View Single Post
Old 2 Weeks Ago   #10
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 33,192
Thanks: 29,121
Thanked 19,478 Times in 8,906 Posts
Mentioned: 162 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 795 Post(s)
Rep Power: 81
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

Làng Trí Bưu (Cổ Bưu 古 郵) hiện nay thuộc phường 2 thị trấn Quảng Trị. Trí Bưu, một làng Công Giáo toàn ṭng lâu đời nằm trong Giáo Hạt Dinh Cát Trung, thuộc Tổng Giáo Hạt Dinh Cát mà nay là Giáo Hạt Quảng Trị trực thuộc Tổng Giáo Phận Huế.
Ư nghĩa về danh xưng (Cổ) Trí Bưu
Cổ Bưu có nghĩa là trạm thư tín, công văn được chuyển từ triều đ́nh về các đạo (tỉnh hiện nay) và ngược lại. Mảnh đất làng Trí Bưu bây giờ, nguyên vào khoảng đời nhà Trần hay nhà Hồ có dựng một nhà trạm để lo việc chuyển nhận thư từ và công văn (Ty Bưu Điện bây giờ).
Về sau này vị Khai Tiên làng Trí Bưu đă đến định cư trên vùng đất nhà Trạm này nên đă có tên gọi là “Cổ Bưu”. Theo Hán Việt Từ Điển của Thiều Chửu và nét viết chữ Hán trong “Ô Châu Cận Lục” th́: Cổ (古) nghĩa 1 là ngày xưa. 2 là không xu phụ thói đời, như cổ đạo hay đạo cổ, cao cổ cao thượng như thói xưa.
Bưu (郵) nghĩa 1 là nhà trạm. Dùng ngựa truyền tin gọi là Trí (智) chạy bộ truyền tin gọi là bưu. Công sở dùng để thông tin tức chạy thơ từ khắp nơi, bây giờ gọi là Bưu Chính Cục.
Như vậy ư nghĩa của hai từ “Cổ Bưu hay Trí Bưu” đă đúng theo định nghĩa ghi ở đầu mục này. Sự thay đổi từ Cổ Bưu sang Trí Bưu th́ theo ư nghĩa của Hán Việt Từ Điển đă cho biết; vào thời kỳ đầu, người mang thư tín phải đi bộ, nên gọi là Cổ Bưu.
Về sau, người ta dùng ngựa thay v́ đi bộ nên gọi là Trí Bưu. Một số khác cho rằng gọi là làng “Cổ Vưu”, có lẽ do tiếng địa phương nói trại ra, chứ trong Hán Việt Từ Điển chữ “Vưu” ghép với “Cổ” hay “Trí” đều vô nghĩa.
Theo “Une page de l’histoire du Quảng Trị” của nguyên công sứ Jabouille nói về cuộc thiêu sát của Văn Thân có đoạn viết về Trí Bưu như sau: “Đất làng Trí Bưu hiện nay là chỗ đất thời nhà Trần hay nhà Hồ làm trạm liên lạc (trạm Bưu Điện).
Sau này dân làng Trí Bưu đến ở trên mảnh đất đó, nên gọi là Cổ Bưu, đọc trại ra là Cổ Vưu. Đến đời nhà Nguyễn, cũng chọn đất Cổ Vưu làm nhà trạm công văn thư từ, nên cải tên Cổ Vưu đọc ra là Trí Bưu” (có nghĩa là vị trí đặt trạm Bưu Điện).
Thời điểm thành h́nh làng Trí Bưu
Theo ḍng lịch sử đất nước trải qua các thời đại vua chúa, kể từ sau khi nhà Trần tiếp nhận đất hai châu Ô và Rí năm 1307 cho đến sau này, đều không thấy nói đến thời điểm các cuộc di dân nào từ các tỉnh phía Bắc vào Nam, trừ thời gian sau 1954 đến nay. Do đó việc truy t́m thời điểm thành h́nh các hương làng là một việc làm khá khó khăn. “Ô Châu Cận Lục” cũng chỉ cung cấp phần nhỏ nào cho việc truy t́m mà thôi.
Làng Cổ Bưu trong “Ô Châu Cận Lục”của Dương Văn An xuất bản năm 1553 cũng không thấy có tên trong hai huyện Hải Lăng và Đăng Xương, mà chỉ có làng “Cổ Bưu” xă Hương Sơ, thành phố Huế mà thôi.
