View Single Post
Old 2 Weeks Ago   #2
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 32,970
Thanks: 29,084
Thanked 19,440 Times in 8,873 Posts
Mentioned: 162 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 794 Post(s)
Rep Power: 80
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

Tạo sao người Miền Nam không nói cái chân, lại thích nói cái chơn và cái chưn?
Người Miền Bắc kêu tay chân nhưng Nam Kỳ lại thích kêu là tay chơn và ở vài vùng là nói thẳng kiểu chưn cẳng.
Trong Hán tự có rất nhiều chữ chân, thí dụ chữ 蹎 chân này đọc âm là điên có nghĩa bàn chưn, ngón chưn, chưn bàn, chưn ghế.
Người Nam Kỳ ḿnh kêu chữ chân 真 (đi dạo) đọc là chân cũng là chơn, nghĩa là thực (thật) thà, thành thực, chơn chất .
Rồi chơn lư, chơn thật, chơn thành, chơn chánh, nước Chơn Lạp. B́nh Phước có hai quận Chơn Thành và Hớn Quản.
Bắc Kỳ kêu là chân, Nam Kỳ là chơn hết. Ta có chơn, thiện, mĩ, chơn lí, chơn thật.
Chữ này có thể do dân gian kỵ húy vua Dục Đức Nguyễn Phước Ưng Chân.
Thành ngữ có câu "lộng giả thành chơn” nghĩa là giỡn cái giả thành ra cái thiệt.
Tổ sư truyền bá chữ Quốc Ngữ là Petrus Kư viết trong cuốn “Chuyến đi Bắc Ḱ năm ất-hợi (1876)” như sau:
“Đời Hùng Vương là bộ Cửu Chơn; đời Triệu vơ-đế là quận Cửu Chơn.”
Nam Kỳ là viết chơn chánh, chơn tánh hết.
Ai nói Nam Kỳ kêu cái chưn mà không có cái chơn là kém hiểu biết, chữ chơn cẳng có đầy, thí dụ:
“Xin em đừng giận, đừng hờn
Anh lỡ đạp cứt, chặt chơn sao đành?”
Coi Hồ Biểu Chánh viết chữ chơn nè:
- Mỏi chơn:
“Mặt trời chen lặn, gió càng thêm mát mẻ, Khiếu Nhàn đi lần tới quán cơm chú Lỳ, tuy chưa mỏi chơn, song ông khát nước" (Ai làm được.)
-Chơn mang giày hàm ếch:
"Chánh Hương quản Sum bận quần lănh đen, áo bành tô trắng, chơn mang giày hàm ếch, đầu đội kết có rằn, tay cầm ba ton, miệng ngậm điếu thuốc..."(Cha con nghĩa nặng.)
"Chánh Tâm....
...áo bà ba xuyến trắng, quần lục soạn Bắc thảo, đầu đội nón trắng, chơn mang giày hàm ếch”( Kẻ làm người chịu.)
-Chơn đi guốc:
"Bà Kế Hiền ...
...mặc áo bà ba xuyến đen, quần lụa trắng, chơn đi guốc sơn đỏ, đầu đội khăn hột mè, bà đứng một tay chống nạnh, một tay xỉa thuốc, bộ tướng mạnh mẽ lắm”(Con nhà giàu.)
-Chơn đèn:
“Nhà cửa của thầy Đoàn Công Chánh cất theo kiểu kim thời, nên bề ngoài coi có vẻ thanh bai, c̣n bề trong dọn có đủ nghi tiết. Phía trong thầy đặt ba bàn thờ cẩn ốc xa cừ, lau chùi bóng láng, lư chơn đèn đồng trắng đánh dầu sáng ngời.”(Khóc thầm.)
Có ai nhớ tới tuồng “Bên cầu dệt lụa” không?
Khúc tiểu thơ Quỳnh Nga và ông quan huyện tía cô đối đáp, hát đảo ngũ cung thiệt hay:
“Quan huyện: Con c̣n muốn làm sao th́ cha mẹ mới buồn khổ chớ. Khi không rồi con khóc lóc với cha mẹ ngày này qua ngày nọ...
Quỳnh Nga Thanh Nga hát:
Xin cúi lạy thung đường
Chớ buồn v́ con thơ
Sống phải tập khó tập thương
Thích nghi hoàn cảnh khổ nghèo
Mai sau gia biến thế nào
Con cũng tự hào mà an tâm
Cha mẹ nghĩ sao đây
Khi con ngày đêm trau chuốt lượt là
Tha thướt dáng ngọc ngà
Yếu mềm như ngọn cỏ
Giữa cuộc đời sương gió
Cứ vập đầu sát đất chẳng vươn lên
Rồi người vùi dập dưới chơn
Hèn tủi kiếp thừa sinh.”
Trên đường Trần Quang Khải đi về phía Đa Kao có cái đ́nh Nam Chơn. Trước đ́nh có thờ h́nh ông Cọp. Bên trái cổng vào trong sân đ́nh có cây đa sum suê đă trên trăm tuổi.
