View Single Post
Old 6 Days Ago   #3
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 32,870
Thanks: 29,037
Thanked 19,408 Times in 8,857 Posts
Mentioned: 162 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 791 Post(s)
Rep Power: 80
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

4. Trumpism như một thách thức đối với thể chế dân chủ Mỹ


Trong truyền thống chính trị Mỹ, các phong trào dân túy từng nhiều lần xuất hiện, từ phong trào nông dân thời cuối thế kỷ 19 đến chủ nghĩa McCarthy thời Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, Trumpism đánh dấu một bước ngoặt nghiêm trọng hơn bởi quy mô quyền lực mà phong trào này kiểm soát được, cũng như mức độ triệt để trong việc phủ nhận các chuẩn mực nền tảng của dân chủ đại nghị. Không chỉ là một thái độ phản kháng nhất thời, Trumpism đang từng bước tạo ra một “nền văn hóa phản thể chế”, đẩy nền dân chủ Mỹ vào t́nh trạng bị ăn ṃn từ bên trong.

Một trong những mối đe dọa rơ ràng nhất của Trumpism đối với dân chủ là sự phá vỡ các chuẩn mực hiến định bất thành văn – những quy ước phi chính thức nhưng có tính ràng buộc đạo lư vốn giữ cho thể chế hoạt động ổn định. Từ việc công khai tấn công Ṭa án, phủ nhận tính chính danh của Quốc hội, đến việc kích động nghi ngờ vào tính toàn vẹn của các cuộc bầu cử, Trump và các đồng minh đă làm lung lay một cách có hệ thống nền tảng niềm tin vào quy tŕnh dân chủ. Khi một bộ phận đáng kể dân chúng tin rằng cuộc bầu cử là gian lận, rằng báo chí là “kẻ thù của nhân dân”, rằng ṭa án là công cụ của cánh tả, th́ tính hợp pháp biểu tượng của nhà nước pháp quyền sẽ dần biến mất, kể cả khi các định chế vẫn tồn tại về mặt h́nh thức.

Không dừng lại ở lời nói, Trumpism đă có những hành động cụ thể làm suy giảm năng lực và sự độc lập của các cơ quan kiểm soát quyền lực. Trong cả hai nhiệm kỳ tổng thống, đặc biệt từ năm 2025, chính quyền Trump gia tăng các nỗ lực can thiệp vào hoạt động của Bộ Tư pháp, tấn công cá nhân các công tố viên, thay thế các quan chức chuyên môn bằng những người trung thành về ư thức hệ, và khuyến khích các bang Cộng ḥa thông qua các đạo luật hạn chế quyền bầu cử. Việc loại bỏ rào chắn chuyên môn, đồng thời thay thế các vị trí trọng yếu bằng các nhân vật mang tính phe phái, tạo nên một t́nh trạng “phi chính trị hóa thể chế” – nơi các định chế không c̣n hoạt động như các công cụ cân bằng quyền lực, mà trở thành công cụ phục vụ một người hoặc một nhóm.

Trumpism cũng làm suy yếu nghiêm trọng không gian công cộng – nơi người dân có thể trao đổi thông tin, tranh luận lư trí và xây dựng sự đồng thuận xă hội. Khi thông tin bị thay thế bởi tuyên truyền, khi đối thoại bị thay thế bằng sỉ nhục và bôi nhọ, và khi sự thật bị tái định nghĩa theo nghĩa chủ quan, th́ nền dân chủ tự do mất đi điều kiện tồn tại căn bản nhất: các cuộc thảo luận trong không gian công cộng dựa trên lư trí. Trong môi trường ấy, không có chỗ cho sự bất đồng mang tính xây dựng hay phê phán trên tinh thần đồng thuận – chỉ c̣n lại hai phe đối kháng tuyệt đối.