Thế nhưng, trong Bản tin liên lạc đồng hương Trí Bưu số 1 (2003) viết: “Năm 1306, vua Chiêm Thành dâng hai châu Ô và Rí làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân, tổ tiên Trí Bưu đă theo tiếng gọi lịch sử vào miền đất này khai hoang lập nghiệp”.
Theo thiển ư th́ đây cũng chỉ là một luận cứ chung chung theo định đoán cá nhân mà thôi. Nếu làng Cổ Vưu được thành h́nh từ lúc vua nhà Trần nhận đất hai châu Ô và châu Rí vào năm 1307, có quá sớm chăng?
Làng Trí Bưu cùng chung một vùng thuộc Bắc Quảng Trị ngày nay, nên cũng có thể đă thành h́nh vào khoảng thời vua Lê Thánh Tông niên hiệu Hồng Đức nguyên niên từ 1470 về sau. V́ nếu không cùng thời gian này th́ sẽ không c̣n đất để khai hoang lập hương làng nữa.
Các vị khai tiên làng Trí Bưu
Một vài vị cao niên làng Trí Bưu cho biết; Trí Bưu có 2 họ tộc chính, đó là họ Lê Thiện và họ Bùi, các họ tộc khác như Lê Văn, Lê Viết, Nguyễn về sau này mới nhập cư vào. Trong 2 họ tộc chính như đă nói chúng tôi không rơ họ tộc nào là họ khai tiên ra làng và chính tên của vị khai tiên này.
Địa lư: Làng Trí Bưu nằm về phía Đông-Đông Bắc Cổ Thành Quảng Trị. Phía Đông giáp làng Quy Thiện, Tây giáp Cổ Thành thị xă Quảng Trị, Nam giáp làng Long Hưng , Bắc giáp làng Hạnh Hoa và một đoạn sông Vĩnh Định.
Cổ Bưu thành h́nh phường La Vang
Khoảng đầu thế kỷ XVII, dân làng Cổ Bưu đă cùng nhau vượt đồi tiến về phía Tây Nam làng hơn 5 hay 6 cây số nơi rừng thiêng nước độc với bao hiểm nguy của thú dữ, để cùng nhau khai phá một vùng đất mới, hầu t́m thêm đất canh tác, đồng thời cũng t́m đồng cỏ cho bầy gia súc của họ.
Thời gian trôi qua gần 100 năm sau đó, một số con cháu của họ đă sinh sống tại đây, tuy không thường trực nhưng cũng đủ để tạo nên một phường mới, đó là phường Lá Vằng (nơi có nhiều cây lá Vằng).
Về thời điểm thành h́nh phường Lá Vằng, th́ trong một lá thư đề ngày 17.02.1691 của cha Lôrensô Huỳnh Văn Lâu gởi về Rôma nói về việc ngài đi thăm Giáo xứ Trí Bưu vào đầu năm 1691 có đoạn như sau: “…
Ngày 08.01.1691 trong cuộc viếng thăm các họ đạo vùng Dinh Cát, tôi đă tới thăm họ Cổ Vưu. Số giáo dân ở đây gồm có 120 người. Phần đông làm nghề đốn củi ở trong rừng, không có mấy người ở nhà …”. Như vậy, khu vực phường Lá Vằng này đă bắt đầu h́nh thành từ trước 1691.
Trong “Gia Long toàn tu địa bộ” được thành lập năm 1802 khi vua Gia Long thống nhất sơn hà, sau khi đă cho lệnh kiểm tra dân số và tu chính lại địa bộ trong cả nước, người ta đă thấy có thêm phường mới với tên là “Phường Lá Vằng” trực thuộc làng Trí Bưu.
Phường Lá Vằng đă trở thành một địa danh, mà trong những bài viết về sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại đây, dưới thời vua Cảnh Thịnh bắt đạo, đă gây nhiều thắc mắc giữa tên Lá Vằng hay La Vang, đến nay vẫn chưa có kết quả. Thế nhưng tên dùng chính thức hiện nay là “La Vang”.
Trở về quá khứ giữa sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại La Vang với giáo dân Trí Bưu, th́ đây là một diễm phúc cho giáo dân Trí Bưu, đă được chứng kiến và cũng là chứng nhân cho một sự kiện lạ, đó là sự kiện Đức Mẹ hiện ra đầy an ủi và khích lệ.
Từ đó, Trí Bưu đă có những cuộc rước kiệu Mẹ hằng năm từ Giáo xứ vào La Vang thật tưng bừng sốt sắng, để rồi cũng từ đó Trí Bưu đă trở thành trung tâm niềm tin của Giáo phận Huế.