Đ́nh Nam Chơn của lưu dân gốc Quảng Nam ở khu này.
Người Nam Kỳ c̣n kêu chơn (chân) là chưn nữa. Thí dụ :
-Hai chưn đèn
-Chưn mang giày
-Mặt mày tay chưn.
Thí dụ đoạn văn sau của Hồ Biểu Chánh
“Sanh loài người, Tạo hóa cho có mặt, có tay, có chưn, có gan, có ruột như nhau, mà cắc cớ sơn cho nhiều màu da, người th́ trắng, kẻ th́ vàng, người th́ đen, kẻ th́ đỏ. Mà dầu đồng một màu da với nhau đi nữa, tâm tánh cũng bất đồng, kẻ hiền người dữ, kẻ ngay người gian, kẻ dại người khôn, kẻ sáng nguời tối.”( Tơ hồng vương vấn).
“Đố anh con rít mấy chưn?
Cầu Ô mấy nhịp, chợ Dinh mấy người?
Chợ Dinh bán áo con trai
Chợ trong bán chỉ, chợ ngoài bán kim.”
(Ca dao)
Đọc lịch sử đạo Cao Đài thích nhứt là Cao Đài Chơn Lư (Hội thánh Chơn Lư Định Tường). Ông Nguyễn Văn Ca thường gọi là đốc phủ Ca, sanh năm 1876 tại Tân Trụ Long An,có Ngũ đẳng Bội tinh của Pháp ,ông là bác ruột của luật sư Nguyễn Văn Huyền-chủ tịch Thượng Nghị Viện VNCH.
Nhưng Cao Đài lập 1926 th́ năm 1930 Phối Sư Thái Ca Thanh tách ra khỏi Ṭa thánh Cao Đài Tây Ninh sớm nhứt v́ ông khuyên mười điều tà chánh mà ông Lê Văn Trung không nghe.
Ban đầu ông Nguyễn Văn Ca không có ư định ly khai Ṭa thánh Tây Ninh nhưng mâu thuẩn chất chồng, sau cùng Đốc phủ Ca đă dứt khoát ly khai khỏi Ṭa thánh Tây Ninh.
Ông về thánh thất Mỹ Phong Mỹ Tho lập ra Cao Đài Chơn Lư (Hội thánh Chơn Lư Định Tường), pháp danh ông là Đại Đức Bửu An Thiên La Hán, thánh thất Mỹ Phong thành Ṭa Thánh Định Tường.
Cao Đài Chơn Lư không thờ Thiên Nhỡn mà thờ h́nh trái tim cách điệu, phẩm phục và kinh kệ, cách tụng kinh, nhạc cũng không giống Ṭa thánh Tây Ninh.
Bàn thờ Cao Đài Chơn Lư có những ngọn đèn tượng trưng cũng khác Cao Đài Tây Ninh.
Cái tuồng hát nổi tiếng Nam Kỳ xưa là "Xử án Bàng Qúy Phi" đưa tên tuổi cô đào Năm Phỉ lên danh vọng tận trời Paris. Tống Chơn Tôn và Bàng Quư Phi.
Năm 1931 cô Năm Phỉ đă cùng kép Bảy Nhiêu (vai Tống Chơn Tôn) cùng gánh Phước Cương sang Paris diễn tuồng “Xử án Bàng Quư Phi”(La Favorite du Roi (Sủng phi của vua) nhơn dịp đấu xảo. Tây không hiểu ǵ lời ca nhưng nh́n cách diễn, nét diễn của Năm Phỉ cũng xúc động sụt sùi.
Kư giả Douglas d’Estrac của L’Intransigeant gọi cô Năm Phỉ là “Bérénice An Nam bé nhỏ đáng thương” và kép Bảy Nhiêu trong vai vua Tống Chơn Tôn là “Titus của phương Đông".
Chánh phủ Pháp ban tặng bà Năm Phỉ 4 huy chương.
Năm 1934 vua Bảo Đại lấy Nguyễn Hữu Thị Lan (Nam Phương hoàng hậu),ông Lê Phát An tặng Nam Phương một triệu đồng hồi môn,số tiền lớn thất kinh của tỷ phú thời đó. Vai Bàng Qúy Phi của Năm Phỉ đă đem lại cát xê cho bà Năm là 230.000 đồng.
Bây giờ trả lời v́ sao Nam Kỳ kêu "chân" thành chơn và chưn?
Không chắc kỵ húy vua Dục Đức đâu, có thể là do lưu dân Miền Nam là người gốc đất Ngũ Quảng (Quảng B́nh, Quảng Trị, Quảng Đức, Quảng Nam và Quảng Ngăi) rồi B́nh Định,Phú Yên mà ra.
Chữ nhơn và chơn là từ B́nh Định, Qui Nhơn mà ra. Bằng chứng là anh hùng Nguyễn Trung Trực tự Quản Lịch là người sanh ra tại tỉnh Tân An, hồi nhỏ có tên là Nguyễn Chơn, gốc ḍng này từ B́nh Định vô Long An.