Điều nguy hiểm hơn nữa là Trumpism không chỉ tấn công từ bên ngoài mà c̣n chiếm giữ không gian bên trong của nền dân chủ. Khác với các mô h́nh độc tài cổ điển, Trumpism không cần đảo chính hay giải thể Quốc hội – dù đó đích thực là điều nó đă định làm, hay khuyến khích làm, vào tháng 1 năm 2020; nó chỉ cần làm xói ṃn dần các quy tŕnh, khiến người dân mất ḷng tin, và cuối cùng chấp nhận một thực tế mới: dân chủ chỉ c̣n là h́nh thức bề ngoài, c̣n thực chất là sự kiểm soát thông qua cảm xúc và phân cực. Điều này khiến Trumpism trở thành ví dụ điển h́nh cho hiện tượng các thiết chế dân chủ bị vô hiệu hóa từ bên trong thông qua những người được bầu lên một cách hợp pháp.

Không thể không nhắc đến vai tṛ của đảng Cộng ḥa trong quá tŕnh này. Từ chỗ giữ khoảng cách với Trump, nhiều chính khách Cộng ḥa dần chuyển sang ủng hộ hoặc im lặng v́ lo sợ mất phiếu. Hệ quả là một đảng chính trị từng đại diện cho chủ nghĩa bảo thủ nguyên tắc và tôn trọng truyền thống hơn hết giờ đây trở thành phương tiện cho một phong trào mang đậm tính bản sắc và phản kháng thiết chế (anti-establishment). Và khi đảng Cộng ḥa nắm được lưỡng viện và chiếm đa số trong Ṭa án tối cao th́ dường như hệ thống kiểm soát quyền lực đang bị tê liệt – một hiện tượng từng xảy ra trong các nền dân chủ suy yếu như Hungary, Venezuela hay Thổ Nhĩ Kỳ.

Tóm lại, thách thức mà Trumpism đặt ra cho dân chủ Mỹ không chỉ là những phát ngôn cực đoan hay các chính sách gây tranh căi, mà là sự tái định h́nh nền tảng chính trị theo xu hướng bản năng hóa, cảm xúc hóa và phản định chế. Nếu không có nỗ lực tái cấu trúc lại niềm tin công chúng, phục hồi vai tṛ trung lập của các định chế, và củng cố không gian công cộng dựa trên nền tảng của lư trí và sự tôn trọng lẫn nhau, th́ nền dân chủ Mỹ có thể vẫn tồn tại trên giấy tờ, nhưng không c̣n mang nội dung thực chất.

5. So sánh Trumpism với các phong trào dân túy – chuyên chế khác

Mặc dù mang màu sắc rất Mỹ, Trumpism không phải là hiện tượng hoàn toàn độc lập trong lịch sử chính trị thế giới. Ngược lại, các yếu tố cấu thành nên phong trào này – từ dân túy bản sắc, bài thể chế, chính trị cảm xúc đến chủ nghĩa cá nhân hóa quyền lực – đều từng xuất hiện trong các bối cảnh quốc gia khác, dưới nhiều tên gọi và h́nh thức khác nhau. Việc đặt Trumpism trong một hệ quy chiếu so sánh giúp hiểu rơ hơn không chỉ về bản chất của phong trào, mà c̣n về những nguy cơ mà nó chia sẻ với các mô h́nh chuyên chế (autocracy) đương đại.

Một trong những điểm tương đồng dễ nhận thấy nhất là giữa Trump và Vladimir Putin – tổng thống Nga đương nhiệm, người đă xây dựng một mô h́nh quyền lực tập trung quanh h́nh ảnh một nhà lănh đạo mạnh tay, khôi phục bản sắc dân tộc và sẵn sàng thách thức trật tự quốc tế. Tuy nhiên, phương pháp của Putin dựa vào bộ máy nhà nước và an ninh đă được kiểm soát từ bên trong, trong khi Trump lại hành động từ một vị trí bên ngoài thể chế chính trị truyền thống. Dù vậy, cả hai đều khai thác triệt để cảm giác hoài cổ, nuối tiếc những vàng son quá khứ của dân chúng: Putin với h́nh ảnh một nước Nga vĩ đại thời Liên Xô c̣n Trump với lời hứa “làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”.

