![]() |
Quan hệ Mỹ-Trung: Môi hở răng lạnh? (1,2)
1 Attachment(s)
Quan hệ Mỹ-Trung có thể được tóm tắt bằng hai chữ “cần” và “ghét”. Mỹ và Trung Quốc cần nhau về mọi mặt, từ kinh tế - thương mại tới chính trị, nhưng Mỹ và Trung Quốc cũng luôn hậm hực với nhau, tranh giành ảnh hưởng trên thế giới với tư cách là hai siêu cường có đường lối phát triển và đối ngoại khác hẳn nhau.
Hai vế “cần” và “ghét” này tùy từng thời điểm và vấn đề cụ thể mà biến báo, có lúc vế này lấn át vế kia. Tuy nhiên, về toàn cục, trong khoảng 30 năm qua, kể từ khi Trung Quốc đổi mới, th́ vế “ghét” chưa bao giờ bùng phát mạnh tới mức hai nước trở thành thù địch, v́ thế quan hệ giữa hai nước vẫn được đặc chưng bởi vế “cần”. Và điều này sẽ c̣n tiếp diễn trong trung hạn, tức là khoảng 5 tới 10 năm nữa, trừ khi có những chuyển biến mạnh mẽ về chính trị nội bộ của Trung Quốc và biến nước này trở nên cực đoan mù quáng. “Cặp đôi hoàn hảo” về kinh tế, tài chính, và thương mại Trong quan hệ kinh tế và thương mại, Trung Quốc và Mỹ hiện là hai đối tác quan trọng bậc nhất của nhau. Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của Mỹ (sau Canada và Mexico, 2 quốc gia láng giềng) và có tăng trưởng nhanh nhất trong giai đoạn 2001-2011 (471%). Tổng giá trị xuất khẩu năm 2011 từ Mỹ sang Trung Quốc đạt 103.9 tỷ USD. Theo chiều ngược lại, Mỹ đang cần một lượng lớn hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc. Trong năm 2011, tổng giá trị nhập khẩu đạt 399.3 tỷ USD, tăng 9.4% so với năm 2010. Trong tổng giá trị nhập khẩu của Mỹ, hàng hóa và dịch vụ từ Trung Quốc chiếm 18.1% năm 2011, giảm nhẹ từ 19.1% năm 2010 và tăng đáng kể so với 8.2% năm 2009. Tỷ trọng các sản phẩm công nghệ cao cũng đă tăng trưởng nhanh đáng kể. Nh́n từ phía Trung Quốc, Mỹ là bạn hàng quan trọng số 1 của Trung Quốc. Theo số liệu từ phía Trung Quốc (có độ vênh nhất định so với số liệu từ phía Mỹ), năm 2010 Trung Quốc xuất khẩu sang Mỹ 283.3 tỷ USD, cao hơn nhiều so với đối tác thứ hai là Hồng Kông (218.3 tỷ USD), và gấp tới hơn 2 lần so với đối tác thứ 3 là Nhật Bản (121.1 tỷ USD). Thực ra, v́ Hồng Kông giờ đây đă thuộc về Trung Quốc nên không ngoa khi nói rằng không phải chỉ có việc Mỹ là đối tác xuất khẩu số 1 của Trung Quốc, mà kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ xấp xỉ bằng kim ngạch xuất khẩu tới 4 nước kế tiếp cộng lại. Không có Mỹ, th́ Trung Quốc sẽ gặp khủng hoảng nghiêm trọng về thị trường hàng xuất khẩu. Trung Quốc cũng gặp khủng hoảng nặng về các hàng hóa nhập từ Mỹ - đặc biệt là các sản phẩm công nghệ cao – vốn là một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu để giúp Trung Quốc sản xuất (nhiều khi là lắp ráp) thành các sản phẩm hoàn chỉnh và bán đi khắp thế giới. Ngược lại, không có Trung Quốc th́ Mỹ cũng gặp khủng hoảng nghiêm trọng v́ phần nhiều các công ty của Mỹ đặt các nhà máy xí nghiệp ở Trung Quốc (sản xuất thành thành phẩm rồi xuất khẩu ngược lại Mỹ như các sản phẩm của hăng Apple). Bảng: Kinh Ngạch Thương Mại Mỹ - Trung 1980 – 2011 (Tỷ USD)Trong quan hệ đầu tư, Trung Quốc hiện là “chủ nợ” lớn nhất của Mỹ. Theo dự đoán của Bộ Tài Chính Mỹ, tổng giá trị trái phiếu Chính phủ và các công ty tư doanh Mỹ do Trung Quốc nắm giữ đạt 1700 tỷ USD, trong đó khoảng 1300 tỷ USD (75%) là trái phiếu Chính phủ và các tổ chức đại diện Chính phủ (ví dụ như Freddie Mac và Fanny Mae). Thống kê cho thấy trong khoảng 10 năm qua, số nợ của chính phủ Mỹ mà Trung Quốc giữ liên tục tăng, trừ năm 2011 có giảm nhẹ đôi chút. Do vậy, bất kỳ một động thái nào của Trung Quốc liên quan đến việc mua bán các giấy tờ này có thể gây ảnh hưởng hết sức lớn lên thị trường tài chính Mỹ và thế giới. Thực tế này khiến bất kỳ động thái chính sách hằn học nào của Mỹ hướng đến Trung Quốc cũng phải dè chừng đến sự trả đũa về tài chính về phía Trung Quốc. Trong cuộc khủng hoảng vừa qua, Mỹ đă phải hết sức mềm mỏng với Trung Quốc để đổi lại việc Trung Quốc không bán tháo các công cụ nợ do Mỹ phát hành. Đương nhiên việc bán tháo này, nếu xảy ra, cũng tai hại không nhỏ cho chính bản thân Trung Quốc và việc Mỹ liên tục nới lỏng định lượng liên tục trong mấy năm vừa rồi khiến Trung Quốc cũng chịu thiệt hại không nhỏ nhưng vẫn phải “ngậm bồ ḥn làm ngọt”. Nhạy cảm tiền tệ Có nhiều quan ngại việc đồng Nhân Dân Tệ của Trung Quốc được định giá thấp gây nên thâm hụt thương mại lớn cho Mỹ và đây là một điểm khiến quan hệ Mỹ - Trung căng thẳng. Tuy nhiên các phân tích dưới đây sẽ chỉ ra rằng trường hợp Trung Quốc tăng giá đồng tiền của ḿnh sẽ không nhất thiết có lợi, ngay cả cho cả Mỹ. V́ thế, câu chuyện tiền tệ của Trung Quốc trong chính trị Mỹ nhiều khi bị thổi phồng thái quá. Thứ nhất, để sản xuất hàng hóa phục vụ cho xuất khẩu, Trung Quốc phải nhập khẩu hàng hóa từ các nước châu Á (đến 65% giá trị xuất khẩu). Nếu các nước này cũng tăng giá đồng tiền của ḿnh, Trung Quốc sẽ phải nhập khẩu với giá cao hơn và như vậy cũng sẽ phải tăng giá hàng hóa xuất khẩu sang Mỹ để bù đắp chi phí. Bản thân Mỹ cũng nhập hàng hóa đáng kể và sẽ phải gánh thêm chi phí do đồng tiền các nước này tăng giá. Và như vậy, thâm hụt thương mại của Mỹ không những không giảm mà c̣n nhiều khả năng sẽ tăng cao hơn nữa. Thứ hai, Trung Quốc hiện đang là “chủ nợ” lớn nhất của Mỹ, bao gồm dự trữ ngoại tệ bằng đồng USD và các giấy tờ có giá của Chính phủ Mỹ. Nếu đồng Nhân Dân Tệ mất giá, Trung Quốc nhiều khả năng bán ra một phần lớn phần dự trữ này. Hệ quả là không những đồng USD mất giá mà c̣n gây tâm lư hoảng loạn và thúc đẩy các nhà đầu tư nước ngoài khác bán tháo các sản phẩm tài chính của Mỹ. Để đối phó lại động thái này, Mỹ sẽ phải tăng lăi suất, và nếu thế th́ tăng trưởng của Mỹ sẽ bị tổn hại. Thứ ba, từ bỏ chính sách tiền tệ sẽ ảnh hưởng xấu đến các ngành công nhiệp xuất khẩu của Trung Quốc và gây ra việc sa thải nhân công trên diện rộng. Ảnh hưởng này sẽ càng trầm trọng hơn khi Trung Quốc trong nhiều năm đă sử dụng mô h́nh tăng trưởng dựa trên đầu tư và xuất khẩu. