại. Trong t́nh trạng này, tôi cũng đành để anh sử dụng văng lai mà thôi.

Tôi đáp: Dạ cám ơn Thiếu tá Chỉ Huy Trưởng.

Ông ta có vẻ ngần ngại, hỏi lại tôi:

- Nhưng anh có sợ ma không?

- Làm ǵ có ma mà ḿnh sợ!

Ông thong thả, nói gằn từng tiếng một:

- Nhưng tôi báo trước với anh nhé! Căn pḥng mà anh sẽ sử dụng đă bỏ từ lâu, không ai dám ở. Ai đă vào đó, chỉ được vài giờ đồng hồ là chạy ngay ra thôi.

Thiếu tá Minh ngừng trong giây lát, rồi chậm răi nói:

- Tùy ư anh đó! Sau này nếu có thấy ma, cũng xin đừng nghĩ là tôi chơi thâm nhé!

Tôi quả quyết:

- Xin Thiếu tá Chỉ Huy Trưởng đừng ngại. Tôi chẳng biết sợ ma! Hơn thế nữa ḿnh không chọc ma th́ ma cũng chẳng chọc ḿnh bao giờ!

Trao đổi xong, tôi bảo Hạ sĩ Cảnh tài xế mang hộ tôi va ly và những thứ linh tinh khác vào pḥng số 4 của Văng Lai. Tôi thấy Hạ sĩ Cảnh dường như hốt hoảng. Nh́n nét mặt, tôi thấy anh hơi ái ngại. Anh tŕnh bày:

- Thiếu tá bảo anh Liêm khiêng các thứ này với em.

Tôi chưa hiểu được ư của anh, nên không do dự, tôi nói ngay:

- Chỉ có 1 cái va ly, anh khiêng một cái, c̣n những cái kia để lại cho tôi coi, sau đó, anh ra lấy các thứ lặt vặt đem vào pḥng rồi khóa cửa lại, trao ch́a khóa cho tôi tại Khối Tài Chánh.

Mặt Hạ sĩ Cảnh tái xanh:

- Dạ... dạ thưa... dạ thưa Thiếu tá... thương em... cái mà em không dám vào pḥng đó một ḿnh em đâu... cái mà Thiếu tá nói với anh Liêm đi cùng với em. Đi một ḿnh em sợ lắm!

Tôi gắt: -Lính mà sợ ma. Chứ anh không biết ma nó sợ súng lắm hay sao?

- Dạ! dạ thưa Thiếu tá, nếu Thiếu tá không tin em, phạt em... đánh em, bắn em... em cũng chịu, chứ có ông sĩ quan nào của Khối Tài Chánh mà... dám ở pḥng đó một đêm thôi, em đưa đầu cho Thiếu tá bắn!

Tôi nh́n nét mặt xanh lét, nghe giọng nói ngập ngừng, dáng dấp run sợ, tôi biết anh ta đang hoảng hốt thật. Nhưng với tư cách là sĩ quan chỉ huy, tôi b́nh tĩnh hỏi lại anh:

- Tôi hỏi thật, anh đă thấy con ma trong pḥng 4 văng lai lần nào chưa, mà anh sợ khiếp như vậy?

- Dạ Thưa Ông Thầy, em chưa thấy, chỉ nghe kể, em đă sợ chết cha em rồi. Chứ em mà thấy, chắc tim em ngừng đập ngay, đâu c̣n sống đến bây giờ.

Tôi lấy một điếu Pall Mall đầu lọc mời anh. Tôi rút thêm một điếu nữa, chăm lửa hút:

Tôi vỗ về anh: - Hút đi! B́nh tĩnh. Nào nói cho tôi nghe! Con ma như thế nào, nó ra sao?

Hạ sĩ Cảnh hít một hơi thật dài, nhả khói thuốc làm nhiều lần. Anh nh́n quanh như sợ hồn ma đứng đâu đó. Tôi thấy anh đang tựa lưng vào thành xe Jeep, mắt lơ láo nh́n quanh. Anh không trả lời trực tiếp câu tôi hỏi mà nói quanh co:

- Thiếu tá mà ở pḥng văng lai đó, sáng sáng... anh Liêm cũng không dám đem cà-phê vào pḥng đó cho Thiếu tá đâu! Không tin em... Ông Thầy kêu anh Liêm hỏi thử th́ biết... ngay mà!

Tôi bảo Hạ sĩ Cảnh:

- Được! Gọi Hạ sĩ Liêm cho tôi.

Hạ sĩ Cảnh mừng rỡ như thoát được gánh nợ, vôi vàng chạy về Khối Tài Chánh.

Không bao lâu, tôi thấy Hạ sĩ Liêm hốt ha hốt hoảng cùng chạy ra với Hạ sĩ Cảnh:

- Dạ! Thiếu tá gọi em?

Tôi hỏi thăm ḍ ngay:

- Tôi ở tạm tại pḥng văng lai số 4. Sáng sáng anh chịu khó mang cà-phê vào đó cho tôi được không?

- Dạ! Thưa Ông Thầy! Ông Thầy bảo ǵ th́ em cũng chết với ông thầy. Bảo em lên rừng bắn cọp, xuống biển bắt cá, em cũng đi ngay, mang về cho ông thầy... nhưng...

Tôi nói lớn tiếng: - Nhưng sao?

- Ông thầy bắn em th́ bắn, đưa em ra đơn vị tác chiến th́ em cũng đành ḷng... nhưng... nhưng biểu em bưng cà-phê đến đó cho ông thầy th́ em chịu chết thôi!

Tôi gật gù: -Thôi được! Hai anh khiêng hộ giùm tôi ba thứ linh tinh, lỉnh kỉnh này, rồi về Khối làm việc. Chưa thấy ma th́ đă sợ! C̣n đ̣i lên rừng bắt cọp! Làm ǵ có ma quỷ trên trần gian này! Suốt đời tôi chưa bao giờ gặp ma! Mà có gặp cũng chẳng sao!

Nói xong tôi xách cặp đi thẳng vào pḥng văng lai. Hạ sĩ Cảnh và Hạ sĩ Liêm rón rén bước theo.

Đêm hôm đó, tôi thao thức hoài không thể nào ngủ được.

Bên ngoài cửa sổ, bóng đen vẫn lạnh lẽo, bao trùm cảnh vật trong màn sương dày đặc của đêm trừ tịch. Không một tiếng pháo giao thừa! Đâu đây chỉ có tiếng súng bắn vu vơ của một tiền đồn nào đó, mà thanh âm rời rạc... lạc lơng, chơ vơ!

Bỗng chốc mây đen kéo đến. Gió giật từng cơn. Mưa tuôn xối xả, như nước từ trên trời trút xuống. Tôi nằm xoay mặt vào tường. Ngấu nghiến từng trang cuốn tiểu thuyết, đến đoạn hấp dẫn, Chú Đạt và cháu Diễm đang chuyện tṛ, gợi t́nh nhau... Bất chợt tôi nghe một tiếng soạt, dường như có ai đang mở chốt cửa vào pḥng tôi. B́nh tĩnh, xoay người lại, nhưng tôi vẫn giữ nguyên ở vị thế nằm.

Tôi đưa tay ṃ khẩu Colt 45, vẫn c̣n y nguyên dưới gối.

Căn pḥng lặng thinh như tờ. Tôi nh́n về hướng cửa ra vào. Cửa vẫn c̣n khép kín. Tôi nh́n đồng hồ, 3 giờ 48 phút khuya của đêm trừ tịch. Không thấy động tịnh ǵ, tôi xoay người vào vách tường đọc tiếp cuốn tiểu thuyết...

Khoảng vài phút sau, tôi lại nghe một tiếng soạt, như tiếng ổ khóa đang có người mở cửa. Phản ứng tự nhiên, tôi xoay người, bật dậy. Trong khoảnh khắc bối rối, tôi nh́n về phía cửa. Phút chốc, cánh cửa từ từ hé mở, như có ai đó muốn vào nhưng vẫn c̣n e dè chưa dám bước vào. Khoảng vài giây sau, một thiếu nữ đứng chần chờ trước cửa, nàng chăm chú nh́n về hướng giường tôi đang nằm.

Qua cái mùng thưa. đă bỏ xuống để ngăn muỗi, tôi thấy một thiếu nữ trẻ, đầu đội chiếc nón lá, trên tay xách một cái bóp trắng, làm nổi bật chiếc áo dài nhung màu tím, màu áo của thời trang, mà vào dạo ấy nhiều phụ nữ thích mặc.

Thiếu nữ vừa xuất hiện, rón rén bước đến nơi tôi đang nằm. Nàng nh́n rất chăm chú vào mùng. Ánh mắt ngạc nhiên, khi biết có người đang nằm trong mùng.

Sau một hồi ngập ngừng, nàng lấy chiếc nón đặt úp ngay trên đầu mùng. Tôi choáng mắt trước sắc đẹp của nàng. Sau đó, nàng vén mùng, ngồi xuống cạnh giường. Hai chân vẫn c̣n để ở ngoài mùng.

Vẫn chưa định thần, tôi ngỡ ḿnh đang trong cơn choáng váng, nên vẫn nằm im không có một cử động nhỏ nào. Tôi tưởng tôi đă đi lạc vào đám mây mù của ảo giác hoặc đang rơi vào hoang tưởng...

Thiếu nữ đưa tay choàng qua ḿnh tôi. Mặt nàng nh́n thẳng vào mắt tôi dường như muốn nói điều ǵ nhưng lại thôi. Phản ứng tự nhiên, tôi đưa tay gạt ngang lưng nàng. Cảm giác rờn rợn, tôi cảm nhận tay tôi đă chạm vào một miếng vải nhung êm ả. Phút chốc h́nh hài thiếu nữ tan biến, trong ánh sáng mờ ảo.

B́nh tĩnh, tôi nh́n lên đầu mùng, chiếc nón mà thiếu nữ đă đặt trước khi ngồi trên giường tôi đang nằm đă biến mất. Tôi xem lại mé mùng, chỗ của thiếu nữ đă ngồi khi năy, có một khoảng mùng bị kéo ra khỏi cái nệm, mà lúc vào trong giường, tôi đă nhét mùng dưới nệm để bầy muỗi khỏi bay vào.

Tôi vẫn biết ḿnh chưa ngủ. Tôi khép cuốn sách lại, trước khi xếp một góc trang mà tôi vừa đọc để đánh dấu ḿnh đă đọc đến trang nào...

Cảnh tượng chỉ xảy ra trong thoáng chốc chưa đủ làm cho tôi sợ hăi. Tôi vẫn chưa tin thiếu nữ đó là ma.

Hoang mang, tôi ngồi dậy, bước ra khỏi mùng. Đến cái bàn nhỏ, có cái điện thoại dă chiến EE8, tôi quay vài ṿng để gọi pḥng trực. Im lặng không có tiếng bên kia đầu giây trả lời. Quay thêm một ṿng nữa, vẫn lặng lẽ, không có một thanh âm nhỏ nhoi nào báo động cho biết điện thoại c̣n hoạt động. Tôi mở 2 cục pin A30 để kiểm soát lại. Pin vẫn đặt đúng vị trí. Hơi bối rối, tôi mang vội đôi giày trận, tay cầm khẩu Colt 45. Tôi đi vội ra pḥng trực. Dọc hành lang của nhà văng lai, ánh sáng leo lét của các bóng đèn 25 watt, không cho đủ ánh sáng. Tôi cảm thấy có cái ǵ lành lạnh ở sau gáy. Đến pḥng sĩ quan trực, anh em có phận sự trực vẫn c̣n tề chỉnh trong trang phục tác chiến. Thiếu úy sĩ quan trực thấy tôi, bèn đứng dậy, nghiêm chỉnh chào. Vị sĩ quan trực đứng trước mặt tôi, với giọng nói và nét mặt linh hoạt. Anh ta có dáng điệu của một thanh niên c̣n trẻ, khoẻ mạnh. Gương mặt phản chiếu những nét linh động, hoạt bát...

Tôi hỏi: Hồi năy tôi có gọi ra pḥng trực, Thiếu úy có nghe điện thoại reo không?

- Dạ! Thưa không!

Anh ta vẫn c̣n đứng nghiêm sau bàn trực và lễ phép hỏi tôi:

- Thiếu tá cần ǵ?

- Không! Tôi không cần ǵ! Tôi chỉ muốn thử lại điện thoại thôi!

Hồi năy tôi có gọi thử ra pḥng trực nhưng không ai trả lời. Tôi đă kiểm soát lại pin, nhưng điện thoại vẫn không hoạt động được.

Thiếu úy sĩ quan trực, thong thả nói:

- Tôi nghĩ là pin đă hết hạn xử dụng.

Tôi quả quyết: -Không! Trung sĩ Giang, hạ sĩ quan tiếp liệu, sáng nay có trao cho tôi 2 cục pin A30 c̣n nguyên xi mà.

- Tôi sẽ cùng đi với Thiếu tá, để kiểm soát lại đường giây điện thoại nối vào pḥng số 4.

Vừa nói xong, Thiếu úy sĩ quan trực rời bàn trực, định đi theo tôi.

Nh́n quanh, tôi không biết ai là hạ sĩ quan trực. Tôi hỏi:

- Hạ sĩ quan trực đâu?

Trong một góc pḥng, năm sáu quân nhân đang bao quanh bàn cờ tướng, Một thượng sĩ chạy đến bàn sĩ quan trực, nói:

- Dạ. Tôi trực đêm nay.

Tôi dặn:

- Tôi về pḥng văng lai, thỉnh thoảng anh gọi vào pḥng số 4, để tôi thử điện thoại nhé!

- Dạ!

Tôi cùng đi với Thiếu úy sĩ quan trực trở lại pḥng văng lai.

Một điều làm tôi ngạc nhiên vô cùng. Mùng bị tháo gỡ ra khỏi giường gỗ, và được xếp gọn gàng, đặt ngay trên đầu giường. Mọi vật dụng dường như có ai đó làm xê dịch đi đôi chút. Trong lúc đó, viên sĩ quan trực không lấy ǵ làm ngạc nhiên. Anh ta kiểm soát lại đường giây điện thoại dă chiến mắc vào pḥng. Một chặp lâu sau, anh nói với tôi:

- Thưa Thiếu tá, có một đầu giây điện thoại bị hở, tôi đă gắn lại rồi. Tôi sẽ gọi ra pḥng trực, để xem c̣n trục trặc nữa không. Vừa nói anh ta vừa quay mấy ṿng trên cái điện thoại EE8.

- A-lô! Pḥng trực có nghe tôi không?

Bên kia đầu giây có tiếng trả lời. Tôi nghe sĩ quan trực nói:

- Không có ǵ, tôi đang thử đường giây điện thoại. Cám ơn!

Anh ấy đặt điện thoại xuống và nói với tôi:

- Có lẽ hôm nay gió mạnh, nên cành cây ngoài cửa sổ lay động, làm hở mạch điện thoại.

Nói xong, anh ta chào tôi về lại pḥng trực. C̣n lại một ḿnh, tôi loay hoay mắc mùng và đi ngủ lại. Đến một nơi xa lạ, nên khó ngủ. Tôi tiếp tục đọc sách, chờ đợi và nghe ngóng chính hơi thở và con tim của ḿnh đang đập th́nh thịch.

Bỗng nhiên, từ trên trần nhà, ngay chỗ cái bóng đèn tṛn, một người con gái mặt mày máu me, trên đầu có những lọn tóc rối, trắng phau, thả xuống gần đôi chân. Đầu đang bị treo vào một sợi dây tḥng lọng. Hai tay và hai chân đong đưa như đang bị nghẹt thở. Mắt trợn tṛng, liêng liếc. Một tay vẫy gọi tôi như cầu cứu.

Tôi toát mồ hôi hột, vội chụp súng và chạy ngay ra pḥng trực. Tôi kể chuyện cho Thiếu úy sĩ quan trực nghe. Anh ta cũng ngạc nhiên vô cùng.

Tôi hỏi:

- Thiếu úy ở đơn vị này lâu rồi, Thiếu úy có nghe ai kể chuyện pḥng đó có ma không?

- Dạ thưa Thiếu tá, tôi cũng có nghe nhiều người nói là pḥng số 4 có ma, nhưng chưa nghe ai nói có người tự tử treo cổ lửng lơ trên trần nhà.

Tôi nh́n đồng hồ treo trên tường của pḥng trực th́ đă 4 giờ sáng rồi.

Tôi hỏi vị sĩ quan trực:

- Mấy giờ Câu lạc bộ mở cửa?

- Dạ, 4 giờ rưỡi.

Tôi hơi ngạc nhiên:

- Sao mở cửa sớm vậy?

Anh ta thong thả trả lời:

- Cả tháng nay, Tiểu Khu ra lệnh cấm trại 100-phần-100, nên anh em đều ngủ lại trong trại. Câu lạc bộ mở cửa sớm để anh em uống cà-phê, dùng điểm tâm v́ 6 giờ đă điểm danh rồi.

- Mấy giờ anh bàn giao phiên trực?

- Dạ, tôi chỉ chờ Khối Điều Hành Tổng Quát đến để kư Sổ Bàn Giao.

Anh ta giải thích thêm:

- Ở đây, Ban Trực chỉ chịu trách nhiệm từ 5 giờ chiều đến 5 giờ sáng. C̣n trong giờ làm việc th́ Khối Điều Hành Tổng Quát chịu trách nhiệm.

Tôi nói:

- Tôi mời Thiếu úy xuống Câu lạc bộ uống cà-phê sáng với tôi.

- Dạ được. Tôi sẽ cùng đi với Thiếu tá.

Vừa nói, anh vừa quay điện thoại:

- A-Lô! Khối Điều Hành Tổng Quát đó hả! Cho người nhận bàn giao đi chứ! Trễ của tôi 10 phút rồi đó!

Anh ta đặt ống nghe xuống, tươi cười nói:

- Khối Điều Hành Tổng Quát đang cho người xuống kư Sổ Bàn Giao!

Ngay lúc đó, tôi nhớ ḿnh chưa khóa cửa pḥng Văng Lai. Tôi nói:

- Thiếu úy cùng tôi về pḥng Văng Lai, để tôi khóa cửa rồi ḿnh xuống Câu lạc bộ.

Chúng tôi cùng đi về pḥng Văng Lai. Vừa bước vào, chúng tôi thấy một thiếu nữ mặc áo nhung đen, đang nằm ngửa ra trên sàn nhà với chiếc gối hoen máu. Tôi đưa mắt liếc nh́n. Bỗng dưng tôi nghẹt thở. Tôi kinh hoàng, nh́n không chớp mắt. Vết thương rỉ ra trên cổ nàng và vệt máu vẫn c̣n nhỏ giọt, ươn ướt tuôn ra từ trên cổ nàng. Thiếu nữ cố hít một hơi yếu đuối, nàng từ từ chống khuỷu tay ngóc đầu dậy. Nút áo bị tuột ra, hở ngực. Như có ai đă xé toét ra từ trước. Nàng đưa đôi mắt trắng dă, nh́n chúng tôi như cầu cứu. Chúng tôi c̣n đang ngơ ngác th́ h́nh hài của thiếu nữ đó biến mất.

Lần này tôi thật sự khiếp sợ. Giường ngủ bị lật úp xuống, bốn chân lộn ngược lên trần nhà. Tôi vội đẩy viên sĩ quan trựcc ra khỏi gian pḥng. Anh ta đang đứng lặng người ở trước cửa, há hốc miệng nh́n tôi, mặt mũi xanh như tàu lá chuối. Tôi đóng cửa và vội vă kêu viên sĩ quan trực ra khỏi hành lang. Anh ta hổn hển nói: - Ma!

Chúng tôi lao ḿnh ra khỏi hành lang và nhảy xuống cầu thang tầng hai, ba bậc một. Xuống Câu lạc bộ, chúng tôi kêu cà-phê và cháo gà để điểm tâm.

Vừa liếm từng giọt cà-phê nóng hổi, tôi vừa nh́n quanh. Câu lạc bộ đông người, mà tôi vẫn c̣n kinh hoàng, khủng khiếp nh́n quanh... một vệt máu c̣n đọng lại trên cổ người thiếu nữ đang nằm vất vưởng trên sàn nhà...

Sau đó, tôi được biết, Câu lạc bộ do vợ một thượng sĩ thầu. Tôi nghe nói bà này đă bán Câu lạc bộ này nhiều năm, nên tôi hỏi thăm về chuyện ma tại văng lai, được bà cho biết như sau:

- “Chồng tôi phục vụ tại doanh trại này đă từ lâu. Anh ấy trước đây là lính GI (khố xanh), sau khi Pháp rút quân về nước, doanh trại này được bàn giao cho Tiểu đoàn 82 Việt Nam. Tiểu đoàn Bảo An B́nh Thuận được thành lập do Đại úy Danh làm Tỉnh Đoàn Trưởng, cũng đă đồn trú tại đây. Tỉnh Đoàn Bảo An bị giải tán và sáp nhập vào Tiểu Khu cho nên nơi đây là Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận B́nh Thuận. Nhưng trước năm 1945, doanh trại này là Pḥng Nh́ của Quân Đội Viễn Chinh Pháp.

Hồi đó tôi c̣n bán cái quán nhỏ trước trại lính này. Nghe nói tụi Pháp có bắt về một thiếu nữ trẻ đẹp, bị t́nh nghi là tiếp tế cho Việt Cộng. Ban đêm tụi Pháp điều tra, đánh đập và hăm hiếp thiếu nữ này nhiều lần. Uất ức, cô ta thắt cổ tự tử và sau này con gái của Đại úy Danh, Tỉnh Đoàn Trưởng Tỉnh Đoàn Bảo An cũng đă tự tử v́ t́nh duyên trắc trở sao đó, cũng tại pḥng số 4 của Nhà Văng Lai này. Từ đó về sau, không một sĩ quan nào dám trú ngụ tại pḥng số 5 của Văng Lai đó.”

Bà nói thêm:

- “Thiếu tá Minh cho dọn dẹp pḥng đó rất sạch sẽ, để khi nào có Phái Đoàn Thanh Tra nào mà hách x́ xằng, vẽ vời thứ này thứ nọ, th́ ông mời vào pḥng đó để tạm trú. Ai vào ở cũng gặp ma và sáng hôm sau cuốn gói về Sài G̣n ngay mà không c̣n muốn thanh tra, thanh triết ǵ nữa...”

Tôi nghe kể câu chuyện như thế bèn thở dài: -Ừ! Ra là thế.

Nhiều năm về sau, khi chúng tôi gặp lại nhau và hồi tưởng lại chuyện cũ, th́ chuyện hai con ma trong Pḥng số 4 Văng Lai, của Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận Tiểu Khu B́nh Thuận, lúc nào cũng được kể lại.

Duy Xuyên, Tacoma


http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1549600832

hoanglan22 02-08-2019 04:51

Tài Liệu SNIE 14.3-67: Bài Học Đắt Giá của Việc Chính-Trị-Hóa Tình Báo
 
2 Attachment(s)
Cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân (từ cuối tháng 1-1968) của phe Cộng Sản trên toàn lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa, mà báo chí sách vở Hoa Kỳ thường gọi là Tet Offensive, đã được đánh giá như là một thất bại lớn về tình báo của Hoa Kỳ trong Chiến Tranh Việt Nam. Việc đánh giá như vậy có hoàn toàn đúng hay không ? Bài viết này tìm hiểu những tranh luận chung quanh tài liệu SNIE 14.3-67 của CIA nhằm cố gắng trả lời câu hỏi đó.

SNIE 14.3-67 là tài liệu gì ?

SNIE, chữ viết tắt của Special National Intelligence Estimate, tạm dịch là Bản Ước Lượng Tình Báo Quốc Gia Đặc Biệt, là một dạng đặc biệt của NIE (National Intelligence Estimate), tài liệu về tình báo của Cơ Quan Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ (Central Intelligence Agency, thường được viết tắt là CIA) đã được xét duyệt và thông qua bởi United States Intelligence Board (USIB = Hội Đồng Tình Báo Hoa Kỳ) và sau đó sẽ được ấn hành bởi một bộ phận của CIA là Office of National Estimates (ONE).

Mỗi NIE được tạo ra nhằm cung cấp cho các cấp lãnh đạo của Hoa Kỳ những thông tin căn bản cần thiết về tình hình về mọi mặt của từng quốc gia trên thế giới. Các NIE luôn luôn được cập nhật dựa trên tình hình phát triển của các quốc gia đó, và thỉnh thoảng, theo nhu cầu của tình hình, các SNIE sẽ được soạn thảo. Việc soạn thảo các NIE và SNIE là nhiệm vụ của một đơn vị thuộc quyền của Phó Giám Đốc Tình Báo của CIA (Deputy Director for Intelligence, thường được viết tắt là DDI; Ray S. Cline (1962-1966) và Russell Jack Smith (1966-1971) là hai người kế tiếp nhau giữ vị trí DDI trong giai đoạn này của Chiến Tranh Việt Nam).

Như trên đã trình bày, các NIE và SNIE luôn luôn phải được xét duyệt và thông qua bởi USIB gồm các đại diện có thẩm quyền của tất cả các cơ quan an ninh tình báo của Hoa Kỳ mà quan trọng nhứt là các cơ quan sau đây: CIA, DIA (Defense Intelligence Agency, cơ quan tình báo của Bộ Quốc Phòng), các cơ quan tình báo của 3 quân chủng (Hải, Lục và Không Quân), và cơ quan tình báo của Bộ Ngoại Giao (Bureau of Intelligence and Research – State Department, thường được viết tắt là INR).

Tài liệu SNIE 14.3-67 có trang bìa như hình dưới đây:

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1549601330

Nhan đề của tài liệu này cho thấy rõ ràng nội dung của nó là đề cập đến khả năng chiến đấu của các lực lượng Cộng sản tại Miền Nam Việt Nam, và số hiệu 14.3-67 gồm 2 phần: 14.3 là ám số của CIA dùng cho khu vực Đông Dương (Indo-China), và 67 là của năm 1967.

Sam Adams là ai ?

Nói đến câu chuyện của tài liệu SNIE 14.3-67 thì không thể nào không nhắc đến cái tên Sam Adams được. Vậy Sam Adams là ai ?

Người nhân viên CIA đã khuấy động chuyện này có tên là Samuel Alexander Adams (1934-1988), thường được biết bằng tên ngắn gọn hơn là Sam Adams, là một nhân viên phân tích tình báo (intelligene analyst) của cơ quan CIA. Ông sinh ngày 14-6-1934 tại thành phố Bridgeport, tiểu bang Connecticut, thuộc dòng dõi họ Adams nổi tiếng của tiểu bang Massachusetts, đã từng sản sinh ra 2 vị Tổng Thống của Hoa Kỳ, đó là hai cha con: cha là John Adams (1735-1826), Tổng Thống thứ nhì (1797-1801) và con là John Quincy Adams (1767-1848), Tổng Thống thứ sáu (1825-1829).[1] Sau khi tốt nghiệp Đại Học Harvard (Harvard College) về ngành Sử Âu Châu vào năm 1955, ông phục vụ hai năm trong lực lượng Hải Quân Hoa Kỳ. Sau khi giải ngũ, ông theo học Luật tại Đại Học Harvard (Harvard Law School), và sau đó làm việc cho một số ngân hàng trong một thời gian. Năm 1963 ông được Cơ quan CIA tuyển chọn làm nhân viên phân tích tình báo và đơn vị đầu tiên ông phục vụ là tổ Congo, thuộc Khối Phi Châu (Congo desk of Africa Division). Nhờ cách làm việc siêng năng, cần mẫn, có phương pháp và với óc nhận xét và phân tích rất sắc bén, chỉ một thời gian ngắn, ông đã được các đồng nghiệp kính nể và các cấp chỉ huy CIA đánh giá cao. Tháng 8 năm 1965, ông chuyển sang tổ Việt Nam, thuộc phân bộ Đông Nam Á, Khối Viễn Đông (Vietnam desk, Southeast Asia Branch, Far East Division).

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1549601330
Hình Sam Adams chụp khoảng năm 1984 -- Nguồn: Internet

Vào thời gian này, sau khi quân bộ chiến của Hoa Kỳ ồ ạt đổ vào Việt Nam, cán binh Cộng sản bị giao động tinh thần rất nặng nề: tỷ lệ hồi chánh và đào ngũ tăng lên rất nhiều. Adams được phân bộ trưởng Ed Hauck giao cho nhiệm vụ tìm hiểu về vấn đề tinh thần của cán binh Việt Cộng (Viet Cong morale).

Adams bắt tay ngay vào việc và đã bỏ ra rất nhiều thời gian cũng như công sức để thực hiện các hồ sơ cần thiết cho công việc được giao phó. Trong bước đầu, ông tạo ra 3 bộ hồ sơ căn bản mà ông đặt tên cho là: 1) Primary Evidence (Bằng chứng nhứt đẳng) gồm các văn kiện, báo cáo trực tiếp từ phía VC như là các tài liệu bắt được (captured documents), cung tù hàng binh (POW interrogations; POW = Prisoner Of War), và các cuộc phỏng vấn với các cán binh VC ra hồi chánh (defector interviews); 2) Statistics (Thống kê) gồm các trang trích ra từ các báo cáo gởi từ Sài Gòn về các con số đào binh và tù binh VC cũng như các con số dân tỵ nạn từ các vùng nằm dưới sự kiểm soát của VC; 3) Everything Else (Tất cả các thông tin khác) gồm tất cả các loại tài liệu không thể xếp vào 2 bộ hồ sơ kia. Về sau, bộ hồ sơ thứ ba này quá lớn nhưng không hữu dụng cho công việc của ông nên ông quyết định vứt bỏ đi.

Những con số gây ngạc nhiên

Adams bắt đầu đọc các tài liệu thuộc hồ sơ 1 nhưng không thấy gì đặc biệt. Khi chuyển sang đọc các số liệu thống kê thì ông bắt đầu thấy thích thú và ngạc nhiên. Tài liệu gây ngạc nhiên cho ông là báo cáo về chương trình Chiêu Hồi của tuần lễ đầu tháng 8-1965: báo cáo ghi rõ là tổng số cán binh VC ra hồi chánh trong tuần lễ đó là 211 người. Ông đọc tiếp các báo cáo của các tuần lễ còn lại của tháng 8-1965 và nhận ra rằng con số 211 hồi chánh viên trong một tuần không phải là một trường hợp đặc biệt gì cả mà chỉ là một con số trung bình mà thôi. Ông tính nhẩm: như vậy mỗi năm có trên 10.000 cán binh VC về hồi chánh, một tỷ lệ rất đáng kể là 5% trên tổng số lực lượng VC theo ước tính của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ là khoảng dưới 200.000 quân. Thật sự kích động, ông đọc hết tất cả các báo cáo của chương trình Chiêu Hồi, và sau đó khi so sánh giữa con số VC hồi chánh và con số VC tử trận, ông càng kinh ngạc hơn: trong khoảng thời gian từ tháng 8-1964 đến tháng 8-1965 con số VC tử trận chỉ tăng gấp đôi trong khi con số VC hồi chánh tăng gấp 5 lần. Điều này có nghĩa là cường độ chiến tranh càng ác liệt thì số cán binh VC ra hồi chánh sẽ càng tăng lên nhanh chóng hơn.[2] Như vậy, xem ra có vẻ chiến lược “lùng và diệt địch” (Search and Destroy) của Tướng Westmoreland,[3] Tư Lệnh MACV [4] áp dụng cho cuộc chiến tranh hao mòn (war of attrition) này đã có kết quả tốt. Và, nếu tiếp tục với cái đà này, chỉ một thời gian ngắn nữa VC sẽ không còn quân để đánh nhau nữa. Nhưng rồi Adams sớm nhận ra rằng sự thật không phải như vậy. Vì VC vẫn tiếp tục đánh phá khắp nơi, không có một triệu chứng nào báo hiệu cho thấy tinh thần chiến đấu của VC bị ảnh hưởng nặng và sẽ đi đến chổ sụp đổ toàn diện. Adams đang đối diện với 2 khối lượng thông tin hoàn toàn mâu thuẩn nhau: một khối thông tin cho thấy mức độ cán binh VC hồi chánh rất cao và ngày càng gia tăng, còn khối thông tin kia thì cho thấy các kực lượng VC vẫn tiếp tục chiến đấu dữ dội khắp nơi trên lãnh thổ của VNCH. Adams tin rằng như vậy phải có cái gì không đúng đây. Anh quyết định tìm hiểu thêm về các cán binh VC hồi chánh.

Mối nghi ngờ chớm nở

Tháng 1-1966, Adams được biệt phái sang làm việc tại Việt Nam trong 3 tháng. Đây là lần đầu tiên Adams tiếp nhận được kinh nghiệm trực tiếp về chiến tranh Việt Nam nói chung, và về tổ chức nhân sự của VC nói riêng.