Tương tự, Tập Cận B́nh – nhà lănh đạo tối cao của Trung Quốc – cũng đại diện cho một xu hướng chính trị cá nhân hóa quyền lực, nơi bản thân nhà lănh đạo trở thành biểu tượng của sự phục hưng quốc gia. Dưới thời Tập, thuật ngữ “Giấc mộng Trung Hoa” được huy động như một tuyên ngôn dân tộc chủ nghĩa, tương tự như “Make America Great Again” trong khẩu hiệu của Trump. Cả hai cùng nhấn mạnh đến sự đe dọa từ bên ngoài, củng cố một cấu trúc “chúng ta và bọn họ”, đồng thời làm suy yếu các thiết chế trung gian (đảng cầm quyền, lănh đạo tập thể…) để mở rộng khả năng thao túng chính trị. Khác biệt lớn nhất nằm ở cấu trúc thể chế: nếu Trumpism hoạt động trong môi trường dân chủ, th́ Tập Cận B́nh là lănh đạo một nhà nước độc đảng, nơi không tồn tại sự đối trọng chính trị thực chất.

Bên ngoài hai cường quốc Nga – Trung, nhiều học giả cũng đặt Trumpism như hiện tượng tương đồng với Berlusconism ở Ư, Bolsonarism ở Brazil, hay Erdoğanism tại Thổ Nhĩ Kỳ. Điểm chung dễ nhận thấy là các nhà lănh đạo này đều đến từ bên ngoài giới tinh hoa chính trị truyền thống, sử dụng phương tiện truyền thông để xây dựng h́nh ảnh cá nhân vượt lên trên đảng phái, đồng thời công kích mạnh mẽ các cơ quan kiểm soát quyền lực như ṭa án, báo chí, và các tổ chức dân sự. Giống như Trump, họ xây dựng một kiểu “quyền lực biểu tượng” gắn liền với bản sắc quốc gia, nơi người dân không chỉ ủng hộ chính sách mà c̣n đồng nhất hóa ḿnh với nhà lănh đạo như đại diện của tinh thần yêu nước cao cả.

Một đặc điểm đáng lưu ư là các phong trào kiểu Trumpism thường h́nh thành và bùng phát trong thời kỳ khủng hoảng: khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng bản sắc, hoặc khủng hoảng niềm tin vào hệ thống dân chủ. Trong hoàn cảnh ấy, mong muốn phục hồi quyền lực từng có và các giá trị truyền thống trở thành động lực mạnh mẽ, cho phép các nhà lănh đạo vận hành chính trị như một cuộc phục thù biểu tượng. Lịch sử cho thấy rằng các mô h́nh như vậy thường không chỉ làm xói ṃn dân chủ, mà c̣n làm tổn hại sâu sắc đến khả năng tái thiết sau khủng hoảng, bởi chúng thay thế chính trị của lư trí bằng chính trị của cảm xúc, và thay thế quyền lực thể chế bằng quyền lực cá nhân. Mussolini ở Ư, Hitler ở Đức, Putin ở Nga đều lên nắm quyền lực tuyệt đối sau những khủng hoảng kinh tế và bản sắc sâu sắc và kéo dài, với những lời hứa hẹn đưa đất nước trở về thời huy hoàng trong quá khứ, rửa đi những nổi hổ thẹn của một quốc gia-dân tộc vĩ đại bị “các thế lực ngoại bang hay ngoại lai” đạp xuống hố bùn trong khi giới tinh hoa chính trị trong nước th́ tham nhũng, hủ bại và yếu ớt. Sự đi lên của Trumpism không hoàn toàn theo kịch bản đó nhưng có rất nhiều thành tố như vậy. Và cũng có thể thấy sự tương tự với trường hợp Erdogan ở Thổ Nhĩ Kỳ hay Modi ở Ấn Độ.