Tại B́nh Định có Qui Nhơn mà ban đầu nó có tên Hoài Nhơn. Chúa Nguyễn Hoàng đổi tên Hoài Nhơn thành Qui Nhơn, chúa Nguyễn Phước Tần đổi Qui Nhơn làm Qui Ninh, chúa Nguyễn Phước Khoát lại lấy lại tên Qui Nhơn.
Cái âm nhân thành nhơn, th́ cái âm chân thành chơn cũng b́nh thường.
Người Thuận Hóa có thanh âm không rơ dấu sắc nhiều chữ, nên họ đọc Huế thành Huệ.
“Cây đa bến cộ c̣n lưa
Con đ̣ đă khác năm xưa tê rồi.”
Vùng B́nh Định, Phú Yên không phát âm rơ dấu hỏi và dấu ngă,thành ra đọc nậu thành nẫu .
Cái giọng B́nh Định nhẹ hơn giọng Quảng Ngăi, Quảng Nam nhiều nhưng cũng có vô số phương ngữ riêng của họ.
Chúng ta nghe tiếng khóc của Nguyễn Nhạc khi bị Nguyễn Huệ tấn công:
"B́ ̣a chữ nhục, đệ tâm hà nhẫn? (nồi da xào thịt, ḷng em sao nỡ?)".
Nếu không dịch, chú thích đố bạn hiểu ổng nói ǵ?
Trong một đoạn tuồng B́nh Định tả cảnh Nguyễn Huệ bao vây Nguyễn Nhạc ở thành Đồ Bàn, ông kép đóng vai Nguyễn Nhạc cất giọng như sau:
“Hợ (Huệ) em! Bàu đợ (bào đệ)! Nầu (nồi) da xáo thịt em sao nỡ!"
Nguyễn Huệ đáp lời: “Ḥn quynh (Hoàng huynh) nói dẫy (vậy), thâu (thôi) nẫu (em) d́a (về)."
Để ư cho kỹ, dân Nam Kỳ xài rất nhiều chữ của người B́nh Định. B́nh Định có "D́a" th́ Nam Kỳ cũng có "Đi d́a".
" Người dưng khác họ, chẳng nọ thời kia
Nay d́a th́ mơi ở, ban ngày thời mắc cỡ
Tối ở quên d́a
Rằng a í a ta d́a
Ḷng thương nhớ thương
Rằng a í a ta d́a, ḷng thương nhớ thương."
Nam Kỳ xài y chang B́nh Định trong những chữ sau:
-Chưng hửng
-Té ra
-Chàng ràng
- Đặng mà
- Hén
-Hun hít.
C̣n nhiều lắm không nhớ hết, kể vài cái làm bằng chứng thôi!
Xin ghi nhớ lại câu Người Nam Kỳ chơn chánh!
Lịch sử lưu dân Nam Kỳ quá trẻ, quá gần, không có nhiều quá khứ, nhưng quá khứ huy hoàng và kinh hoàng, nhiều máu và nước mắt.
Bản chất dân Nam Kỳ đôn hậu mộc mạc và chơn chất.
Hồi xưa dân Nam Kỳ thích ở ruộng vườn nên để thương trường cho người Tàu thao túng. Tánh Nam Kỳ lửa rơm dễ nóng, dễ cháy, bản chất lại ít uyển chuyển, ham cái lơi trước mắt, bốc rời kiểu ta đây nhứt là chánh trị, thành ra đấu đá thường thua.
Sông rạch và bao la v́ vậy đă tạo cho dân Nam Kỳ tánh khẳng khái, bộc trực, ít chịu cúi ḷn, kém thủ đoạn.
V́ kém thủ đoạn nên hay bị dính bẫy của kẻ thù, bị lợi dụng mà không hay, rước sói vô nhà, rước quỷ vô phá chùa.
Người Nam Kỳ chúng ta ít giảng đạo lư rườm rà nhưng đạo lư đó sẽ tồn tại trong cách sống, cách xử sự và phải nhớ đặng mà tuân theo. Nói về khó tánh th́ không ai khó hơn dân Nam Kỳ, nhưng dễ th́ cũng rất dễ.
Ai tôn trọng luật chơi Nam kỳ sẽ thành người Nam Kỳ.
Yêu lắm bàn chơn lưu dân tứa máu khẩn hoang của tổ tiên ông bà Miền Nam! thương lắm cái chơn chất, chơn thành của Lục Tỉnh xứ ḿnh!
"Quê ấy dẫu xây trăm ngục thất
Ngàn lăng miếu hoặc vạn am mây
Đất c̣n thấm thịt xương tiên tổ
Chăm bón hoa màu, đẹp cỏ cây.
Nuôi vững niềm tin ngày trở lại
Dẫu tàn thân thế, nát văn chương
Nên trong đợt khói nhang chiêu niệm
Sáng măi hồn quê, bóng ruộng vườn.."
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
 
Page generated in 0.03866 seconds with 9 queries