Nơi Adams được chỉ định đến công tác là Phân Bộ Thu Xếp (Collation Branch) của CIA tại Sài Gòn. Phân bộ này được đặt dưới quyền chỉ huy của George Allen là người phó của George Carver lúc đó đang đãm nhận chức vụ Phụ Tá Đặc Biệt về Việt Nam (SAVA = Special Assistant for Vietnam Affairs) của Giám Đốc CIA, Richard Helms. Dưới sự hướng dẫn của Allen, Adams bắt tay vào công tác tìm hiểu về các hồi chánh viên (defectors). Ông được biết là lúc đó trạm CIA tại Sài Gòn không có giữ một danh sách gốc (master list) về các hồi chánh viên. Allen khuyên ông nên tìm gặp Leon Gore, người đứng đầu phân bộ đặc trách về Động Cơ và Tinh Thần của Việt Cộng (VC Motivation and Morale Branch) của Rand Corporation,[5] mà trụ sở đặt tại biệt thư số 176 đường Pasteur ở Sài Gòn, để có thể nắm được thông tin tin đầy đủ về vấn đề này. Tuy nhiên, Allen cũng dặn Adams là không nên sa lầy trong vấn đề này vì, theo Allen, còn một vấn đề còn quan trọng hơn nữa là vấn đề các cán binh VC đào ngũ (deserters). Đây là những cán binh VC, vì nhiều lý do khác nhau, đã rời bỏ hàng ngũ Cộng sản nhưng không ra hồi chánh, và cũng không thể trở về quê quán vì sợ bị VC thanh toán, họ trốn về và sinh sống bất hợp pháp trong các thành phố. Khi đến gặp và làm việc với Gore, Adams càng kinh ngạc hơn khi được Gore cho biết con số đào ngũ còn cao hơn con số hồi chánh: tỷ lệ là gấp 7 lần.[6] Như vậy, mỗi năm lực lượng VC mất đi, không phải 10.000 quân hay 5% (do hồi chánh), mà đến 80.000 quân hay 40% (10.000 hồi chánh + 70.000 đào ngũ). Đó là chưa kể đến số thương vong. Và cho một đạo quân chưa đến 200.000 người theo ước tính của MACV. Vậy mà cường độ chiến tranh không hề suy giảm chút nào cả, ngược lại ngày càng ác liệt, với số thương vong của quân đội Mỹ không ngừng gia tăng.[7] Như vậy rõ ràng là lực lượng VC phải cao hơn con số 200.000 quân rất nhiều.

Mối nghi ngờ gia tăng

Ngày 2-2-1966, từ Sài Gòn Adams đáp chuyến bay trực thăng của Air America [8] xuống Tân An làm việc tại Trung Tâm Chiêu Hồi của tỉnh Long An. Tại đây, Adams đã tiếp cận với toàn bộ hồ sơ của 146 cán binh VC đã ra hồi chánh trong thời gian 4 tháng trước đó. Trong suốt thời gian 2 tuần lễ, với sự giúp đở rất tích cực của một nữ thông dịch viên, Adams đã ghi chép thật cẩn thận về tất cả 146 hồi chánh viên đó với những thông tin cá nhân của từng người cần thiết cho công tác của ông như là: tên họ, tuổi tác, thành phần (quân sự, chính trị, chính quy, địa phương, liên lạc viên, du kích, dân quân tự vệ, vv.), thời gian phục vụ trong hàng ngũ CS. Ông nhận ra trong số 146 hồi chánh viên này có khoàng gần 90 người thuộc thành phần quân sự, và trong số nầy chỉ có 6 người thuộc các đơn vị chính quy hay địa phương, phần còn lại khoảng 80 người là thuộc diện du kích – dân quân (guerilla-militia). Kiểm tra lại với con số du kích – dân quân liệt kê cho tỉnh Long An trong bảng trận liệt (Order of Battle, hay OB) của MACV, ông giựt mình vì bảng OB của MACV ghi rõ là tỉnh Long An chỉ có tổng cộng 160 du kích – dân quân. Ông tính nhẩm: vậy thì lực lượng du kích – dân quân của VC trong tỉnh Long An đã bị tổn thất đến 50% nghĩa là rất nặng. Nhưng rõ ràng tình hình hoạt động của VC tại Long An vẫn không bị ảnh hưởng. Ngay trong thời gian đó, vào ngày 11-2-1066, đã xảy ra một trận đánh lớn tại quận Tân Trụ, cách tỉnh lỵ Tân An khoảng 10 km về phía Nam, trong cuộc Hành Quân An Dân 14/66, giữa các đơn vị của Sư Đoàn 7 Bộ Binh của QLVNCH và Tiều đoàn 506 địa phương của VC. Tiểu Đoàn 506 của VC đã bị tổn thất thật nặng với trên 100 binh sĩ tử trận, bỏ xác tại chổ mà QLVNCH đã đếm được.[9] Mấy hôm sau, Adams được gặp và đã nêu thắc mắc về con số du kích – dân quân của VC với Đại Tá Phạm Anh, Tỉnh Trưởng Long An. Đại Tá Anh cho biết ngay là con số 160 trong OB của MACV là sai, con số du kích – dân quân tại Long An đúng phải là 2000, và ông cũng yêu cầu Adams sau này về Sài Gòn, nếu có cơ hội, nên báo cho MACV điều chỉnh lại con số này trong OB của họ. Adams hứa sẽ làm chuyện này. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, Adams có dịp đến làm việc tại Quận Tân Trụ, và được biết Tiểu đoàn địa phương 506 của VC, vừa bị thiệt hại nặng trong cuộc Hành quân An Dân 14/66 vừa nói trên, đã bổ sung xong quân số và hoạt động trở lại như trước.[10] Như vậy rõ ràng là con số 2000 du kích – dân quân (nguồn bổ sung cho các đơn vị quân sự địa phương của VC) của ông đại tá tỉnh trưởng Long An hoàn toàn có thể tin được. Đây là lần đầu tiên Adams được biết một cách gần như chắc chắn là con số du kích – dân quân trong OB của MCV là quá thấp. Ngày hôm sau, trở về Sài Gòn, Adams báo cáo ngay cho George Allen về chuyện này. Allen không ngạc nhiên chút nào cả, và còn cho Adams biết rằng từ nhiều năm qua MACV đã bỏ qua, không để tâm đến vấn đề du kích – dân quân của VC. Nhớ lại lời hứa với đại tá tỉnh trưởng Long An, Adams đã gọi cho Ban Phụ Trách Trận Liệt (Order of Battle Branch) của MACV để cho họ biết về con số chính xác của du kích – dân quân tại Long An. Người nhân viên trực ban ghi nhận và cho biết sẽ báo cáo lại cho Đại Tá Gaines Hawkins, Trưởng Ban OB của MACV. Sau vụ Long An, mối nghi ngờ của Adams về các con số liên quan đến lực lượng du kích – dân quân trong OB của MACV càng gia tăng thêm, và ông quyết định tìm đọc các tài liệu tịch thu được của VC để xem thông tin và nhận định của chính đối phương về vấn đề ra sao. Ông càng bàng hoàng hơn khi thấy ngay chính trong các tài liệu bắt được của địch tỷ lệ giữa con số hồi chánh và con số đào ngũ của cán binh VC còn cao hơn cái tỷ lệ 1/7 mà Gore đã nói với ông rất nhiều: [11]

• Một tài liệu có tựa đề là “Các biện pháp đối phó với các thành phần hồi chánh, đào ngũ và phản bội” (Countermeasures against defectors, deserters, and traitors) cho biết số hồi chánh “hiếm” hơn số đào ngũ)

•Một tài liệu khác, lần đầu tiên cho biết cái tỷ lệ giữa đào ngũ và hồi chánh: 138 đào ngũ trong đó chỉ có 5 ra hồi chánh, tỷ lệ là 5/138 = 27 lần

•Một tài liệu khác cho biết: trong vòng 1 tháng, một đơn vị có 47 người đào ngũ, trong đó chỉ có 2 ra hồi chánh: tỷ lệ là 2/47 = 23 lần

•Một tài liệu nữa, cụ thể hơn rất nhiều: Đại đội vũ khí của Tiều đoàn 269, thuộc Trung đoàn 2 Đồng Tháp, trong 3 tháng cuối năm 1965, đã có đến 20 người đào ngũ; tính theo cấp số của đại đội vũ khí là 87 người, tỷ lệ đào ngũ của đơn vị này là 20/87 = 22.9% nghĩa là rất cao

Thời gian còn lại tại Việt Nam, Adams đến làm việc tại Trung Tâm Khai Thác Tài Liệu Hỗn Hợp của MACV (Combined Document Exploitation Center – CDEC [12]) tại Sài Gòn. Tại đây, Adams đọc tất cả các tài liệu bắt được của địch, đặc biệt là các danh sách của các đơn vị địch (enemy rosters), và nhận rõ là tất cả các tài liệu này đều cho thấy một mức độ đào ngũ trầm trọng trong hàng ngũ cán binh VC. Adams đã sao chụp và mang vể Mỹ một số lớn tài liệu loại này. Ông trở về Tổng Hành Dinh của CIA ở Langley, Virginia vào ngày 2-5-1966, và bản báo cáo của ông về vấn đề đào ngũ của cán binh VC rất được chú ý và đánh giá cao. Do đó, Adams đã được gọi lên thuyết trình cho Đô Đốc William F. Raborn, người vừa được bổ nhiệm thay cho John A. McCone trong chức vụ Giám Đốc CIA. Sau vụ thuyết trình này của Adams, Giám Đốc Raborn quyết định cử 1 đoàn chuyên viên về phân tâm (psychiatrists) của CIA sang Việt Nam (cùng với Adams với tư cách cố cấn cho đoàn) để nghiên cứu tại chổ vê tinh thần của cán binh VC. Sau một tháng rưởi làm việc tại Việt Nam, đoàn chuyên viên trở về Mỹ và báo cáo của họ khẳng định là, mặc dù với tỷ lệ đào ngũ cao như thế, tinh thần chiến đấu của cán binh VC vẫn rất tốt.

Sau khi trở lại Mỹ, dùng nhiều cách tính khác nhau, Adams ước tính con số cán binh VC đào ngũ trong một năm rất cao, không bao giờ dưới 50.000, có khi lên đến trên 100.000. Trong khi đó, tổng số cán binh VC tử trận, bị thương và bị bắt làm tù binh là vào khoảng 150.000 mỗi năm. Như vậy, nếu căn cứ vào con số ước tính toàn bộ lực lượng của VC trong OB của MACV là 280.000 (vào tháng 6-1966) thì lực lượng này sẽ bị triệt tiêu trong một thời gian ngắn sắp tời. Nhưng rõ ràng, qua kinh nghiệm bản thân của Adams trong thời gian 3 tháng công tác tại Việt Nam, cũng như qua kết quả điều tra của đoàn chuyên viên về phân tâm học của CIA, tinh thần chiến đấu của cán binh VC không hề giảm sút và cường độ chiến tranh vẫn ngày càng ác liệt, không có một dấu hiệu gì cho thấy cuộc chiến sắp đi đến kết thúc cả. Adams nhớ kinh nghiệm thu nhận được trong thời gian công tác tại Long An: 1) Sự sai biệt quá lớn giữa 2 con số về du kích – dân quân do đại tá tỉng trưởng Long An cung cấp và con số trong OB của MACV; và 2) Vụ Tiểu đoàn địa phương 506 của VC tại Long An, đã bổ sung quân số thật nhanh và hoạt động trở lại ngay, sau khi bị thiệt hại nặng trong cuộc hành quân An Dân 14/66 tại Tân Trụ trong tháng 2-1966.

Lúc bấy giờ, CIA vừa trải qua một cuộc cải tổ, và xếp mới của Adams là Dean Moor. Adams lập tức báo cáo ngay cho Moor các phát hiện của mình về Long An và xin phép được nghiên cứu thêm về vấn đề nhân sự của VC. Được sự chấp thuận của Moor, Adams bỏ thì giờ tìm đọc tất cả các tài liệu bắt được của VC (đã được CDEC chuyển dịch sang Anh ngữ) và sưu tập lại trong các thông cáo nội bộ của CIA, gọi là “Bulletin” lưu giữ trong văn khố của CIA. Ngày 18-8-1966, ông đọc đến Bulletin mang số 689 mang tựa đề là “Recaptitulated Report on the People’s Warfare Movement from Binh Dinh Province” (Báo cáo tóm lược vể phong trào chiến tranh nhân dân tại tỉnh Bình ĐInh). Tài liệu này chỉ gồm có 3 trang và do Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Không Vận của Hoa Kỳ (U.S. First Air Calvary Division, VC thường gọi là Sư Đoàn 1 Anh Cả Đỏ) tịch thu được trong một cuộc cuộc hành quân tại phía Bắc Bình Định vào ngày 30-5-1966. Tài liệu không có đề ngày, nhưng liệt kê các con số du kích và dân quân tại Bình Đinh của 3 tháng đầu năm 1966. So lại với các con số du kích – dân quân VC tại tỉnh Bình Định trong OB của MACV, Adams lại một lần nữa giựt mình vì rất giống trường hợp của Long An: [13]

Lực Lượng VC Tài Liệu của VC


Du kích 15.800
Dân Quân Tự Vệ 34.441
Tổng cộng 50.241

Tài Liệu của MACV

1.446
3.222
TC 4.668

Adams lập tức báo cáo ngay cho George Allen, và Dean Moor và được lệnh viết ngay một báo cáo chính thức về chuyện này. Trong lúc viết báo cáo này, Adams lại phát hiện thêm một tài liệu về lực lượng du kích – dân quân của VC trong tỉnh Phú Yên, ở phía Nam của tỉnh Bình Định, và nhận ra sự khác biệt giữa con số trong tài liệu của VC và tài liệu của MACV cũng giống hệt như các trường hợp của các tỉnh Long An và Bình Định: tài liệu của VC cho biết tổng số là 20.407 trong khi tài liệu của MACV chỉ ghi có 3.210. Cũng trong thời gian này, Adams lại tìm thấy một tài liệu khác còn quan trọng hơn rất nhiều. Đó là một tài liệu của Trung Ương Cục Miền Nam tức là Bộ Chỉ Huy Tối Cao của tất cả lực lượng Cộng sản tại Miền Nam Việt Nam (người Mỹ thường dùng chữ tắt để gọi là COSVN = Central Office for South Vietnam; tên chính thức là Ban Chấp Hành Trung ương của Đảng Nhân Dân Cách Mạng = Central Executive Committee of the People’s Revolutionary Party). Tài liệu này ghi rõ là “…cố gắng gia tăng lực lượng du kích và dân quân lên mức 250.000-300.000 vào cuối năm 1965.” [14] Như vậy, rõ ràng là con số ước lượng 100.000 du kích – dân quân trong OB của MACV là hoàn toàn quá thấp, khó có thể chấp nhận được. Adams quyết định đưa con số 250.000 ước tính cho lực lượng du kích – dân quân VC vào báo cáo của ông. Tuy không được mọi người hoàn toàn ủng hộ, sau cùng, ngày 8-9-1966, báo cáo của Adams cũng được R. Jack Smith, lúc đó là Phó Giám Đốc CIA Đặc Trách về Tình Báo (Depuy Director for Intelligence, hay thường được gọi tắt là DDI) cho phép in và lưu hành giới hạn (chỉ in 25 bản, thay vì 200 bản) như là một bản thảo mà thôi (draft working paper), với chỉ một bản duy nhứt gửi đi Việt Nam cho Trưởng Ban OB của MACV là Đại Tá Hawkins. Người mang bản duy nhứt này về Việt Nam cho Đại Tá Hawkins là George Fowler, một nhân viên của Cơ Quan Quân Báo của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ (Defense Intelligence Agency, hay DIA).

Đương đầu với MACV

Đầu tháng 10-1966, Fowler trở về Mỹ và cho biết MACV, thông qua một yêu cầu từ Đại Tá Hawkins gửi cho các toán Cố vấn quân sự Mỹ ở khắp 44 tỉnh của VNCH, đã bắt đầu tiến hành việc xét duyệt lại tất cả các ước tính trong OB, kể cả lực lượng du kích – dân quân của VC. Một tháng sau, vào ngày 7-11-1966, Adams nhận được một tin làm ông rất phấn khởi: báo cáo đầu tiên về lực lượng du kích – dân quân của VC, theo yêu cầu của Đại Tá Hawkins, từ tỉnh Quảng Tín cho biết con số là 17.027, so với con số cũ trong OB của MACV chỉ có 1.760,[15] nghĩa là gấp 10 lần, hoàn toàn rất giống như điều mà Adams đã khám phá trước đây. Điều quan trọng hơn là lần này, con số lớn hơn 10 lần đó là do chính 1 đơn vị của MACV ghi nhận và báo cáo.

Cũng trong thời gian này, Adams khám phá thêm 2 chuyện rất quan trọng:

• Thứ nhứt là tầm quan trọng của lực lượng du kích – dân quân của VC trong Chiến Tranh Việt Nam: theo một bài báo đăng trên tờ New York Times, số ra ngày 7-10-1966, số thương vong của quân đội Hoa Kỳ trong Đệ Nhị Thế Chiến và Chiến Tranh Việt Nam là như sau:

Nguyên Nhân Thế Chiến 2 CT Việt Nam
Pháo binh 61% 21%
Lựu đạn 2% 16%
Mìn bẩy 3% 21%

Adams tìm hiểu thêm qua trao đổi với các nhân viên CIA vốn là các cựu sĩ quan đã từng tham chiến tại Việt Nam và được biết mìn bẩy là do các lực lương du kích – dân quân của VC thực hiện. Như vậy du kích – dân quân của VC là lực lượng đã gây hơn 1/5 thống kê về thương vong của binh sĩ Hoa Kỳ, một con số thống kê rất đáng kể.

•Thứ hai là MACV đã từng cố tình hạ thấp con số về du kích – dân quân của VC trong OB của họ. Thông tin này do chính George Allen cung cấp cho Adams. Chuyện này xảy ra từ đầu năm 1963 lúc MACV còn mang danh hiệu là MAAG (Military Assistance Advisory Group) dưới quyền Tướng Paul D. Harkins. Dựa vào một tài liệu bắt được của VC, Allen tính ra con số du kích – dân quân của VC lúc đó là vào khoảng trên 100.000. Con số này đã được Ban 2 (J-2 = Tình báo) của MAAG chấp nhận nhưng khi J-2 trình lên thì Harkins không chấp nhận và chỉ cho phép ghi 70.000 thôi.

Như vậy, rõ ràng cái khó khăn của CIA sẽ là thái độ coi thường của MACV đối với tầm quan trọng của lực lượng du kích – dân quân của VC cũng như thói quen tùy tiện của MACV trong việc ước lượng lực lượng của địch trong OB của họ. Để có thể đương đầu với MACV, lực lượng đang thi hành chủ trương sử dụng quân sự tại Việt Nam của Chính phủ Hoa Kỳ, CIA cần phải đoàn kết và thống nhứt ý kiến trong nội bộ. Adams quyết định xin chuyển sang làm việc trực tiếp với George Carver và George Allen như một nhân viên của SAVA, trực thuộc dưới quyền của Giám Đốc CIA lúc đó là Richard Helms.[16] Adams chính thức làm việc với SAVA từ tháng 1-1967. Ngay trong tuần lễ đầu tiên, Adams dàn xếp để được SAVA chỉ định thuyết trình cho Hội Đồng Ước Tính Tình Báo Quốc Gia (Board of National Estimates = BNE, là một bộ phận của ONE gồm khoảng trên dưới 10 chuyên gia cao cấp về tình báo)) về lực lượng du kích – dân quân của VC. Trên cơ sở của bài thuyết trình này của Adams, BNE soạn thảo và phổ biến một tài liệu đến tất cả các cơ quan tình báo của Hoa Kỳ, và lần đầu tiên ghi rõ con số ước tính cho lực lượng du kích – dân quân của VC là “từ 250.000 đến 300.000.”

Phấn khởi với thành quả này, ngày Thứ Ba, 10-1-1967, Adams soạn thảo một văn kiện quan trọng, mang tính chất như một nghị định (decree), cho George Carver, với tư cách là SAVA, trình cho Richard Helms ký, mang tựa đề “Revising the Viet Cong Order of Battle” (Duyệt xét lại Bảng Trận Liệt của Việt Cộng), và chỉ thị cho DDI (Deputy Director for Intelligence, lúc đó là R. Jack Smith) thi hành.

Mười ngày sau, Thứ Sáu 20-1-1967, CIA nhận được một văn thư từ Đại Tướng Earl G. Wheeler, Tham Mưu Trưởng Liên Quân (Chairman of the Joint Chiefs of Staff, sĩ quan cao cấp nhứt của quân đội Hoa Kỳ, dứng đầu Bộ Tham Mưu Liên Quân gồm 4 vị tướng Tham Mưu Trường của 4 quân chủng Hải Quân, Lục Quân, Không Quân và Thủy Quân Lục Chiến, do chính Tổng Thống bổ nhiệm, với nhiệm kỳ là 2 năm và có thể được tái bổ nhiệm). Văn thư nói lên phản ứng tiêu cực của Bộ Quốc Phòng và Quân Đội đối với con số ước tính mới về lực lượng du kích – dân quân của CIA trong văn kiện do BNE phổ biến. Wheeler cũng quyết định triệu tập một hội nghị tại Honolulu (tiểu bang Hawaii) vào ngày 6-2-1967 để các đại diện chính thức của CIA, DIA, MACV, vv. thảo luận và giải quyến vấn đề khác biệt giữa các con số OB của CIA và MACV. Trên thực tế, hội nghị này chẳng giải quyết gì cả, chỉ khẳng định là OB là thuộc lãnh vực thẩm quyền của MACV mà thôi. Như vậy, lập trường của MACV về OB đã lộ rõ. MACV sẽ không theo đề nghị của CIA về con số ước tính lực lượng du kích – dân quân VC của CIA, mà MACV cho là quá cao. CIA cũng không nhượng bộ, không chấp nhận con số của MACV mà CIA cho là quá thấp. Theo MACV, toàn bộ (kể cả du kích – dân quân) lực lượng của VC là khoảng 270.000 người, trong khi đó CIA tin rằng con số này phải là gần 600.000.[17]

Các cuộc tranh luận về SNIE 14.3-67

Ngày 12-6-1967, ONE công bố bản thảo của SNIE 14.3-67 trong đó sử dụng con số ước tính 250.000 cho lực lượng du kích – dân quân của VC. Cuộc thảo luận đầu tiên về SNIE 14.3-67 được ấn định vào ngày 23-6-1967.

Cuộc thảo luận đầu tiên này chỉ là để cả hai phe, CIA và MACV, thăm dò phản ứng của nhau thôi nên không đi tới đâu cả. Cả hai phe đều giữ vững lập trường, cố gắng bảo vệ con số của mình đưa ra, và phản bác con số của đối phương đưa ra. Trong tháng 6-1967 còn có thêm ba cuộc thảo luận nữa nhưng lập trường của cả hai phe cũng vẫn như cũ. Đầu tháng 7-1967, Adams nhận được 1 công điện mật từ Sài Gòn do George Carver gởi về. Carver cho biết đã có một buổi họp với Đại Tá Hawkins, Trưởng Ban OB của MACV và Thiếu Tướng Philip B. Davidson, vừa mới thay thế Thiếu Tướng Joseph A. McChristian trong chức vụ Trưởng Ban Tình Báo (J-2) của MACV. Buổi họp diễn ra khá tốt đẹp với kết quả là lập trường của MACV đã có nhiều thay đổi và tiến gần với lập trường của CIA. Cụ thể là: 1) Đại Tá Hawkins đồng ý trên căn bản đối với con số ước tính 100.000 người của CIA về lực lượng du kích của VC; ông cũng cho rằng con số 75.000 của CIA về lực lượng hậu cần (service troops) của VC chỉ là hơi cao một chút mà thôi; 2) Sau khi nghe Tướng Davidson cho biết nếu chấp nhận hoàn toàn con số OB cao của CIA, MACV sẽ gặp khó khăn lớn về chính trị, nhứt là với báo chí, Carver đã đề nghị một giải pháp thỏa hiệp như sau: chia OB (với tổng số khoảng 500.000) thành 2 phần, phần “quân sự” bao gồm các lực lượng chính quy, hậu cần, và du kích, với tổng số khoảng 300.000, và phần “dân sự” bao gồm dân quân tự vệ, và cán bộ chính trị, với tổng số khoảng 200.000; với cách này, MACV sẽ dễ biện minh hơn cho tổng số mới của OB. Tướng Davidson cho rằng đây có vẻ là một ý kiến hay và hứa là ông sẽ trình lại với Tướng Westmoreland, Tư Lệnh MACV. Để cho MACV có thời gian giải quyết những khó khăn trong nội bộ, CIA quyết định dời phiên họp kế tiếp về SNIE 13.4-67 sang tháng 8-1967, khi đó chính Đại Tá Hawkins sẽ từ Sài Gòn sang dự.[18]

Khi cuộc họp diễn ra vào đầu tháng 8-1967 với sự hiện diện của Đại Tá Hawkins từ Sài Gòn sang thì Adams bị hoàn toàn bất ngờ. Bảng OB trình bày lực lượng của VC gần như không thay đỗi gì cả với tổng số là 298.900 như sau: [19]

Quân chính quy 120.400
Quân hậu cần 26.000
Du kích – Dân Quân 65.000
Cán bộ chính trị 87.500
Tổng số 298.900

Về phía MACV, cùng tham dự buổi họp với Đại Tá Hawkind còn có Chuẩn Tướng George A. Godding, Deputy J-2 của MACV, tức là phó tướng của Thiếu Tướng Davidson. Ngoài ra, trong các lúc nghỉ giải lao, Đại Tá Hawkins luôn luôn cho các nhân viên CIA biết là ông tin rằng các con số của CIA là đúng hơn các con số của MACV, nhưng mỗi khi họp thì ông luôn luôn nói theo các con số chính thức của MACV. Các tín hiệu này cho phép Adams nghĩ và tin rằng Đại Tá Hawkins đã bị trói tay và sự hiện diện của Tướng Godding là để kềm chế ông. Cuộc họp về SNIE 14.3-67 lần này diễn ra trên 10 ngày với rất nhiều buổi họp nhưng cũng chẳng đi tới một thỏa hiệp nào gữa CIA và MACV. Một điều chắc chắn là MACV, mà Tư Lệnh là Đại Tướng William Westmoreland và Tư Lệnh Phó là Đại Tướng Creighton Abrams, đã dứt khoát quyết định không chấp nhận ước tính về lực lượng VC của CIA. Tại sao vậy ?

Chính-trị-hóa tình báo

Adams không phải chờ đợi lâu để hiểu rõ lập trường của MACV. Ngày 21-8-1967, Tướng Abrams, Tư Lệnh Phó của MACV, gửi 1 công điện cho Tướng Wheeler, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, và Tướng Wheeler đã chuyển cho CIA. Trong công điện, Abrams nói rõ quan điểm của MACV đối với SNIE 14.3-67 là phải loại bỏ ước tính của CIA về lực lượng dân quân của VC vì, nếu giữ lại, thì tổng số lực lượng của VC sẽ vượt xa con số mà Bộ Tư Lệnh MACV đã trình bày với báo chí tại Việt Nam. Từ mấy tháng qua, MACV đã tiên đoán về một chiến thắng sắp tới; nếu bây giờ con số lực lượng cao như vậy của VC được công chúng biết đến thì khó mà ngăn cản báo chí đi đến một kết luận đen tối và sai lầm. Một lúc sau, Tướng Westmoreland cũng gởi một công điện cho biết hoàn toàn đồng ý với Tướng Abrams.[20]

Như vậy, quan điểm của MACV đã rất rõ ràng: họ dứt khoát không chấp nhận, và sẳn sàng bỏ qua ước tính tình báo của CIA không phải vì ước tính này sai lầm mà chỉ vì ước tính này đi ngược lại cái nhìn lạc quan (sắp thắng VC đến nơi rồi) của họ về Chiến tranh Việt Nam. Lập trường lạc quan này của MACV dựa trên hai tiền đề như sau: 1) chiến lược “Search and Destroy = Lùng và Diệt địch,” nồng cốt của quan niệm chiến tranh tiêu hao (war of attrition) làm cho địch bị kiệt quệ dần về nhân lực và sau cùng phải chịu bỏ cuộc; 2) quan niệm về “Crossover Point = Điểm vượt,” thời điểm khi sự hao mòn về nhân lực của địch vượt quá khả năng bổ sung của địch. Dựa vào OB của VC mà họ đã ước tính thì tại thời điểm giữa năm 1967 này, VC đã sắp đến “điểm vượt” rồi.[21] Đến tháng 6, dựa trên một báo cáo của Đại Tá Daniel Graham, một phân tích viên của ban OB thuộc J-2, MACV tin rằng VC đã đến “điểm vượt” rồi.[22] Lập trường lạc quan này cũng chính là điều mong ước của Chính phủ Hoa Kỳ do Tổng Thống Johnson lãnh đạo. Từ khi lập quốc, trong gần 2 thế kỷ, Hoa Kỳ chưa bao giờ bại trận, và từ sau Thế Chiến 2, Hoa Kỳ đã trở thành cường quốc số 1 của thế giới. Chuyện tin tưởng là Hoa Kỳ cũng sẽ thắng trong cuộc chiến tranh này tại Việt Nam cũng là một điều có thể được chấp nhận đễ dàng. Lập trường lạc quan của Bộ Tư Lệnh MACV tại Việt Nam, dĩ nhiên, đã được báo cáo về Mỹ và hoàn toàn được Chính phủ Johnson hoan nghênh và tích cực ủng hộ. Trên thực tế, nó đã trở thành lập trường chính thức của Chính phủ Mỹ. Cơ quan CIA là một bộ phận của Chính phủ Mỹ, và Giám Đốc CIA, Richard Helms, do chính Tổng Thống Johnson bổ nhiệm, không thể đi ngược lại đường lối, chủ trương của Chính phủ Mỹ được. Do đó, chuyện phải xảy ra đã xảy ra.

Đầu tháng 9-1967, cùng với Carver cầm đầu phái đoàn CIA, Adams bay sang Sài Gòn để dự một hội nghị về OB tại tổng hành dinh của MACV tại Tân Sơn Nhứt. Hội nghị OB khai mạc đúng 10:30 sáng Thứ Bảy, 9-9-1967, dưới sự chủ tọa của Tướng Davidson, J-2 của MACV. Carver giữ vững lập trường của CIA, tích cực chống lưng cho Adams trong việc đối phó với Tướng Davidson và các thủ hạ của ông ta, từng bước đánh đổ các ước tính của MACV. Trước tình hình này, MACV đành phải dùng đến con bài chủ để đánh bại Carver: lệnh của Chính phủ Hoa Kỳ. Cơ quan CIA, mà đứng đầu là Giám Đốc Richard Helms, đã bị áp lực rất nặng nề từ phía chính quyền Johnson. Kết quả là ngày Thứ Hai, 11-9-1967, Carver đã nhận được một công điện từ Helms ra lệnh cho ông phải, bằng mọi cách, đi đến đồng thuận với MACV. Ngay ngày hôm đó, Carver điện về cho Helms, với câu mở đầu như sau: “We have squared the circle.” (Tạm dịch: Chúng ta đã đóng khung vuông được cái vòng tròn rồi, nghĩa bóng: Chúng ta đã làm xong được cái chuyện không thể nào làm được). Ngày hôm sau, Thứ Ba, 12-9-1967, ước tính OB của VC mà MACV và CIA đồng thuận là như sau: [23]

Quân chính quy 119.000
Quân hậu cần 37.500
Quân du kích 80.000
Tổng số quân 236.500
Cán bộ chính trị 80.000


Trở về Mỹ, CIA tiếp tục tổ chức các cuộc thảo luận về SNIE 14.3-67 với các cơ quan tình báo khác của Hoa Kỳ. Adams tiếp tục chống đối trong vô vọng. Sau cùng, SNIE 14.3-67 cũng được thông qua và công bố ngày 13-11-1967 với chữ ký của Richard Helms, Giám Đốc CIA và với sự đồng thuận của:

•Thomas L. Hughes, Giám Đốc INR của Bộ Ngoại Giao
•Trung Tướng Joseph F. Carroll, Giám Đốc DIA, Bộ Quốc Phòng
•Trung Tướng Marshall S. Carter, Giám Đốc NSA (National Security Agency = Cơ Quan An Ninh Quốc Gia)

Trong tài liệu này, lực lượng quân sự của Cộng sản tại Miền Nam được ghi rõ như sau: [24]
• Quân chính quy Bắc Việt: 54.000
• Quân chính quy và địa
phương của Việt Cộng: 64.000
Tổng cộng: 118.000

Con số quân du kích được ước tính vào khoảng 70.000 – 90.000 (tr. 14 của SNIE 14.3-67). Tài liệu SNIE 14.3-67 cũng có bàn đến lực lượng dân quân tự vệ của VC, và có ghi nhận là một số tài liệu có cho biết là vào đầu năm 1966 lực lượng này gồm khoảng 150.000 nhưng nói rõ là lực lượng này hoàn toàn bị loại bỏ, không được tính vào tổng số lực lượng quân sự của VC.[25]

Hậu quả của việc chính-trị-hóa tình báo

Các cơ quan tình báo của các quốc gia đều có nhiệm vụ cung cấp cho các nhà lãnh đạo những tin tức mà họ thu thập được và đã được họ đánh giá là có mức độ khả tín cao để giúp cho các nhà lãnh đạo thực hiện được những chính sách đúng đắn. Vì thế, trên nguyên tắc, về phương diện tổ chức, các cơ quan tình báo thường có cơ chế độc lập, không lệ thuộc nặng nề vào các tổ chức chính quyền. Do đó, một khi cơ quan tình báo chịu sự sai khiến của chính quyền, và chỉ cung cấp cho chính quyền những tin tức mà chính quyền muốn có, muốn nghe thì hậu quả chắc chắn sẽ không tốt đẹp. Và đó chính là hoàn cảnh mà CIA đã lâm vào trong thời gian cuối năm 1967, đưa đến việc họ đã không tiên đoán được vụ Tổng Tấn Công Mậu Thân vào cuối tháng 1-1968.