So sánh Trumpism với các hiện tượng tương tự giúp nhận diện một xu hướng toàn cầu – nơi sự hoài nghi thể chế, bất an kinh tế, và phân cực văn hóa kết hợp để tạo nên các dạng chính trị phi lư tính, thường ẩn dưới lớp vỏ dân chủ nhưng mang nhiều đặc điểm của chế độ độc đoán. Tuy nhiên, trong trường hợp Mỹ, sự đối kháng thể chế vẫn c̣n tồn tại mạnh mẽ – từ hệ thống báo chí tự do, ṭa án độc lập, đến các cơ chế liên bang – điều tạo ra khả năng kháng cự mà nhiều nước khác không có. Vấn đề là liệu các trụ cột này có đủ sức chống đỡ một phong trào ngày càng lan rộng và được hợp pháp hóa thông qua bầu cử hay không.

Trumpism, như vậy, không đơn độc. Nó là một phần trong làn sóng phản ứng toàn cầu chống lại hiện đại hóa nhanh chóng, quá tŕnh toàn cầu hóa không kiểm soát, và cảm giác mất phương hướng trong thế giới hậu công nghiệp.

6. Trumpism 2.0 và sự cực đoan hóa sau khi nắm quyền

Khi Donald Trump trở lại Nhà Trắng trong cuộc bầu cử năm 2024, không ít nhà phân tích kỳ vọng rằng nhiệm kỳ hai sẽ đánh dấu một sự điều chỉnh, thậm chí là “ôn ḥa hóa” trong phong cách cầm quyền. Nhưng thực tế đă chứng minh điều ngược lại. Khác với nhiệm kỳ đầu vốn c̣n vướng mắc với các giới hạn thể chế, các nhóm phản đối trong nội bộ đảng Cộng ḥa, và sự ngỡ ngàng ban đầu của chính ông trước guồng máy nhà nước, nhiệm kỳ thứ hai của Trump chứng kiến một Trumpism trưởng thành hơn, cứng rắn hơn và quyết đoán hơn – không c̣n là một phong trào phản kháng, mà là một mô h́nh cầm quyền đang định h́nh lại chính trị Mỹ từ gốc rễ.

Trong nhiệm kỳ mới, Trump đă hành động với một nhận thức rơ ràng rằng hệ thống có thể bị bẻ cong nếu đủ kiên tŕ và nếu kiểm soát được các điểm nút then chốt. Một trong những chiến lược trọng tâm là thanh lọc bộ máy hành pháp khỏi các quan chức “không trung thành”, thay thế bằng những nhân vật cam kết tuyệt đối với đường lối Trumpist. Trump có thể chọn những người hoàn toàn không có kinh nghiệm hành pháp, chính quyền hay chuyên môn, mà tiêu chí quan trọng nhất, đó là tuyệt đối trung thành với “ông trùm”. Thêm vào đó là cuộc cải tổ sâu rộng chính quyền liên bang mà tỷ phú “cánh hẩu” của Trump, Elon Musk là người cầm cương, khiến ông ta hoàn toàn kiểm soát nhánh hành pháp. Điều này dẫn đến sự xói ṃn nghiêm trọng tính chuyên môn và tính độc lập của hệ thống hành chính liên bang.

Quan trọng hơn, nhiệm kỳ hai chứng kiến sự đồng thuận cao hơn giữa Trump và đảng Cộng ḥa – một đảng giờ đây không chỉ chịu ảnh hưởng, mà đă phần nào trở thành công cụ truyền tải Trumpism. Sự tan ră của phe “cộng ḥa truyền thống” với những cái tên như Liz Cheney hay Mitt Romney, sự rút lui của các chính khách ôn ḥa như John Kasich hay kể cả Mitch McConnell, và làn sóng các ứng viên trung thành với Trump thắng cử vào các cơ quan lập pháp cấp bang và liên bang, đă giúp tạo ra một môi trường chính trị thuận lợi chưa từng có cho việc thể chế hóa các quan điểm từng được xem là cực đoan. Từ luật nhập cư khắt khe hơn, việc tăng quyền cho cảnh sát, đến việc kiểm soát mạnh tay đối với giáo dục, nghệ thuật và báo chí, chính sách Trumpism 2.0 không c̣n mang tính biểu tượng mà đi vào thực thi cụ thể, sâu rộng.