Trí Bưu đă có công khai dựng nên La Vang, và chính La Vang cũng là nơi cho chính con cháu của những người đă tạo dựng nên nó ẩn náu trong những lúc bị bách hại khủng khiếp nhất.
Giờ đây, hậu sinh của tiền nhân Trí Bưu phải là người trách nhiệm đầu trong việc tô điểm lại La Vang hầu cho mỗi ngày một phát triển thêm để xứng đáng là hậu duệ của các vị Tiền nhân.
Nhà thờ Giáo Xứ Trí Bưu
Không thấy tài liệu nào nói đến việc xây dựng nhà thờ đầu tiên tại Trí Bưu. Trong “Lược sử các Giáo Xứ” tập I trang 892 th́ sau cuộc bắt đạo thời vua Tự Đức (thời Phân Sáp) giáo dân làng Trí Bưu đă theo lời kêu gọi của Đức Giám Mục Sohier (B́nh) đă cùng nhau xây dựng một ngôi nhà thờ bằng tranh tre, và một nhà xứ vào năm 1864.
Khi đă có nơi tạm trú, Đức Giám Mục đă sai cha Adolphe Delvaux (cố Văn) làm Hạt Trưởng Dinh Cát và tạm trú tại Trí Bưu. Năm 1866 cha Adolphe Delvaux được sai ra xứ Bắc.
Tháng 08.1866 Đức Cha Sohier (B́nh) khi ra thông cáo chia Giáo Hạt Dinh Cát ra 7 Địa Sở (Giáo xứ) th́ Trí Bưu là một trong 7 Địa Sở của Dinh Cát và do linh mục Gioan Đoạn Trinh Khoan (Kim Long) chánh xứ (Có sách viết Nguyễn Hũu Khoan), và cha Phêrô Đặng Văn Minh (An Vân) phó xứ (không phải cha Phêrô Trần (Trương) Công Quang về thay thế cha Delvaux).
Năm 1887 dưới thời Linh mục Patinier (cố Kính) làm chánh xứ Trí Bưu lần 2 ngài đă cho xây lại nhà thờ Trí Bưu mới khang trang và rộng mát hơn, và đă khánh thành, cung hiến vào năm 1889.
Đầu thế kỷ XX dưới thời cha Cadière (Cố Cả) làm chánh xứ (1904-1911) ngài đă cho xây lại nhà thờ khác lớn hơn bằng vật liệu nặng. Năm 1971 v́ nhà thờ đă xuống cấp trầm trọng, nên giáo dân dưới sự chỉ đạo của L/m Matthêô (Matthew) Lê Văn Thành một người con của Giáo Xứ đă phá đi để làm lại mới nhưng chưa hoàn thành th́ những trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 xảy ra.
Sau 04/1975, linh mục Tôma (Thomas) Lê Văn Cầu và một số giáo dân c̣n lưu luyến với Trí Bưu, họ đă trở về lại quê cũ, nơi mà tiền nhân họ đă từng hy sinh đến nổi đă hiến mạng sống ḿnh để giữ vững niềm tin vào Chúa. Họ đă bằng ḷng sống lại cái thủa ban đầu của cha ông ḿnh nơi mảnh đất thân thương Trí Bưu với hai bàn tay trắng. Cha Tôma Cầu đă cùng với giáo dân tạm sửa lại ngôi thánh đường để tạm thờ phượng.
Trí Bưu với vụ thảm sát của Văn Thân
Một cuộc thảm sát kinh hoàng nhắm vào người Công Giáo đă xảy ra dưới thời Văn Thân. Theo “Một trang huyết lệ …” của Jabouille, trích phần Giáo Xứ Trí Bưu trang 12-17 như sau:
Trí Bưu thời gian này do linh mục Matthey (cố Thiện) làm chánh xứ, và cha Giuse Bùi Thông Bửu phó xứ.
Chiều Chúa nhật 06.09.1885 một tiếng nổ lớn do trong thành Quảng Trị bắn ra, đó là dấu hiệu báo sự thắng trận của phái Văn Thân, và tuyên bố việc thiết quân luật cho tỉnh Quảng Trị. Tiếng súng cũng là đấu hiệu báo tin cuộc tàn sát của Văn Thân sẽ khai diễn.