Cuối tháng 11-1967, Walt W. Rostow, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Johnson, yêu cầu Trạm CIA tại Sài Gòn gởi một báo cáo về những phát triển mới nhứt trong chiến lược của phe Cộng sản. Một ngày sau Lễ Tạ Ỏn (Thanksgiving) của năm 1967, tức là ngày Thứ Sáu, 24-11-1967, Trạm CIA tại Sài Gòn gửi về cho Rostow một báo cáo do phân tích viên Joseph Hovey thực hiện. Trong báo cáo, Hovey nói rõ là Chiến dịch Đông-Xuân 1967-1968 của Cộng quân gồm 3 đợt; đợt 1 đã bắt đầu trong tháng 9-1967 vừa qua, và đợt 3 sẽ chấm dứt vào tháng 6-1968; nhiều tài liệu tịch thu được của địch, đã được ghi chú trong báo cáo, cho biết Cộng quân, nhắm đạt một chiến thắng quyết định trong năm 1968, sẽ thực hiện một cuộc tổng tấn công nhắm vào các thành phố trên khắp lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa.[26]

Rostow đã chuyển cho CIA một bản của báo cáo này và người nhận chính là George Carver, Phụ Tá Đặc Biệt về Việt Nam (SAVA = Special Assistant for Vietnam Affairs) của Giám Đốc CIA Richard Helms. Carver chính là người đã ủng hộ Adams rất tích cực trong vụ tranh chấp về OB của VC với MACV, nhưng sau đó, theo lệnh của Helms, đã thỏa hiệp với MACV. Carver giao cho phụ tá của mình là George Allen xét duyệt báo cáo này. Carver bác bỏ báo cáo, cho rằng những tài liệu tịch thu được của địch đã được nêu trong báo cáo là không đáng tin vì VC cũng đã từng rêu rao về một “chiến thắng quyết định” như vậy từ năm 1966.

Sang đầu tháng 12-1967, ngày 8-12-1967, Joseph Hovey lại gởi thêm một báo cáo nữa, khẳng định lại điều đã ghi nhận trong báo cáo trước (về cuộc Tổng Tấn Công sắp diễn ra của VC vào các thành phố của VNCH) nhưng với nhiều chi tiết hơn, đặc biệt nhấn mạnh là VC sẽ tổ chức các cuộc tấn công lớn ở biên giới để cầm chân các lực lượng của Hoa Kỳ để cho cuộc tổng tấn công vào các thành phố được dễ dàng thành công hơn. Lần này, khi nhận được báo cáo thứ nhì của Hovey, Carver giao cho Phòng Tình Báo Hiện Hành (Office of Current Intelligence = OCI) xét duyệt, và OCI cũng đã bác bỏ báo cáo này, cho rằng Trạm CIA Sài Gòn đã thổi phồng, cường điệu tình hình của địch. Khác với lần trước, lần này Carver cũng tham khảo cả Adams. Adams tin là phân tích của Sài Gòn là rất đáng tin. Như vậy, chỉ có một mình Adams là tin vào báo cáo của Sài Gòn, toàn thể CIA đã không tin, và đã báo cáo như thế cho Rostow.

Cuối năm 1967, Tướng Westmoreland, Tư Lệnh MACV, được triệu về Mỹ để khẳng định lập trường lạc quan này của Chính Phủ Johnson. Ngày 21-11-1967, Westmoreland tuyên bố tại Washinton, D.C. là chiến tranh Việt Nam sắp kết thúc tới nơi rồi.[27]

Thay Lời Kết

Về sau, tất cả mọi người đều đã biết là mọi việc đã diễn ra đúng như báo cáo của Hovey. CIA đã thất bại hoàn toàn, không tiên đoán được cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân đã diễn ra trên khắp lãnh thổ của VNCH vào cuối tháng 1-1968. Cuộc Tổng Tấn Công Mậu Thân sau đó đã là thất bại quân sự rất lớn cho VC nhưng đã đạt được thành quả chính trị vô cùng to lớn. Dân chúng Mỹ không còn tin vào chính phủ nữa, phong trào phản chiến ngày càng mạnh thêm. Tổng Thống Johnson bác bỏ yêu cầu tăng thêm quân của Tướng Westmoreland, chấm dứt nhiệm vụ Tư Lệnh MACV của ông, và cử Tướng Abrams lên thay. Tổng Thống Johnson cũng quyết định không ra tái tranh cử Tổng Thống, và quyết định xuống thang chiến tranh, ngưng oanh tạc Bắc Việt, và kêu gọi phe Cộng sản đến bàn hội nghị. Về phần Adams, sau khi CIA thỏa hiệp với MACV, ông đã chính thức yêu cầu văn phòng Tổng Thanh Tra của CIA mở cuộc điều tra nhưng không đi tới đâu. Ông đã mang một số khá lớn các tài liệu mật của CIA về vụ này ra khỏi cơ quan và chôn dấu trong một khu rừng gần nhà ông. Tháng 5-1973, ông từ chức không làm cho CIA nữa. Sau đó ông liên lạc với nhiều dân biểu quốc hội Mỹ để nói cho họ biết về việc này nhưng không có dân biểu nào quan tâm. Do đó ông quyết định phải viết báo.

Năm 1975, ông viết một bài báo cho tạp chí Harper’s; bài báo được đăng vào tháng đầu 5-1975 nhưng đúng vào lúc VNCH sụp đổ nên bài báo bị chìm đi. Năm 1982, đài truyền hình CBS mời ông cộng tác trong việc thực hiện một chương trình phóng sự điều tra mang tên “The Uncounted Enemy: A Vietnam Deception.” Tướng Westmoreland cho rằng ông bị lăng mạ bởi phóng sự đó nên đã kiện CBS ra tòa. Nội vụ kéo dài mấy năm, với rất nhiều nhân chứng quan trọng. Sau cùng, trước khi tòa án giao cho bồi thẩm đoàn thảo luận, Westmoreland rút lại đơn kiện vào ngày 18-2-1985. Adams đột ngột qua đời vào ngày 10-10-1988 khi còn đang viết chưa xong cuốn hồi ký của ông “War of Numbers.” Từ 2002, các bạn đồng nghiệp CIA của ông tạo ra một giải thưởng mang tên là “Sam Adams Award for Integrity in Intelligence” để tưởng niệm ông.

Ghi Chú:

1. Adams political family, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://en.wìkipedia.org/wiki/Adams_political_family
2. Adams, Sam. War of numbers: an intelligence memoir ; introduction by Colonel David Hackworth. South Royalton, Vermont. : Steerforth Press, 1994. Tr. 33-35.
3. Tướng William C. Westmoreland (1914-2005) là một Đại Tướng. Hệ thống tướng lãnh của quân đội Mỹ là như sau: Brigadier-General = Chuẩn Tướng, 1 sao); Major-General = Thiếu Tướng, 2 sao; Lieutenant-General = Trung Tướng, 3 sao; và Full General hay General = Đại Tướng, 4 sao. Trước kia, còn có cấp General of the Army = Thống Tướng, 5 sao, như các Tướng Douglas McArthur, Dwight Eisenhower, và Omar Bradley. Tướng Bradley là vị Thống Tướng sau cùng của quân đội Hoa Kỳ; sau khi ông qua đời chưa có một tướng lãnh nào được phong lên cấp bậc này nữa cả). Tướng Westmoreland sinh ngày 26-03-1914 tại Spartanburg County, tiểu bang South Carolina. Ông tốt nghiệp trường Vơ Bị West Point khóa 1936. Trong thời gian Đệ Nhị Thế Chiến, ông ch̀ huy một tiểu đoàn pháo binh tại mặt trận Bắc Phi, Sicile và Pháp, và là Tham Mưu Trưởng cûa Sư đoàn 9 Bộ Binh Hoa Kỳ trong giai đoạn cuối cûa Thế Chiến 2. Trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, ông là Tư Lệnh Trung đoàn 187 nhảy dù. Sau chiến tranh Triều Tiên ông là Tư Lệnh Sư đoàn Dù 101 nổi tiếng của Hoa Kỳ. Năm 1960, ông được bổ nhiệm làm Chỉ Huy Trưởng trường Vơ Bị West Point. Đầu năm 1964, ông được bổ nhiệm Tư Lệnh Phó lực lượng cố vấn quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam, dưới quyền Tướng Paul Harkins. Từ tháng 6 năm 1964, ông thay thế tướng Harkins làm Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam. Trong thời gian 1964-1968, với sự hỗ trợ tích cực của Tổng Thống Johnson, ông đă đưa quân số cûa lực lượng này lên đến trên nửa triệu quân. Ông cũng là ngườ đã thực hiện chiến lược “Lùng và Diệt Địch” cûa quân đội Hoa Kỳ trên chiến trường Việt Nam. Sau cuộc Tổng Tấn Công Mậu Thân cûa Việt Công, ông bị rút về Mỹ vào tháng 7 năm 1968. Sau đó ông giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ (U.S. Army Chief of Staff) cho đến khi ông về hưu năm 1972. Ông là tác giä quyển sách “A Soldier Reports” (Garden City, N.Y.: Doubleday, 1976).
4. MACV là chữ viết tắt của Military Assistance Command – Vietnam, tức là Bộ Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam.
5. RAND Corporation là một tổ chức bất vụ lợi (non-profit organization) do Công ty sản xuất phi cơ Douglas Aircraft Company của Hoa Kỳ thành lập vào năm 1948 để phục vụ công tác nghiên cứu và phát triển (Research and Development, vì thế nên tổ chức được đặt tên là RAND) cho Không Lực Hoa Kỳ. Sang thập niên 1960, RAND trở thành 1 think tank có mục tiêu là trợ giúp chính phủ Hoa Kỳ trong việc nghiên cứu và hình thành các chính sách. Do đó, RAND đã tham gia rất tích cực vào các dự án nghiên cứu cho Chính phủ Hoa Kỳ trong thời gian chiến tranh Việt Nam.
6. Adams, sđd, tr. 46.
7. Số binh sĩ tử trận (KIA = Killed In Action) của quân đội Mỹ trong năm 1966 đã gia tăng như sau:
- Tháng 1: 196
- Tháng 2: 208
- Tháng 3: 231
- Tháng 4: 245
- Tháng 5: 255
- Tháng 6: 268
- Tháng 7: 277
- Tháng 8: 297
- Tháng 9: 313
- Tháng 10: 342
- Tháng 11: 356
- Tháng 12: 385
Nguồn: Vietnam War deaths and casualties by month, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.americanwarlibrary.com/vietnam/vwc24.htm
8. Air America là 1 công ty hàng không do chính phủ Hoa Kỳ thành lập, và được cơ quan CIA sử dụng trong các hoạt động cả công khai lẩn bí mật. Nó là đề tài cho cuốn phim của Hollywood có cùng tên, sản xuất năm 1990, do 2 tài tử Mel Gibson và Robert Downey, Jr. đóng vai chánh, nói về các hoạt động bí mật của CIA (buôn thuốc phiện trắng) tại Lào.
9. Đoàn Thêm. 1966: việc từng ngày; tựa của Lãng Nhân. Sài Gòn: Cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai, 1968. Los Alamitos, Calif.: Xuân Thu tái bản, 1989. Tr. 29.
10. Adams, sđd, tr. 58. Nguyên văn trong sách như sau: “…The 506th’s up in the northern part of the province, up near Hau Nghia. It’s back up to T, O and E.” Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “… Tiểu đoàn 506 đã có mặt tại phía Bắc của tỉnh, gần Hậu Nghĩa. Nó đã bổ sung xong đầy đủ quân số và trang bị.” Các chữ “T,O and E” là viết tắt cho “Table of Organization and Equipment” trong ngữ vựng tình báo Mỹ và có nghĩa là “đầy đủ quân số và trang bị.”
11. Adams, sdd, tr. 59-60.
12. Lâm Vĩnh Thế. Tình báo trong Chiến Tranh Việt Nam, tài liệu trực tuyến, đã đăng trong trang Web Nam Kỳ Lục Tỉnh, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://sites.google.com/site/namkyl...tranh-viet-nam, tr. 18-19.
13. Adams, sđd, tr. 65-66.
14. Adams, sđd, tr. 68.
15. Adams, sđd, tr. 77.
16. Richard Helms, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://en.wikipedia.org/wiki/Richard_Helms Helms là 1 nhân viên tình báo chuyên nghiệp, xuất thân từ tổ chức OSS (Office of Strategic Services, tiền thân của CIA, trong thời gian Đệ Nhị Thế Chiến); khi CIA được thành lập, ông là Chief of Operations, dưới quyền DDP (Deputy Director for Plans) Frank Wisner; sau đó ông trở thành DDP dưới thời Tổng Thống Kennedy, và sau cùng được Tổng Thống Johnson bổ nhiệm làm Giám Đốc CIA (DCI = Director of Central Intelligence).
17. Ford, Ronnie E. Tet 1968: understanding the surprise; forewords by General William C. Westmoreland and George W. Allen. London: Frank Cass, 1995. Tr. 172-173.
18. Adams, sđd, tr. 96-97.
19. Adams, tr. 101.
20. Adams, sđd, tr. 106. Công điện của Abrams có những đoạn như sau: “… the resulting sum would be in sharp contrast to the current overall strength figure of about 299,000 given to the press here… We have been projecting an image of success over recent months… if the higher numbers were to become public, all caveats and explanations will not prevent the press from drawing an erroneous and gloomy conclusion…” Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “… tổng số đưa đến sẽ nghịch hẳn với tổng số hiện nay cho toàn bộ lực lượng [của VC] là 299.000 đã cung cấp cho báo chí ở đây… Mấy tháng vừa qua, chúng ta đã đưa ra một hình ảnh chiến thắng … nếu những con số cao hơn đó được công bố , tất cả những báo động, giải thích sẽ không ngăn chận được báo chí đi đến kết luận sai lầm và ảm đạm …” Công điện của Westmoreland có những đoạn như sau: “… I have just read General Abrams’ [message], and I agree… no possible explanations could prevent the erroneous conclusions that would result.” Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “… Tôi vừa đọc xong [công điện] của Tướng Abrams, và tôi đồng ý… không có lời giải thích nào có thể ngăn chận được những kết luận sai lầm từ đó.”
21. Ford, Harold P. CIA and the Vietnam policymakers: three episodes, 1962-1968. Langley, Va.: Central Intelligence Agency, Center for the Study of Intelligence, 1998. Tr. 87. Tác giả viết rõ như sau: “… the MACV staff had been claiming for some time that the enemy was suffering great losses in Vietnam, and in mid-1967 predicted that a “crossover” would soon occur when losses would exceed the replacement capacity;…” Tạm dich sang Việt ngữ như sau: “… nhân viên MACV, trong một thời gian, đã cho rằng địch đã bị thiệt hại nặng tại Việt Nam, và vào giữa năm 1967 đã tiên đoán rằng “điểm vượt” sắp xảy ra khi thiệt hại vượt quá khả năng bổ sung; …).
22. Wirtz, James J. The Tet Offensive: intelligence failure in war. Ithaca, N.Y.: Cornell University Press, 1991. Tr. 119. Nguyên văn Anh ngữ như sau: “In June 1967, MACV analysts claimed that the crossover point had been reached throughgout South Vietnam. In the “Crossover Memo of June 1967,” Col. Daniel Graham, an analyst in the order-of-battle section at MACV J-2, stated that the monthly infiltration rate had dropped to 6,000-7,000 men per month, and that VC recruitment had dropped to 3,500 per month. At these rates, the enemy was losing men faster than they could be replaced. Graham’s memo formed the basis of the June measurement of progress report, which stated that the crossover point had been reached.” Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Vào tháng 6-1967, các phân tích viên của MACV cho rằng đã đạt đến điểm vượt trên khắp lãnh thổ của Nam Việt Nam. Trong “Công văn về điểm vượt tháng 6-1967,” Đại Tá Daniel Graham, phân tích viên của ban OB của J-2 của MACV, cho biết là mức độ xâm nhập hàng tháng của địch đã giảm xuống còn 6.000-7.000 người một tháng, và mức độ tuyển mộ của VC đã giảm xuống còn 3.500 một tháng. Với các mức độ này, địch quân đang tổn thất người nhanh hơn mức bổ sung. Công văn của Graham đã tạo nên căn bản cho các tính toán trong báo cáo của tháng 6 cho rằng điểm vượt đã đạt đến.”
23. Adams, sđd, tr. 117.
24. Special National Intelligence Estimate Number 14.3-67: Capabilities of the Vietnamese Communists for Fighting in South Vietnam, tr. 11.
25. Tài liệu SNIE 14.3-67 vừa kể trên, tr. 15-16.
26. Ovodenko, Alexander, “Visions of the enemy from the field and from abroad: revisiting CIA and military expectations of the Tet Offensive,” Journal of strategic studies, v. 34, no. 1 (Feb. 2011), tr. 125. Nguyên văn Anh ngữ như sau: “…that the Winter–Spring campaign consisted of three phases, with the first phase having begun in September 1967 and the third phase expected to end in June 1968. Captured documents referenced in the report suggested that the communists intended to achieve a decisive victory in 1968 by launching large-scale offensives, including against urban centers throughout South Vietnam,...”
27. Valentine, Tom. Credibility gap, tài liệu trực tuyến, đăng trong trang Web The Vietnam War, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://thevietnamwar.info/vietnam-wa...edibility-gap/ Bài viết này có ghi như sau: “Throughout 1967, Johnson administration began to propagate an optimistic picture about the U.S. situation in Vietnam. In late 1967, General William Westmoreland, the head commander of Military Assistance Command, Vietnam (MACV), returned to the United States to give an upbeat assessment of the American War in Vietnam. In the speech before the National Press Club in Washington D.C. on November 21, Westmoreland announced the U.S. “had turned the corner in the war” and that the end of the war in Vietnam “began to come into view”. Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Suốt năm 1967, chính phủ Johnson bắt đầu phổ biên một hình ảnh lạc quan về tình hình của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Cuối năm 1967, Tướng William Westmoreland, cầm đầu Bộ Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam, về Mỹ để cung cấp một đánh giá phấn khởi về Chiến tranh Việt Nam. Trong bài diễn văn tại Câu Lạc Bộ Báo Chí Quốc Gia tại Washington, D.C. vào ngày 21 Tháng Mười Một, Westmoreland tuyên bố là Hoa Kỳ “đã vượt qua khúc quanh của cuộc chiến” và kết thúc của cuộc chiến “đã bắt đầu hiện ra trong tầm nhìn.”



Lâm Vĩnh Thế
Librarian Emeritus, M.L.S.
University of Saskatchewan
CANADA

hoanglan22 02-11-2019 14:18

Sài G̣n xưa : Ăn Chơi ngày Tết
 
6 Attachment(s)
“Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi
Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi
Người thương gia lợi tức
Người công nhân ấm no
Thoát ly đời gian lao nghèo khó…”

Đó là những ca từ mở đầu cho bài nhạc quen thuộc “Ly rượu mừng” [1] của nhạc sĩ Phạm Đ́nh Chương. Mỗi độ xuân về, cho đến tận bây giờ, “Ly rượu mừng” đă đi vào kư ức của người miền Nam nói chung và người Sài G̣n nói riêng. Tuy nhiên, măi tới năm nay (2016) nhà nước mới “cởi trói” [2] cho một bản nhạc tưởng chừng như… “vô tội vạ”.

H́nh như, theo quan điểm chính trị của Cục Nghệ thuật Biểu diễn, lời của bản nhạc có câu chúc “người binh sĩ lên đàng” rồi lại vinh danh họ là “người v́ nước quên thân ḿnh”… (hiểu ngầm là quân nhân VNCH):

“… Rót thêm tràn đầy chén quan san
Chúc người binh sĩ lên đàng
Chiến đấu công thành
Sáng cuộc đời lành
Mừng người v́ Nước quên thân ḿnh…”

Bản nhạc được sáng tác năm 1956 với âm điệu tươi vui như một lời chúc Tết tốt đẹp theo truyền thống dân tộc. Lời chúc đó gửi tới mọi thành phần xă hội: từ “anh nông phu”, “người công nhân”, “đôi uyên ương”, “người nghệ sĩ” cho đến các thương gia và binh sĩ. Ngay từ khi ra đời, ca khúc đă được ḷng khán thính giả và là tác phẩm được nghe nhiều nhất trong mỗi dịp xuân về tại Miền Nam.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1549894351

“Ly rượu mừng”, nhà xuất bản Tinh Hoa ấn hành lần thứ nhất, năm 1956

Sài G̣n xưa ăn Tết rất kỹ. Theo đúng tính cách phóng khoáng, “xả láng” và “chịu chơi” của người Phương Nam:

“Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè”.

Người Miền Nam dùng thuật ngữ “ăn nhậu” để mô tả những hoạt động vui chơi, giải trí sau những ngày làm việc cật lực. Đó là cái tinh thần… “xả láng sáng về sớm”. Ngày Tết người ta tạm quên những công việc hàng ngày để đón mừng năm mới với hai thú vui chính là ăn uống và “nhậu nhẹt”.

Tùy theo túi tiền của từng người, rượu có thể là “rượu tây” thứ “xịn” như Whiskey, Bourbon, Johny Walker (Ông Già Chống Gậy), Champagne… hoặc các loại rượu “nội hóa” như Đế G̣ Đen hay chai bia BGI “Con Cọp”… Để “đưa cay” nhiều khi chỉ cần “củ kiệu tôm khô”, thậm chí chỉ là miếng xoài, trái cóc. Dân nhậu thường nhắc:

“Ăn nem Thủ Đức
Uống rượu Bến Lức G̣ Đen”.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1549894351


Rượu Đế G̣ Đen

Đối với nhiều gia đ́nh, thiếu bánh chưng, bánh tét sẽ mất đi hương vị của Tết. Có nghèo lắm cũng cố rước về 1 hay 2 đ̣n bánh tét để trước là cúng ông bà và sau đó là “xẻ” ra cho con cháu để t́m lại chút hương vị ngày xuân. Có thêm vài miếng dưa món ăn kèm sẽ làm cho miếng bánh chưng, bánh tét đỡ ngán!

Nồi thịt kho hột vịt lúc nào cũng hiện diện trên bếp, hâm đi hâm lại sau mỗi lần ăn. Hạt dưa cắn lách tách đến độ đỏ hết hai vành môi, khỏi cần tô son. Có nhiều loại mứt Tết làm từ cây trái: mứt dừa, mứt bí, mứt măng cầu, mứt me… Trái cây tươi th́ có dưa hấu giải nhiệt trong cái nắng hanh vàng của những ngày Tết.

Người Sài G̣n có câu thật dí dỏm “Cầu Dừa Đủ Xài” là tổng hợp của của 4 loại trái: măng cầu, dừa, đu đủ và xoài. Ngày nay, lang thang trên mạng tôi bắt gặp không phải là 4 thứ trái cây mà c̣n thêm cả Bơm (táo), Vú (vú sữa), Sung, Quất (tắc), Bầu.. Ta có một bài thơ “ngũ ngôn tứ tuyệt” rất gợi h́nh trong ngày Tết:

“Bơm vú dừa đủ xài
Cầu sung dừa đủ quất
Cầu quất dừa đủ bầu
Cầu bầu dừa đủ sữa”

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1549894351

Hết “ăn” lại nói đến chuyện “chơi” trong ngày Tết. Về khoản này, dân Sài G̣n chiếm ngôi vị “số dách” trong các món chơi. Tuy nhiên, cũng phải xác định có hai cách: “chơi” trong nhà và “chơi” ngoài đường. Nói khác đi là những tṛ đỏ đen, bài bạc vui xuân ngoài cộng đồng hoặc trong gia đ́nh.

Có thể nói, “bầu cua cá cọp” là món thịnh hành nhất trong ngày Tết, diễn ra khắp mọi nơi, từ trong nhà ra ngoài đường. Ṣng bầu cua lưu động ngoài đường c̣n có cả những người “canh me”, hễ thấy bóng dáng “phú-lít” là báo động giải tán.

Lập ṣng bầu cua cũng đơn giản. Chỉ cần một miếng vải hoặc giấy vẽ h́nh 6 biểu tượng: nai, bầu, gà, cá, tôm và cua. Nhà cái c̣n trang bị thêm 3 viên súc sắc h́nh khối vuông, trên mỗi mặt có vẽ h́nh các biểu tượng tương ứng với 6 “linh vật”. Cần thêm một cái chén và cái đĩa để “lắc” ba viên xúc xắc.

Người chơi chỉ việc đặt tiền vào những “linh vật” sau khi nhà cái lắc 3 viên súc sắc được giữ kín trong chén úp trên đĩa. Sau khi mở chén, ba con súc sắc xuất hiện 3 “linh vật” và những ai đặt tiền vào linh vật đó sẽ được nhà cái “chung tiền”. Ngược lại, tiền đặt vào những ô không xuất hiện nhà cái sẽ… “hốt” hết.

Tính theo xác suất tỷ lệ thắng thua đối với nhà cái là 50% nhưng thực tế mỗi lần mở chén nhà cái chỉ thắng hoặc huề chứ ít khi thua. Trường hợp cả ba súc sắc đều giống nhau, nhà cái sẽ chung gấp ba nhưng nếu không ai đặt cửa này th́ nhà cái sẽ “thắng lớn” v́ gom tiền hết ṣng!

Có người giải thích tṛ “bầu cua cá cọp” là một biến thể của “roulette” ở Phương Tây hay “tài sửu” (đại & tiểu) của Tầu. Đây là một tṛ cờ bạc thuộc loại “b́nh dân” có sức hấp dẫn cả người lớn lẫn trẻ em. Đối với trẻ em, nhân ngày Tết nhận tiền “ĺ x́” thường ghé vào các đám bầu cua trong xóm hoặc vui chơi trong gia đ́nh, anh chị em tổ chức đánh bầu cua “thử thời vận năm mới”. Có một câu hát dí dỏm trẻ con đặt ra thời xa xưa khi chuyện chưởng của Kim Dung thịnh hành:

“Có cô gái Đồ Long lắc bầu cua,
Lắc ba cái ra ba con gà mái…”

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1549894351
“Bầu cua cá cọp” ngày Tết

Miền Nam tiếp xúc với văn hóa Phương Tây rất sớm nên bộ “Bài Tây” 52 cây đă thâm nhập vào các tỉnh phía Nam ngay sau khi người Pháp đặt chân đến Sài G̣n. Người ta làm quen với các con bài mang 4 kư hiệu: ♥ (cơ), ♦ (rô), ♣ (chuồn), ♠ (bích), tượng trưng cho 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông trong khi bộ bài có 52 lá để chỉ 52 tuần trong một năm.

Mỗi lá bài c̣n có số in tương ứng với số của quân bài. Riêng lá bài K (King) có h́nh vua được “Việt hóa” là Già; Q (Queen) có h́nh hoàng hậu là Đầm: J (Joker) có h́nh tên hề gọi là Bồi. Riêng lá A (Ace) là X́ hoặc Ách, tương đương với con số 1. Bài Tây có rất nhiều cách chơi khi du nhập Miền Nam, sau 1975 cũng xuất hiện một số thuật ngữ lạ từ Miền Bắc như “tú lơ khơ” để chỉ bộ Bài Tây.

Từ bộ bài 52 cây này người ta có nhiều cách chơi. “X́ tố” hay “x́ phé” (poker) với số người chơi từ 2 đến 6. Đầu tiên sẽ chia 2 lá trong đó có 1 con bài úp xấp để các người chơi “tố” bằng cách đi tiền. Người chơi có thể “theo” hoặc “tố ngược” với số tiền cao hơn ban đầu… ai có con bài lớn nhất sẽ thắng. “Binh xập xám” (Chinese poker) lại cần đủ 4 người chơi, mỗi người 13 cây nên mới gọi theo tiếng Tầu là “xập xám”.

Đó là những món có tính cách sát phạt, ăn thua lớn nhưng trong ngày Tết nhiều gia đ́nh tổ chức những “ṣng” mang ư nghĩa thuần túy của sự giải trí như “các tê” hay “x́ lác”. Ăn thua không là vấn đề quan trọng, nhưng cái chính là ông bà, cha mẹ, con cái được dịp vui chơi trong những ngày xuân.

Một ván “x́ lác” diễn ra rất nhanh v́ mỗi người chỉ được chia có hai cây bài và tính điểm theo các con số trên cây bài. Riêng các lá có h́nh (K, Q, J) được tính là 10 và A có thể tính là 1, hoặc 10. Cao nhất là 21 nút, nếu thấy “chưa đủ tuổi” có thể bốc thêm nhưng coi chừng sẽ bị “oác” khi tổng số điểm vượt quá 21.

Tôi nghĩ “các tê” là môn chơi hấp dẫn hơn v́ đ̣i hỏi người chơi phải biết tính toán cho hợp lư. Mỗi người được chia 6 quân bài, phải tính sao cho ḿnh có ít nhất một cây được ngửa, tức là có “tùng”, mới có quyền “chưng” hai cây cuối. Nếu cứ “thiệp” (úp) hết coi như “tiêu tùng” sẽ bị loại khỏi cuộc chơi!

Giai đoạn “chưng” cũng hồi hộp không kém. Nhiều khi “chưng” cây lớn để dành quyền làm chủ nhưng cây úp lại nhỏ tí mà vẫn thắng. Cũng có khi 2 cây cuối cùng rất lớn nhưng vẫn thua v́ ḿnh không có quyền “chưng”. Mỗi ván bài là cả một cuộc đấu trí vừa hồi hộp vừa vui nhộn trong không khí ngày Tết!

Có người quan niệm đánh bài là để “thử thời vận đầu năm”. Người ta tin vào quy luật “đen t́nh, đỏ bạc” nên có thua bài th́ cũng an ủi sẽ gặp vận hên, chẳng hạn như trong chuyện t́nh cảm lứa đôi.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1549894351

Bộ bài Tây

Hơn 1 triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 đă đem lại cho Sài G̣n nhiều thú vui ngày Tết mới lạ. Chơi bài tam cúc là một thú vui ngày Tết khá phổ biến trong các gia đ́nh người Bắc di cư.

Bộ bài gồm 32 lá mang h́nh Tướng, Sĩ, Tượng, Xe, Pháo, Mă, Tốt… theo thứ tự của các quân cờ tướng và chia thành hai màu đen và đỏ, trong đó các quân bài màu đỏ có giá trị cao hơn màu đen. Chẳng hạn “tướng bà” đè “tướng ông”, tịnh (tượng) “điều” (đỏ) có quyền “ăn” tịnh đen…

Trong một bộ bài chỉ có hai tướng, tiếp đó các quân khác có một đôi đỏ hoặc đôi đen và 5 con tốt cũng phân thành 2 màu đen-đỏ. Ngôn ngữ trong Tam Cúc rất đặc biệt: “Bộ đôi” là hai quân bài cùng màu, cùng tên như đôi Sĩ điều, đôi Pháo đen... “Bộ ba” gồm ba quân Tướng-Sĩ-Tượng và Xe-Pháo-Mă cùng màu.

Khác với bài Tứ Sắc, các quân bài được chia hết cho tất cả mọi người tham dự chiếu bài. Người làm cái sẽ ra bài đầu tiên và gọi bài: "một cây", "đôi cây" hay "ba cây"... được gọi th́ những người chơi c̣n lại sẽ tương ứng cho ra số cây bài của ḿnh.

Các cây bài được ra với mặt phải (mặt có kư hiệu quân) được giữ kín và úp xuống chiếu bài. Khi mọi người đă ra đầy đủ bài th́ người gọi bài sẽ lật bài đầu tiên rồi theo thứ tự những người bên cạnh, ai có lá bài có giá trị lớn nhất th́ người đó được bài và giành cái. Tuy nhiên, tất cả mọi người được phép “chui” bài bằng cách chịu thua và không lật bài lên để khỏi lộ bài.

“Tứ tử” là bốn quân Tốt cùng màu, nếu ai có sẽ “Tứ tử tŕnh làng” để người khác tự động chui 4 cây bài. Trong trường hợp có đến 5 con Tốt sẽ được quyền “Ngũ tử cướp cái”. Lại có quyền “Đi đêm” với người khác khi gặp những quân bài quá xấu hoặc cần những cây mà ḿnh không có.