Một sự khác biệt then chốt giữa nhiệm kỳ đầu và nhiệm kỳ hai là thái độ đối với luật pháp. Nếu trước đây Trump c̣n tránh né đối đầu trực tiếp với hệ thống tư pháp liên bang, th́ nay ông và các cộng sự không ngần ngại coi việc “cải cách tư pháp” như một phần của chương tŕnh nghị sự cốt lơi. Nỗ lực mở rộng thẩm quyền hành pháp, tái định nghĩa vai tṛ của Ṭa án Tối cao, và thúc đẩy các đạo luật bảo vệ tổng thống khỏi truy tố trong khi đương chức là minh chứng rơ ràng cho chiến lược lâu dài: Trumpism không chỉ muốn giành chiến thắng trong chính sách, mà c̣n trong quy tắc cuộc chơi.

Tương tự các nhà lănh đạo như Putin hay Tập Cận B́nh, Trump ở nhiệm kỳ hai ngày càng đặt trọng tâm vào tính chính danh biểu tượng có tính cá nhân. Các cuộc mít tinh quy mô lớn, các thông điệp mang tính thần thánh hóa sứ mệnh của tổng thống, việc sử dụng truyền thông xă hội như công cụ kiểm soát trực tiếp dư luận – tất cả tạo nên một kiểu chính trị dựa trên ḷng trung thành hơn là lư lẽ. Không phải ngẫu nhiên khi những người phản đối Trump bị gán cho các nhăn như “kẻ thù quốc gia”, “phản bội”, “tay sai của toàn cầu hóa” hay “Cộng ḥa trên danh nghĩa”. Trong logic Trumpism 2.0, sự khác biệt quan điểm không c̣n là một phần của dân chủ, mà là biểu hiện của sự đối kháng cần bị trấn áp từ trong trứng nước.

Điểm đặc biệt của nhiệm kỳ hai là sự chuyển đổi từ phong trào “phản thể chế” sang “tái cấu trúc thể chế”. Thay v́ phá vỡ hay đối đầu với các định chế dân chủ, Trumpism t́m cách kiểm soát, định h́nh lại và sử dụng chúng như công cụ để duy tŕ quyền lực. Một ví dụ điển h́nh là việc trao quyền cho các tiểu bang Cộng ḥa siết chặt quy định bầu cử, tái phân chia khu vực bầu cử (gerrymandering), và cài cắm các vị trí trọng yếu trong bộ máy kiểm phiếu các bang. Tất cả được thực hiện nhân danh “bảo vệ tính toàn vẹn của bầu cử”, nhưng thực chất nhằm định h́nh tương lai chính trị dài hạn có lợi cho phe Trumpist.

Tuy nhiên, Trumpism 2.0 không đơn thuần là một phiên bản mạnh tay hơn của nhiệm kỳ đầu. Nó cũng thể hiện sự tiến hóa về mặt chiến lược. Nhận thức được rằng không thể măi dựa vào h́nh ảnh cá nhân của Trump, phong trào này bắt đầu tạo ra một hệ sinh thái chính trị riêng: các viện nghiên cứu, mạng lưới truyền thông, nền tảng công nghệ thay thế…Ví dụ: America First Policy Institute (AFPI) được thành lập sau khi Trump thất cử đóng vai tṛ như một “Heritage Foundation phiên bản Trump” hay Project 2025 không chỉ chuẩn bị chính sách mà cả nhân sự cho chính quyền Trump 2.0. Đây là bước đi nhằm đảm bảo tính bền vững, chuẩn bị cho một tương lai hậu-Trump, trong đó Trumpism có thể tiếp tục tồn tại như một hệ h́nh cầm quyền độc lập với cá nhân người sáng lập.