Cha Thiện đă tụ họp được khoảng 800 giáo dân Trí Bưu trong nhà thờ, sau khi giảng dạy và ban phép Giải Tội ḷng lành cho họ xong, ngài quyết định đem số giáo dân đi đào nạn, ngài khuyên họ phân ra từng toán, theo đường tắt và hiểm trở mà đi, ngài chọn xóm La Vang làm nơi gặp nhau. Nhưng một số giáo dân v́ sợ hiểm nghèo sắp đến nên họ không đi.
Chiều ngày 06. 09.1885 ngài cải trang ra đi. Cha Bửu hướng dẫn những giáo dân c̣n lại đi theo ngài. Cha Thiện đă đem được khoảng 200 giáo dân Trí Bưu chạy trốn vào La Vang.
Sau một đêm trốn ngoài rừng, ngài được người đem đường vào tới Ba Trúc, và từ đó ngài về Kim Long. Số giáo dân vào La Vang họ không muốn đi với ngài vào Huế, mà vẫn ẩn núp tại rừng La Vang. Linh mục Bùi Thông Bửu cũng theo giáo dân vào La Vang nhưng không gặp cha Thiện, sau đó ngài trở về lại Trí Bưu.
Qua ngày 07.09.1885 Văn Thân do Đội Cự điều khiển, bao vây làng Trí Bưu, gom và đuổi dần giáo dân về nhà thờ. Họ chất rơm xung quanh nhà thờ rồi phóng lửa đốt. Số người bên trong đều bị chết ngộp, ai chạy thoát ra ngoài đều bị chém. Giáo xứ Trí Bưu bị Văn Thân giết chết khoảng 600 giáo dân và một Linh mục là cha Giuse Bùi Thông Bửu.
Số giáo dân ở rừng La Vang sau 12.09.1885 được tin tỉnh thành Quảng Trị đă được giải vây, họ chia nhau từng toán t́m về lại làng, chẳng may một toán khoảng 30 người đă bị Văn Thân chận bắt.
Khi đă bị bắt, ông Thoàn một người trong nhóm bị bắt xin được chết trên nền nhà thờ Đức Mẹ La Vang đă bị đốt. Yêu cầu này đă được đảng Văn Thân cho toại nguyện.
Cùng thời gian này, các Giáo họ trực thuộc giáo sở Trí Bưu như: Hạnh Hoa, Trí Lễ (nay là Quy Thiện) Ngô Xá, Thạch Hăn và chợ Săi, tất cả có khoảng 400 giáo dân, đều chịu chung số phận như Trí Bưu, chỉ c̣n 80 người trong các Giáo họ này sống sót. Đặc biệt là giáo dân của Giáo họ Chợ Săi một họ lẽ của Trí Bưu đă bị tàn sát không sót một người nào.
Giáo họ Quy Thiện th́ bị chính người của đảng Văn Thân trong làng (tức những nhà Nho trong làng) lừa gạt nên đă bị giết chết.
Từ sau 4/1975, Trí Bưu cũng như các Giáo Xứ và Giáo Họ khác, chỉ có một số ít giáo dân nguyên quán trở về lại với quê cha đất tổ, trong số có linh mục Tôma (Thomas) Lê Văn Cầu.
Ngày trở về, một cha (linh mục) cùng với một số ít giáo dân không khỏi ngậm ngùi trước cảnh hoang tàn đổ nát v́ chiến tranh. Thế rồi, trong suốt gần 10 năm dù gặp bao gian nan khổ ải. Cha con, anh em cũng đă gắng sức với đôi bàn tay, để cùng mưu cầu sự sống và để giữ lấy niềm tin đă có từ lâu đời do cha ông để lại.
Việc quan trọng hơn là phải cố công tu tạo lại những Thánh Tích đă bị đổ nát với những phương thế nào có thể được, hầu tu tạo lại cho một Trí Bưu mới sau biến cố của thời cuộc.
Mười năm qua đi, cha Cầu bị phỉ quyền Hà Nội bức hại và bị lệnh quản thúc và bị ép buộc phải rời quê quán về nơi chỉ định là Giáo Họ Phan Xá, một địa danh nơi đó đă sinh ra và ấp ủ Thánh Tử Đạo Phanxicô Trần Văn Trung. Phải chăng đây là ư Chúa quan pḥng, nên từ ngày có mặt cha Tôma, Phan Xá đă thay đổi bộ mặt và cho đến hôm nay cũng đă trở thành một Giáo Xứ.
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
 
Page generated in 0.05161 seconds with 9 queries