Khi cây bài bị thua, người ta dùng thuật ngữ “bị đè”… cho nên nếu giữ lại một cặp tốt đen vào chung cuộc, gọi là “kết”, cũng có thể bị cặp tốt đỏ của đối phương “đè” mà lại c̣n bị “đền”! Trong bối cảnh một ván bài tam cúc, Lê Đ́nh Điểu có bài thơ viết về mùa xuân thật dễ thương của đôi lứa:

“Tốt đỏ mà đè tốt đen
Kết nhất bội nhị làm em phải đền.
Ứ ừ người ta đang đen
Không thèm chơi nữa giả tiền tôi đây.
Ơ ơ bêu chửa cô này
Bị đè c̣n khóc giơ tay đ̣i tiền
Có gan để kết tốt đen
Tất có gan để chịu đền chứ sao?
“Ứ ừ , sao ở trên cao
Người ta thua mất sáu hào hai xu!..”

“Mười năm đi dưới trăng sao
Bây giờ dừng lại (nơi nào đây em?)
Ván bài đời có tốt đen
Trăm lần để kết phải đền cả trăm!

Thơ ngây thua nhẵn mười năm
X̣e tay thấy trắng khóc thầm cả đêm
Ngày xưa em khóc, anh đền
Bây giờ anh khóc ai đền cho anh?

Tam Cúc cũng đă đi vào thơ văn từ hồi tiền chiến. Nhà thơ Hồ Dzếnh tả người t́nh trong bài thơ “Cỗ bài Tam Cúc”:

“Ngày Tết mải chơi tam cúc
Không hay anh tới sau lưng
Ghé lại gần anh mách nước
Kết luôn xe pháo mă hồng.

Ô ván bài em đỏ quá
Đỏ như đôi má ngày xuân
Em có ăn trầu đâu nhỉ?
Mà sao người thấy bâng khuâng…”

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1549894351

Bộ bài Tam Cúc

Hơn 40 năm về trước, “Ly rượu mừng” đă chúc cho một đất nước Việt Nam tự do, thanh b́nh:

“Chúc non sông hoà b́nh, hoà b́nh
Ngày máu xương thôi tuôn rơi
Ngày ấy quê hương yên vui
Đợi anh về trong chén t́nh đầy vơi…”

Nhưng đến nay, những lời chúc đó vẫn chưa trọn vẹn. Một lần nữa, chúng ta cùng nâng ly để chúc cho một Việt Nam với muôn người hạnh phúc chan ḥa:

“Nhấc cao ly này
Hăy chúc ngày mai sáng trời tự do
Nước non thanh b́nh
Muôn người hạnh phúc chan hoà

Ước mơ hạnh phúc nơi nơi
Hương thanh b́nh dâng phơi phới”


Nguyen ngoc chinh

tbbt 02-15-2019 05:28

https://i.postimg.cc/vBW2dmXq/gplus4...7077883090.jpg

hoanglan22 02-16-2019 14:54

Ở đâu đó có một nơi tên Sài G̣n
 
3 Attachment(s)
http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1550328786

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1550328786

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1550328786

Thưa mấy cô mấy chú, con là 1 đứa nhỏ lớn lên ở Sài G̣n sau 1975, rất nhỏ so với các bác các cô chú ở đây. Mặc dù vậy, niềm yêu thương và t́nh cảm con dành cho vùng đất này không hề nhỏ. Đây là bài con viết cách đây 2 năm, con xin chia sẻ cùng mọi người, để cùng nhau hoài niệm về những tháng ngày tốt đẹp của 1 nơi đă từng rất đẹp.

****

Bữa hổm "trong mùng", gọi chiếc taxi chở mấy đứa nhỏ đi coi xiếc. Anh tài xế hay chuyện, nói tới nói lui 1 hồi anh hỏi em quê ở đâu. Dạ em gốc gác miền Tây nhưng dân Sài G̣n từ trong trứng rồi anh, ảnh cười ờ anh cũng gốc Hoa nè em nhưng cũng thành dân Sài G̣n rặt. Ba điều bốn chuyện ḿnh hỏi anh lái xe vầy nh́n đường sá Sài G̣n riết chắc ngán ngẩm anh ha, ảnh cười cười nói chứ ở riết thương lắm em ơi, giờ em đi đâu cũng vậy hà, em không thương đất lấy ǵ đất nó thương em.

Tự nhiên nh́n lại anh rất khác.

Sài G̣n bây giờ... xấu hơn nhiều, ít nhất là trong mắt những người Sài G̣n xưa hoặc những hoài niệm về vùng đất Gia Định Thành ngày đó. Cái rộn ràng náo nhiệt của Sài G̣n bây giờ bị pha tạp bởi sự ồn ă chói tai. Vẻ đẹp sang chảnh của Sài G̣n bị nhúng chàm bởi những mảng màu diêm dúa thô kệch. Sài G̣n đă dần mất đi nét óng ả nuột nà của ḥn ngọc Viễn đông cách đây chưa lâu. Người hoài niệm Sài G̣n hẳn là buồn.

Thiên hạ nhắc nhau tới Sài G̣n phải cẩn thận của nả, người đâu của đó, coi chừng cướp bóc giật dọc tràn lan ngoài đường. Đường phố Sài G̣n ôi sao mà đông đúc, mà chen lấn, xe cộ ở đây sao không biết nhường nhau, dân Sài G̣n sao mà mánh mung lừa lọc vậy.

Sài G̣n tệ vậy... mà sao Sài G̣n vẫn đông ?

Hôm nọ đọc tản văn của chị Tư* ví von Sài G̣n như một cô vợ bị ruồng rẫy, nhưng vẫn chấp nhận bao dung anh chồng lạc ḷng của ḿnh mỗi khi anh đi ngoại t́nh về, vẫn dịu dàng cơm dẻo canh ngọt giúp anh no ḷng, vẫn giang tay cho anh cơ hội sống tốt ở xứ này... để rồi nhận lấy những lời chê bai đay nghiến so sánh thiệt hơn của anh. Những anh chồng ấy khi hỏi sao không bỏ vợ th́ trơn tuột "thôi ráng giữ gia đ́nh tṛn vẹn cho con", cũng như những người sống ở Sài G̣n nhưng vẫn mang tư tưởng "xứ ǵ mà ồn ào khó sống vậy" khi được hỏi sao không rời chỗ này về quê cho an ổn th́ lại phân vân "thôi, công việc làm ăn ở đây, con cái học hành trên này....sao mà bỏ được". Sài G̣n xấu đi như bây giờ một phần là nhờ những người tham lam như vậy.

Ḿnh chán Sài G̣n không ? Có. Mỗi lần bị nhấn ch́m trong ṿng xoáy ồn ào khói bụi giữa những chiếc xe bất chấp luật lệ bon chen lên trước, hay mỗi lần thấy những anh chị công sở quay đầu khạc nhổ cái xoẹt xuống đường, hoặc mỗi lần đọc tin tệ nạn xă hội ở Sài G̣n lại tăng chóng mặt... ḿnh đều thấy ngao ngán. Ḿnh không sống vào cái thời "ḥn ngọc Viễn đông" để mà có cớ so sánh, nhưng ḿnh có đọc những bài viết về người Sài G̣n hào sảng, chân t́nh và hồn hậu; ḿnh có xem những tấm ảnh chụp nhịp sống thường nhật hồi ấy; ḿnh nh́n thấy vẻ thư thái tự tại trên gương mặt của người dân Sài G̣n thời đó. Biết rồi tiếc thôi.

Nhưng ḿnh vẫn yêu Sài G̣n lắm. Thuở nhỏ là niềm háo hức đi chợ hoa Nguyễn Huệ lúc giáp Tết, là sự ngỡ ngàng mỗi lần đi chợ Cũ ngó "hàng tàu viễn dương", là niềm ao ước mỗi khi đi Tạ Thu Thâu coi đồ đẹp. Lớn chút nữa, những kư ức về lễ hội "300 năm Sài G̣n" vẫn khắc sâu lắm. Rồi những kem Bạch Đằng, phở Tàu Bay, chè Hiển Khánh.... C̣n nhiều nữa những con đường Sài G̣n in dấu chân ḿnh đi qua, những góc nhỏ Sài G̣n chứng kiến t́nh cảm non tơ của ḿnh ngày đang lớn. Nhớ vậy, để biết trái tim ḿnh thuộc về Sài G̣n.

Có những ai đă đi xa Sài G̣n, nuối tiếc thời quá văng mà lên tiếng gièm pha chê bai Sài G̣n của-bây-giờ, cũng không trách họ được. Chỉ thương Sài G̣n vẫn lặng lẽ chịu đựng, luôn cố gắng gồng gánh sức nặng cơm áo gạo tiền cho bao nhiêu người, và phải cố gắng gấp đôi thế để bao dung hết thảy những lời bỉ bôi. Vậy cho nên, những ai đang ở đất Sài G̣n, kiếm sống từ đất Sài G̣n....xin hăy thương lấy vùng đất này bằng cách đừng làm nó xấu thêm bằng chính những hành động của ḿnh.

Có lẽ măi măi sẽ chẳng thể trở lại vị thế ḥn ngọc viễn đông như trước kia nữa, chỉ hy vọng Sài G̣n đừng biến thành mảnh vỡ thủy tinh le lói dưới ánh mặt trời.

Người Sài G̣n sẽ đau lắm, biết không ?


by Michou Pham

wonderful 02-21-2019 01:41

2 Attachment(s)
Nước bốc cháy

Theo các nguồn tin th́ các khoa học gia khắp thế giới đang chuẩn bị đổ về Việt Nam để t́m hiểu và nghiên cứu một nguồn năng lượng mới rất rẻ tiền nhưng lại có khả năng thay thế xăng. Đó là… nước giếng. Theo tin trong nước th́ bà con nông dân tại xă Hương Trạch, Hà Tĩnh khi kéo nước giếng để giặt giũ, nấu ăn như bao năm nay th́ thấy nước giếng có mùi… dầu lửa. Khi thử châm lửa th́ nước bốc cháy phừng phực như… xăng. Tin tức về loại nước giếng này lan truyền nhanh chóng, khi một số người mê tín tin rằng đó là nước… (!) của ông địa. C̣n có người th́ hào hứng bảo rằng nước giếng Hương Trạch có thể thay xăng, làm nguồn năng lượng mới hay xuất cảng thu ngoại tệ. Chỉ có một “già làng” thông thái th́ bảo, “Con bà nó, cái này là mấy hầm chứa xăng của mấy công ty khai thác bị bể nên mới lan vào nước giếng và có mùi xăng dầu như vậy”. Quả nhiên đúng là vậy.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1551128398


Tại nó lộn

Đôi tuần trước cả nước Mỹ vỗ tay hoan nghinh nữ phi công Tammy Jo Shults của Southwest Airlines, người hùng đă cứu mạng hàng trăm hành khách khi hạ cánh an toàn chiếc phi cơ bị hỏng máy. Tuần qua th́ phi công Việt Nam được “vỗ chân” khi máy bay không hư và thời tiết không xấu nhưng cũng hạ cánh… thiếu an toàn, mém làm 200 hành khách mất mạng. Chuyến bay VN7344 của hăng Hàng Không Việt Nam từ Tân Sơn Nhất bay đi Cam Ranh trong lúc một giờ trưa ngày 30 tháng 4 vừa qua, đến Cam Ranh không biết phi hành đoàn đang đánh phé hay làm ǵ, c̣n nhân viên không lưu đang ngủ trưa hay nhậu chưa biết và nhân viên mặt đất của phi trường c̣n đang bận chôm hành lư của khách hay sao (nhà chức trách đang c̣n điều tra) mà phi cơ không hạ cánh xuống phi đạo, lại hạ cánh xuống… công trường xây dựng kế bên. May mà không đụng xe cẩu, vật liệu sắt thép… Theo điều tra ban đầu th́ lỗi là… phi đạo (nằm không đúng chỗ). Lộn thôi mà!

http://vietbf.com/forum/attachment.p...3&d=1551128559

wonderful 02-21-2019 21:51

5 Attachment(s)
Du khách thích sờ 'của quư' của VICTOR NOIR một bức tượng nam để cải thiện khả năng chăn gối?

- Với niềm tin sẽ cải thiện khả năng chăn gối và khỏi t́nh trạng vô sinh, mỗi năm có hàng ngh́n du khách đến nghĩa trang Père Lachaise (Lớn nhất ở PARIS) để sờ vào “của quư” của bức tượng Victor Noir, một nhà báo trẻ người Pháp sống tại thế kỷ 19.

Victor Noir tên thật là Yvan Salmon, sinh ngày 27/7/1848 tại Attigny, Vosges, nay thuộc vùng Grand Est, phía đông bắc nước Pháp. Ông là một nhà báo viết mảng chính trị cho tờ La Marseillaise, một tuần báo do chính trị gia Henri Rochefort thành lập năm 1869 ở Paris.

Victor Noir chết khi tuổi đời c̣n rất trẻ (22 tuổi), tuy nhiên người ta chỉ biết đến ông sau khi ông qua đời do nguyên nhân cái chết có liên quan đến cháu trai của vị hoàng đế vĩ đại của nước Pháp Napoleon Bonaparte
Để tưởng nhớ đến ông, trên phần mộ của Victor Noir đặt một bức tượng bằng đồng do đích thân nhà điêu khắc Jules Dalou (1838-1902) chế tác. Bức tượng có kích cỡ tương đương người thật, được lấy nguyên mẫu h́nh ảnh ông sau khi bị bắn.

Bức tượng đặt trong tư thế nằm ngửa trên đài mộ, với mái tóc bồng bềnh, phóng khoáng, bên cạnh là chiếc mũ và bộ trang phục mà các quư ông thời đó hay mặc.

Đặc biệt, v́ một nguyên nhân nào đó mà Dalou đă "cố t́nh" điêu khắc bộ phận nhạy cảm của Noir nổi lên khá rơ. Đây chính là điểm khiến bức tượng Victor Noir trở nên "nổi tiếng" đối với các quư bà và đông đảo chị em phụ nữ.

Một "truyền thuyết" về khả năng chữa vô sinh và cải thiện khả năng "yêu" của bức tượng cũng được rất nhiều phụ nữ truyền miệng. Người ta cho rằng phụ nữ chỉ cần hôn lên môi và chạm tay vào phần nhạy cảm của bức tượng là sẽ đạt được sự như ư về khả năng sinh sản và t́nh dục hoặc kiếm được một tấm chồng như ư.

Đó là lư do tại sao môi, cằm và phần nhạy cảm của bức tượng Victor Noir đều trở nên sáng bóng, trong khi phần c̣n lại của bức tượng có màu xanh lá cây do hiện tượng đồng bị oxy hóa. Một số nữ du khách c̣n thực hiện một số hành vi khiếm nhă như ngồi lên bức tượng gây phẫn nộ và xúc phạm đến sự yên nghỉ của người đă khuất
Để khắc phục t́nh trạng này, vào năm 2004, chính quyền cho lắp đặt một hàng rào xung quanh ngôi mộ của Victor Noir để ngăn những người dân mê tín thực hiện "nghi lễ" trên.

Tuy nhiên việc làm này lại vấp phải sự phản đối của người dân (tất nhiên hầu hết người phản đối là phụ nữ) nên chính quyền đă cho tháo dỡ hàng rào không lâu sau đó.

Sự nổi tiếng của Victor Noir sau khi qua đời không phải là v́ tài năng của ông với tư cách là một nhà báo, cũng không phải với vai tṛ là biểu tượng cho phong trào chống lại chế độ quân chủ ở Pháp, mà nổi tiếng theo cách mà có lẽ Noir không hề mong muốn chút nào.

Hiện nay, phần mộ của Victor Noir là một trong những nơi có nhiều người đến thăm nhất trong nghĩa trang, đặc biệt là du khách nữ. Rất nhiều du khách cố gắng đến nghĩa trang để một lần sờ vào của quư của bức tượng đồng

http://vietbf.com/forum/attachment.p...4&d=1551034874http://vietbf.com/forum/attachment.p...4&d=1551128755
http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1550785694http://vietbf.com/forum/attachment.p...2&d=1550785706
http://vietbf.com/forum/attachment.p...3&d=1550785718http://vietbf.com/forum/attachment.p...4&d=1550785733
http://vietbf.com/forum/attachment.p...5&d=1550785747http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1550825923
http://vietbf.com/forum/attachment.p...2&d=1550825936
http://vietbf.com/forum/attachment.p...6&d=1551129845

Wonderful đă viếng Nghỉa Trang nầy nhiều lần mổi khi tới Paris và có lần cũng sờ cái của quư nầy gọi là lấy hên giống như người ta ...vui mà...và xin đừng xóa những tấm h́nh này v́ nó rất hay mà ḿnh sưu tầm...Xin cám ơn và đừng làm nản ḷng tôi..người có thiện chí tốt. :eek: :eek:

wonderful 02-23-2019 01:33

1 Attachment(s)
Wonderful xin kể một câu chuyện hay và hiểu thế nào là cái sai lầm của người đời.

Câu Chuyện Cuộc Đời...

Năm nay tôi đă gần bảy mươi tuổi. Cái tuổi mà con cháu đă có thể chúc thọ được rồi. Tôi đă chứng kiến biết bao câu chuyện cuộc đời. Nhưng có một câu chuyện mà tôi không thể nào quên được. Tôi viết lá thư này gửi các anh, các chị để kể lại câu chuyện mà tôi là một người liên quan đến câu chuyện đó. Hy vọng, câu chuyện của tôi nếu được in lên, sẽ nói với bạn đọc gần xa một điều ǵ đó về cuộc đời này.

Câu chuyện xảy ra vào năm cuối cùng trong đời sinh viên của tôi, ở kư túc xá mà tôi ở lúc đó. Một hôm, chúng tôi đi tập quân sự. Duy chỉ có một người trong pḥng kêu ốm và ở lại. Người đó là Sơn, quê ở Thanh Hóa. Buổi chiều trở về, tôi sắp xếp lại đồ đạc cá nhân và hoảng hốt nhận ra một chỉ vàng của tôi không cánh mà bay. Đó là chỉ vàng mà cha mẹ cho, để mua xe đạp đi làm sau khi tôi ra trường. Ngay lúc đó, tôi nh́n Sơn đang nằm quay mặt vào tường, và hoàn toàn tin rằng Sơn đă lấy cắp chỉ vàng của tôi.

Tôi đề nghị mọi người trong pḥng cho tôi khám tư trang của họ. Cuộc khám xét không thành công.
Nhưng qua phân tích của chúng tôi và qua thái độ hoang mang của Sơn, chúng tôi đều tin Sơn đă giả ốm ở nhà để lấy cắp chỉ vàng. Bảo vệ nhà trường cho biết, buổi sáng chúng tôi đi tập quân sự th́ Sơn có ra khỏi trường khoảng một giờ đồng hồ. Mặc dù Sơn cả quyết không hề lấy cắp chỉ vàng ấy, nhưng chúng tôi và nhà trường đă tiến hành nhiều cuộc họp để chất vấn và khẳng định thủ phạm vụ trộm đó là Sơn.

Một tuần sau, chúng tôi phát hiện Sơn mang một bao tải ḿ sợi ra ga tàu mang về quê. Chúng tôi túm lại hỏi Sơn lấy tiền đâu mà mua ḿ sợi. S không nói ǵ mà ôm mặt khóc. Năm đó, nhà trường đă không xét tốt nghiệp cho Sơn mặc dù học lực của Sơn rất khá, với lư do đă có hành vi đạo đức xấu và không trung thực với tội lỗi của ḿnh. Chúng tôi hồ hởi nhận bằng tốt nghiệp và quyết định phân công công tác. Chỉ có Sơn không được nhận bằng tốt nghiệp và tạm thời không được phân công công tác. Đồng thời nhà trường có công văn gửi về địa phương Sơn sinh sống, đề nghị địa phương theo dơi và giáo dục Sơn. Khi nào địa phương chứng nhận Sơn đă hối cải và tiến bộ, th́ nhà trường sẽ xem xét giải quyết trường hợp của Sơn.

Thời gian cứ thế trôi đi. Một số bạn bè học cùng chúng tôi vẫn có liên lạc với nhau. Duy chỉ có Sơn là không ai biết rơ ràng ở đâu và làm ǵ. Nhà trường cho biết, Sơn cũng không quay lại trường để xin cấp bằng và phân công công tác.

Ngày tháng trôi qua, tôi chẳng c̣n nhớ tới chỉ vàng bị lấy cắp năm xưa. Trong đám bạn bè tôi, có những người rất thành đạt. Đặc biệt Huy đă trở thành một người rất giàu có bằng năng lực và sức lao động của chính anh. Anh là một người được xă hội biết đến.

Một hôm, sau ngày tôi vừa nghỉ hưu, có một thanh niên mang đến nhà tôi một lá thư và một cái hộp giấy nhỏ. Anh thanh niên nói là một người nhờ chuyển, nhưng lại nói là không nhớ tên người đó. Tôi băn khoăn và hồi hộp mở thư ra. Lá thư chỉ vẻn vẹn mấy ḍng: "Anh Phong thân mến, tôi xin được gửi trả lại anh chỉ vàng mà tôi đă lấy của anh cách đây mấy chục năm.

Tôi sẽ đến gặp anh để xin anh thứ tội. Kính". Đọc thư xong, tôi thực sự bàng hoàng. Lá thư không kư tên. Tôi không c̣n nhận được chữ đó là của ai viết nữa. Tôi đoán đó là thư của Sơn. Tôi mở chiếc hộp giấy nhỏ và nhận ra trong đó có một chỉ vàng. Đó là một chỉ vàng mới. Không hiểu tại sao lúc đó nước mắt tôi chảy ra giàn giụa. Lúc này tôi mới thực sự nghĩ đến Sơn với một nỗi xót thương. Ngày ấy, Sơn là sinh viên nghèo nhất trong lớp. Bố Sơn mất sớm. Mẹ Sơn phải tần tảo nuôi năm anh chị em Sơn ăn học. Có lẽ v́ thế mà trong một phút không làm chủ được ḿnh, Sơn đă trở thành một kẻ ăn cắp. Nếu lúc đó, chúng tôi có được sự xót thương như bây giờ th́ có lẽ chúng tôi không đẩy Sơn vào t́nh cảnh như ngày ấy.

Sau khi nhận được lá thư và chỉ vàng, tôi hầu như mất ăn, mất ngủ. Có một nỗi ân hận cứ xâm chiếm ḷng tôi. Ngày ngày tôi đợi Sơn đến t́m. Tôi sẽ nói với Sơn là tôi tha thứ tất cả và tôi cũng xin lỗi Sơn v́ ḷng tôi thiếu sự thông cảm và thiếu vị tha.

Một buổi sáng có tiếng chuông cửa. Tôi vội chạy ra mở cửa. Người xuất hiện trước tôi không phải là Sơn mà là Huy. Tôi reo lên: "Ối, hôm nay sao rồng lại đến nhà tôm thế này". Khác với những lần gặp gỡ trước kia, hôm đó gương mặt Huy trầm tư khác thường. Tôi kéo Huy vào nhà và nói ngay: "Ḿnh vừa nhận được thư thằng Sơn. Cậu có biết nó viết ǵ không? Nó đã trả lại tôi chỉ vàng và nói sẽ đến gặp tôi để xin lỗi". Khi tôi nói xong, Huy bước đến bên tôi và nói: "Anh Phong, anh không nhận ra chữ viết của tôi ư. Tôi chính là người viết lá thư đó. Tôi chính là người đă ăn cắp chỉ vàng của anh". Nói xong, Huy như ngă đổ vào tôi và khóc rống lên. Tôi vô cùng bàng hoàng và không tin đó là sự thật. Khóc xong, Huy đă kể cho tôi nghe tất cả sự thật. V́ cũng muốn mua một chiếc xe đạp sau khi tốt nghiệp đi làm, Huy đă t́m cách lấy trộm chỉ vàng. Và suốt thời gian qua, Huy rất ăn năn và luôn t́m kiếm Sơn để chuộc lỗi. Thế rồi chúng tôi quyết định về quê Sơn mặc dù biết Sơn không c̣n sinh sống ở quê đă lâu.

Vất vả lắm chúng tôi mới biết thông tin về Sơn: Sau khi bị nhà trường gửi công văn đến địa phương thông báo về đạo đức của ḿnh, Sơn đă phải chịu quá nhiều tai tiếng và những ánh mắt khinh bỉ của hàng xóm. Sơn đă xin đi khai hoang ở một huyện miền núi. Nghe vậy, chúng tôi lại tức tốc lên đường t́m đến nơi Sơn đang sinh sống. Ở đó Sơn sống cùng vợ con trong một ngôi nhà gỗ đẹp dưới chân một dăy đồi. Sơn trồng trọt và mở một trang trại chăn ḅ lớn. Trông anh già hơn tuổi nhưng khỏe mạnh và đôi mắt nhân ái vô cùng. Cả ba chúng tôi ôm lấy nhau mà khóc.

Tôi và Huy quyết định ngủ lại một đêm với Sơn, Huy xin Sơn cho Huy được kể sự thật cho vợ con Sơn nghe để họ thanh thản và hănh diện về chồng, về cha ḿnh và Huy muốn được tạ lỗi với vợ con Sơn. Nhưng Sơn gạt đi và nói: "Chưa bao giờ họ tin tôi là kẻ ăn cắp". Trước khi chia tay nhau, Huy cầm tay Sơn khóc và nói: "Ḿnh có tội với cậu. Cậu đă tha tội cho ḿnh. Nhưng ḿnh muốn được trả một phần nhỏ cái nợ lớn mà đời ḿnh đă mang nợ với cậu. Hăy nói ḿnh phải trả nợ cậu như thế nào". Sơn mỉm cười và nói: "Ông đă trả hết nợ rồi". Khi tôi và Huy c̣n chưa hiểu ư th́ Sơn nói: "Việc ông nói ra sự thật về tội lỗi của ông là ông đă trả hết nợ rồi. Đừng nghĩ ǵ về chuyện cũ nữa. Mà thực ra, ông nợ chính ông nhiều hơn là ông nợ tôi. Nợ người dễ trả hơn nợ chính ḿnh". Cho đến lúc đó, tôi mới thực sự hiểu con người Sơn. Tôi hiểu ra một điều ǵ đó thật xúc động, thật sâu sắc về cuộc đời này. Hóa ra, có những tâm hồn lớn lao và cao thượng lại nằm trong những con người khốn khó và giản dị như thế.

Cũng trong cái đêm thức với Sơn tại ngôi nhà gỗ của anh, chúng tôi mới biết những ngày đi học, khi nghỉ học, Sơn vẫn đi quay ḿ sợi thuê để mua ḿ sợi cứu đói cho gia đ́nh. Chúng tôi đă không hiểu được bạn bè ḿnh. Chúng tôi đă làm cho một con người như Sơn nếu không có nghị lực, không có ḷng tin có thể dễ dàng rơi vào tuyệt vọng.

Thưa các anh, các chị, câu chuyện tôi kể cho các anh, các chị chỉ có vậy. Nhưng với tôi đó là một bài học về con người và về cuộc đời.
Thân ái
Đổ Văn Phong.


http://vietbf.com/forum/attachment.p...7&d=1550948314
http://vietbf.com/forum/attachment.p...9&d=1550886463
Ảnh minh họa...bao nhiêu người bạn là bấy nhiêu vấn đề để nói...

hoanglan22 02-23-2019 01:46

:thankyou: Bác wonderful , đọc xong ngẫm nghĩ lại chuyện đời ....:handshake:

wonderful 02-23-2019 21:12

1 Attachment(s)
Người cha nói với con rể

http://vietbf.com/forum/attachment.p...0&d=1550956544

Gần đây tôi đă rất xúc động từ một đám cưới .
Trong đám cưới, người cha nói với con rể :



"Tôi là người đầu tiên nắm tay cô ấy, không phải cậu
Người đầu tiên hôn cô ấy là tôi, không phải là cậu
Người đầu tiên bảo vệ cô ấy là tôi, không phải cậu.

Nhưng mà

Có thể đi cùng cô ấy suốt cuộc đời,
Đó là cậu chứ không phải là tôi.

Nếu có một ngày cậu không yêu cô ấy nữa
Đừng phản bội cô ấy
Đừng đánh cô ấy
Đừng nói với cô ấy.
Nói với tôi,
Tôi đưa cô ấy về nhà! "

Cậu con rể quỳ xuống,lúc đó các khách mời đều rơi nước mắt

Nếu bạn là một người đàn ông,
Xin hăy tử tế yêu quư người phụ nữ bên cạnh ḿnh
Bởi v́ họ là những cô con gái quư báu của người khác.

Lúc nhỏ tiêu tiền là ở nhà bố mẹ đẻ
Lúc khôn lớn đi kiếm được tiền là ở nhà chồng

Thế nên bạn nên nhớ, ngoài cha mẹ của họ ra,
Họ không nợ bất kỳ ai.

wonderful 02-24-2019 21:33

2 Attachment(s)
Im lặng nghĩa là yếu đuối? Không, đó là quyền năng của kẻ thông minh!

http://vietbf.com/forum/attachment.p...9&d=1551128092

Người khôn ngoan không bao giờ phải t́m kiếm sự hơn thua trong lời nói, họ chỉ cần im lặng cũng chứng minh được bản lĩnh.
Chúng ta thường có câu nói cửa miệng ‘Im lặng là vàng’. Im lặng không có nghĩa là tự cô lập ḿnh, tách biệt hay rời xa hoàn toàn khỏi cuộc sống hiện tại mà là biết cách đừng lên tiếng tranh căi trong một thời điểm thích hợp để tránh hại người hại ta.

Một người thông minh đến mấy cũng không thể nh́n thấu mọi chuyện, có trí tuệ đến đâu cũng không thể luôn thuận buồm xuôi gió. Trong thời điểm xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp với người khác, sự im lặng của bạn không phải yếu đuối, không phải thỏa hiệp, càng không phải thờ ơ mà có nghĩa là bạn đă thực sự trưởng thành. Bạn biết cách xem nhẹ rất nhiều chuyện không đáng phải so đo v́ đôi khi, im lặng c̣n đáng giá hơn cả ngàn lời nói.


http://vietbf.com/forum/attachment.p...0&d=1551128111

hoanglan22 02-25-2019 02:47

Quote:

Originally Posted by wonderful (Post 3601641)
Du khách thích sờ 'của quư' của VICTOR NOIR một bức tượng nam để cải thiện khả năng chăn gối?

- Với niềm tin sẽ cải thiện khả năng chăn gối và khỏi t́nh trạng vô sinh, mỗi năm có hàng ngh́n du khách đến nghĩa trang Père Lachaise (Lớn nhất ở PARIS) để sờ vào “của quư” của bức tượng Victor Noir, một nhà báo trẻ người Pháp sống tại thế kỷ 19.

Victor Noir tên thật là Yvan Salmon, sinh ngày 27/7/1848 tại Attigny, Vosges, nay thuộc vùng Grand Est, phía đông bắc nước Pháp. Ông là một nhà báo viết mảng chính trị cho tờ La Marseillaise, một tuần báo do chính trị gia Henri Rochefort thành lập năm 1869 ở Paris.

Victor Noir chết khi tuổi đời c̣n rất trẻ (22 tuổi), tuy nhiên người ta chỉ biết đến ông sau khi ông qua đời do nguyên nhân cái chết có liên quan đến cháu trai của vị hoàng đế vĩ đại của nước Pháp Napoleon Bonaparte
Để tưởng nhớ đến ông, trên phần mộ của Victor Noir đặt một bức tượng bằng đồng do đích thân nhà điêu khắc Jules Dalou (1838-1902) chế tác. Bức tượng có kích cỡ tương đương người thật, được lấy nguyên mẫu h́nh ảnh ông sau khi bị bắn.

Bức tượng đặt trong tư thế nằm ngửa trên đài mộ, với mái tóc bồng bềnh, phóng khoáng, bên cạnh là chiếc mũ và bộ trang phục mà các quư ông thời đó hay mặc.

Đặc biệt, v́ một nguyên nhân nào đó mà Dalou đă "cố t́nh" điêu khắc bộ phận nhạy cảm của Noir nổi lên khá rơ. Đây chính là điểm khiến bức tượng Victor Noir trở nên "nổi tiếng" đối với các quư bà và đông đảo chị em phụ nữ.

Một "truyền thuyết" về khả năng chữa vô sinh và cải thiện khả năng "yêu" của bức tượng cũng được rất nhiều phụ nữ truyền miệng. Người ta cho rằng phụ nữ chỉ cần hôn lên môi và chạm tay vào phần nhạy cảm của bức tượng là sẽ đạt được sự như ư về khả năng sinh sản và t́nh dục hoặc kiếm được một tấm chồng như ư.