Dưới góc nh́n lư thuyết chính trị, Trumpism nhiệm kỳ hai mang nhiều dấu hiệu của một mô h́nh lai tạp: không hoàn toàn độc tài nhưng cũng không c̣n tuân thủ nguyên tắc dân chủ tự do cổ điển. Ở đây, các cuộc bầu cử vẫn diễn ra nhưng với luật chơi bị bóp méo; nơi truyền thông vẫn tồn tại nhưng bị thao túng thông qua mạng lưới ảnh hưởng; nơi pháp quyền vẫn được nhắc đến nhưng chỉ phục vụ mục tiêu củng cố quyền lực. Và những ai chống lại Trumpism, từ chính trị gia, thẩm phán, luật sư, nhà báo cho tới các trường đại học, đều sẽ bị truy bức theo nhiều cách thức khác nhau.

Trumpism 2.0, như vậy, không chỉ là một hiện tượng chính trị ngắn hạn, mà là nỗ lực định h́nh lại nước Mỹ theo hướng chủ nghĩa bản sắc, quyền lực tập trung và cảm xúc chính trị. Sự trỗi dậy lần thứ hai của Trump cho thấy phong trào này không chỉ sống nhờ vào sự chia rẽ, mà c̣n biết cách tái cấu trúc sự chia rẽ ấy thành công cụ cầm quyền hiệu quả. Điều đó đặt ra những câu hỏi căn bản về khả năng thích nghi của nền dân chủ Mỹ – không chỉ trong việc chống lại các mối đe dọa từ bên ngoài, mà c̣n từ những biến đổi bên trong chính cấu trúc của nó.

7. Tương lai của nền dân chủ Mỹ

Như vậy, tới thời điểm này, Trumpism không c̣n là một hiện tượng nhất thời hay sự kiện ngoại lệ. Nó đă và đang trở thành một cấu trúc quyền lực có tính bền vững, với hệ tư tưởng, hệ thống tổ chức, và hệ sinh thái truyền thông riêng biệt. Câu hỏi ở đây không phải là nó sẽ biến mất như thế nào mà là nó sẽ định h́nh nền dân chủ Mỹ như thế nào trong những thập niên tới, và liệu các nền dân chủ khác có phải đối mặt với những biến thể tương tự không?

Một trong những khả năng là Trumpism sẽ tiếp tục “chính đảng hóa” – tức được thể chế hóa sâu sắc hơn trong nội bộ đảng Cộng ḥa. Khi đó, phong trào này sẽ không c̣n phụ thuộc vào cá nhân Trump, mà trở thành khuôn mẫu định h́nh cho các thế hệ chính khách mới: mang lập trường bản sắc cứng rắn, chống thể chế liên bang, chống toàn cầu hóa, và nhấn mạnh vào sự ưu việt của “nước Mỹ trên hết”. Việc này sẽ khiến Trumpism tiếp tục tồn tại ngay cả khi ông Trump không c̣n nắm quyền, hoặc thậm chí qua đời – tương tự như cách Peronism vẫn sống trong chính trị Argentina hàng thập kỷ sau cái chết của Juan Perón hay Gaullism vẫn c̣n ảnh hưởng ở Pháp cho tới tận đầu thế kỷ 21.

Một khả năng khác là sự phân mảnh và cực đoan hóa của Trumpism. Như nhiều phong trào dân túy khác, khi đạt được quyền lực, những mâu thuẫn nội tại giữa các nhóm lợi ích và ư thức hệ trong cùng một liên minh có thể bộc lộ. Sự căng thẳng giữa phe Evangelical, phe dân túy kinh tế, và phe dân túy văn hóa có thể dẫn đến các nhánh Trumpism đối kháng lẫn nhau – mỗi nhóm cố gắng chứng minh ḿnh là “người thừa kế chính thống” của tinh thần Trump. Những xung đột gần đây trong nhóm cố vấn thân cận Trump là một ví dụ. Trong bối cảnh đó, nước Mỹ có thể phải đối mặt với không chỉ một Trumpism, mà nhiều Trumpism cạnh tranh nhau về mức độ cực đoan và tính chính danh.