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới vẫn đang phải hứng chịu những ảnh hưởng không tốt từ cuộc khủng hoảng ở Châu Âu th́ thêm một cú sốc nữa từ Trung Quốc là điều không mong đợi. Cuối cùng nhưng cũng không kém phần quan trọng, theo 1 báo cáo của nhóm Independent Task Forces, tài trợ bởi Council on Foreign Relations (CFR.org) th́ trong giai đoạn từ giữa năm 2005 đến cuối năm 2006, khi Trung Quốc nới lỏng chính sách tiền tệ và “nâng” giá đồng Nhân Dân Tệ 6.5% so với đồng USD, thâm hụt thương mại của Mỹ không giảm mà thậm chí c̣n tăng. (Council on Foreign Relations: U.S.-China Relations: An Affirmative Agenda, A responsible Course, 2007, Tr.60). Nguồn: Trần Vinh Dự/ VOA |
Quan hệ Mỹ-Trung: Môi hở răng lạnh? (2)
1 Attachment(s)
Ngoài câu chuyện kinh tế, Mỹ và Trung Quốc c̣n có nhiều mối liên hệ ràng buộc hữu cơ khác như câu chuyện người Trung Quốc ở Mỹ và câu chuyện bàn cờ chính trị thế giới.
> Phần 1 Người Trung Quốc trong bộ máy công quyền Mỹ Theo thống kê của Điều tra Dân số Mỹ, năm 2010 có 3,347,229 người Mỹ có gốc Trung Quốc, chiếm 1.1% dân số Mỹ. Đó là chưa kể nhiều triệu người Trung Quốc khác đang sống và làm việc ở Mỹ nhưng chưa được nhập tịch. Có những thành phố ở Mỹ như San Franciso có số người Mỹ gốc Trung Quốc lên tới 21.4% dân số quốc tịch Mỹ ở địa phương. Người Trung Quốc ở Mỹ cũng là nhóm có tŕnh độ học vấn rất cao, với hơn 51.8% có tŕnh độ học vấn ở bậc đại học và sau đại học (so với 25.2% trong số người Mỹ gốc Việt và 28.2% toàn bộ dân số Mỹ). Văn hóa Trung Quốc có ảnh hưởng khá lớn đến văn hóa Mỹ. Nhiều người gốc Trung Quốc đang hoặc đă từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong hệ thống chính quyền của Mỹ. Bà Elaine Chao (gốc Trung Quốc) là người gốc Á đầu tiên được bổ nhiệm vào nội các với vị trí Bộ trưởng Bộ Lao Động và giữ chức từ năm 2001 tới năm 2009. Gần đây hơn, ông Gary Lock cũng được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Thương Mại và ông Steven Chu(được giải Nobel vật lư năm 1997) vào năm 2009 dưới thời tổng thống Obama (ông Gary Lock đă nghỉ nhưng ông Steven Chu vẫn đương nhiệm). Bà March Fong Eu từng nhiều năm giữ chức bộ trưởng ngoại giao của bang California, bà Nancy-Ann DeParle hiện đang là giám đốc của văn pḥng nhà trắng về cải cách y tế… Có nhiều chính khách Trung Quốc tham gia vào các bộ máy lập pháp của liên bang và tiểu bang như Charles Djou (nghị sĩ hạ viện đảng Cộng ḥa đương nhiệm), Hiram L. Fong (từng là nghị sĩ thượng viện đảng Cộng ḥa), bà Wilma Chan từng là lănh đạo của hạ viện tiểu bang California… Nhiều người Trung Quốc khác cũng đang giữ các vị trí quan trọng trong hệ thống tư pháp nhưThomas Tang, Ronald Lew, George H. King, Dolly M. Gee, và Denny Chin đều là thẩm phán trong hệ thống ṭa án liên bang. Mặc dù trên nguyên tắc các các công dân Mỹ khi tham gia vào bộ máy nhà nước Mỹ đều tuyên thệ chỉ bảo vệ lợi ích nước Mỹ, tuy nhiên việc xuất hiện ngày càng nhiều người Trung Quốc trong bộ máy chính quyền và tư pháp của Mỹ cũng cho thấy sự ảnh hưởng ngày càng tăng của người Trung Quốc ở Mỹ trong hệ thống công quyền ở nước này. Các nhân tố Trung Quốc này nhiều khả năng sẽ, trong các