Đó là lư do tại sao môi, cằm và phần nhạy cảm của bức tượng Victor Noir đều trở nên sáng bóng, trong khi phần c̣n lại của bức tượng có màu xanh lá cây do hiện tượng đồng bị oxy hóa. Một số nữ du khách c̣n thực hiện một số hành vi khiếm nhă như ngồi lên bức tượng gây phẫn nộ và xúc phạm đến sự yên nghỉ của người đă khuất
Để khắc phục t́nh trạng này, vào năm 2004, chính quyền cho lắp đặt một hàng rào xung quanh ngôi mộ của Victor Noir để ngăn những người dân mê tín thực hiện "nghi lễ" trên.

Tuy nhiên việc làm này lại vấp phải sự phản đối của người dân (tất nhiên hầu hết người phản đối là phụ nữ) nên chính quyền đă cho tháo dỡ hàng rào không lâu sau đó.

Sự nổi tiếng của Victor Noir sau khi qua đời không phải là v́ tài năng của ông với tư cách là một nhà báo, cũng không phải với vai tṛ là biểu tượng cho phong trào chống lại chế độ quân chủ ở Pháp, mà nổi tiếng theo cách mà có lẽ Noir không hề mong muốn chút nào.

Hiện nay, phần mộ của Victor Noir là một trong những nơi có nhiều người đến thăm nhất trong nghĩa trang, đặc biệt là du khách nữ. Rất nhiều du khách cố gắng đến nghĩa trang để một lần sờ vào của quư của bức tượng đồng

http://vietbf.com/forum/attachment.p...4&d=1551034874

http://vietbf.com/forum/attachment.p...9&d=1550785659http://vietbf.com/forum/attachment.p...0&d=1550785678
http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1550785694http://vietbf.com/forum/attachment.p...2&d=1550785706
http://vietbf.com/forum/attachment.p...3&d=1550785718http://vietbf.com/forum/attachment.p...4&d=1550785733
http://vietbf.com/forum/attachment.p...5&d=1550785747http://vietbf.com/forum/attachment.p...1&d=1550825923
http://vietbf.com/forum/attachment.p...2&d=1550825936

Wonderful đă viếng Nghỉa Trang nầy nhiều lần mổi khi tới Paris và có lần cũng sờ cái của quư nầy gọi là lấy hên giống như người ta ...vui mà...và xin đừng xóa những tấm h́nh này v́ nó rất hay mà ḿnh sưu tầm...Xin cám ơn và đừng làm nản ḷng tôi..người có thiện chí tốt. :eek: :eek:

Mấy tấm h́nh của Bác bị xóa chắc là AD , hay một supper Mod nào đó .

Bởi v́ HL coi lại th́ không thấy EDIT delete xuất hiện

hoanglan22 02-25-2019 02:49

Quote:

Originally Posted by wonderful (Post 3603419)
Im lặng nghĩa là yếu đuối? Không, đó là quyền năng của kẻ thông minh!

http://vietbf.com/forum/attachment.p...4&d=1551043833

Người khôn ngoan không bao giờ phải t́m kiếm sự hơn thua trong lời nói, họ chỉ cần im lặng cũng chứng minh được bản lĩnh.
Chúng ta thường có câu nói cửa miệng ‘Im lặng là vàng’. Im lặng không có nghĩa là tự cô lập ḿnh, tách biệt hay rời xa hoàn toàn khỏi cuộc sống hiện tại mà là biết cách đừng lên tiếng tranh căi trong một thời điểm thích hợp để tránh hại người hại ta.

Một người thông minh đến mấy cũng không thể nh́n thấu mọi chuyện, có trí tuệ đến đâu cũng không thể luôn thuận buồm xuôi gió. Trong thời điểm xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp với người khác, sự im lặng của bạn không phải yếu đuối, không phải thỏa hiệp, càng không phải thờ ơ mà có nghĩa là bạn đă thực sự trưởng thành. Bạn biết cách xem nhẹ rất nhiều chuyện không đáng phải so đo v́ đôi khi, im lặng c̣n đáng giá hơn cả ngàn lời nói.


http://vietbf.com/forum/attachment.p...5&d=1551043845

Bài học rất hay:handshake::thankyou:

wonderful 02-26-2019 01:12

1 Attachment(s)
Cười Cay Đắng Từ Câu Chuyện "Lái Xe Cho Ông Sếp Nhật Dở Hơi"

Công ty tôi vừa có một tên người Nhật sang làm dự án trong khoảng 3 tháng, và tôi được giao nhiệm vụ lái xe cho hắn. Lâu nay toàn lái xe cho các sếp Việt Nam, giờ lần đầu tiên được lái cho sếp Nhật nên tôi thấy hứng thú lắm! Tôi tức tốc ra vỉa hè mua quyển sách “Tự học tiếng Nhật cấp tốc” về để nghiên cứu. “Ḿnh lái xe cho sếp Nhật th́ cũng phải biết vài ba câu giao tiếp tiếng Nhật chứ!”. Từ khi mua sách về, tôi nghiên cứu và tự học rất miệt mài, gần như không lúc nào tôi rời quyển sách (chỉ trừ lúc ăn cơm, lúc tắm, lúc ngủ, lúc xem tivi, lúc đi chơi và đi làm). Bởi thế, hôm gặp sếp Nhật tôi tự tin lắm, chủ động bắt tay rất thân thiện và chào hỏi cực kỳ trôi chảy bằng tiếng Nhật:

- Mi đua ku ra, ta xoa ku mi!
Có vẻ như tên Nhật đó không hiểu tôi nói ǵ th́ phải, hắn lắc đầu ngơ ngác rồi hỏi lại:
- Xoa ku ta chi? Ngu chi cho xoa, xa ku ta ra, xoa ku mi đi!

Tất nhiên là tôi cũng không hiểu hắn nói ǵ, vậy nên cuối cùng cả hai quyết định sử dụng tiếng Anh, dù rằng tŕnh độ tiếng Anh của tôi và hắn cũng bập bẹ ngang nhau, nhưng may là vẫn đủ để đoán được ư mà đối phương đang muốn diễn đạt.

Một điều khá thú vị đó là tên sếp Nhật này lại nói được vài câu tiếng Việt, không phải “xin chào”, “cảm ơn” - như mấy ông ngoại quốc, mấy chị đại sứ nước ngoài nào đó hay nói bọ bẹ trên tivi đâu, mà là những câu dài hẳn hoi, kiểu như: “Cấm ăn cắp vặt, ăn cắp vặt là phạm tội!”, hoặc “Vui ḷng ăn bao nhiêu lấy bấy nhiêu, ăn không hết sẽ bị phạt tiền”, rồi cả “Không được dắt chó vào công viên này, nếu chó ị ra phải tự mang phân chó về”… Tôi nghe tên sếp Nhật ấy nói mấy câu đó th́ ngạc nhiên và khen hắn giỏi quá! Nhưng hắn chỉ cười mỉm rồi cất giọng đầy khiêm tốn:

- Giỏi ǵ đâu! Ở bên Nhật, mấy câu đó viết đầy trong siêu thị, nhà hàng, công viên, nh́n nhiều nên quen, nên nhớ thôi!

Một cảm giác tự hào chợt dâng trào trong ḷng tôi nghẹn ngào. Tự hào là phải, bởi lâu nay người ta luôn coi tiếng Anh, tiếng Trung là hai ngôn ngữ phổ biến và được sử dụng nhiều nhất trên thế giới, nhưng bây giờ, tiếng Việt đang trỗi dậy và nhăm nhe lật đổ sự thống trị của hai thứ tiếng ấy. Giờ, đi ra nước ngoài, không chỉ ở Đông Nam Á, Châu Á, mà cả Phi, Mỹ, Úc, Âu, đâu đâu ta cũng có thể bắt gặp những ḍng chữ tiếng Việt thân thương, dù rằng chúng được viết nguệch ngoạc, sai chính tả, thiếu dấu, thiếu vần, trên những tấm ván, tấm b́a nham nhở, lấm lem, nhưng chỉ vậy thôi cũng đủ để chúng ta cảm thấy nao ḷng.

Ban đầu hào hứng bao nhiêu th́ sau đó tôi chán nản bấy nhiêu. Người đời dạy rằng: “Thà có một kẻ thù giỏi c̣n hơn có một ông chủ dở hơi”, quả là không sai. Trước đây, khi lái cho các sếp cũ th́ phải 8 rưỡi, 9 giờ sáng tôi mới phải đánh xe đến đón các sếp, rồi chở sếp qua quán phở ăn sáng, xong uống café, đến công ty cũng đă là gần 10 giờ. Sếp làm việc đến 11 giờ th́ lại chở sếp đi ăn trưa, uống bia, 3 giờ chiều đưa sếp quay lại công ty rồi 4 rưỡi đón sếp về, thế là xong. Những lúc sếp ăn uống, nhậu nhẹt th́ thường là sếp gọi tôi vào ngồi cùng. Nếu hôm nào sếp tiếp khách sang, không được gọi vào, th́ tôi lại ra xe ngả ghế xuống ngủ rất thảnh thơi.

Thế nhưng chỉ sau hai tuần làm lái xe cho thằng sếp Nhật dở hơi, tôi trở nên phờ phạc, bă bời. Đúng 6 rưỡi sáng tôi phải dậy chuẩn bị xe qua đón nó. Theo quy định của công ty th́ 7 rưỡi mới là giờ làm việc nhưng chỉ khoảng 7 giờ 15 là nó đă có mặt và chui vào pḥng làm việc luôn. Ngày trước đi với các sếp cũ tôi thường xuyên được các sếp cho ăn sáng, ăn trưa, uống bia, gái gú, hát ḥ, chứ từ ngày lái cho thằng Nhật này tôi toàn phải nhịn đói, v́ sáng tôi đến đón nó th́ nó đă ăn sáng xong rồi, trưa nó ăn qua quưt ngay tại pḥng bằng đồ ăn nhanh rồi lại cắm đầu vào làm việc, tối nào nó cũng ngồi lại công ty đến 7, 8 giờ, vậy nên tôi cũng phải ngồi chờ nó với cái bụng đói meo và khuôn mặt bơ phờ.

Chưa hết, nhiều lần đang đi, nó bắt tôi dừng xe lại, rồi nó mở cửa xe chạy vụt ra. Tôi tưởng nó đi tè nhưng không phải, hóa ra nó nhặt cái vỏ bao cám con c̣ về để may túi xách.

Đặc biệt có lần tôi chở nó đi công chuyện, vừa đánh lái ra cổng th́ tôi quệt ngay vào cái xe đạp cũ nát của ai đó dựng ở mé đường làm chiếc xe đạp đổ kềnh, cái yên xe gẫy gập và văng ra. Tôi đang định phóng đi th́ thằng sếp Nhật bắt tôi dừng lại, rồi nó mở cửa phi ra. Nó dựng cái xe đạp lên ngay ngắn, móc ra tờ 500 ngh́n rồi kẹp vào tờ giấy, để vào giỏ cái xe đạp, trên tờ giấy nó nhờ tôi viết hộ rằng: “Tôi vô t́nh làm găy yên xe của bạn. Hăy cầm tiền này để sửa xe, và hăy tha lỗi cho tôi”.

Hôm sau, cũng đúng lúc đánh lái ra cổng, tôi lại quệt vào cái xe đạp cũ nát đó. Lần này th́ cái yên không văng ra nữa mà là cái bàn đạp. Thằng Nhật lại nhảy xuống, dựng xe lên, bỏ 500 ngh́n vào giỏ xe rồi để lại mảnh giấy: “Tôi vô t́nh làm găy bàn đạp của bạn. Hăy cầm tiền này để sửa xe, và hăy tha lỗi cho tôi”.

Hôm sau nữa, cũng đúng lúc đánh lái ra cổng, tôi lại quệt vào cái xe đạp đó. Lần này th́ cái yên và cái bàn đạp không văng ra nữa mà là cái chắn xích. Tuy nhiên, hôm đó không có thằng Nhật đi cùng mà chỉ có ḿnh tôi trên xe, vậy nên tôi phóng thẳng. Đang định nhấn ga lao đi th́ từ bên đường, một mụ già lao ra chặn ngay đầu xe tôi, mụ vừa dang hai tay, vừa gào thét:

- Thằng chó! Dừng lại đền tiền sửa xe cho bà đi chứ! Tại sao hôm nay mày lại bỏ chạy?!

Tôi nghe vậy th́ mở cửa, tḥ đầu ra bảo:

- Thôi đi bà ơi! Cái xe của bà bán cho đồng nát chắc được hai chục! Hôm nay có ḿnh tôi thôi, thằng Nhật không đi cùng đâu! Nghỉ sớm đi!

Rồi một lần khác, đang vội nên tôi vượt đèn đỏ và bị công an tuưt c̣i. Theo bản năng, tôi nhấn ga vọt lên. Công an thấy tôi chạy th́ cũng không đuổi theo nữa. Tưởng là xuôi, ai ngờ thằng Nhật ấy chửi tôi, nó nói rằng vượt đèn đỏ và bỏ chạy là phạm luật. Rồi nó bắt tôi quay xe lại chỗ công an nộp phạt đàng hoàng xong mới đi tiếp. Đúng là thằng dở hơi!

Lái xe cho thằng Nhật hâm ấy một thời gian th́ tôi đă hiểu được tính cách của nó. Đi đường thấy cái vỏ bao cám con c̣ nào vứt bên đường th́ tôi tự giác dừng lại cho nó xuống nhặt; chẳng may có quệt vào xe cộ hay đồ đạc của ai gây hư hỏng th́ tôi cũng tự giác dừng lại để nó xuống trả tiền bồi thường; có lỡ quen chân vượt đèn đỏ hay đi ngược chiều th́ cũng tự giác ṿng xe ra chỗ mấy anh công an để nộp phạt.

Hôm ấy, thằng sếp Nhật bảo tôi ra sân bay đón một thằng Nhật khác. Cái thằng Nhật này mặt cứ lầm ĺ, từ lúc lên xe nó không nói với tôi câu nào. Tôi cũng chả quan tâm mà chỉ tập trung vào lái xe. Tập trung là thế, ấy vậy mà qua ngă tư tôi lại quen chân vượt đèn đỏ, và lại bị công an tuưt c̣i. Tôi đang giảm tốc độc và cho xe chầm chậm táp vào lề bên phải theo hiệu lệnh của anh công an giao thông th́ bất chợt thằng Nhật đó hét lên, và nó hét bằng tiếng Việt:

- Mày dừng lại làm cái ǵ! Chạy luôn đi! Đường đông thế này công an không đuổi theo đâu!

- Em tưởng anh là người Nhật? – Tôi hỏi hắn bằng giọng thảng thốt!

- Tao là người Nhật, nhưng tao sống ở Việt Nam mấy chục năm rồi! Chạy nhanh lên!


Wonderful dịch và xào nấu....hihihi

http://vietbf.com/forum/attachment.p...8&d=1551143409

wonderful 03-09-2019 23:52

2 Attachment(s)
Wonderful ghi một bài đọc mà suy gẩm rất hay.

Ngày 8/3: Tuần lễ khen vợ

Người ta kể rằng, có một gă chiếm được hàng trăm trái tim phụ nữ và sau đó chiếm đoạt luôn cả tài sản của họ nên cuối cùng phải vào tù.
Một nhà tâm lư học ṭ ṃ đến tận nơi xem hắn có bí quyết ǵ không. Ông ta bất ngờ v́ đó là một gă đă luống tuổi, h́nh thức b́nh thường, duy chỉ có cái miệng rất có duyên.

Ông hỏi: "Làm thế nào anh chinh phục được nhiều phụ nữ như vậy?". Hắn trả lời cụt ngủn: "Có ǵ đâu. Cứ khen và khen nhiều vào".

http://vietbf.com/forum/attachment.p...5&d=1552176617

Nhà tâm lư học nổi tiếng người Mỹ, Dale Carnegie thường đi giảng ở các lớp học làm vợ, làm chồng. Một hôm, sau bài giảng về nghệ thuật làm chồng, ông ra bài tập cho học viên về nhà làm.

Ông yêu cầu tất cả đàn ông thực hiện một “Tuần lễ khen vợ”, ngày nào cũng khen từ sáng đến tối.
Ông cam đoan sẽ thấy hiệu quả ngay lập tức. Học viên chẳng mấy người tin. Có người c̣n nghĩ là ông nói đùa, nhưng số đông vẫn thử “làm bài tập” xem sao và kết quả thật bất ngờ.

Một anh vừa ngủ dậy, nhớ đến bài tập, nói luôn: “Nằm cạnh em sướng thật, mùa đông th́ ấm, mùa hè th́ mát”. Vợ tát yêu một cái. Vợ tập thể dục xong, chồng lại khen: “Hồi này trông thần sắc em rất tốt!”. Vợ càng ngạc nhiên v́ chưa bao giờ thấy chồng để ư đến ḿnh. Lúc dọn món ăn sáng ra, anh ta lại xoa hai bàn tay: “Chà, em làm món ǵ trông ngon thế!”. Vợ sung sướng nguưt yêu chồng một cái nữa. Ăn xong lại khen: “Anh thấy đi ăn sáng ở đâu cũng chẳng bằng em làm!”.

Trước khi đi làm, ngắm vợ một phút, anh lại thốt lên: “Em mặc bộ này trông quá được!”. Không ngờ chỉ trong ṿng một tiếng, mới khen có mấy câu mà chưa bao giờ anh ta thấy trên gương mặt vợ lại có những nét hạnh phúc ngời ngời đến thế. Ra đến cửa anh c̣n quay lại: “Anh đi nhá. Em rất tuyệt,anh yêu em, vợ cưng của anh”.

Hết tuần, có học viên báo cáo với thầy là chỉ sau một “tuần lễ khen”, anh ta được hưởng hạnh phúc hơn 10 năm chung sống cộng lại.

Nhưng có một thứ, người vợ nào cũng khao khát th́ họ lại quên. Đó là lời khen.

Tuy nhiên, nếu vợ đẹp th́ khen đẹp, nếu quần áo đẹp th́ khen quần áo, nếu ngoại h́nh không đẹp th́ khen công dung ngôn hạnh... miễn sao phải chân thật. Khen bừa lỡ thành mỉa mai th́ sẽ tác dụng ngược đấy.

Ai cũng biết “đàn ông yêu bằng mắt, đàn bà yêu bằng tai”....

Có anh... c̣n "môi miếng”: "Em hút hồn anh ngay từ lần đầu mới gặp. Đôi mắt em sao mà sâu thăm thẳm say đắm vậy"...

Đàn ông Việt thường "quên" nịnh vợ..??? và ráng chịu....


C̣n Wonderful ưa nói câu " Anh đi Đông đi Tây cũng không bằng về nhà với vợ với con " thế là cả đời ḿnh tới bây giờ sống trong hạnh phúc và ảnh hưởng rất hay tới con cái,lúc nào cũng coi tổ ấm gia đ́nh là trên hết.... ......8 march 2019.

http://vietbf.com/forum/attachment.p...8&d=1552176637

hoanglan22 03-11-2019 01:09

Người Vợ Tù Cải Tạo - Thụy Vi tự thuật
 
Con người ta khi đă có một quảng đời dằng dặc khổ đau, một quảng đời dằng dặc ưu phiền… Đáng lẽ không nên ngoái đầu nh́n lại. Bởi vui vẻ th́ hiếm hoi, c̣n chuỗi ngày cơ khổ th́ dài vô tận. Cũng như muốn nói về nó, cũng không thể nói hết một lần, chỉ c̣n cách kể lại những biến cố chính bằng chút chữ nghĩa với tất cả xúc động cùng tâm t́nh, ư tưởng…

*****

Bị Đuổi Ra Khỏi Ngôi Nhà Của Ḿnh......

Khi hay tin Việt Cộng bắt hết anh em cùng chồng tôi tại ty Cảnh sát, cảm giác của tôi lúc đó thấy ḿnh y hệt như trái banh bị ném quật một cách mạnh bạo phũ phàng. Sau giây phút chới với, tôi bắt đầu hốt hoảng, nhưng biết cầu cứu với ai, v́ chung quanh tôi trống không – những người thân giờ kẻ c̣n người mất, người ra đi mất hút nơi nào không ai biết… Cuối cùng tôi chỉ biết khóc lặng thinh trong tuyệt vọng và thấp thỏm chờ đợi những bất hạnh chắc chắn sẽ theo nhau kéo tới…

Biến động Ngay 30, Tháng Tư, Năm 1975 chưa hết bàng hoàng. Không khí ghê rợn cuộc xử bắn Tỉnh Trưởng Hồ Ngọc Cẩn c̣n nặng nề u ám. Đột nhiên rộ lên tin đồn sẽ xử bắn thêm vài người nữa trong nay mai khiến mọi người trong tỉnh càng hoang mang sợ hăi. Một buổi sáng thức dậy nh́n qua bên đường thấy một khán đài dựng lên sừng sững hồi nào, Tôi vừa ngờ ngợ, đột nhiên có tiếng gọi ngoài cổng rồi vài người cầm súng xông vào nhà tôi với nét mặt hằn học ra lịnh cho Tôi phải ở yên trong nhà không được đi ra ngoài. Thấy thái độ hung hăng của họ, hai đầu gối Tôi run lên v́ biết tai họa tới rồi. Khán đài dựng ngoài kia và họ canh giữ Tôi đây là ngày xử án chồng tôi rồi ! Nghĩ đến đó tôi cảm thấy mặt đất dưới chân tôi như đổ ụp xuống khiến thân h́nh tôi lảo đảo phải ngồi bệt xuống ghế t́m điểm tựa. Sau phút điếng hồn, chợt nhớ ra sự thật, chợt nhớ chồng tôi sắp chết, đột nhiên hết sợ, tôi đứng lên, bế đứa con bươn bả đi ra cửa về phía đám đông đang tụ họp, mặc kệ họ hầm h́ kè súng chạy theo.

Tôi chen vào phía khán đài chong mắt t́m chồng nhưng chỉ thấy mấy tên cán bộ mặt mày lạnh tanh đầy sát khí lớp đứng lớp ngồi lố nhố. Không t́m thấy anh nhưng tôi thật b́nh tĩnh kiên nhẫn quan sát chung quanh. Giờ phút này tôi nhứt định không khóc, nhất định không để mắt tôi nhoè nhoẹt, phải ngẩng đầu nh́n cho rơ mặt kẻ thù dă tâm giết chết chồng ḿnh.

Trong khi mọi người lao xao bàn tán, hồi hộp đợi chờ. Bỗng một tốp người chạy dạt ra hai bên rồi tiếng la hét lao xao khi chiếc xe bít bùng chở tử tù xuất hiện chậm chậm tiến vào. Tôi xốc nách đứa con len lỏi vào ḍng người mặc kệ tiếng thằng du kích gọi giựt giọng sau lưng “đứng lại! đứng lại!…” để áp sát nh́n vào khung cửa sổ hai bên xe. Qua lớp kính màu xám đục tôi nhận ra ông trung tá Trưởng Ty Cảnh sát Vơ Văn Đường, bên kia là chú Thiên làm sở Mỹ có tiệm café Con Chồn gần đó. Lấp ló bên vai ông Đường là khuôn mặt Đại úy thám sát Lê Văn Bé. Vừa lúc đó có tiếng khóc sát bên tôi, quay lại thấy vợ và bầy con ông Bé rũ rượi khóc kêu chồng kêu cha ḅ lê ḅ càng dưới đất thật thảm thiết. Dù đă tự chủ là không khóc, nhưng nh́n thấy cảnh thê lương bất nhẫn, tôi chịu không nỗi, nước mắt chảy ràn rụa trên mặt cho tới khi một tốp lính ôm súng hung hản chạy rầm rập bao quanh chiếc xe…Một người bước tới mở cửa…Tôi lau mắt nín thở, cổ họng nghẹt cứng…Tiếng ồn ào, tiếng khóc rộ lên từng hồi khi từng người bị lôi ra, ông Đường xuống trước, kế tới ông Bé, kế tới chú Thiên…Ai nữa ? Tim tôi như ngừng đập… Tôi thấy cửa xe toang hoát không c̣n người nào…tưởng hoa mắt…Tôi nhóng cổ…chồng tôi đâu ? Lúc cửa xe đóng lại…Tôi c̣n mơ hồ, khi biết chắc không có anh, tôi mừng đến ngẩn ngơ, hai bàn chân không nhấc nổi đứng im sững nh́n đám đông rồng rắn ùa theo sau những tử tù. Tôi đứng như thế không biết bao lâu cho tới có tiếng ồm ồm của công tố viên trên loa phóng thanh, tôi mới lủi nhủi nôn nao bế con đi về nhà rồi lập cập khoá cửa lại, vội vă đi pha cho con b́nh sữa rồi đặt con lên giường vừa ôm con vừa dỗ cho con ngủ mà đầu óc c̣n mông lung không tin đây là sự thật !?

Tôi bị treo tim thêm vài phiên xử bắn nữa, nhưng cuối cùng tạ ơn Trời chồng tôi vẫn thoát chết. Tuy nhiên, sau đó không lâu, tôi nhận được lịnh của Ủy ban Quân quản cho biết nhà tôi bị tịch thu. Trước khi từ giă mái ấm được xây cất do đồng tiền chắt chiu của hai vợ chồng – Tôi không biết ḿnh đứng chết lặng như cái xác không hồn trong bao lâu, rồi dắt díu đứa con trai bốn tuổi cùng với một mầm sống trong bụng và chút tư trang khiêm nhường để bắt đầu bước vào đời sống vô vọng mịt mù…

Trong cơn Quốc phá Gia vong khiến bà con của tôi tán lạc kẻ c̣n người mất. Không c̣n cách chọn lựa, tôi đành phải đưa con đến tá túc nhà mẹ ruột đang sống cùng ông dượng ghẻ tại Cần Thơ. Thời gian đầu, ông dượng ghẻ cư xử với tôi thật tử tế, nhưng càng ngày ông dượng ghẻ tôi càng lộ ra sự khó chịu, ông bắt đầu đay nghiến chưởi chó mắng mèo và thẳng tay đánh đập con tôi mặc dù cháu bé không hề gây ra lỗi ǵ quá đáng. Mẹ tôi không biết v́ bất lực hay a ṭng cũng nín thinh. Người hàng xóm đoán được ư ông dượng ghẻ muốn ǵ nên mách nước … Thế là tôi móc hết tiền bạc, bông tai nhẫn cưới… vội vàng giao nạp !

Sinh con chưa được hai tuần tôi phải trở ra buôn bán Thuốc Lá nơi đầu đường để phụ thêm tiền chợ cho mẹ vui. Tưởng yên thân, nhưng ông dượng ghẻ không để tôi yên v́ ông nghĩ vợ chồng tôi có rất nhiều tiền và đang cất giấu đâu đó. Thật ra, nếu chồng tôi không thanh liêm, với chức vụ của anh, chắc chắn nh có hàng trăm cơ hội làm giàu. Thấy tôi không “ xùy” Tiền, ông dượng ghẻ càng làm dữ. Tôi chịu đựng hết nỗi nên quyết định thu xếp ít quần áo, ba mẹ con tôi bồng chống ra đi !

Ra khỏi nhà. Tay ôm con, tay mang bọc hành lư, đứa con lớn lẽo đẽo sau lưng. Tôi bơ vơ, đi như người thất thần – Tôi đi tới, đi lui, lầm lủi đi, đi măi mà không biết đi đâu ? Ghé đâu ? Sống đâu ? Tôi cứ đi như thế và đầu óc bắt đầu nghĩ tới con đường chết !
Ư tưởng chết manh nha trong trí càng lúc càng thôi thúc khiến tôi quay ngoắt lại, quày quả đi ra hướng bến phà Cần Thơ.

Chiếc phà từ từ trôi ra giữa sông. Tay ôm đứa con sơ sinh, tay nắm cứng đứa con lớn, Tôi mon men ra phía chỗ không có những hàng lan can chắn giữ rồi lầm ĺ đứng im miên man nh́n xuống làn nước chảy xiết bên dưới. Tôi dự định sẽ ôm chặt hai con và phóng xuống thật nhanh. Gió lạnh làm con tôi rùng ḿnh co ro. Tôi cúi ôm con và nói: “ Mẹ con ḿnh chết với nhau nghe con!” Thằng bé 4 tuổi không biết có hiểu chết là ǵ không bỗng nhiên khóc rống, lắc đầu quầy quậy “ Con không chịu ! Con không chịu ! …” Tiếng la khóc xé ḷng của con như một tia chớp lóe, khiến tôi giật ḿnh, sửng người chợt tỉnh. Tôi c̣n nhớ, măi măi, cái cảm giác của tôi lúc đó là một nhói buốt kinh hoàng ở ngực. Tôi sợ hăi, ôm các con lùi vội vô phía trong rồi hôn con như điên như dại với nước mắt giàn giụa và ḷng chưa hết nỗi bàng hoàng.

Ba mẹ con Tôi vừa thoát qua được cái chết trong giây phút ngu muội, oan uổng, v́ thế tôi cảm thấy ḿnh cần phải sống. Đối với tôi từ giờ phút này – Hai con chính là lẽ sống duy nhất của tôi trên đời này !

Tôi đến kiếm người bạn tên Duyên xin tá túc. Gia đ́nh Duyên không khá giả, nhưng sẳn ḷng chia cho mẹ con tôi một chỗ ở.. Sợ bạn v́ ḷng tốt sẽ bị phiền hà với công an khu vực v́ dám chứa “ Vợ Ngụy” nên tôi xin dọn ra ở trong căn cḥi đựng củi phía sau nhà.

Đêm đầu tiên ngủ trên vạt giường đóng vội bằng những cây tràm cong queo nên tôi phải lôi hết khăn khíu, quần áo để lót cho con tôi nằm đỡ cấn.. Nửa đêm trời bỗng đổ mưa, mưa vật vă dập những ḍng nước cuồng bạo vào các vách nhà và gió lăn lộn thổi thốc khiến mái lá dựng đứng đưa những giọt nước xối xuống làm mùng chiếu ướt đẫm và ngọn đèn dầu tù mù một hồi rồi tắt ngấm. Tôi ṃ mẫm trong bóng tối ôm kín hai con đang giật ḿnh khóc tấm tức rồi vơ vội cái mền lết t́m chỗ nào đỡ dột nhất ngồi thu lu phủ trùm cái mền cho con ấm rồi nhẹ nhàng đung đưa dỗ cho con ngủ tiếp. Tội nghiệp hai đứa con gầy g̣ như hai cọng cây non rút sát trong ngực tôi thiếp trong giấc ngủ chập chờn.

Lát sau gió lui xa, nhưng mưa c̣n chập chùng. Tôi ngồi trong ngôi cḥi quây kín bằng lớp lá dừa chằm mỏng manh nặng mùi ẩm mốc mà tôi tưởng như đang ngồi trong chiếc thuyền vật vờ lênh đênh trong giông băo ngoài biển khơi mịt mùng. Trong hoàn cảnh này, tôi không c̣n nước mắt đâu để khóc, cũng không c̣n cảm xúc để kêu trời hay gọi đất, chỉ mong mưa tạnh, trời mau sáng – Như chị Dậu, một nhân vật của Ngô Tất Tố – Tôi cô đơn tê tái nh́n chung quanh khuất ch́m sau màn đen dầy kịt.

Kiếm Sống:

Cứ sáng sáng là ba mẹ con tôi có mặt ngoài chợ Cần Thơ. Tấm ny-lon trải dưới đất nơi góc chợ với mớ quần áo cũ là nghề kiếm sống mà tôi có thể nuôi on và tiếp tế cho Chồng. Một hôm đang ngồi tháo chỉ quần áo th́ gặp Vợ Anh La Phú Xương đi ngang qua. Bạn thân lâu ngày gặp mừng lắm, đến chừng quay lại thấy hai con tôi nằm chèo queo ngủ thiêm thiếp bụi đời dưới bóng nắng hắt trên chiếc xe ba bánh th́ chị không dằn được nên bật khóc. Rồi chị khuyên tôi nên dọn tới nhà chị ở. Trong khi tôi mua bán ngoài chợ, các con tôi ở nhà với các con chị, khỏi phải dầm mưa dăi nắng.

Nghe chị Xương đề nghị hợp lư, phần Duyên cũng đốc thúc nên tôi ngậm ngùi chia tay với căn cḥi t́nh nghĩa, nơi, đă cưu mang mẹ con tôi trong những ngày cùng khổ nhất.
Chị Xương đùm bọc mẹ con tôi giống như lá rách đùm lá nát v́ hoàn cảnh chị có hơn ǵ tôi đâu ? Anh Xương đi TÙ CẢI TẠO , ở nhà bốn mẹ con chị phải cạy từng lớp gạch bông, từng lớp gạch bếp ra đổi gạo. Sau khi không c̣n ǵ để bán th́ thằng con trai út phải ra ngoài chạy xe đạp ôm. Chị Xương tập tành đi buôn – Chị bó từng cục thịt trong người đi buôn lậu từ chỗ này tới chỗ kia.