Tuy nhiên, nguy cơ lớn nhất nằm ở sự b́nh thường hóa của Trumpism. Khi những hành vi và ngôn ngữ từng bị coi là không thể chấp nhận – xúc phạm báo chí, đe dọa thẩm phán, nghi ngờ kết quả bầu cử – trở thành chuyện thường ngày, th́ nền dân chủ đă mất đi lớp da đạo đức mỏng manh vốn bảo vệ nó khỏi sa vào vũng lầy của chủ nghĩa chuyên chế. Trong một xă hội ngày càng phân cực, nơi sự thật bị thay thế bằng “sự thật theo tôi”, và lư trí nhường chỗ cho cảm xúc chính trị thuần túy, th́ việc khôi phục lại các chuẩn mực dân chủ truyền thống sẽ trở nên khó khăn hơn bao giờ hết.

Trumpism cũng đặt ra câu hỏi sâu xa hơn về tương lai của mô h́nh dân chủ tự do trong thế kỷ 21. Phải chăng chúng ta đang chứng kiến sự thoái trào của một mô h́nh chính trị đă từng đem lại ổn định và thịnh vượng cho phương Tây trong hơn bảy thập kỷ? Và nếu đúng như vậy, mô h́nh nào sẽ thay thế: một nền dân chủ minh bạch hơn và có tính bao trùm hơn như Acemoglu và Robinson hằng cổ súy, hay một mô h́nh “hậu dân chủ” – nơi h́nh thức dân chủ vẫn được duy tŕ, nhưng nội dung đă bị xói ṃn, bị thay thế bằng sự cai trị của những nhà lănh đạo chuyên chế và dân túy.

Câu trả lời không thể đơn giản hóa. Một mặt, Trumpism là triệu chứng của các vết nứt sâu trong xă hội Mỹ: t́nh trạng bất b́nh đẳng gia tăng, bản sắc bị đánh mất, khủng hoảng niềm tin vào các thiết chế điều hành xă hội. Mặt khác, chính sự trỗi dậy của phong trào này cho thấy hệ thống dân chủ vẫn c̣n không gian cho sự phản kháng và tái định h́nh thể chế. Điều quan trọng là làm thế nào để cải tổ nền dân chủ theo hướng bao trùm và bền vững hơn, biết lắng nghe hơn thay v́ để nó bị dẫn dắt bởi những trận cuồng phong từ phía này hay phía khác.

Cuối cùng, Trumpism buộc chúng ta phải tái suy nghĩ về mối quan hệ giữa người dân và nhà nước trong thời đại kỹ thuật số. Khi mạng xă hội trở thành đấu trường chính trị chính yếu, khi thông tin có thể bị thao túng trong khoảnh khắc, khi công nghệ (và những ai đằng sau đó) đang ngày càng kiểm soát và định hướng cho suy nghĩ và cảm xúc của cá nhân, và khi một vài cá nhân nào đấy có thể trở thành trung tâm của một phong trào chính trị ở tầm quốc gia mà không cần có đảng phái hậu thuẫn, th́ những khái niệm truyền thống như “tính đại diện”, “cơ chế kiểm soát quyền lực” hay “sự công bằng chính trị” cũng cần được định nghĩa lại. Và các thể chế mới giúp kiểm soát và cân bằng trong chính trị một cách hiệu quả và thực chất hơn cần được tạo ra. Nếu không, nền dân chủ sẽ bị sớm bị bỏ lại phía sau trong một thế giới đă bước sang kỷ nguyên của chính trị bản sắc, nơi cảm xúc đám đông và quyền uy độc đoán của các “lănh tụ” không c̣n là những ngoại lệ, mà trở thành các quy tắc.
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
The Following 2 Users Say Thank You to Gibbs For This Useful Post:
hoathienly19 (6 Days Ago), meyeucon (5 Days Ago)
 
Page generated in 0.04904 seconds with 9 queries