vấn đề liên quan đến việc lựa chọn giữa Trung Quốc hay một nước nào khác như Việt Nam, không ngả về phía Việt Nam. Và điều này là điều các nước đang có mâu thuẫn với Trung Quốc phải lưu ư khi tính đến con bài nước Mỹ. Cần nhau trên bàn cờ chính trị thế giới Mặc dù Mỹ và Trung Quốc bất đồng với nhau ở rất nhiều điểm liên quan tới các vấn đề của chính trị thế giới, nhưng Mỹ và Trung Quốc cũng có nhiều lợi ích chung và v́ thế trong nhiều vấn đề họ phải đi cùng với nhau. Trong những năm qua, chính quyền Obama đă hợp tác với Trung Quốc giải quyết được một số vấn đề cấp bách toàn cầu, trong đó hợp tác thiết đặt lệnh trừng phạt lên Bắc Triều Tiên (2009) và Iran (2010) do chương tŕnh hạt nhân của các nước này. Với Iran Kể từ năm 2006, Trung Quốc trở thành một đối tác quan trọng trong nỗ lực đa phương của Mỹ và Châu Âu nhằm kiềm chế chương tŕnh phát triển vũ khí hạt nhân của Iran. Trung Quốc đă tham gia đàm phán với Iran với tư cách là thành viên của P5+1 (thành viên thường trực Hội Đồng Bảo An Liên HIệp Quốc và Đức). Trung Quốc cũng ủng hộ các nghị quyết của Liên Hiệp Quốc áp đặt lệnh trừng phạt lên Iran, mặc dù vẫn kêu gọi sử dụng đối thoại đề giải quyết các vấn đề hạt nhân. Với Bắc Triều Tiên Mỹ và Trung Quốc có cùng lợi ích đối với ḥa b́nh và ổn định trên bán đảo Triều Tiên và phi hạt nhân hóa bán đảo. Trung Quốc đă tổ chức Đối thoại sáu nước trong vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Trung Quốc cũng đă ủng hộ Liên Hiệp Quốc, phê phán Bắc Triều Tiên trong vụ thử hạt nhân thứ nhất và áp đặt các lệnh trừng phạt có giới hạn. Nước Mỹ quan tâm hơn đến Iran và Bắc Triều Tiên so với đến vấn đề an ninh ở Biển Đông hay ngược lại? Điều này ai cũng rơ. V́ thế, trong các tính toán về chiến lược, cần phải lưu ư tránh để Việt Nam lại trở thành con tốt thí trong bàn cờ của hai ông lớn khi họ mặc cả với nhau – Mỹ nhượng bộ Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, c̣n Trung Quốc nhượng bộ Mỹ về một vài vấn đề khác, thí dụ liên quan đến Iran, Bắc Hàn, Trung Đông, hay Phi Châu. Ẩn ư cho Việt Nam Định lượng đúng tầm quan trọng của quan hệ Mỹ - Trung đối với cả hai nước này là một việc quan trọng. Kêt luận từ việc trả lời câu hỏi này sẽ là một ẩn ư quan trọng cho các quốc gia như Việt Nam trong việc xác định chiến lược đối ngoại. Sẽ là sai lầm nếu Việt Nam cho rằng sự hục hoặc giữa Mỹ và Trung Quốc có thể khiến Mỹ đứng ra bảo vệ những kẻ thù của Trung Quốc (kẻ thù của kẻ thù là bạn của ta). Lư do như đă nói ở trên là vế “cần” vẫn đủ mạnh so với vế “ghét” trong trung hạn để, khi đặt lợi ích quốc gia lên bàn cân, Mỹ vẫn không có lư do ǵ khi biến Trung Quốc thành kẻ thù. V́ thế, cần hết sức cân nhắc, và không nên ngây thơ, khi nghĩ rằng Việt Nam có thể dựa vào Mỹ để bảo vệ các lợi ích cốt lơi của ḿnh như vấn đề chủ quyền trên Biển Đông. Nguồn: Trần Vinh Dự/ VOA |
All times are GMT. The time now is 08:47. |
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by
Advanced User Tagging (Pro) -
vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.