Trong mỗi mảnh đời của những người đàn bà có chồng bị TÙ CẢI TẠO không có mảnh đời nào sướng hơn mảnh đời nào, không có mảnh đời nào “Nhục” hơn mảnh đời nào. Bởi v́ cuộc đời những người đàn bà như chúng tôi bây giờ nếu không là mưa nắng th́ là gió táp vập vùi. Cho nên người đàn bà dang thân ra đứng bán chợ trời th́ gặp trăm ngàn cay đắng do bạn hàng o ép có khác ǵ người đàn bà dăi dầu đi buôn từng bịch gạo, kư thịt cũng đắng cay bởi những tên lơ xe, tài xế, đứng bến tiểu nhân đắc ư quyền hành.

Thời gian này chiến tranh cơm gạo mới tồi tàn làm sao. Đó chính là sự đổi thay rộng lớn của cuộc đời và con người. Đó chính là sự đổi thay tàn nhẫn, ghê gớm đến cái độ tan biến, đảo lộn hoàn toàn nề nếp cũ khiến người đàn bà khác hẳn – sẵn sàng xù lông giương móng dành nhau từng kư bo bo, từng kư ḿ sợi, từng lít nước muối pha màu để giữ chặt phần ăn cho con ḿnh.

Tôi sống như thế cho đến một ngày, cuộc trùng phùng với vợ chồng người nhân viên cũ như một cơn mơ làm thay đổi cuộc đời của tôi. Xin được kể lại một chút về sự liên hệ ân t́nh này:

…Năm đó chú Sáng là tài xế lái xe cho chồng tôi. Như thường lệ, mỗi sáng chú lái chiếc Scout đậu trước nhà chờ. Xe lúc nào cũng nổ máy, nhưng hôm đó chú loay hoay lau xe nên không thấy một đứa bé trai ba tuổi, con của Thiếu tá Nguyễn Thanh Ṭng trưởng ty Cảnh sát đang lon ton theo người nhà đi mua điểm tâm. Đang đi như vậy, bỗng thằng bé chun vô ngồi trong gầm xe hồi nào không ai hay. Chồng tôi từ nhà bước ra, vô ư, mở cửa leo lên, xe vọt tới, có người la hoảng, nhưng đă trễ ! Xe cứu cấp tới th́ thằng bé đă chết. Chú Sáng bị câu lưu rồi được thả để chuẩn bị ra toà. Mặc dầu ông bà Trưởng ty hứa sẽ băi nại, nhưng chú không yên tâm. Một buổi chiều chú ghé thăm, mặt mày có vẻ nôn nóng muốn bỏ trốn. Tôi thông cảm, lén chồng dắm dúi đưa chú ít tiền làm vốn để về quê nuôi vợ con. Từ đó chúng tôi bặt tin.

Sau năm 1975 vợ chồng chú Sáng xúc động khi nghe người ta kể lại những biến cố trong gia đ́nh tôi nên vợ chồng chú quyết tâm t́m cho ra tung tích vợ con người chỉ huy cũ để giúp đở. Gặp nhau giữa chợ. Chúng tôi nh́n nhau mừng mừng tủi tủi. Sau đó vợ chồng chú ân cần đề nghị đón mẹ con tôi về sinh sống nơi quê vườn của chú. Trong lúc này, thôn dă là nơi trú ẩn an toàn hiền hoà nhất cho một người Vợ nuôi con đợi Chồng. Vả lại, cảnh dang thân dầm ḿnh giữa chợ và cuộc sống không một tờ giấy tùy thân đă khiến tôi thấm mệt. Con tôi lại sắp đến tuổi đi học và tờ Hộ khẩu là tờ giấy bức thiết để con tôi vào trường. Lời đề nghị của vợ chồng chú Sáng ngay lúc này như cái phao trong tầm tay. Tôi muốn từ đây chấm dứt cuộc sống lưu lạc như mèo mẹ bơ vơ tha con ḿnh đi cùng khắp.

Nghe tôi nhận lời, vợ chồng chú hối hả về quê dựng liền mái nhà rồi tức tốc trở xuống Cần Thơ đón mẹ con tôi. Ngày chia tay lại là một ngày toàn nước mắt. Gia đ́nh Duyên, gia đ́nh chị Xương và gia đ́nh tôi bịn rịn không rời.
H1.jpg

Chúng tôi về Vàm Cống, ở trong ngôi nhà tranh kín đáo, cất giữa đồng. Trong nhà chúng tôi có giường cây, bàn cây, ghế cây, tuy chỉ những loại gỗ tạp rẻ tiền nhưng tôi cảm thấy ḿnh thật giàu có và bắt đầu học bài học biết ơn mọi thứ. Tôi như sống trong một gia đ́nh, tôi có người bao bọc, giúp đỡ mọi mặt. Những ngày tháng tù đầy phơi rốn cứ thế êm đềm qua. Tôi là người sống động, nên cho dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù phải nếm qua bao khốn khó tủi nhục ǵ, dù đang ở một nơi thiếu tiện nghi nhất – như vùng quê này, không điện, không nước máy, không TV, nhưng tôi lúc nào cũng t́m một cái ǵ vui để quên khốn khó, vẫn thêu dệt nhiều mộng đẹp, thí dụ mái cḥi tranh tôi đang ở thi vị hoá là “lều thơ” và biến nó thành một nơi ở thơ mộng, là một nơi an toàn cho các con tôi có chỗ chạy nhảy nô đùa. Ở chung với ba mẹ con tôi c̣n có cháu Thủy con gái của vợ chồng chú Sáng. Cứ sáng sớm tôi lên chợ Long Xuyên bán buôn th́ mấy chị em ở nhà với nhau. Chiều chiều tôi xách gạo, thức ăn về nấu, cả nhà xúm lại ăn với nhau thật vui rồi tụm lại nghe tôi đọc truyện trước khi đi ngủ. Thằng con trai lớn của tôi lúc đó biết mê Thủy Hử. Những cuốn truyện xưa c̣n sót lại thằng bé đọc đến thuộc ḷng. Biết con thiếu cha là một thiệt tḥi rất lớn, nên tôi phải làm tất cả, hết sức ḿnh để bù đắp. Hôm nào có gánh hát, tôi và Thủy đạp hai xe chở hai con đi coi hát, sau những cơn vui nho nhỏ, đêm tối thức giấc ṿ vơ nghe ếch nhái rền ră ồm ọp kêu than thăm thiết mới thấy nỗi hiu quạnh. Cái âm điệu đó ám ảnh tôi cho tới tận hôm nay, khi Tôi đă sống đoàn viên trên nước Mỹ – nhiều đêm ngủ tôi c̣n nghe văng vẳng đâu đây, giật ḿnh hoảng hốt choàng dậy, lắng nghe…may quá, chỉ là tiếng gió !Tôi trồng một số cây ăn trái chung quanh nhà đang sơn sởn th́ trận lụt kinh hồn năm 1978 nhận ch́m nghĩm. May nhờ có hàng xóm trước đó đến làm cho mẹ con tôi cái sàn để kê đồ đạc cho khỏi ướt và làm chỗ cho mẹ con tôi và cháu Thủy ở. Cái sàn tuy áp sát mái nhà nhưng an toàn. Để đề pḥng đêm khuya nguy hiểm, vợ chồng chú Sáng c̣n treo cái kẻng có ǵ th́ tôi khua lên cho hàng xóm chạy tới. Mấy tháng nước nổi nhưng các con tôi không hề thiếu ăn, thiếm Sáng ngoài tiếp tế bánh trái, thiếm c̣n cho canh cho cá… Có lần thiếm cho ăn món canh chua Xiêm La, ngon tuyệt, nhớ suốt đời !

THĂM NUÔI

Đời sống trôi qua một cách vật vă. Những ngày tháng tất tả chạy ngược chạy xuôi, thăm nuôi cha, thăm nuôi chồng, nuôi con và nuôi ḿnh, khiến tôi tàn tạ không ngờ. Người vợ “ Thục nữ yểu điệu” ngày nào giờ bơ phờ cằn cỗi. Nhà tôi cách phà Vàm Cống đúng hai cây số.. Mỗi chuyến thăm nuôi chồng, tôi phải dậy lúc nửa đêm, hai mẹ con khiêng vác những bao bị giỏ xách khệ nệ đi bộ ra tới bến phà, đập cửa nhà ông thuyền câu, nhờ ông chở qua sông trước ba giờ sáng để kịp đón xe tài nhất từ Long Xuyên chạy xuống Cần Thơ.

Chúng tôi qua con sông bắc Vàm Cống bằng chiếc thuyền câu chèo tay mỏng manh. Bây giờ ngồi nhớ lại, không hiểu sao tôi có can đảm đưa con ngồi trên chiếc thuyền băng ngang ḍng nước chảy xiết trên khoảng sông rộng mênh mông dập dềnh những con sóng cơ hồ nhiều lần nhận chiếc thuyền xuống nước trong đêm tối chập chờn như thế ?

Có lần tôi kể cảnh tám năm thăm nuôi trong bài Khóc Lặng Thinh là tám năm tôi và đứa con trai đầu ḷng vừa bốn tuổi có rất nhiều kỷ niệm tủi cực trong những chuyến thăm nuôi chồng tôi ở trong TÙ CẢI TẠO… Trong những lần đó, mẹ con chúng tôi nhiều đêm phải ngủ ngoài lề đường, hoặc là ngồi bó gối suốt đêm ngoài bến xe, ngủ lăn lóc ngoài bến tàu, ngủ bờ, ngủ bụi… thậm chí tôi cũng thường xuyên ṭn ten đeo cửa xe đ̣ trên quảng đường đầy ổ gà dài vài chục cây số. Có một lần xe đ̣ bể bánh, lật nhào, lăn nhiều ṿng, tôi ôm chặt lấy con tôi mà tưởng hai mẹ ccon cùng chết. Khi chiếc xe nặng nề nằm im thôi không lăn nữa và biết ḿnh c̣n sống, hai mẹ con lóp ngóp run rẩy chen chúc ḅ ra, tôi vội vàng rờ rẫm khắp cùng ḿnh mẩy Con để chắc coi con ḿnh có bị ǵ không, miệng năn nỉ hỏi coi con đau chỗ nào. Biết con không sao, tôi yên tâm rồi thảng thốt đi như người mộng du bươi t́m trong đống ngổn ngang lôi ra bao thức ăn thăm nuôi bẹp rúm rồi kéo lê kéo lết lên bờ đường. Tai nạn tuy không có người chết nhưng chung quanh tôi mọi người kêu réo lao xao. Lúc này tôi mới cảm thấy thân thể tôi ră rời, vừa ôm dỗ đứa con bé bỏng xanh xao nằm thiêm thiếp mệt nhọc trên ngực mà tôi tê tái, buồn đến quặn thắt đau xót ruột gan. Tôi lặng lẽ ôm con mà khóc.

Trại Tù Kinh Năm tại xả Hoả Lựu tỉnh Chương Thiện là một tập đoàn ăn hối lộ trắng trợn. Tù muốn đi phép về thăm vợ ? Tù muốn đi công tác ngoài tỉnh ? Tù muốn vượt biên ? Những điều kiện này Tù cứ việc đóng vàng cho cán bộ phụ trách theo quy định giá cả hẳn ḥi. Kể cả việc Vợ Tù muốn ngủ đêm với Chồng. Kế bên nhà trại dựng sẳn nhà một cán bộ, vợ Tù cứ mang “ Bao Thư ” hay “ Giỏ Quà ” đến đó th́ sẽ toại ư muốn ngủ lại với chồng hai ba đêm ǵ cũng được !

Năm đó, chồng Tôi bị thổ huyết, mỗi lần ho, máu ộc từng ngụm nhiều lần tưởng chết nhưng vẫn phải bắt buộc lao động nặng. Tôi lo lắng, lần đi thăm nuôi, tên Công An quản giáo lân la gợi ư bắt mối cho biết muốn chồng tôi được lao động nhẹ th́ nên “ lo lót” cho vợ Hai Râu trưởng Trại Tù. Thế là tôi chạy sất bất sang bang, nhà nào tôi cũng gơ cửa, cuối cùng gom được hai lượng vàng. Duyên bạn tôi e ngại vợ trưởng trại chê ít, nên chu đáo cho thêm 200 con cá giống Chép và Trắm Cỏ rồi kêu xe chở tôi cùng hai bịch cá khổng lồ vô nhà vợ ông ta đang sống tại Phụng Hiệp.

Tôi loay hoay thật lâu bên lề đường trước khi may mắn được mấy người chăn trâu phụ khiêng hai bọc cá khổng lồ đầy nước với Oxy vô nhà vợ Hai Râu. Mặc dù nắng trên đầu như đổ lửa nhưng tôi không thấy mệt chút nào. Tôi mang niềm hy vọng đi lấp xấp quẹo vô ngơ, bỗng đụng mặt một người đàn bà vẻ khinh khỉnh đứng đó. Tôi chưa kịp chào, bà hất mặt “ Bưng ǵ đó ?” Tôi khựng lại, cảm thấy nhục, nhưng cố dằn cái bất b́nh xuống, mềm mỏng “ Tôi có ít Cá giống tốt tặng chị, mong chị thơm thảo nhận dùm”. Con mụ vợ trưởng trại tù Kinh 5 nói giọng kiểu tiểu nhân đắc ư “ Chèn ơi ! mấy con vợ Tá, vợ Úy của tụi Ngụy tặng tui xe Honda, tủ lạnh lủ khủ tui c̣n hông thèm, chị cho chi mấy con cá này ?!” Tôi tức uất lên, nếu không thể chửi mụ vài câu th́ cũng bỏ bịch cá đang lội lờ đờ dưới chân đi thẳng… Nhưng nhớ đến thân h́nh gầy guộc của chồng, nhớ đến cơn bịnh không biết cướp mạng chồng ḿnh lúc nào nên tôi dằn cơn giận xuống, tay như run nhẹ trong túi áo khi móc gói hai lượng vàng ra đưa mụ. Tôi nói “ Lần đầu tặng Chị làm quen, mai mốt Chị muốn ǵ tôi đem vô… thêm ” Con vợ thằng trưởng trại lấy gói vàng lật ra chăm chú xem rồi nhét vô túi, miệng cười hệch ra. Nhưng lúc đó mụ cũng vừa liếc thấy chiếc ṿng cẩm thạch của tôi đeo dấu trong tay áo bà ba, mụ liền nắm tay tôi kéo vô nhà vừa cười mơn vừa vén tay áo của tôi để săm soi chiếc ṿng, miệng nói ngọt sớt “ Chèn ơi! chị em không mà, chiếc ṿng xanh dữ hén, chắc màu lư. À chồng chị tên ǵ, cấp bậc ǵ, trại TÙ CẢI TẠO mấy, nói tui giúp liền…” Câu giúp liền của mụ là tôi biết tỏng mụ rồi, nhưng tôi biết làm ǵ hơn đành phải bấm bụng kêu mụ lấy nước với cục xà bông, mụ mừng lắm, hối mấy đứa con lè lẹ. Nước xà bông đem tới, mụ sà bên tôi vừa bóp vừa thoa vừa cật lực kéo chiếc ṿng Cẩm Thạch cho tuột ra. Tôi đau điếng, chịu đựng, ngồi kể lể t́nh cảnh của chồng ḿnh. Lột được Chiếc Ṿng Cẩm Thạch, tôi thấy hai con mắt mụ sáng rực, không biết mụ có nhớ tôi nhờ ǵ không ? Sợ mụ quên, tôi nhắc tên và cấp bậc, pḥng, Trại Tù Cải tạo của Chồng Tôi lần nữa rồi lủi thủi ra về với bàn tay sưng đỏ.

Sau đó chồng tôi được điều vào tổ khác: Đôi ngày ngồi cưa củi, lột vỏ tràm. Vài ngày chuyển qua dầm ḿnh dưới sông để vớt rong, lục b́nh về cho tổ rẩy. Công việc này tuy chưa phải là lao động nhẹ, nhưng dù sao cũng đỡ hơn đi đào đất, móc gốc cây rất nhiều.

Những đợt kiểm kê tịch thu thuốc men, quần áo, vải vóc đă cạn kiệt. Bây giờ một viên ABC sổ mũi nhức đầu không có mà uống nên các loại Trụ Sinh chỉ mua bán lén lút chợ đen. Hôm đó đi thăm nuôi về, Duyên bạn tôi giới thiệu có lô thuốc Trụ Sinh trị cầm máu. Tôi suy nghĩ một chút hứa sẽ trở lại lấy rồi dắt tay đứa con kêu xe kéo đến bịnh viện để bán máu. Y tá rút tôi một ống máu, thấy ḿnh c̣n khoẻ, tôi năn nỉ họ rút thêm ống nữa. Có lẽ thấy tôi tội nghiệp cho nên rút máu xong, họ tặng thêm cho cái bánh ú. Ra đến cổng tôi thấy hơi chóng mặt, nên ngồi xuống lề đường, hai mẹ con lột cái bánh ra ăn, kêu thêm ly trà đá. Vừa uống hết ly trà, con tôi khều tay chỉ “ Họ múc nước này trong cầu tiêu ḱa mẹ ” Tôi quay lại thấy mấy người xách xâu đựng ly trên tay, vừa múc nước trong hồ dội cầu để pha trà. Nhưng không hiểu sao, Tôi cảm thấy ăn cái bánh này, uống ly nước này thật ngon nhất trong đời, y như ông hoàng tử được ăn “ Cháo bắp, mắm hến” của ông nhà văn nào đó viết.

ĐOÀN VIÊN:

Sau bảy năm bốn tháng, chồng tôi được thả ve. Cảnh vợ chồng, cha con đoàn viên không sao tả xiết hết nỗi vui mừng hạnh phúc. Xóm giềng tôi dù nghèo nhưng nhà này nhà kia đem gà đem vịt tới ăn mừng. Ai cũng chúc phúc từ giờ vợ chồng tôi khổ tận cam lai. Vui được mấy ngày, chúng tôi bắt buộc phải về nguyên quán Mỹ Tho theo quy định nhà Nước Viet Cong. Mới chân ướt chân ráo lại lâm vào cảnh không nhà. Người em bà con cám cảnh, kêu cho cái vũng śnh trồng rau muống khuất trong hẻm gần chợ Cũ. Thế là con cháu, chị em xúm lại đổ đất đấp nền nên chẳng mấy chốc chúng tôi có được một nơi chốn kín đáo, ấm cúng, sạch sẽ mát mắt lạ thường.

Sau khi giải quyết được cái ở, chúng tôi bắt đầu lo tới cái ăn. Với bản tánh nhạy bén, tôi thấy chỗ của ḿnh có lợi thế về mua bán quà bánh thức ăn, nên bày ra bán cháo huyết. Thế là chồng tôi hộc tốc về quê mượn bàn ghế nồi niêu tô chén để gian hàng cháo của tôi kịp khai trương ngay đầu hẻm.

Bán cháo có ngày đắt ngày ế. Ế th́ cả nhà húp cháo thay cơm, nhưng ế hoài th́ mất vốn. Thấy tôi bán cháo cứ bị ế nên chồng tôi lén vợ đi bán kem. Mấy ngày đầu tưởng anh về quê phụ làm ruộng, nhưng một ngày anh bê nguyên thùng kem… vô đăi mẹ con ăn v́…ế, th́ tôi thật ngỡ ngàng. Cứ h́nh dung mặt mày anh bơ phờ, dáng vóc c̣m cơi vừa rung cái chuông leng keng, vừa đạp khắp làng cuối xóm để bán mà ứa nước mắt.

Chúng tôi phải vật lộn với gian khổ từng ngày như thế hơn mười năm sau….

Khi cuộc sống đă yên lành no ấm trên một đất nước tự do, có Nhân Quyền của miền Đất Mới là Quê Hương Thứ Hai, tôi thấy một cuộc đổi đời nào cũng là một cuộc đổi thay to lớn cho một đời người.

V́ thế, tôi càng thấm thía về cái được cái mất, về giá trị của sự sinh tồn.

Nhất là giá trị một quăng đời sống, phải trong sự rún ép, cay độc, nhục nhă, bị phân biệt đối xử của chế độ Cộng Sản Việt Nam mà nếu viết hết th́ chỉ vài trăm trang giấy không làm sao nói hết, ngày xưa sống trong ác mộng ...

Thụy Vi
23 - 02 - 2019

hoanglan22 03-11-2019 03:09

Bom BLU-82
 
Đúng 5 giờ 40 phút sáng ngày 9/4/1975, hàng ngàn trái đại bác đủ loại trút xuống thị xă nhỏ bé Xuân Lộc với diện tích vài cây số vuông. Trận mưa pháo tàn bạo và hiểm ác kéo dài trong một tiếng đồng hồ, tiếp theo sau là những đợt tấn công biễn người có xe tăng yểm trợ. Nhưng 3 sư đoàn 6, 7 và 341 của Quân Đoàn 4 do Thiếu Tướng Hoàng Cầm chỉ huy đă thất bại ngay trong những đợt tấn công đầu tiên. Các đợt tấn công của quân CSBV đă bị chận đứng ngay bên ngoài ṿng đai pḥng thủ của các chiến binh dũng cảm Nỏ Thần Miền Đông, Mũ Nâu, ĐPQ & NQ tỉnh Long Khánh. Sau ba ngày liên tục pháo và tấn công, quân CSBV vẫn bị cầm chân bên ngoài, chỉ có một vài toán nhỏ bộ đội lọt được vào bên trong, nhưng bị tiêu diệt ngay, phần lớn bị bắt làm tù binh. Bọn đầu sỏ Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng và Trần Văn Trà phải mở cuộc họp khẩn cấp tại Lộc Ninh vào buổi chiều ngày 11/4/75 để bàn thảo một phương án mới hầu tránh bị tiêu diệt. Trong lúc đó, vào buổi sáng ngày 12/4/75, quân trú pḥng lại được tămg cường Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, làm cho kế hoạch tấn chiếm Xuân Lộc càng thêm vô vọng.

Cuộc chiến vẫn trong t́nh trạng giằng co. CSBV điều thêm vào chiến trường Trung Đoàn 95B, rồi Sư Đoàn 325, nhưng vẫn không đạt được những ǵ chúng mong muốn. Sau khi pḥng tuyến Phan Rang thất thủ chiều ngày 16/4/75, Quân Đoàn Duyên Hải/CSBV do Tướng Lê Trọng Tấn chỉ huy đang trực chỉ Xuân Lộc. Bộ đội của hắn đă xuất hiện ở Rừng Lá.

Quân CSBV càng tập trung đông đảo, càng là miếng mồi ngon cho loại bom có sức hủy diệt lớn. Đó là Bom BLU-82.

BẢO ĐỊNH Vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh Quốc Cộng, QLVNCH được người bạn đồng minh Hoa Kỳ cung cấp cho 6 trái bom loại lớn nhất, có tên gọi là BLU-82 để QLVNCH có thể ngăn chận được làn sóng đỏ đang hung dữ tràn vào từ phương Bắc. Loại bom này xử dụng ng̣i nổ “Daisy Cutter”. Nhưng có điều hôi hài, người bạn chỉ cung cấp 2 ng̣i nổ!

Bom nặng 15,000 pounds, đường kính 54 inches, chiều dài 141,6 inches, trị giá khoảng $27,318 USD. Bom được đặt lên vận tải cơ C.130, bay ở cao độ 6,000 feet. Tùy theo tính chất của mục tiêu, bom BLU-82 có loại văng miểng, có loại gây hơi ép, khi nổ tạo ra áp lực 1,000 pounds/square inch. BLU-82 có công hiệu chống hầm hố bằng cách phóng ra một hổn hợp nhiên liệu khí, khi nổ gây sức ép lớn, đồng thời đốt hết dưỡng khí trong một khu vực.

Theo tài liệu của George J. Veith & Merle L. Pribbenow II trong quyển “Fighting Is An Art”, tháng 4 năm 1975, Không Lực Hoa Kỳ dùng máy bay C-130 chở những trái bom tới Phi trường Tân Sơn Nhất, trao lại cho Không Quân VNCH. Các chuyên viên của cơ quan DAO sẽ huấn luyện cho phi công QLVNCH cách xử dụng. Buổi chiều ngày Thứ Ba, 22 tháng 4 năm 1975, một chiếc C-130 của Không Quân VNCH chở một trái CBU rời Phi trường TSN, bay ra Xuân Lộc, đảo một ṿng rồi nhắm hướng Đông, thả trái bom CBU xuống Chỉ Huy Sở của Sư Đoàn 341/CSBV, đặt ngay bên ngoài thị xă Xuân Lộc vừa bị bỏ ngỏ. Bom đă gây thiệt hại nặng nề cho quân CSBV. Có hơn 250 tên bộ đội xâm lăng đền tội. Nhưng ở một đoạn khác, tác giả nói v́ không có những phi vụ B-52, KQ/QLVNCH đă bay thả xuống những mục tiêu quan trọng tại chiến trường Xuân Lộc những trái bom nặng 15,000 pounds gọi là “Daisy Cutter”. Ngày 14/4, trái “Daisy Cutter” đầu tiên thả xuống Chỉ Huy Sở của QĐ4/CSBV, cách Xuân Lộc 12 cây số về hướng Đông Bắc. Tin tức ghi nhận có đến 75% mục tiêu bị hủy diệt. Tuy nhiên, một nguồn tin khác cho rằng trái “Daisy Cutter” đầu tiên đă được KQ/QLVNCH thả xuống hồi tháng 11/74. Theo Quân sử của QĐ4/CSBV, KQ/QLVNCH đă thả loại bom có tầm sát hại lớn là CBU (Cluster Bomb Unit) làm cho các đơn vị của chúng bị thiệt hại nặng.

Khi Tướng Vơ Nguyên Giáp được báo cáo về vụ ném bom, đă gửi ngay một công điện vào Mặt Trận, khuyến cáo bọn chỉ huy chiến trường phải tấn công TSN và các phi trường khác để máy bay của KQ/QLVNCH không thể cất cánh được. Nhưng sự việc ai đă ra lệnh cho xử dụng bom, bao nhiêu trái, mục tiêu đánh bom, và sự thiệt hại do bom gây ra th́ vẫn trong ṿng bí mật.

Theo tài liệu “Tuyến Thép Xuân Lộc” do Đại Tá Hứa Yến Lến, TMT/HQ/SĐ18BB, biên soạn, Chuẩn Tướng Trần Đ́nh Thọ, Trưởng Pḥng 3/BTTM/QLVNCH, xác nhận hai trái bom thả xuống Xuân Lộc là loại bom BLU-82 chứ không phải CBU-55, do Không Quân QLVNCH bay thả xuống vùng tập trung quân CSBV. Mục tiêu do Tư Lệnh Chiến Trường (Lê Minh Đảo) cung cấp, Tư Lệnh Quân Đoàn (Nguyễn Văn Toàn) xin BTTM, và khi Đại Tướng TTMT Cao Văn Viên chấp thuận th́ chuyển qua cho Tư Lệnh Không Quân (Trung Tướng Trần Văn Minh). Và chỉ có Tư Lệnh Không Quân biết để mà thi hành.

Theo quyển “Những Ngày Cuối của VNCH” của Đại Tướng Cao Văn Viên, cuối tháng 2/1975, BTTM xin Hoa Kỳ cung cấp những loại bom chiến lược không quân có thể xử dụng được. Hoa Kỳ hứa gửi 27 quả bom và chuyên viên huấn luyện. Giữa tháng 4, ba trái được chở đến, cuối tháng 4, thêm ba trái nữa. Một chuyên viên Hoa Kỳ đi theo để hướng dẫn. Nhưng người phi công Hoa Kỳ có trách nhiệm lái máy bay thả bom th́ không đến. Trong t́nh trạng khẩn trương của chiến trường, BTTM và BTL/KQ quyết định tuyển chọn một phi công kinh nghiệm cho nhiệm vụ thả bom.

“Vào một giờ sáng phi cơ thả trái “Daisy Cutter” đầu tiên cách Xuân Lộc 6 cây số về hướng tây bắc. Thành phố Xuân Lộc rúng động như gặp động đất; tất cả đèn điện bị tắt, và truyền tin của địch ngưng hoạt động – bộ chỉ huy sư đoàn 341 CSBV bị tiêu hủy”.

Theo quyển “Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam 1954-1975” của Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Đại Tá Lê Bá Khiếu, và Tiến Sĩ Nguyễn Văn, trang 255 có ghi: “Đêm 15/4/75, sau khi cộng quân tràn ngập vùng ngă ba Dầu Giây, Tướng Toàn, TL/QĐ III đă quyết định đề nghị Bộ TTM cho xử dụng hai quả bom “Daisy Cutter”. Bom Daisy Cutter thực sự dùng để phá rừng, sửa soạn băi đáp trực thăng cho một số quân cở Trung Đoàn, cho nên từ trước đến nay, QLVNCH chưa bao giờ xử dụng đến. Kết quả hai trái bom “Daisy Cutter” đă loại khỏi ṿng chiến 2 Sư Đoàn Cộng Quân (hơn 10,000 quân). Sau khi bị hai trái bom “Daisy Cutter” sát hại, Bắc Việt la hoảng phản đối, cho rằng B-52 của Hoa Kỳ đă trở lại…”

Theo Đại Tá Hoàng Đ́nh Thọ, Trưởng Pḥng 3/QĐ III cho biết “khu vực đánh bom là dọc theo QL20, phía Nam Kiệm Tân”. Theo Hànội th́ khu vực bị đánh bom nằm giữa Biên Ḥa và Xuân Lộc. Mục tiêu được lựa chọn để đánh bom là chỉ huy sở của sư đoàn 341/CSBV.

Theo quyển Hồi Kư “Chiến Đấu Đến Cùng” của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, TL/Lực Lượng Xung Kích QĐIII, nói ông đă cho lệnh đánh hai trái bom CBU-55. Đại Úy Chi Đoàn Trưởng thuộc CĐ315 Kỵ Binh cho rằng đă chứng kiến 2 trái bom rớt xuống khu vực ngă ba Dầu Giây. Nhưng theo kinh nghiệm của người viết, là Tiểu Đoàn Trưởng của đơn vị pḥng thủ Núi Thị, chỉ cách ngă ba lối 7 cây số, th́ nếu bom đánh ở khu vực Ngă Ba, căn cứ Núi Thị phải bị chấn động. Và nhất là Đại Đội 43 Trinh Sát của Trung Úy Khoát, hoạt động khu vực hướng Tây Nam Núi Ma, cách Ngă Ba lối 3 cây số mà không hề hay biết ǵ cả! Vậy có thể mục tiêu không phải là ngă ba Dầu Giây.

Ông Nguyễn Cao Kỳ trong quyển “Buddha’s Child” (My Fight To Save Vietnam) viết chung với Marvin J. Wolf, xuất bản May 2002, cũng tuyên bố chính ông cho lệnh đánh hai trái bom. Nhưng trong thời điểm đó, ông Kỳ chỉ là Tướng “không quân”, “ngồi chơi xơi nước”, không đảm trách một nhiệm vụ ǵ về Hành Chánh hay Quân Đội. Đă không chức, không quyền th́ ông Kỳ ra lệnh được ai? Và ai dám thi hành lệnh của ông, dù ông là cựu Phó Tổng Thống, cựu Thủ Tướng, cựu Tư Lệnh Không Quân. Ở trang 331, ông Kỳ viết: “…One day Operations called to say that an enemy division (thật ra là 3 sư đoàn 6, 7 và 341) had encircled one of our bases. Our people asked for air support, but there were so many troops that only a cluster bomb would be of any use.
I had none on hand, so I asked the air force commander. He said that he had no authority to autorize their use. I asked the chief of the joint general staff; his answer was the same. I called several generals, and each said they had no authority. I knew that if I were to ask Thieu, he would have to consider his answer for a while, so I called the prime minister, Tran Thien Khiem.
“It’s up to you,” he replied after I had explained the situation. “Tell them that I’m okay with it.”
I called the chief of operations back and said, “Okay, use it.” He accepted my authority (ông Giám Đốc Trung Tâm Hành Quân này chắc phải ra Ṭa Án Quân Sự!), and the resulting air strike was the last time we inflicted major casualies on the enemy”.

Theo Đại Tá Lê Xuân Hiếu, Chiến Đoàn Trưởng 43 nằm bên trong thị xă Xuân Lộc, hai trái bom được thả vào ban đêm. Ngay sau khi hai trái bom đă được thả, Đại Tá Trang, bạn cùng khóa Vơ Bị, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Quân Đoàn III, gọi cho ông hỏi có cảm nhận ǵ không? Đại Tá Hiếu cho biết, bom nổ đă gây chấn động mạnh, các ngọn đèn điện phụt tắt.

Về sự thiệt hại do hai trái bom gây ra th́ có nhiều nguồn tin khác nhau. Từ con số vài trăm đến vài ngàn, thậm chí có tác giả đưa ra con số 10,000, và nói đă loại khỏi ṿng chiến 2 Sư Đoàn CSBV! Nhưng nhiều người, kể cả Hànội, vẫn đồng ư mục tiêu là chỉ huy sở của Sư 341/CSBV, nơi tập trung nhiều xe tăng, bộ đội và hậu cần của chúng.

Trong một trận đánh tại mặt trận Trảng Bom vào giờ thứ 25 của cuộc chiến, một sĩ quan cấp Tiểu Đoàn Trưởng của Sư đoàn 18BB bị bắt, được dẫn tới gặp tên E Trưởng (tức Trung Đoàn Trưởng), tên này nói: “May mắn cho anh là gặp chúng tôi, nếu anh gặp đơn vị kia (ư hắn muốn nói đơn vị bị thiệt hại nặng, hẳn là Sư 341) th́ anh đă bị bắn chết tại chỗ!

Sau khi thả hai trái bom gây chấn động trong hàng ngũ CSBV, LL/XK/QĐIII của Tướng Khôi và Trung Đoàn 8 của Đại Tá Hùng vẫn tiếp tục đánh nhau với Cộng quân tại khu vực phía Tây ngă ba Dầu Giây cho đến khi Sư Đoàn 18BB có lệnh rút.

Tại căn cứ hỏa lực Núi Thị, hai chủ đồn điền cao su người Pháp, một của đồn điền Túc Trưng, và một là chủ đồn điền S.I.P., bị quân CSBV bắt giam đưa vào rừng mấy ngày, nhưng khi được xác nhận là Pháp kiều th́ được thả. Họ đă đến tŕnh diện vị Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng 2/43, và đă cung cấp nhiều tin tức quan trọng.. Đặc biệt họ cho biết đă chứng kiến cảnh xe ḅ, xe trâu tản thương suốt cả một ngày và một đêm. Mỗi xe đều chồng chất lên nhau từ 3 đến 5 thương binh hay xác chết của Cộng quân. Phải chăng đó là những tổn thất của CSBV do hai trái bom BLU-82 gây ra.

Nếu Không Quân QLVNCH có đủ 6 ng̣i nổ để đánh phủ đầu quân CSBV xâm lăng th́ có lẽ t́nh thế đă đổi khác.

Sau khi chiếm được Phan Rang chiều ngày 16/4/75, Quân Đoàn Duyên Hải của Tướng Lê Trọng Tấn liền trực chỉ Xuân Lộc. Bộ đội của hắn đă xuất hiện ở Rừng Lá. Các đoàn convoy chở đầy bộ đội và tiếp liệu th́ cứ phon phon chạy trên đường QL1. Chúng đă công khai ra mặt, không cần lén lút dấu diếm.

Nhưng người bạn Mỹ chỉ cần 2 trái để làm chậm bước tiến quân của bộ đội CSBV, hầu Đại Sứ Quán của họ có đủ thời gian sắp xếp cho việc di tản nhân viên và kiều dân Mỹ ra Hạm Đội 7 đang đậu ngoài khơi thành phố Vũng Tàu. Một trang sử mới đă lật qua nhẹ nhàng đối với người bạn một thời là đồng minh của VNCH. Ngày 26/4/1975, c̣n 4 ngày nữa Sàig̣n mới thất thủ, nhưng tại New Orleans, Louisiana, trong một bài diễn văn, Tổng Thống Gerald R. Ford tuyên bố: “…the war was ‘finished as far as America is concerned.’”

BẢO ĐỊNH
(Xuân Lộc, Trận Chiến Cuối Cùng mà tôi biết)

hoanglan22 03-11-2019 03:17

Cái chết của Thích Quảng Đức qua lời phát biểu của Thích Tâm Châu
 
Ông Thích Quảng Đức theo tài liệu, có tên là Lâm Văn Tức đi tu từ khi c̣n nhỏ, sau đó lại phạm giới có vợ và có con, nhưng không công khai chuyện này để bịp người đời ông vẫn là một người tu hành chân chính. Kiểu sống lưu manh hai mặt lừa dối ḷng tin của tín đồ như ông Lâm Văn Tức không có ǵ là hiếm trong giới “tu hành” của Phật Giáo Việt Nam từ năm 1963 tới nay. Chẳng hạn như Thích Hộ Giác, Thích Trí Dũng, Thích Phước Huệ, Thích Giác Đẳng, Thích Viên Lư và ngay cả HT Thích Tâm Châu cũng có trong danh sách đó. Ngoài chuyện phạm giới với phụ nữ ra họ c̣n hoạt động chính trị. Sau vụ bị nướng sống, nhà sư vọng ngữ phạm giới Thích Quảng Đức được Phật Giáo Ấn Quang thăng lon Bồ Tát, đúc tượng. Cộng với việc giậu đổ b́m leo, những tên phản tặc như Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Trần Thiện Khiêm, Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim, c̣n đem ông Lâm Văn Tức đặt tên đường ở Phú Nhuận, ngang hàng với tổ tiên và những người đă đóng góp công lao to lớn trong việc xây dựng nước nhà! Ngẫm lại ông Thích Quảng Đức Lâm Văn Tức quả c̣n tốt số hơn cả Xuân Tóc Đỏ!




Bên cạnh sự tốt số của Lâm Văn Tức, những kẻ hưởng sái vụ nướng sống ông ta cũng trúng mánh lây. Đó là những tên phản tặc mang tội “giết vua”, tức tội phản quốc đă một bước lên ngôi cửu ngũ. Theo luật pháp của bất cứ quốc gia nào, những tên này phải bị đem ra ṭa án quân sự mặt trận để kết tội tử h́nh. Nhưng không, không những không bị tử h́nh mà lại c̣n được lên làm Thủ Tướng, Tổng Thống, Bộ Trưởng lănh đạo quốc gia! Thương thay cho đất nước một thời bị lănh đạo bởi những tên tội phạm như vậy, thảo nào không tránh khỏi hậu quả cuối cùng là Trung Cộng thanh toán Việt Nam! C̣n nhóm tăng lữ Ấn Quang cũng là một thứ cá mè một lứa với những tên tội đồ giết vua không kém. Ấn Quang được bọn phản loạn nâng đỡ nuông chiều, dùng họ để xóa tội giết vua của chúng và chụp mũ “đàn áp Phật Giáo” cho người đă bị giết, một người mà “Không thể vừa đi tu vừa làm chính trị. Được việc này th́ hỏng việc kia. Làm chính trị, mà đạo đức như nhà tu, không biết lừa lọc tráo trở thủ đoạn nên mới bị phản và mất mạng” (Vĩnh Phúc, BBC). V́ có bọn phản loạn bảo kê cho nên những tên cộng sản đầu trọc như Thích Trí Quang và những ông không tóc khác như Thích Tâm Châu trở thành quyền uy một cơi, có khác nào các ngài quốc phụ!



Thích Tâm Châu - 1964


Thích Tâm Châu - 1965

Dịch phần chú thích: (Ảnh trái) 16/12/1964 - Saigon, Thích Tâm Châu được một em hướng đạo sinh hộ tống sau khi ông ta chấm dứt 48 tiếng tuyệt thực chống chính phủ Trần Văn Hương. Các lănh tụ Phật giáo thề sẽ thực hiện bất kể cuộc hy sinh nào để lật đổ cho được chính phủ này mà theo họ là chống Phật giáo và độc tài. (Ảnh phải) 27/1/1965 - Saigon, lănh tụ Phật giáo Thích Tâm Châu đang lần xâu chuỗi hạt và ngồi sau song cửa tại Việt Nam Quốc Tự ở Sàigon hôm nay sau khi chấm dứt 1 tuần lễ tuyệt thực chống chính phủ Nam Việt Nam của Trần Văn Hương. Chính phủ Hương đă bị lật đổ hôm nay trong một cuộc đảo chánh không đổ máu bởi Tướng Nguyễn Khánh. Hàng ngàn người đến bên cửa sổ xem.

Từ đó quốc gia lâm vào t́nh trạng thần quyền. Hể không theo ư muốn của Phật Giáo Tranh Đấu là lập tức ngày mai có biểu t́nh tự thiêu lớn với khẩu hiệu đây là chính phủ “Diệm mà không Diệm”. Trong chỉ hai năm mà có gần 15 “chính phủ” cai trị Miền Nam, mà tất cả các chính phủ đểu đẻ non chết yểu không tồn tại quá 3 tháng, có những chính phủ chỉ tồn tại vài tuần! Phật Giáo Tranh Đấu trở thành quốc giáo, quốc phụ, quốc trưởng, Tối Cao Pháp Viện. Kẻ giết Diệm là Dương Văn Minh cũng bị Phật Giáo Tranh Đấu cho là “Diệm mà không Diệm”, kẻ chống Diệm như Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát cũng bị Phật Giáo Tranh Đấu cho là “Diệm mà không Diệm”. Ai mà bọn quốc phụ này không ưa hoặc không theo lệnh chúng đều biến thành “Diệm mà không Diệm”, một số ngay cả c̣n bị chúng tặng cho bản án tử h́nh như các ông Phan Quang Đông, Ngô Đ́nh Cẩn và vô số những cuộc đời phải tan nát khác như Dương Văn Hiếu, Đặng Sĩ. Với những tội ác như vậy mà bọn “tu hành” PGVNTN không bị quả báo mới là lạ! Đối với bọn tăng lữ Ấn Quang, chỉ trừ Việt Cộng và chính chúng mới không là “Diệm mà không Diệm”. Hăy nghe phật giáo tranh đấu Thích Huyền Quang xác nhận điều đó:“Sau khi chế độ nhà Ngô sụp đổ, nhưng một chế độ Diệm mà không Diệm vẫn tiếp tục cai trị từ năm 1963 đến 1975” (Huyền Quang Kỷ Yếu trang 41).

Nhưng sự tốt số của đám tội đồ giết vua và bọn quyền thần Phật Giáo Tranh Đấu chỉ là ngắn hạn, mà kẻ tốt số thực sự là thầy kín của phong trào Phật Giáo Tranh Đấu, đó là thầy Việt Cộng. Vụ bị thiêu của Lâm Văn Tức đă chính thức châm ng̣i cho các sóng gió trong chính trường Miền Nam, sự đau buồn của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm về t́nh trạng Phật Giáo như sau “Tôi thấy khi có vụ Phật giáo rồi, cụ Diệm buồn. Tôi đoán thấy ông hơi chán nản. Phật giáo làm quá rồi, ổng không muốn làm việc nữa” (Quách Ṭng Đức/ Vĩnh Phúc/ BBC) và cuối cùng cái chết của anh em ông đă đem lại một thảm họa mà không ai có thể biện bác khác đi được đó là Miền Nam đă bị chặt đầu, Essentially Leaderless Viet Nam (!) mà Bộ Quốc Pḥng cũng như cơ quan CIA Hoa Kỳ đă phải công nhận. Không có lănh đạo th́ chín năm sau đó Miền Nam tất phải rơi vào tay Trung Cộng, mà chính tên Bộ Trưởng Ngoại Giao cộng sản Nguyễn Cơ Thạch cũng đă công nhận “đây là bắt đầu của thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 5 vô cùng nguy hiểm” (Bùi Tín/ RFA)! Sự việc Trung Cộng thôn tính Hoàng Sa hơn 1 năm trước ngày Miền Nam thất thủ là một bằng chứng Bắc Thuộc không thể nào sai được!

Đó là hậu quả mà những tên giặc như Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Trần Thiện Khiêm, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim, Nguyễn Văn Nhung, Dương Hiếu Nghĩa và PGVNTN đă mang lại cho đất nước, trong đó, vụ nướng sống Thích Quảng Đức là một ng̣i nổ hết sức quan trọng. V́ vậy, năm mươi năm sau, bọn Tiết Độ Sứ Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Sinh Hùng đă vô cùng sung sướng đúc tượng hoành tráng để nhớ ơn ông ta, đồng thời tiếp tục chính sách bôi nhọ chính quyền Miền Nam rằng chính quyền Miền Nam đàn áp Phật Giáo, c̣n chúng th́ thương yêu Phật Giáo!


Tượng đài Thích Quảng Đức
Phạm Phương Thảo, Lê Thanh Hải và các đại diện UBND Thành phố đến cắt băng khánh thành tượng đài Thích Quảng Đức, 2010 (cand.com.vn)

Mục đích chính trị và thủ phạm việc nướng sống ông Thích Quảng Đức không ai mà không biết, nhưng v́ một số người Việt Quốc Gia vẫn c̣n giữ thái độ im lặng khiến cho những kẻ bất lương và Việt Cộng tưởng bở làm tới. Tưởng Thích Quảng Đức vẫn c̣n giá trị của một cái ổ khóa để khóa miệng những ai muốn vạch trần bộ mặt thật của bọn “Phật Giáo Tranh Đấu”. V́ vậy, cái ổ khóa Thích Quảng Đức đă được bôi dầu mỡ tune up lại với quư danh rất bảnh là “Bồ Tát” Thích Quảng Đức và một công tŕnh công viên tượng đài đồ sộ trong nước và tổ chức lăng xê khắp hoàn cầu. Chủ nhân của chiến dịch này ai cũng biết là cái mặt mẹt Trung Ương Đảng Việt Cộng. Dĩ nhiên chẳng ai thèm đếm xỉa đến những những ǵ Việt Cộng và những tên sư quốc doanh khoa môi múa mỏ, nhưng ở ngoài nước th́ tất cả những tên tay sai của chúng cần phải bị điểm mặt, trong đó cóchùa Khánh Anh của Thích Minh Tâm tại Âu Châu, chùa Pháp Luân của Thích Giác Đẳng tại Houston Texas, chùa Bát Nhă Santa Ana của Thích Nguyên Trí và “tổng hội cư sĩ” của Huỳnh Tấn Lê, hung thủ Trần Quang Thuận, giặc già hung thủ Tôn Thất Đính, chùa Bảo Quang của tên du đảng Thích Quảng Thanh với nhân vật Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái quậy phá lừng lẫy một thời kiêm hung thủ,Thích Tâm Châu, và đám “báo chí” tay sai Nhă Ca, Trần Dạ Từ, Nguyên Huy, Vũ Ánh.




Trí Quang & Tâm Châu

Dịch chú thích: (Ảnh trái) 12/12/1964 - Hai lănh tụ phật giáo Thích Trí Quang, trái, và Thích Tâm Châu cùng cầu nguyện tại trụ sở chính của phật giáo trước khi bắt đầu cuộc tuyệt thực 48 tiếng chống chính phủ Trần Văn Hương. Nhóm phật giáo buộc tội rằng người đứng đầu chính phủ đang thua cuộc chiến bởi v́ họ làm cho nhân dân chán ghét. (Ảnh phải) 9/4/1966 - Nhóm phật giáo đ̣i hỏi thành lập chính phủ dân sự. Các lănh tụ phật giáo cao nhất Thích Trí Quang, trái, và Thích Tâm Châu, phải, đang ngồi họp tại Viện Hóa Đạo ở trung tâm Sàig̣n hôm nay khi một bản tuyên cáo được đưa ra chống chính phủ quân đội của Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ và yêu cầu có một chính phủ dân sự được bầu cử. Toàn bộ lănh tụ phật giáo từ tất cả mọi phe cánh tập trung lại ra một bản tuyên cáo chung này. Các tín đồ trẻ th́ biểu t́nh chống chính phủ Kỳ và, trong một phạm vi nhỏ hơn, chống Mỹ trong ṿng một tháng qua (AP).

Nói về Thích Tâm Châu th́ người Miền Nam không c̣n ai lạ ǵ thành tích phá hoại của ông ta. Đă từng một thời kết băng kết đảng chặt chẽ vớiThích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Hộ Giác, Thích Quảng Độ, Thích Chánh Lạc, Thích Huyền Quang, Vơ Đ́nh Cường, Thích Minh Châu hè nhau phá nát Miền Nam. Nỗi đau đất nước bị lọt vào tay Trung Cộng và Việt Cộng quá lớn trong đó từng tên phá hoại trong đám sư chính trị nói trên đă bị vạch mặt, nhưng người ta không nhắc đến tên Thích Tâm Châu v́ lẽ vào thập niên 1990, ông ta đă công nhận, cho dù là chỉ khúc đuôi dấu đi khúc đầu, rằng: “Thực sự, cuộc tranh đấu từ tháng 6-1966, cho đến nay chia đôi Giáo Hội, đều do bàn tay Cộng Sản đạo diễn, làm hại cho Phật Giáo và quốc gia Việt Nam không nhỏ. V́ vậy, Phật Giáo không phải là không có trách nhiệm, liên đới đến sự để mất VNCH cho Cộng Sản. Vấn đề này, chính Ḥa Thượng Thích Huyền Quang cũng thường nhắc đi nhắc lại: CS từng tuyên bố: "Phật Giáo Ấn Quang hai lần có công với Cách Mạng". Đó là lư do tại sao người ta không nhắc đến tên Thích Tâm Châu là vậy.

Nhưng chuyện đời 99% không thể “buông dao đồ tể là thành Phật”, không phải vậy, mà câu “mèo lại hoàn mèo, cốt khỉ vẫn hoàn cốt khỉ” lại được chứng minh gần như là một định luật. Hôm nay, cái định luật cốt khỉ này đă được chứng minh là đúng với Thích Tâm Châu. Hăy tóm tắt những điểm chính bài phát biểu của ông cựu Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo th́ thấy ngay cái cốt khỉ đó.

Trong bài phát biểu, ông Thích Tâm Châu đă đề cập 6 điểm: Điểm thứ nhất “cấm treo cờ Phật Giáo” kéo theo vụ nổ Đài Phát Thanh Huế làm cho “các Phật tử vị pháp vong thân”, điểm thứ hai là Dụ số 10, thứ ba là chính phủ “hăm hại” chùa Từ Đàm và các chùa tại Huế, thứ tư là việc chính ông ta chỉ huy vụ “tự thiêu” của Thích Quảng Đức để cứu nguy cho Phật Giáo, thứ năm là “Phật Giáo” của các ông không oán thù ǵ Thiên Chúa Giáo, và thứ sáu là kêu gọi đoàn kết để chống cộng, tiến lên đoàn kết toàn thế giới, “ngay cả lúc nào luôn luôn cũng thành thực trung thành liên kết chặt chẽ vui vẻ xây dựng với cả Trung Hoa, các nước láng giếng và tất cả trên thế giới” (???!) (Trích nguyên văn100%).

Chúng tôi xin phân tích từng điểm mà ông Tâm Châu đề cập:

1. Thích Tâm Châu nói: “Mùa Phật Đản năm 1963, không hiểu vô t́nh hay hữu ư có ra thông bạch cấm treo cờ PG nhân mùa Phật Đản đó. V́ vậy cho nên tại Huế năm đó đă xảy ra sự đấu tranh ngay tại đêm Phật đản ngay tại Đài Phát Thanh Huế. Các Phật tử đă bị vị pháp vong thân, 8 vị.”

Sự thật thế nào? Sự thật th́ chỉ có thông tư nhắc nhở về thể lệ treo cờ chung chung trên toàn quốc chứ không phải lệnh cấm treo cờ Phật Giáo nhưbọn Thích Trí Quang và Cộng Sản hùa nhau rêu rao. Căn cứ vào sự kiện chỉ có mỗi Huế là “bị cấm treo cờ” mà không nơi nào khác trên toàn quốc bị cấm cả, điều này chứng tỏ đây là một âm mưu của bọn Phật Giáo Tranh Đấu và nội tuyến nằm vùng trong chính quyền địa phương Huế. Đặc biệt là sự kiện ngay cả sau khi TT Ngô Đ́nh Diệm bị sát hại, các tướng lănh phản loạn cũng không t́m thấy cái lệnh này, một điều mà chắc chắn bọn phản loạn phải t́m cho bằng được để kết tội cho Tổng Thống và chính nghĩa hóa việc “giết vua” của chúng. Ngay cả đến ngày hôm nay cũng không ai thấy được cái lệnh này nó tṛn méo ra sao, mà tất cả chỉ là nói miệng, và cứ như thế truyền tụng từ năm này đến năm khác, chổ này đến chổ khác. V́ vậy, có thể kết luận rằng lệnh cấm treo cờ chỉ là một tṛ bịp bợm của Thích Trí Quang và Cộng Sản, dựa trên sự nhắc nhở về thể thức treo cờ chung chung của chính phủ mà đồng bọn nằm vùng trong Phật Giáo và nội tuyến trong chính quyền đă dàn dựng nhằm gây bất lợi chính trị cho chính quyền VNCH.

Một người đă cho xây chùa Xá Lợi, tu sửa chùa Từ Đàm, tặng không miếng đất lớn để xây chùa Vĩnh Nghiêm như TT Ngô Đ́nh Diệm, hơn 2 ngàn ngôi chùa mới đă được xây dựng dưới sự cai trị của ông mà chính Thích Nhất Hạnh cũng phải công nhận, đâu có điên rồ đến mức lựa ngày Phật Đản để cấm treo cờ Phật Giáo? Mà tại sao lại chỉ cấm treo cờ tại Huế thôi mà không là lịnh cấm trên toàn quốc? Như vậy, có ngu cỡ nào th́ cũng phải biết đây là âm mưu bịa ra của bọn Phật Giáo Tranh Đấu và Việt Cộng.

Hậu quả của việc treo cờ này, theo ông Thích Tâm Châu, đă đẻ ra vụ nổ Đài Phát Thanh Huế và đẻ luôn ra 8 Phật tử “vị pháp vong thân”. Đoạn này, ông Thích Tâm Châu ngoa ngữ không khác ǵ cộng sản, bởi v́ Chính phủ VNCH có bức tử 8 thiếu nhi này v́ tội theo đạo Phật hay không mà gọi họ là “thánh tử đạo vị pháp vong thân”? Đơn giản 8 thiếu nhi này chỉ là nạn nhân trong hàng chục ngàn đồng bào Miền Nam bị chết v́ chất nổ khủng bố của Việt Cộng mà họ có được phong thánh tử đạo đâu? Trong trường hợp khủng bố này, ngoài Việt Cộng c̣n có bàn tay của Thích Trí Quang nhúng vào, theo như lời Đại Tá Đào Thế Hiển Giám Đốc Công An Cảnh Sát Trung Nguyên Trung Phần. Tṛ vừa ăn cướp vừa la làng, gắp lửa bỏ tay người là tṛ Việt Cộng thực hiện thường xuyên tại Miền Nam, như vụ giết Giáo Sư Bông chẳng hạn, chẳng có ǵ lạ. C̣n những ai muốn tự nhận ḿnh là những kẻ ngu dốt và cuồng tín th́ cứ việc gọi 8 nạn nhân này là “Thánh Tử Đạo vị pháp vong thân”, chẳng hạn như bọnHuỳnh Tấn Lê, Trần Quang Thuận, Vũ Ánh, Nhă Ca, Trần Dạ Từ, Thích Tâm Châu, Thích Nguyên Trí, Thích Giác Đẳng, Thích Viên Lư, Thích Chánh Lạc, Vơ Văn Ái v.v. cứ việc go ahead! V́ trên đời này không ai có quyền cấm quư vị ngu cả!

2. Về Dụ Số 10: Đây là món mà Phật Giáo Tranh Đấu và ủng hộ viên của chúng cũng như ông Thích Tâm Châu lúc nào cũng lăi nhăi, như đó làcái tội đàn áp Phật Giáo của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm vậy.

Muốn chứng minh Dụ số 10 là tội ác của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, th́ tất cả các ông có tên dưới đây: Thích Tâm Châu, Cao Huy Thuần,Huỳnh Tấn Lê, Trần Quang Thuận, Vũ Ánh, Nhă Ca, Trần Dạ Từ, Thích Giác Đẳng, Thích Minh Tâm, Thích Nguyên Trí, Hội Cư Sĩ của Huỳnh Tấn Lê và tất cả những kẻ lớn tiếng vu cáo chế độ TT Ngô Đ́nh Diệm trong hội trường Jerome cũng như tất cả các kẻ đồng hội đồng thuyền khác trên thế giới, phải trả lời cho được các câu hỏi sau đây:

Thứ nhất, nội dung chính của Dụ số 10 là ǵ? Dụ này soạn ra để đàn áp Phật Giáo hay để thanh lọc cộng sản giả dạng tu hành, và điều này có cần thiết cho an ninh quốc gia hay không? Thứ hai, ai ban hành Dụ số 10, TT Ngô Đ́nh Diệm hay Quốc Trưởng Bảo Đại? Thứ ba, ai có quyền sửa đổi luật pháp, TT Ngô Đ́nh Diệm hay quốc hội VNCH? Thứ tư, sau khi TT Ngô Đ́nh Diệm bị sát hại th́ chính tên giết người Dương Văn Minh tuyên bố “mọi luật lệ tạm thời giữ nguyên”. Tại sao Phật Giáo Tranh Đấu không nhảy cỡn lên với nó hoặc nhảy cỡn lên với quốc hội Đệ Nhị Cộng Ḥa yêu cầu họ phải băi bỏ cái Dụ ác ôn này lập tức, mà trái lại lại chẳng hề đếm xỉa ǵ đến Dụ này nữa, thế là sao? Tại sao sau đó không tiếp tục gào thét về cái Dụ Số 10 này nữa để đến nổi cái luật ác ôn này nó vẫn hiên ngang tồn tại mà đàn áp quư vị cho măi đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 là sao? Thứ năm, tại sao sau khi TT Ngô Đ́nh Diệm không c̣n nữa th́ Phật Giáo Tranh Đấu cũng tảng lờ cái Dụ số 10, nhưng hể có ai đá động đến công ơn của TT Ngô Đ́nh Diệm th́ lại đem Dụ số 10 ra lăi nhăi, tại sao lạ vậy?

Nếu không trả lời được các câu hỏi trên th́ những kẻ mắc bịnh “Dụ số 10” một là bị bịnh đần độn, hai là bị bịnh khả ố vô liêm sĩ, ba là bịnh tay sai cho cộng sản. Có kẻ mắc một trong ba thứ bịnh này, có kẻ mắc cùng một lúc cả ba chứng không chừng, chúng ta tạm thời liệt kê bọn này là vậy!

3. Thứ ba: Yêu cầu ông Thích Tâm Châu đưa ra bằng cớ chính phủ VNCH đă cắt điện nước, không cho thức ăn uống và hăm hại các chùa tại Huế trong đó có chùa Từ Đàm, ai đă bị hăm hại và hăm hại như thế nào, đưa ra bằng cớ? Nếu ông không đưa ra được bằng cớ th́ ông nên tự vả vào miệng ḿnh và đi đâu nên kiếm cái mo mà đậy mặt lại.

4. Thứ tư: Ông nói rằng Phật Giáo không thù oán ganh ghét ǵ Thiên Chúa Giáo. Không oán thù gia đ́nh Ngô Đ́nh... Ông hăy đọc lời một trong những đồng bọn Tranh Đấu của ông: “Các thành phần đưa đi lập nghiệp mới này đa số là tín đồ Phật giáo và một số dân chúng đă có đời sống ổn định. Đa số các khu nói trên do các cán bộ Chống Cộng điều khiển nghiêm nhặt, có nơi nằm dưới quyền các vị Linh mục. Ai chịu phục tùng, hoặc ai chịu cải đạo Thiên chúa giáo th́ được cấp phát lương thực đầy đủ. Những kẻ khác bị đối đăi phân biệt.” (Huyền Quang Kỷ Yếu tr. 39). "Ở miền Nam, ông Diệm t́m đủ cách dẹp Phật giáo, dành địa bàn cho Thiên Chúa Giáo. Một chế độ giáo trị và gia đ́nh trị, độc tài chuyên chế. Nhưng đă không thành công biến miền Nam thành quốc gia Thiên Chúa giáo như tại Philippines ở phía đông Việt Nam. V́ vậy sau 9 năm ngự trị đất nước chẳng phát triển được bao nhiêu..." (Huyền Quang Kỷ Yếu tr. 40).

Quư vị không thù oán ǵ với Thiên Chúa Giáo mà lại tuyên truyền khẩu hiệu “Cần Lao Công Giáo, mật vụ Nhu Diệm,“Cần Lao Công Giáo phù Ngô phục hận” thế là thế nào?

Không thù oán Diệm tại sao lại có câu “Diệm mà không Diệm”? “Sau khi chế độ nhà Ngô sụp đổ, nhưng một chế độ Diệm mà không Diệm vẫn tiếp tục cai trị từ năm 1963 đến 1975” (Huyền Quang Kỷ Yếu trang 41). Qua câu nói này th́ không những Diệm bị oán thù mà tất cả chính quyền VNCH đều bị Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất oán thù, kể cả những tên đă giết Diệm dùm cho Phật Giáo Tranh Đấu, tức PGVNTN, như Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Trần Thiện Khiêm.

Đi tu kiểu ǵ đây? Quỷ sứ đi tu hay người đàng hoàng đi tu thưa ông Thích Tâm Châu?

5. Thứ năm, chuyện ông Thích Tâm Châu kêu gọi ḥa hợp ḥa giải với cộng sản Trung Hoa “luôn luôn thành thực trung thành liên kết chặt chẽ vui vẻ xây dựng với cả Trung Hoa, các nước láng giềng và tất cả trên thế giới”(trích nguyên văn). Đọc đến đây tôi bị á khẩu đột ngột không thể b́nh luận được nữa. Chỉ xin hỏi một câu rất ngắn, “Thưa ông Tâm Châu, ông bị trúng gió hay trúng tiền của Việt Cộng và Trung Cộng(?), trong hai cái, ông đă trúng cái nào hay ông trúng cả hai?”

6. Cuối cùng chúng tôi xin bàn đến vai tṛ của Thích Tâm Châu và Trần Quang Thuận trong việc đốt sống Thích Quảng Đức:

Đầu tiên hung thủ Trần Quang Thuận, một trong những con cá sấu chính, đă đến hội trường Jerome Santa Ana ngày 23 tháng 6 2013 để khóc con mồi Thích Quảng Đức và chửi bới Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, y lái chiếc xe Austin hai mầu xanh trắng, mang số DBA 599 chở Thích Quảng Đức đến chỗ bị thiêu ở Ngă tư Lê Văn Duyệt và Phan Đ́nh Phùng. Tên hung thủ này đă thoát lưới pháp luật nhưng y cần phải bị vạch mặt trước ṭa án lịch sử.



11/6/1963 - Chiếc xe Austin mà Trần Quang Thuận đă chở ông Quảng Đức đến hiện trường.


Và đây là niềm hănh diện của cá sấu Thích Tâm Châu: “Chính tôi là người đầu tiên hướng dẫn đoàn biểu t́nh ấy và đầu tiên chính tôi đứng tại đó. Tất cả chư tăng ni đều nghĩa là khóc lóc. Riêng có tôi quả t́nh khóc trong tâm chứ ngoài không có khóc vẫn im lặng để chỉ huy công việc biểu t́nh ngày hôm ấy”… “Khi đó đại đức Chân Ngữ mới tưới xăng trên đầu và tự ngài tự bật diêm quẹt để lửa bốc cháy”... “ngài vẫn ngồi im lặng hoàn toàn thiền định như vậy, để ǵ? Để tự hóa thân ḿnh cảnh tỉnh cho nhân tâm thế sự và đồng thời cứu nguy cho Phật giáo Việt Nam trong lúc đó”.

Đầu tiên phải sửa lại lời nói của Thích Tâm Châu cho đúng sự thật. Đây là một vụ đốt người chứ không phải biểu t́nh. V́ vậy, lời của ông Thích Tâm Châu phải được sửa lại cho chính xác thế này, “vẫn im lặng để chỉ huy việc đốt sống Thích Quảng Đức hôm ấy”. Tiếp đến phải khẳng định lại “tự ngài tự bật diêm quẹt để lửa bốc cháy” hay “ngài đă bị một hung thủ thứ hai bật diêm đốt cháy”?

Phải nói rơ rằng, hoàn toàn không có chuyện Thích Quảng Đức tự bật diêm quẹt để đốt ḿnh như Thích Tâm Châu, Malcolm Browne, David Halberstam, Neil Sheehan và một số báo chí và một đám về hùa đă bịp thiên hạ. Tấm h́nh Thích Quảng Đức đang chắp tay đă bị phụ chú giả bên dưới là đang bật diêm quẹt. Ông Tâm Châu, Malcolm Browne và tất cả bọn đă nói Thích Quảng Đức tự bật diêm quẹt là một bọn nói láo trắng trợn vô liêm sĩ. Hăy nh́n Video đốt cháy Thích Quảng Đức như sau:

Đầu tiên, hung thủ Thích Chơn Ngữ, người được xác nhận bởi Thích Tâm Châu, đổ xăng lên đầu Lâm Văn Tức, sau đó tên này đổ tràn ra chung quanh chổ nạn nhân ngồi thành một ṿng tṛn lớn. Mục đích là làm cho cây đuốc khi bốc cháy trở thành lớn và “hoành tráng”. Cuối cùng Thích Chơn Ngữ rưới thành một vệt dài đàng sau lưng Lâm Văn Tức để dẫn lửa. Vết xăng này nhằm bảo đảm khoảng cách an toàn cho người ném diêm quẹt với cái vũng xăng lênh láng chung quanh Lâm Văn Tức, nếu không lửa sẽ phựt lên táp vào người y.

Sau đó lửa phát ra từ đâu? Lửa đă khởi đầu từ vết xăng dẫn đường mà tên Thích Chơn Ngữ rưới cuối cùng. Trước khi đó, chúng ta thoáng thấy một cái đầu trọc khác tại đầu cuối cùng của vết xăng này và lửa đă được dẫn đi từ đó. Lửa ḅ từ xa rồi đến phía sau lưng chổ Thích Quảng Đứcngồi, rồi ḅ tới bên phải của Thích Quảng Đức và sau đó ập ra phía trước mặt rồi bùng lên thành một cây đuốc tṛn rất “hoành tráng”. Với cuốn video rơ ràng như vậy, không một ai dám cho rằng Thích Quảng Đức đă tự châm quẹt diêm, trừ những kẻ vô liêm sĩ, trong đó có Malcolm Browne và Thích Tâm Châu.

Bây giờ chúng ta bàn đến việc ông Lâm Văn Tức đă bị chích thuốc mê hay không chích thuốc mê. Ông Tâm Châu nói: “Ngài ung dung tự tại bước ra từ xe đến cái chổ ngài ngồi tọa thiền vững chắc …sau này có nhiều người tuyên truyền xuyên tạc cho cách này cho cách khác cho là nướng sống cho là chích thuốc mê hoàn toàn sai sự thật và hoàn toàn không biết sự tu chứng của Phật giáo.”

Sự thật thế nào, khi Thích Quảng Đức bước xuống xe, đă không thể tự đi một ḿnh cho dù là đi lạng quạng, mà phải có người d́u đi. Hay nói chính xác hơn là đă có người kéo các xác không hồn của ông ta đi và sau đó đặt ông ta ngồi xuống đất. Nếu ông ta không bị chích thuốc mê th́ ông ta phải tự ḿnh đi đến chổ chết, và trước đám đông đầy báo chí và máy quay phim, ông ta phải dơng dạc tuyên bố lư do ông ta tự thiêu, kêu gọi Tổng Thống thức tỉnh nhân tâm, đồng thời phải làm cho được hai hành động cuối cùng là phải tự đổ xăng lên đầu ḿnh và tự châm lửa. Tại sao ông ta không thể cầm can xăng tưới lên đầu ḿnh và cũng không thể tự bật diêm quẹt? Bởi v́ đă bị thuốc mê rồi th́ sức lực đâu c̣n để làm những điều hết sức đơn giản này?. Ngoài ra ông ta cũng không ngồi tọa thiền cho đến khi đám cháy lụi tàn như lời đồn thổi hoang đường, mà chỉ 15 giây sau, ông Thích Quảng Đức đă ngă chổng queo ra đất không một chút dăy dụa, giống hệt như một cái xác đă bị làm cho tê liệt hẳn từ trước, nay đem nướng chín. Bồ Tát ngồi tọa thiền đến tàn cuộc chiến v́ có nội lực tu chứng hay chỉ mới 15 giây đă ngă chỏng gọng ngay lập tức và bất động như đă bị liệt từ trước?

Thời đại Internet không dễ nói láo đâu quư vị Phật Giáo Tranh Đấu và đám cuồng tín!

Rơ ràng, lư thuyết cho rằng ông Lâm Văn Tức không bị chích thuốc mê là điều hoang đường. Và cái gọi là “trái tim bất diệt” của Thích Quảng Đức cũng thuộc loại trái tim bất diệt của anh hùng Lê Văn Tám.

Như vậy, không có chuyện tự thiêu mà cũng chẳng có chuyện ông Lâm văn Tức không bị chích thuốc mê từ trước.

Thứ đến, xin chúc mừng ông Thích Tâm Châu và chúc mừng Phong Trào Phật Giáo Việt Nam giai đoạn 1963-1966, quả là may mắn mới tụ tập được một băng lănh đạo đầy máu lạnh và không biết gớm tay về việc giết người nơi công cộng và trước ống kính như Trần Quang Thuận, Thích Chơn Ngữ và Thích Tâm Châu. Thích Tâm Châu nói “vẫn im lặng để chỉ huy công việc đốt sống (biểu t́nh) ngày hôm ấy”, như vậy Bà Ngô Đ́nh Nhu nói rằng “Họ đă barbecue các ông sư” điều này có ǵ sai? Nhờ có bản lănh và máu lạnh như thế cho nên sau khi “Diệm” kẻ thù của các ông bị giết rồi, các ông vẫn tiếp tục im lặng chỉ huy công việc đập tan bộ máy chính quyền Mỹ Ngụy đến hơi thở cuối cùng, như lời Thích Hộ Giác, một đồng bọn của ông Thích Tâm Châu gào thét trước đám đông: Phật Giáo sẽ chiến đấu đến “giọt máu cuối cùng và hơi thở cuối cùng” để đạt được yêu sách 4 điểm, trong đó việc loại trừ chính phủ VNCH hiện tại, được nhấn mạnh là yêu sách hàng đầu (United Press International, 16/3/1966).

Hai năm hỗn loạn chính trị, thay đổi cả thảy hàng chục chính phủ, không chính phủ nào tồn tại quá 3 tháng dưới sự biểu t́nh đêm ngày ngày đêm và đem người đốt sống một cách vô lương tâm như đốt pháo bông của các ông Phật Giáo Tranh Đấu, đă tạo lợi thế quân sự và t́nh báo cho Việt Cộng đến mức mà lẽ ra Miền Nam đă rơi vào tay cộng sản năm 1966 rồi chứ không đợi đến năm 1975, nếu như không có sự đổ bộ khẩn cấp của quân đội Hoa Kỳ vào tháng 3 năm 1965. Do đó, việc đổ quân đội Hoa Kỳ vào Việt Nam không phải là không có trách nhiệm của Phật Giáo Tranh Đấu, mà phải nói rằng các ông là thủ phạm chính dẫn đưa đất nước đến t́nh trạng hấp hối đó. Tất cả những điều nói trên là bằng chứng lịch sử về mưu đồ chính trị của băng đảng Phật Giáo Tranh Đấu mà không cách chi PGVNTN có thể chối căi được.

Thích Huyền Quang nói: “Sau khi chế độ nhà Ngô sụp đổ, nhưng một chế độ Diệm mà không Diệm vẫn tiếp tục cai trị từ năm 1963 đến 1975” (Huyền Quang Kỷ Yếu trang 41).

Điều đó nói lên cái ǵ? Điều đó khẳng định rằng Diệm chết rồi mà các “nhà tu” Phật Giáo Tranh Đấu vẫn c̣n thù ghét Diệm cho đến hơi thở cuối cùng, Miền Nam vẫn phải có biểu t́nh lên đường xuống đường cho tới hơi thở cuối cùng, sách động bởi đám sư săi và Phật Tử của Phật Giáo Tranh Đấu để loại trừ “Diệm mà không Diệm”, cũng có nghĩa là dân chúng Miền Nam phải chịu đựng t́nh trạng bất ổn chính trị gây ra bởi PGTĐ mà hậu quả là tiềm lực chiến tranh bị suy yếu theo trong lúc quốc gia đang có chiến tranh với cộng sản, kéo đến t́nh trạng nguy hiểm an ninh lănh thổ. Điều này cũng chứng tỏ tu hành chỉ là cái nhăn hiệu của đám Phật Giáo Tranh Đấu mà thực chất bên trong bọn chúng là một đám hoạt động chính trị vận động cho thần quyền khống chế thế quyền và liên kết với cộng sản để kiếm sức mạnh và đă được cộng sản sử dụng hữu hiệu. Nhiệm vụ chính của Phật Giáo Tranh Đấu, tức Phật Giáo Thống Nhất, không phải là tu hành mà là làm chính trị mà phải giật cho sập chế độ VNCH bằng mọi giá, bất kể ai là đại diện chính quyền, trừ phi đó là chính quyền Việt Cộng và chính quyền Phật Giáo Tranh Đấu.

Bởi thế cho nên ngày 18/2/1967, Thích Quảng Độ và Thích Trí Quang, Cao Ngọc Phượng mới hiên ngang nói rằng Chính quyền Nam Việt Nam hiện nay không phải là chính quyền của chúng tôi và không đại diện cho nhân dân chúng tôi. Nó được Mỹ áp đặt lên chúng tôi và được điều khiển bởi những tên lính đánh thuê cho Pháp chống lại nhân dân Việt Nam trước 1954. Nếu chúng tôi được bầu cử tự do, chính quyền này không tồn tại một ngày. Chúng tôi muốn tự chúng tôi giải quyết vấn đề Việt Nam của chúng tôi bằng cách điều đ́nh với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Bắc Việt cũng như sự rút quân của Mỹ." (Ngày 18/2/1967 Thích Quảng Độ, Thích Trí Quang, New York Times 1967).

Câu hỏi của chúng tôi là, với những ngôn ngữ như vậy tại sao chính phủ VNCH đă không bắt bọn cộng sản trá h́nh này hoặc ít nhất đuổi chúng qua bên kia cầu Hiền Lương để chúng điều đ́nh với Bắc Việt và MTGPMN theo như ư chúng muốn? Chính quyền VNCH đă quá nhu nhược với bọn giả dạng tu hành này, chúng nó quyền hành ǵ, ai bầu chúng lên mà đ̣i đại diện dân chúng Miền Nam trực tiếp điều đ́nh với kẻ thù cộng sản?

Được đàng chân lân đàng đầu, Thích Quảng Độ ngày 20/10/1974 lớn lối tiếp: “Nếu Thiệu ngoan cố không từ chức, th́ Ấn Quang sẽ hành động kéo Thiệu xuống” (Thích Quảng Độ 20/10/1974 Washington Post).

Sau khi Thiệu đă xuống th́ VNCH cũng xuống theo bước chân của Thiệu, lúc đó PGVNTN hiện nguyên h́nh tay sai cộng sản như sau: “Trưa 30/4/75 chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa thất thủ. Sau khi nghe Đại Tướng Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện trước sự tiến công của Bộ Đội Cách Mạng, lúc ấy tôi có mặt tại trụ sở GHPGVNTN ở chùa Ấn Quang. Chúng tôi họp bàn và bàn thảo tờ tuyên cáo nội dung hoan nghênh cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn vừa kết thúc. GHPGVNTN sẽ t́m phuơng tiện để hàn gắn vết thương chiến tranh” (Huyền Quang Kỷ Yếu trang 41).

Sau đó là màn đ̣i chia ghế v́ “Phật Giáo Việt Nam đă hai lần có công với cách mạng” (Thích Huyền Quang). Hăy xem tiếp màn xin ghế nhục nhă của Phật Giáo Tranh Đấu tức Việt Nam Thống Nhất với Việt Cộng như sau:
“Hội đồng viện thỉnh cử Đại Lăo HT Thích Đôn Hậu nguyên đại diện miền Vạn Hạnh của GHPGVNTN, hướng dẫn một phái đoàn đến hội kiến ông Nguyễn Văn Hiếu, Bộ Trưởng Bộ Văn Hóa Chính Phủ Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam để xin mở cuộc họp thống nhất hai giáo hội Nam Bắc. Nhưng tại cuộc gặp này, ông Hiếu nói: “Thống nhất Phật Giáo th́ tốt, nhưng thống nhất với Phật Giáo cách mạng, chứ thống nhất làm chi với bọn Phật giáo phản động!” Ḥa thượng Đôn Hậu hỏi: “Phật giáo phản động là ai? Ông Bộ Trưởng Hiếu không trả lời. Như thế, sau ngày 30.4.1975. GHPGVNTN muốn thử thời vận nhưng đă thất bại!” (Huyền Quang Kỷ Yếu trang 42).

Thật là nhục nhă thảm thương cho PGVNTN một thời lên đường xuống đường trực diện đối đầu giày xéo chính quyền Miền Nam, c̣n đối với Việt Cộng th́ chỉ dám xin thử thời vận! Hiền khô như vậy mà lại bị cộng sản mắng ngay vào mặt thống nhất làm chi với bọn Phật giáo phản động! Thật là tội nghiệp! Thích Đôn Hậu hay Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, và cả đám Mặt Trận GPMN đều là một đám ngu dốt đi tin lời Việt Cộng làm việc không công cho nó. Công lao lên đường xuống đường, đốt bao nhiêu sư như đốt pháo bông để loại trừ Diệm Thiệu đă bị thành công cốc, lại c̣n chuốc lấy nhục nhă ê chề!: Như thế, sau ngày 30.4.1975.

GHPGVNTN muốn thử thời vận nhưng đă thất bại!”(Huyền Quang Kỷ Yếu tr. 42).

Tuy nhiên, dù bị nhục nhă ê chề như vậy, nhưng chỉ cần vài cái vuốt ve của Mai Chí Thọ, có được cái chùa đẹp đẽ là th́ lại tiếp tục sự nghiệp chống Mỹ chống Diệm chống Thiệu cứu nước ngay. Hăy xem sự nghiệp chống Mỹ chống Ngụy sau 1975 của Thích Quang Độ: “Hàng tỉ đô la Hoa Kỳ đổ ra nuôi một bộ máy quốc gia chống Cộng, nuôi hàng triệu binh sĩ, cảnh sát, mật vụ chống Cộng, với sự tiếp tay của nửa triệu binh sĩ Hoa Kỳ. Những tác nhân chính này đă làm ǵ để bảo vệ Miền Nam? (Quảng Độ 18/1/2010 queme.net). Ngày 8 tháng 5 năm 2011 chống tiếp: “Nên lần đầu trong lịch sử, Phật giáo Việt Nam mới phải có cuộc đấu tranh xuống đường thập niên 60 để bảo vệ lư tưởng đạo đức Đông phương trước sức tấn công hung hăn của các ư thức hệ ngoại lai làm tha hóa xă hội và con người” (8/5/2011 Quảng Độqueme.net).

Xin hỏi toàn bộ đám Phật Giáo Tranh Đấu, từ Thống Nhất đến Về Nguồn, đến Việt Nam Quốc Tự, từ Thích Quảng Độ đến Thích Tâm Châu, đến Thích Giác Đẳng, Thích Viên Lư, Thích Chánh Lạc, Thích Nguyên Trí, Thích Minh Tâm, Vơ Văn Ái, Nguyễn Trọng Nho, và đám Về Nguồn Trần Quang Thuận, Huỳnh Tấn Lê, Đào Văn B́nh, Cao Văn Hở, Trần Phú Hùng, Nguyễn Phú Hùng, đám “nhà báo” PG tranh đấu Vũ Ánh, Nguyên Huy, Nhă Ca, Trần Dạ Từ, xin hỏi xă hội Miền Nam từ năm 1954 đến 1975 tha hóa đến chừng nào? Cho ví dụ cụ thể?

Có kiểu tu hành ǵ mà lại lấy tên Phật Giáo Tranh Đấu rồi thề sẽ chiến đấu đến “giọt máu cuối cùng và hơi thở cuối cùng” để đạt được yêu sách 4 điểm, trong đó việc loại trừ chính phủ VNCH hiện tại, được nhấn mạnh là yêu sách hàng đầu (United Press International, 16/3/1966)?

Quỷ Sa Tăng tranh đấu hay Phật Giáo tranh đấu?

Ông Thích Tâm Châu, bây giờ ông nói rằng Thích Quảng Đức tự thiêu là “để tự hóa thân ḿnh cảnh tỉnh cho nhân tâm thế sự và đồng thời cứu nguy cho Phật giáo Việt Nam trong lúc đó”. Thế th́ ông và băng đảng Huỳnh Tấn Lê, Nhă Ca, Trần Dạ Từ Vũ Ánh hăy cùng đọc đoạn nhà báo Vĩnh Phúc cựu phóng viên đài BBC phỏng vấn ông Vơ Như Nguyện về cái “nhân tâm” của người mà Thích Quảng Đức muốn cảnh tỉnh đi: “Phần cụ Vơ Như Nguyện, lúc c̣n làm Chủ tịch Uỷ ban Nội vụ Quốc Hội, đă đưa các TT Trí Thủ, Thiện Minh, Trí Quang vào gặp Tổng thống Diệm để xin đổi tên Hội Phật giáo Thừa Thiên thành Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Ngày hôm sau ông Diệm kư liền"(Nhà báo Vĩnh Phúc BBC phỏng vấn Cụ Vơ Như Nguyện).

Vậy th́ bài báo của Việt Báo trong đó đăng toàn bộ các lời thóa mạ TT Ngô Đ́nh Diệm, đăng rằng ông đă giết trên 300 ngàn Phật Tử và nhiều điều rùng rợn khác, và đăng lếu láo rằng Bà Ngô Đ́nh Nhu xin lỗi Phật Giáo, trong khi đó th́ vào năm 1982 bà đă tái khẳng định trong cuộc phỏng vấn với openvault.wgbh.org rằng: “Đối với những người điên rồ v́ hào quang giả tạo, đến độ chấp nhận bị đánh thuốc mê và để bị đốt cháy đến chết. Họ có quyền không bao giờ bị ai đặt vấn đề. Nhưng phải làm ǵ để ngăn chặn việc họ chấp nhận bị sát hại bởi các cuộc biểu t́nh?Điều duy nhất tôi có thể làm vào lúc đó là chế giễu họ. Bởi v́ khi nó được tô vẽ như một cái ǵ đó hoàn toàn xứng đáng được khen ngợi, th́ tất nhiên, sẽ luôn luôn có thêm người điên rồ v́ hào quang giả tạo tiếp tục tự thiêu. V́ vậy, tôi phải làm ngược lại”, vậy th́, báo đăng những chuyện lếu láo và không buồn kiểm chứng như vậy là loại báo ǵ?

Báo như Việt Báo và Người Việt là báo ǵ? Báo Lá Cải hay Báo Lá Khoai? Nhà báo kiểu Vũ Ánh, Nhă Ca, Trần Dạ Từ, Nguyên Huy là loại nhà báo ǵ? Nhà báo có giá trị hay nhà báo kiếm sống bằng cách chuyên đăng những chuyện bịa đặt vu khống và chửi đổng?

Và xin mời ông Thích Tâm Châu cùng băng đảng “Jerome Santa Ana” đọc lại cái gọi là Phật Giáo Tranh Đấu đă làm đẹp mặt Phật, qua Bạch Thư của chính ông Thích Tâm Châu:

“Phong trào mang bàn thờ Phật ra đường lan tràn khắp nơi và vào cả đến Saigon. Tại Saigon họ đem ảnh Phật ra để trên đống rác”. “Sự việc rơ ràng như thanh thiên bạch nhật, mà nhóm tranh đấu của Ấn Quang, được sự hộ trợ ngầm của CS nằm vùng, lải nhải vu khống cho VN Quốc Tự chia rẽ Giáo Hội, Thích Tâm Châu phá hoại và lũng đoạn Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất…”” Cho đến nỗi những vị Tăng không biết chút ǵ về việc tranh đấu, việc xây dựng Giáo Hội, cũng như các vị Tăng, Ni Phật - từ ở xa, hay sau này, cũng a dua, hùa theo sự tuyên truyền nhồi sọ của nhóm tranh đấu Ấn Quang và CS nằm vùng trong suốt hơn 30 năm naỵ Thực tội nghiệp” “Nói thẳng thắn, cuộc chiến tranh Quốc Cộng tại Việt Nam, không có một tôn giáo, một đoàn thể nào, không bị CS nằm vùng gây chia rẽ, phá hoại. Thiên Chúa Giáo có những cán bộ gộc nằm vùng như Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng v.v... Phật Giáo cũng vậy, CS nằm vùng từ thượng tầng, tới hạ tầng, càng dễ dàng hơn.

Thực sự, cuộc tranh đấu từ tháng 6-1966, cho đến nay chia đôi Giáo Hội, đều do bàn tay CS đạo diễn, làm hại cho Phật Giáo và quốc gia VN không nhỏ. V́ vậy, Phật Giáo không phải là không có trách nhiệm, liên đới đến sự để mất VNCH cho CS” (Bạch Thư Thích Tâm Châu).

Và đây là những ǵ ông Thích Tâm Châu đă nói với nhà báo Vĩnh Phúc đài BBC về TT Ngô Đ́nh Diệm và vụ Chùa Xá Lợi, hy vọng rằng ông không chối:

Nhà báo Vĩnh Phúc: - Theo Ḥa Thượng, Tổng thống Diệm và ông Nhu có kỳ thị Phật giáo không?

Thích Tâm Châu: - Thực ra đối với TT Diệm khi đó tôi có gặp th́ biết, ngài là người nho học. Ngài có tinh thần dân chủ hơn. C̣n vấn đề kỳ thị, th́ tôi không dám nói có hay không có. Chắc chắn th́ tôi nói thẳng thắn ở cấp trên th́ đương nhiên hiểu biết rộng hơn cấp thừa hành dưới, hoặc là chẳng hạn bị ảnh hưởng của Tổng giám mục Ngô Đ́nh Thục là người vẫn muốn làm sao tôn giáo ḿnh phát triển, nên t́m phương thức.. Có thể người dưới làm những cái nó sinh ra chuyện không tốt. Tôi tin tưởng là cấp trên không đến nỗi nào.

- Hồi đó sự phát triển Phật giáo nói chung, mà điển h́nh là sự phát triển các chùa chiền, có ǵ trở ngại không?
- Thực ra không có ǵ trở ngại. Nó chỉ có vấn đề trong sự b́nh thường chỗ nào làm chùa mà xin phép th́ được xét thôi. Chung chung không có ǵ cả.
- Không bị trở ngại?
- Chỗ nào th́ tôi không biết chứ trong Sàig̣n th́ tôi không thấy.Tôi thực sự không thấy.
- Hôm cảnh sát tấn công chùa, Thầy đang ở đâu?
- Tôi đang ở chùa Xá Lợi. Tôi cũng bị bắt, bị giam, nhưng không biết là giam ở đâu. Giam cho đến ngày 2/11/1963 mới được về.
- Thầy có bị hành hung không?
- Đánh đập th́ không có.
-Phong trào tranh đấu Phật giáo có bị ảnh hưởng của Cộng Sản không?
- Dạ không. Không có. Ở miền Trung th́ tôi không biết, nhưng trong Nam th́ tôi không thấy có vấn đề Cộng Sản. Về sau mới có chứ lúc ấy không có ǵ.

Những ǵ ông biết về cộng sản nằm vùng chỉ là kiến thức hạn hẹp của một ông thầy tu, c̣n chính phủ VNCH phải biết gấp ngàn lần hơn ông v́ đó là bổn phận trách nhiệm và họ có phương tiện kỹ thuật để biết điều đó. Trong đó, bằng chứng đă quá rơ là Thích Quảng Đức, Thích Quảng Độ, Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, v.v. là những tên cộng sản nằm vùng mà mỗi tên có một vai tṛ khác nhau, mỗi tên chống lại chính phủ VNCH theo mỗi kiểu trá h́nh khác nhau, chống đến khi chính phủ tan nát th́ dân chúng cũng nát nhà tan cửa theo luôn mà các ông vẫn không sám hối. Rơ ràng chỉ khi các ông được lên ngôi cửu ngũ th́ khi đó mới hết người đàn áp các ông!

Đây là sự thật Chùa Xá Lợi mà ông Thích Tâm Châu có mặt trong đó, mời ông đọc tiếp:

Nhà báo Vĩnh Phúc: “Ông Cao Xuân Vỹ cũng có mặt ở chùa Xá Lợi, lúc chùa bị tấn công. Chắc hẳn những điều ông nói là đúng.

Cụ Quách Ṭng Đức: Có lẽ với vai tṛ của cụ là Đổng Lư Văn Pḥng phủ Tổng Thống, cụ cũng có thể biết được tường tận vụ khủng hoảng Phật giáo. Nhà cụ lại ở ngay cạnh chùa Xá Lợi nên cũng thấy cuộc tấn công chùa. Đây là những câu tôi hỏi cụ: “Có đàn áp Phật giáo hay không?” “Không có đàn áp Phật giáo. Chính phủ giúp xây chùa Xá Lợi và nhiều chùa khác. Ông Diệm vốn biết nhược điểm của ḿnh là người Thiên Chúa, ông cố giữ quân b́nh. “Ai ra lệnh tấn công chùa?” “Lúc đó ra lệnh miệng thôi à. Tấn công chùa là Cảnh sát, không phải Quân đội. Tôi ở ngay bên, các chùa cũng để loa rầm rộ lắm. Nghe họ hô những khẩu hiệu ghê lắm. Xem thường chính phủ lắm”. “Có vài tướng đề nghị đánh chùa?” “Chắc là các tướng như tướng Đính có ư kiến đánh vào các chùa.

Tôi thấy khi có vụ Phật Giáo rồi, cụ Diệm buồn. Tôi đoán thấy ông hơi chán nản. Phật giáo làm quá rồi, ổng không muốn làm việc nữa. Một số công việc tôi tŕnh lên. Ổng nói đưa cho ông Nhu. Tôi không thấy ông Nhu có tham vọng thay ông Diệm. Không thấy ǵ".

Và đây là cái gọi là “Chiến Dịch Nước Lũ” chùa Xá Lợi của Phật Giáo Tranh Đấu qua điều tra của Liên Hiệp Quốc, xin mời các nhà báo vĩ đạiNhă Ca, Trần Dạ Từ, Vũ Ánh, Nguyên Huy đọc tiếp:

Ông Đại Sứ Volio phái đoàn điều tra của Liên Hiệp Quốc đă kể lại một số chi tiết khi nghe lời khai của một người dự định t́nh nguyện tự vận bằng cách tự thiêu như sau:

“Có một vị sư trẻ mới 19 tuổi, khai với phái đoàn điều tra rằng, ông ta được một số sư săi khuyến khích tự thiêu v́ Ḥa Thượng Hội Chủ Phật Giáo Thích Tịnh Khiết đă bị giết, hằng trăm Phật tử đă bị chính quyền d́m chết dưới sông Sài g̣n, nhiều ni cô đă bị mổ bụng, và chùa Xá Lợi đă bị đốt cháy. Nhà sư 19 tuổi nầy được yêu cầu t́nh nguyện hy sinh tự vận v́ Phật giáo, và được bảo đảm rằng ông ta sẽ được cho uống thuốc để không bị đau đớn, ngoài ra ông ta cũng được đưa 3 bức thư tuyệt mệnh đă được viết sẵn để cho ông ta kư vào. Ông ta bị cảnh sát bắt, ngăn chận cuộc tự thiêu của ông ta và cũng là kịp lúc nhà sư trẻ 19 tuổi nầy biết được những ǵ mà ông ta đă nghe các nhà sư kia kể cho ông chỉ là những chuyện láo khoét bịa đặt, độc ác và hoàn toàn thất thiệt. Tất cả chỉ là để kích động ông mà thôi”.

Ḥa Thượng Tịnh Khiết bị giết? Ni cô bị chính phủ mổ bụng? Chùa Xá Lợi bị đốt cháy? Hàng trăm Phật Tử nào bị chính quyền d́m xuống sông Sài G̣n?

Láo lường và bỉ ổi đến thế là cùng!

Và đây là những “offers”: Kẻ t́nh nguyện tự thiêu sẽ được “cho uống thuốc để không bị đau đớn” khi tự thiêu? Thư tuyệt mệnh sẽ được viết sẳn 3 bức để nạn nhân kư vào! Bọn khủng bố chiêu dụ người ôm bom tự sát thời này cũng không thể làm hơn được Phật Giáo Tranh Đấu của Việt Nam thời đó.

Rơ ràng đây là quỷ sứ đi tu chứ chẳng phải người thường đi tu!

Vậy th́ có ǵ bảo đảm là ông Thích Quảng Đức đă không bị cho uống thuốc mê và thư tuyệt mệnh của ông ta là thư tuyệt mệnh thật? Láo lường và bỉ ổi đến thế là cùng. Vậy mà không biết nhục c̣n hè nhau kỷ niệm 50 năm ngày thiêu sống Thích Quảng Đức!

Trở lại bài báo trên tờ Việt Báo của ông bà Nhă Ca Trần Dạ Từ, xin được lập lại một đoạn viết ở trên lần nữa: Vậy th́ bài báo của Việt Báo trong đó đăng toàn bộ các lời thóa mạ TT Ngô Đ́nh Diệm rằng ông đă giết trên 300 ngàn Phật Tử và nhiều điều rùng rợn khác, và đăng lếu láo làBà Ngô Đ́nh Nhu đă xin lỗi Phật Giáo, báo như vậy là loại báo ǵ? Báo Lá Cải hay Báo Lá Khoai? Nhà báo kiểu Vũ Ánh, Nhă Ca, Trần Dạ Từ, Nguyên Huy là loại nhà báo ǵ? Nhà báo nói láo ăn tiền? Nhà báo kiếm sống bằng những chuyện bịa đặt vu khống và chửi đổng?

Winston Churchill đă nói “It has been said that democracy is the worst form of government except all the others that have been tried.” Tạm dịch “Người ta thường chê bai chính phủ dân chủ là chính phủ tệ hại nhất, trừ phi người ta đă nếm mùi tất cả các loại chính phủ khác”.

Các ông bà đă nếm mùi chính phủ Dương Văn Minh, chính phủ Nguyễn Khánh, chính phủ Phan Khắc Sửu, chính phủ Trần Văn Hương, chính phủ Phan Huy Quát, chính phủ Nguyễn Văn Thiệu, chính phủ của Hồ Chí Minh, chính phủ Phật Giáo Tranh Đấu tại Huế 1966, nhưng đối với các ông bà Thích Tâm Châu, chùa Pháp Luân Houston, chùa Bát Nhă California, Huỳnh Tấn Lê, Nguyễn Trọng Nho, Nhă Ca, Vũ Ánh, Trần Dạ Từ và băng đảng “Tổng hội cư sĩ” th́ dường như chính phủ tốt nhất với các ông bà vẫn là chính phủ Phật Giáo Tranh Đấu, nh́ là chính phủ Hồ Chí Minh, chỉ có vậy. Cho nên mới tụ tập lại để thương tiếc cho một kẻ làm lợi cho cộng sản Thích Quảng Đức và cùng nhau vu khống chính phủ VNCH giết hại 300 ngàn người, bắt dân chúng cải đạo Thiên Chúa, phỉ báng một vị nguyên thủ quốc gia mà “Ông Diệm là một người đạo đức, sống như một nhà tu hành, không có tham vọng vật chất và thật sự có ḷng yêu nước, thương dân. Ông tự tin vào lương tâm trong sáng của ḿnh nên muốn bắt mọi người phải nghe theo.” Xưa nay người ta chỉ làm được một việc nếu muốn giỏi. Không thể vừa đi tu vừa làm chính trị. Được việc này th́ hỏng việc kia. Làm chính trị, mà đạo đức như nhà tu, không biết lừa lọc tráo trở thủ đoạn nên mới bị phản và mất mạng. (Nhà báo Vĩnh Phúc đài BBC).

Lương tâm của loài vật có lẽ c̣n tốt đẹp hơn lương tâm của bọn Huỳnh Tấn Lê, Trần Quang Thuận, Nguyễn Trọng Nho, Nhă Ca, Trần Dạ Từ, Vũ Ánh, Nguyên Huy, Cao Huy Thuần, Lưu Tường Quang, Tổng Hội Cư Sĩ… Một bọn mà “a dua, hùa theo sự tuyên truyền nhồi sọ của nhóm tranh đấu Ấn Quang và CS nằm vùng trong suốt hơn 30 năm nay."

Kết luận:

Nhóm Phật Giáo Tranh Đấu là một băng đảng hoạt động chính trị cộng sản chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp mà Thích Quảng Đức là một thành viên của băng đảng này. Cái chết của Thích Quảng Đức chỉ là một cách để châm ng̣i nổ, tiếp theo các ng̣i nổ lếu láo “cấm treo cờ", “thánh tử đạo” Đài Phát Thanh Huế. Những ai c̣n tiếp tục gọi tu sĩ phạm giới Lâm Văn Tức là Bồ Tát Thích Quảng Đức kẻ đó tự xác nhận ḿnh bôi bẩn chế độ chính trị tốt đẹp nhất của Việt Nam và bôi bẩn chính ḿnh v́ quá thiếu kiến thức và tâm địa quá xấu xa nhỏ mọn. Đề nghị băng đảng này nên hiên ngang cầm cái cờ đỏ sao vàng bên cạnh cái cờ ngũ sắc cho giống người anh em trong nước. Làm như vậy, may ra c̣n có chút liêm sĩ.

Và cuối cùng, đây là câu trả lời cho Trung Ương Đảng Việt Cộng, bọn bán nước cho nhà Hán, thủ phạm chính của việc giết người, và bọn tay sai tại hải ngoại rằng, có xây cho Thích Quảng Đức một trăm cái tháp chín tầng, có tôn Thích Quảng Đức là Phật sống đi chăng nữa th́ lịch sử cũng biết Thích Quảng Đức là ai. Thích Quảng Đức chẳng là cái đinh ǵ cả! Cốt khỉ vẫn hoàn cốt khỉ!

Kính dâng bài viết này lên hương hồn những nhà ái quốc Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh Nhu, Trần Lệ Xuân, Ngô Đ́nh Cẩn, Phan Quang Đông.

Trần Minh


All times are GMT. The time now is 08:45.
Page 1 of 9 1 2345 Last »

VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2006 - 2024
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2024 DragonByte Technologies Ltd.

Page generated in 0.38516 seconds with 8 queries